BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
1. Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em” thần tình. Không xác định. Có thể là
người thương trong nỗi nhớ đồng vọng. Có thể là một nhân vật trữ tình xuất
hiện mơ hồ trong tâm tưởng thi nhân? Cũng có thể là sự phân thân của tác
giả? “Em” xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an ủi và chia xẻ nỗi đau
buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ khơi nguồn cảm xúc đang dào dạt trong
lòng. Ý vị đậm đà chất thơ của bài “Bên kia sông Đuống” là ở tiếng “em” và
2 câu thơ này:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
2. Dòng sông tuổi thơ
Với Hoàng Cầm thì sông Đuống là dòng sông thơ ấu với bao thương nhớ.
Con sông đã gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Nhớ không nguôi “cát trắng phẳng
lì”, nhớ nao nao lòng “Sông Đuống trôi đi - Một dòng lấp lánh”; lấp lánh
ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sông trong xanh. Nhớ về
dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ”. Câu thơ mang hàm nghĩa thế đứng hiên ngang của
quê hương trong kháng chiến.
Đôi bờ dòng sông quê hương là một màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng
biếc” của bãi mía, bờ dâu, của ngô khoai. Bức tranh quê trù phú, giàu đẹp
thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vô cùng:
“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”
3. Quê hương có nền văn hóa lâu đời đang bị quân thù giày xéo tàn phá.
Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc,
nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm hờn… Tương phản xưa và nay, thuở bình yên
với từ ngày khủng khiếp, đối lập giữa cảnh tưng bừng rộn rã với bây giờ tan
tác về đâu…
- Giặc Pháp cướp nước là kẻ đã gây ra cảnh chém giết đau thương và điêu
tàn khủng khiếp:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu…”
Xưa kia, vùng Thuận Thành, bên kia sông Đuống, quê hương thân yêu
của nhà thơ là một vùng giàu đẹp, có hương lúa nếp “thơm nồng”, có làng
tranh Đông Hồ nổi tiếng, sự kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ truyền giàu
bản sắc dân tộc:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Nay giặc kéo đến thì “Ruộng ta khô – Nhà ta cháy”, điêu tàn, tan tác, đau
thương. Nỗi tang tóc trùm lên, đè nặng mọi kiếp người. Hạnh phúc và ước
mơ bị giày xéo, bị chà đạp. Sự sống bị hủy diệt đến kiệt cùng:
“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
Tranh Đông Hồ trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là nét đẹp riêng rất tự
hào của quê hương mình mà còn là một biểu tượng của hạnh phúc, đoàn tụ,
yên vui trong thanh bình, là nỗi đau trước sự tàn phá, điêu tàn, tan tác của
một miền văn hóa lâu đời thời máu lửa.
Thuận Thành, Kinh Bắc có núi sông mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao
lễ hội tưng bừng mang theo bao huyền thoại, sự tích thần kỳ, với những gác
chuông, những tháp, những tượng Phật cổ kính bao đời nay. Chùa Phật Tích,
núi Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng Phật Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay. Ca dao: “Dù ai đi đẩu đi đâu - Cứ nhìn thấy tháp Chùa Dâu mà
về”. Tục ngữ: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu
cũng về hội Gióng”. Phan Huy Chú đã viết trong “Lịch triều hiến chương
loại chí”: “Kinh Bắc có mạch núi cao chót vót, nhiều sông quanh vòng, là
mạn trên của nước ta… Mạch đất tốt tụ vào đấy nên càng nhiều chỗ có dấu
tích đẹp, tinh hoa hợp vào đấy nên sinh ra nhiều danh thần”.
Trong chiến tranh, đưa con ly hương nhớ tiếc, xót xa quê hương:
“Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chua Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”…
4. Nhớ con người quê hương
Nhớ sông Đuống, nhớ bãi mía bờ dâu, nhớ hương lúa nếp thơm nồng…
Nhớ mãi, nhớ nhiều những hội hè đình đám, nhớ tranh gà lợn, nhớ giấy điệp.
Nhớ núi Thiên Thai, nhớ chuông chùa ngân nga… Nhớ “nàng môi cắn chỉ
quết trầu”, nhớ cụ già “phơ phơ tóc trắng”, nhớ “những em sột soạt quần
nâu”. Nhớ bồi hồi “từng khuôn mặt búp sen - Những cô hàng xén răng đen -
Cười như mùa thu tỏa nắng”. Nhớ “những nàng dệt sợi – Đi bán lụa mầu”…
nhớ “Những người thợ nhuộm - Đồng Tỉnh, Huê Cầu…”.
Câu thơ “Bây giờ tan tác về đâu” và “Bây giờ đi đâu về đâu” được nhấn đi
nhấn lại nhiều lần, vừa gợi tả nỗi đau thương tan tác, vừa thể hiện nỗi nhớ ứa
máu tơi bời, nỗi xót xa và căm giận lũ hung tàn cướp nước.
Những câu thơ nói về nỗi thương nhớ đàn con thơ và mẹ già rất xúc động:
- Thương mẹ già:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”
- Thương đàn con thơ:
“Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn…”
5. Quê hương chiến đấu
Cảnh đón bộ đội về làng rất cảm động. Cuộc hội ngộ tình quân dân cũng
là sự hồi sinh và niềm vui hạnh phúc:
“Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng”
Cảnh giết giặc: Dao lóe giữa chợ - Gậy lùa cuối thôn – Lúa chín vàng hoe,
giặc mất hồn… Chúng mày phát điên – Quay cuồng như xéo trên đống
lửa”…
- Đồng quê quật khởi đứng lên:
“Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”
6. Ngày hội non sông
Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào năm 1948, lúc bấy giờ
quê hương đất nước ta còn đầy bóng giặc, chân trời thắng lợi còn xa vời.
Phải gần 7 năm sau, ta mới có chiến thắng Điện Biên Phủ. Thế mà thi sĩ đã
nói đến ngày hội non sông. Thơ kháng chiến hay nói đến “ngày mai”, một
ngày mai thanh bình ca hát. Phải đổ biết bao xương máu, phải có ngàn vạn
chiến sĩ ngã xuống, nhân dân ta mới có “ngày mai” như các nhà thơ đã viết:
“Phải bao máu thấm trong lòng đất
Mới ánh hồng lên sắc tự hào?”
(Tố Hữu)
Vì vậy, ta có thể nói, phần cuối bài “Bên kia sông Đuống” rất hay. Cảm
hứng lãng mạn dào dạt. Nhân vật “em” lại xuất hiện. Duyên dáng, trẻ trung,
tình tứ. Niềm tin về một ngày mai tái hợp sáng bừng vần thơ:
“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân