BỆNH WILSON
(lịch sử)
Bệnh Wilson, còn gọi là bệnh thoái hóa gan nhân đậu, ngày nay đã được biết đến
như là hậu quả của sự bài tiết đồng ra khỏi đường mt bị khiếm khuyết dẫn đến sự
tích tđồng trong một vài bao gồm gan, não và giác mạc. Vào thi điểm bnh
được tả bởi tác giả Wilson thì tvong do gây ra là không thtránh khỏi,
đến ngày nay thì đã vài cách lựa chọn trong điều trị có thể cho phép kiểm soát
các biểu hiện của bệnh. Bài viết này trích dn một vài công trình nghiên cứu phôi
thai đã được công bố trước khi Penicillamine được sử dụng trong điều trị bệnh
Wilson.
Nhận biết trênm sàng:
Bài tđầu tiên vmột bệnh lý, mà sau này được gọi là bệnh Wilson, được
công blà của tác giả Wesphal vào m 1883. Ông ta t2 bệnh nhân trtuổi
bệnh thần kinh tiến triển không giống với biểu hiện của bệnh xơ rải rác, vì
vậy ông ta gọi bệnh này là "bệnh xơ cứng giả" (pseudosclerosis). Sự hiện diện của
gan phối hợp thêm vào các triệu chứng của bệnh đã được chú ý đến trong các
trường hợp do Strumpell báo cáo. m 1888, Gowers mô tả 2 anh em trai biểu
hiện "múa giật dạng tetany", về sau điều đáng lưu ý 2 anh em trai này kết
hợp với xơ gan:
Gần đây, 1 trường hợp do i chăm sóc biểu hiện các triệu chứng trung gian
giữa múa giật và tetany. Bệnh nhân đã tvong… Bệnh nhân là 1 cậu 10 tuổi.
Theo lời kể thì 1 người anh trai của cậu ta đã chết bởi một vài biểu hiện tương t
như các biểu hiện bắt gặp cậu trên. Tiền sử ghi nhận 3 người thân khác
trong gia đình 2 cậu bé mắc những chứng bệnh tương tự như chứng múa giật. Các
triệu chứng khởi phát một cách ttừ, diễn tiến trong 7 tháng rồi đi đến tvong,
bao gồm sự co thắt tăng trương lực (tonic spasm) diễn tiến không ngừng… Cả 2
bên mặt đều bị ảnh hưởng tạo nên một vẻ mặt mỉm cười kdị không thay đổi
được. Lưỡi bị ép ra sau tì vào vòm khẩu cái theo kiểu ngăn cản động tác nuốt và
phát âm.
Năm 1890, 4 trường hợp có khả năng là bệnh Wilson đã được báo cáo.m 1912,
S. A. Kinnier Wilson đã công b báo o của ông ta về 12 trường hợp "rối loạn
thần kinh hiếm gặp", bao gồm 8 bệnh nhân đã được đề cập đến trước đó trong y
văn và 4 bệnh nhân do bản thân ông ta theo dõi.
Các triệu chứng lâm sàng tạo thành một phức hợp các triệu chứng… được xem
như hội chứng thể vân đơn thuần. Một cách vắn tắt, bao gồm các cử động
không tchủ, gần như luôn luôn run chi trên chi dưới cả 2 bên, đôi khi cả
đầu và thân mình cũng bị ảnh hưởng. Run thường là nhịp nhàng nhưng thỉnh
thoảng lại run không đều đặn. Run tăng lên khi cđộng tý. sco cứng
(spasticity) ràng tay chân và mặt, về sau thường tạo nên một vẻ mặt mỉm
cười cứng nhắc trong khi sự co t tay chân sẽ phát triển trong những giai đoạn
sau này. triệu chứng nuốt khó và loạn vận ngôn (dysarthria), sau cùng diễn
tiến đến mất nói (anarthria) hoàn toàn. Đôi khi biểu hiện nụ cười co thắt và
trạng thái dễ xúc cảm.
Wilson kết luận rằng gan "một đặc tính bất biến, thuộc về bản chất của bệnh
rất thể (in all probability) là đặc nh nguyên phát trong bnh học của bệnh
Wilson". Ông ta đã sai lầm khi khẳng định rằng không dấu hiệu của bệnh
gan trong suốt cuộc đời của bệnh nhân trong khi ít nhất 3 bệnh nhân trong báo cáo
của ông có bằng chứng của bệnh gan có triệu chứng.
Sinh lý bệnh:
Đặc tính bệnh học chyếu của bệnh là s thoái hóa đối xứng 2 bên của bèo sẫm
cầu nhạt, đặc biệt là bèo sẫm. Sthoái hóa này hậu quả từ hoạt động
chọn lọc trên các tế bàocác sợi của một vài tác nhân gây bệnh…
"Tác nhân gây bệnh" mà Wilson nghĩ rằng đã chịu trách nhim giải thích các biểu
hiện lâm sàng trong bệnh thoái hóa nhân đậu là một chất kim loại. Ông nảy ra ý
nghĩ như vậy là dựa trên khám phá của Rumpel về sự gia tăng đồng và bc trong
gan của các bệnh nhân bị "bệnh cứng giả". Ở một thời điểm nào đó, người ta đã
nghĩ rằng nhiễm độc bạc có thể gây nên bệnh. Cumings đã ch đạo nghiên cứu đầu
tiên trong đó ông so sánh những bệnh nhân mắc bệnh Wilson, bệnh gan và những
nhóm chứng bình thường. Ông ta đã chứng minh rằng m lượng đồng gia tăng
trong não cũng như trong gan ở những bệnh nhân bị bệnh thoái hóa gan nhân đậu.
Điều trị:
Một quan sát tình c xuất phát tMandelbrote CS vào m 1948 đã dn đến
phép chữa trị đầu tiên đối với bệnh trước kia được xem là tvong không thể
tránh khỏi này. Bởi vì nhận thấy rằng tình trng hủy myelin xảy ra những con
cừu con mẹ bị khiếm khuyết m lượng đồng trong suốt thai kỳ, Mandelbrote
đã tiến hành đo sự bài tiết đồng qua nước tiều ở những bệnh nhân mắc bệnh xơ rải
rác. Ông ta so nh những bệnh nhân này với những người bình thường và với
những bệnh nhân mắc các bệnh thần kinh khác, bao gồm cả 1 bệnh nhân mắc
bệnh Wilson. BAL (British anti-Lewisite), mt tác nhân phân nhánh được sử dụng
phbiến sau chiến tranh thế giới thứ I như một antidote (chất giải độc) khi bị
nhiễm độc Arsenic đã được ông sử dụng nhằm huy động dự trữ đồng trong thể.
Sbài tiết đồng qua nước tiểu gây ra bởi Baseline BAL gia tăng đáng kể
những bệnh nhân mắc bệnh Wilson.
"Trên quan điểm những gì nhận thấy được từ… hàm lượng đồng tăng cao trong
máu và cả trong gan ở bệnh Wilson. Thật là một điều thú vị khi lưu ý rằng trong cả
loạt bệnh nhân và nhóm chứng đã được thí nghiệm nêu trên, 1 trường hợp mà
sbài tiết đồng qua nước tiểu tăng cao n nhiều so với bất kỳ một trường hợp
nào khác".
Sau khi trích dẫn ngắn gọn ý kiến tham khảo của Mandelbrote và CS vviệc sự
bài tiết đồng gia tăng 1 bệnh nhân mắc bệnh Wilson, Cumings kết luận: "Dường
như lýBAL thđược sdụng như một cách chẩn đoán bệnh thoái
hóa gan nhân đậu trong giai đoạn sớm. ng có thể được sử dụng thử để làm
giảm hàm lượng đồng trong gan và trong não do đó thể giúp ngăn ngừa tổn
thương mô".
Hiệu quả trên m sàng của trị liệu BAL đã được dẫn chứng bằng liệu o năm
1951. Denny-Brown Porter đã báo cáo: Một nghiên cứu dài ngày tiến hành trên
5 bệnh nhân mắc bệnh thoái hóa gan nhân đậu, trong đó họ được cho sdụng
những đợt BAL lặp đi lặp lại, đã thiết lập được một mối liên htrực tiếp giữa sự
stích tụ bất thường các phức hợp đồng trong gan và trong não bệnh nhân mắc
bệnh Wilson với các triệu chứng về thần kinh. Triệu chứng run và co cứng
(rigidity) ththay đổi, đôi khi thay đổi đến một mức độ đáng kể, sau khi sự
huy động đồng trong thể theo phương pháp này lập đi lập lại… Điều đặc biệt
cần lưu tâm diễn tiến o dài của các triệu chứng đã không thphủ nhận một
điều rằng: bệnh thể khuất phục được… Chúng ta thể hiểu rằng ngay cả
những bệnh lý "thoái hóa" mạn tính dai dẳng nhất vẫn một phần nào đó thể
khuất phục được.