intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các loại vận đơn đường biển trong thương mại quốc tế & những lưu ý khi lập và kiểm tra vận đơn

Chia sẻ: Vũ Văn Hiệu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

327
lượt xem
67
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong vận tải biển, Vận đơn (bill of lading) có thể được hiểu nôm na như một “phiếu ghi nhận” (bill) của việc “xếp hàng” (loading). Theo âm Hán Việt, từ “vận đơn” gồm hai từ “vận” được hiểu là vận chuyển, và “đơn” có nghĩa là phiếu, hay chứng từ; gộp lại có thể hiểu đó là một văn bản hay chứng từ về việc vận chuyển hàng. Cách giải thích theo tiếng Anh và tiếng Hán Việt tuy có khác nhau đôi chút, nhưng tựu chung lại thuật ngữ này cũng chỉ sự ghi nhận của người vận chuyển...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các loại vận đơn đường biển trong thương mại quốc tế & những lưu ý khi lập và kiểm tra vận đơn

  1. KHOA NGÂN HÀNG BỘ MÔN THANH TOÁN QUỐC TẾ  BÀI THẢO LUẬN TUẦN 5 CÁC LOẠI VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ & NHỮNG LƯU Ý KHI LẬP VÀ KIỂM TRA VẬN ĐƠN Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 12 1. Vương Thị Huyền (Nhóm trưởng) 2. Phạm Đức Nam 3. Vũ Thị Lý 4. Nguyễn Ngọc Sơn 5. Đào Thị Nhân 6. Lê Tiến Hưng 7. Nguyễn Thị Loan 8. Vũ Văn Hiệu 9. Nguyễn Cơ Thạch 10. Lê Văn Hậu
  2. MỤC LỤC
  3. PHẦN 1. ĐÔI NÉT VỀ VẬN ĐƠN VÀ VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN 1.1. Khái niệm Trong vận tải biển, Vận đơn (bill of lading) có thể được hiểu nôm na như một “phiếu ghi nhận” (bill) của việc “xếp hàng” (loading). Theo âm Hán Việt, từ “vận đ ơn” gồm hai từ “vận” được hiểu là vận chuyển, và “đơn” có nghĩa là phiếu, hay chứng từ; gộp lại có thể hiểu đó là một văn bản hay chứng từ về việc vận chuyển hàng. Cách giải thích theo tiếng Anh và tiếng Hán Việt tuy có khác nhau đôi chút, nhưng t ựu chung lại thuật ngữ này cũng chỉ sự ghi nhận của người vận chuyển về việc xếp hàng lên tàu để vận chuyển. Nếu định nghĩa một cách chính tắc, vận đơn là chứng từ do người vận chuyển hoặc đại diện được ủy quyền của người vận chuyển (thuyền trưởng, đại lý) ký phát cho người gửi hàng, trong đó xác nhận việc nhận hàng để vận chuyển từ cảng khởi hành đ ến cảng đích. 1.2. Chức năng của vận đơn (1) Vận đơn là biên lai hàng hóa, do thuyền trưởng hoặc người được ủy quyền của người vận tải ký. Đây là chức năng sơ khai của vận đơn. Trước đây, các th ương gia thường hành trình cùng hàng hóa của mình trên tàu đến chợ để bán hàng theo phương thức mặt đối mặt. Vào thời đó, không cần đến vận đơn. Tuy nhiên khi thương mại phát triển, và các thương gia có thể gửi hàng cho đại lý của mình ở nước ngoài để bán hàng tại đó. Khi đó, hàng được xếp lên tàu đưa tới cảng đích; người gửi hàng đòi hỏi biên lai xác nhận thuyền trưởng đã thực nhận hàng, và giữ biên lai đó cho đến khi hàng được giao cho người nhận hàng tại cảng dỡ. (2) Vận đơn là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển giữa người vận chuyển và người gửi hàng. Thường thì người gửi hàng và người vận chuyển có thỏa thuận (hợp đồng vận chuyển) trước khi hàng hóa được xếp lên tàu, và vận đơn được phát hành. Và khi vận đơn được phát hành, nó là bằng chứng đầy đủ về hợp đồng vận tải hàng hóa ghi trong vận đơn. (3) Vận đơn là chứng từ sở hữu đối với hàng hóa ghi trên chứng từ này. Đây là chức năng hay đặc tính quan trọng nhất của vận đơn trong thương mại quốc tế hiện nay. “Chứng từ sở hữu” là chứng cho phép người chủ hợp lệ có quyền sở hữu đối với hàng hóa. Quyền sở hữu này có thể được chuyển nhượng bằng cách ký hậu lên vận đơn (đối với vận đơn có thể chuyển nhượng). Xuất phát từ ba chức năng trên mà B/L được sử dụng rộng rãi với nhiều mục đích khác nhau. Với người gửi hàng (nhà xuất khẩu), nó là bằng chứng giao hàng, chứng minh việc hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng thương mại cũng như theo phương thức thanh toán kèm chứng từ. Vận đơn là một bộ phận quan trọng trong bộ chứng từ để người bán xuất trình nhận thanh toán Đối với người nhận hàng (người nhập khẩu), vận đơn là chứng từ để nhận hàng, cơ sở để đối chiếu theo dõi việc thực hiện hợp đồng của người bán Đối với người chuyên chở vận đơn là cơ sở cho việc thực hiện nghĩa vụ trong chuyên chở hàng hóa. Ngoài ra, vận đơn còn là căn cứ để khai hải quan, làm thủ tục xuất nhập khẩu, làm căn cứ xem xét khi có tranh chấp, khiếu nại phát sinh… 1.3. Một số điểm cơ bản trên vận đơn đường biển Vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading) là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, do người vận chuyển (carrier) hoặc đại lý của người vận chuyển (Agent of carrier) phát hành cho người gửi hàng (Shipper) sau khi hàng hóa đã được xếp lên tàu (shipped on board) hoặc sau khi nhận hàng để xếp (received for shipment).
  4. Trên vận đơn đường biển thường có các nội dung cơ bản sau: 1.3.1. Tiêu đề vận đơn đường biển: Tiêu đề của vận đơn đường biển thường được in sẵn và không quyết định tính chất, nội dung và loại vận đơn, do đó về mặt lí thuyết vận đơn có thể không cần có tiêu đ ề hoặc có tiêu đề là bất cứ thế nào. Để biết vận đơn thuộc loại nào phải căn cứ vào nội dung cụ thể trên mặt trước tờ vận đơn. 1.3.2. Tên người chuyên chở: Bất kì vận đơn nòa cũng phải thể hiện tên của công ty vận tải biển hay người chuyên chở (Shipping company or Carrier). Người chuyên chở mới đích thực là biên đ ại diện cho hợp đồng chuyên chở nên người chuyên chở phải có trách nhiệm pháp lí về vận đơn phát hành trên danh nghĩa của mình và khi có tranh chấp xảy ra về vận tải hàng hóa thì người chuyên chở phải là người đại diện để giải quyết. 1.3.3. Người nhận hàng: Tùy theo việc giao hang là đích danh, theo lệnh hay vô danh mà điền vào ô nhận hàng (Consignee) cho thích hợp. Thông thường, ô này in sẵn các phương án đ ể tiện dung trong các trường hợp khác nhau: - Nếu giao hàng đích danh thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ kinh doanh của người nhận hàng; ngoài ra có thể ghi thêm các thong tin như điện thoại, fax, telex. Đ ồng thời, phải gạch bỏ tất cả các từ in sẵnđứng trước tên người nhận hàng có nội dung nh ư “Theo lệnh – to Order”, “Theo lệnh của– to Order of” - Nếu giao hàng theo lệnh của 1 người đích danh, thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ kinh doanh của người này, ngoài ra nếu trên vận đơn không in sẵn các t ừ nh ư “To Order”, “To Order of” hay “or Order” thì phải ghi thêm vào trước tên gười ra l ệnh nhận hàng cụm từ “Theo lệnh của – to Order of”. Trong phương thưc tín dụng chứng từ, ngân hàng phát hành L/C thường quy định vận đơn phải ghi theo lệnh của mình để khống chế vận đơn, qua đó khống chế hàng hóa, người nhập khẩu phải thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán mới được ngân hàng kí hậu vận đơn để đi nhận hàng. Vận đơn theo l ệnh (chủ yếu là theo lệnh của ngân hàng phát hành L/C) rất phổ biến. - Nếu người gửi hàng không muốn giao hàng cụ thể cho ai thì có thể ghi vào ô này n ội dung “Giao hàng theo lệnh của người gửi hàng – To Order of Shipper”. Đối với loại vận đơn này nếu người gửi hàng không kí hậu thì chỉ có anh ta mới có quyền nhận hàng tại cảng đích. Nếu người gửi hàng kí hậu để trống thì vận đơn trở thành vận đơn vô danh, nghĩa là bất cứ ai có vận đơn này đều trở thành chủ sở hữu hợp pháp và đ ều có quy ền nhận hàng tại cảng đến. Nếu người gửi hàng kí hậu theo lệnh của 1 người đích danh thì vận đơn trở thành vận đơn theo lệnh hàng hóa sẽ giao thoe lệnh của người này. Vận đơn vô danh ít được sử dụng trong thực tế vì nó dễ bị lạm dụng để chiếm đoạt hàng hóa nên cả người gửi hàng, ngân hàng phát hành L/C và người mở L/C đều không chấp nhận loại vận đơn này. - Nếu trong ô “người nhận hàng” để trống thì theo tập quán quốc tế đ ược hiểu là giao hàng theo lệnh của ngườ gửi hàng. - Nếu muốn giao hàng cho 1 người bất kì (vận đơn vô danh) thì trong ô này phải ghi “to the Holder” hoặc “to the Bearer”. 1.3.4. Bên được thông báo (Notify Party/Address): Tùy theo quy định của hợp đồng thương mại hay L/C mà điền cho thích hợp. thong thường ô này để tên và địa chỉ của người nhập khẩu hay ngân hàng phát hành L/C vì những người này cần được thông báo tin tức của chuyến tàu và hàng hóa khi c ập cảng đích. Nếu ô này để trống thì phải hiểu là thong báo cho người nhận hàng.
  5. 1.3.5. Số bản vận đơn gốc phát hành: Vận đơn đường biển phát hành theo yêu cầu của người gửi hàng, thường đ ược phát hành thành bộ gồm 3 bản gốc và 1 số bản sao. Vì vận đơn là chứng từ sở hữu hàng hóa được lưu thong và người chuyên chở sẽ giao hàng cho ai xuất trình vận đơn gốc hợp pháp đầu tiên tại cảng đích, do đó người ta cần phải biết đ ược s ố bản gốc vận đ ơn được phát hành là bao nhiêu để theo dõi và kiểm soát trong quá trình l ưu thong. Số bản vận đơn gốc được in ở mặt trước tờ vận đơn bằng cả số và chữ. 1.3.6. Ký mã hiệu, số lượng và mô tả hàng hóa: - Kí hiệu mã hàng hóa (Shipping Marks), số container (Container Nos.), số kẹp chì (Seal Nos.): Là những kí hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được in bên ngoài hàng hóa đối với những loại hàng hóa không có bao bì và in ở trên các bao bì hàng hóa đối với các loại hàng hóa có bao bì. Các ký hiệu mã này nhằm để nhận dạng hàng hóa, thong báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc bảo quản hàng hóa. Các ký mã hiệu này được ghi trên hàng và boa bì như thế nào thì phải được ghi vào vận đơn như thế. - Số lượng, số chiệc hoặc trọng lượng: Sau khi hàng được xếp lên tàu, người chuyên chở hoặc đại lí phải điền vào vận đơn các thong số như số lượng hàng hóa, trọng lượng hàng hóa, số container mà mình đã nhận hoặc xếp lên tàu. - Mô tả hàng hóa: Trên vận đơn, hàng hóa có thế chỉ cần mô tả 1 cách chung chung, miễn là có thể phân biệt được tên hàng, quy cách phẩm chất, quy cách kĩ thuật… Mục đích của việc ghi ký mã hiệu, số lượng, trọng lượng và mô tả hàng hóa là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao nhận hàng hóa của nhiều chủ hàng tại cảng đích tránh nhầm lẫn thiếu hụt vì trên tàu thường xếp hàng hóa của nhiều chủ hàng khác nhau và có nhiều hàng hóa có thể trông giống nhau. 1.3.7. Ngày và nơi phát hành vận đơn: - Nơi phát hành vận đơn có thể ghi địa chỉ của người chyên chở hay đại lí của họ, cảng xếp hay địa điểm nào đó do 2 bên thỏa thuận. Nơi phát hành vận đ ơn có ý nghĩa trng việc chọn luật điều chỉnh cũng như theo dõi hành trinh của tàu vận chuyển hoặc chứng minh về xuất xứ hàng hóa. - Nếu không có ghi chú riêng biệt về ngày giao hàng trên vận đơn thì ngày phát hành vận đơn chính là ngày giao hàng. Để lấy được vận đơn hợp lệ có thể xảy ra các trường hợp kí lùi hoặc kí tiến trên vận đơn, tức là ngày kí vận đơn không phải là ngày giao hàng. Nếu có tranh chấp xảy ra về ngày phát hành vận đơn mà các bên đưa ra đ ược bằng chứng về việc kí lùi hay kí tiến thì người chuyên chở phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. 1.3.8. Nội dung về con tàu và hành trình: - Trên vận đơn phải thể hiện rõ tên co tàu chuyên chở và số hiệu chuyến tàu. - Nơi nhận hàng và trả hàng, cảng bốc và cảng dỡ hàng, cảng chuyển tải, các thông tin này thường được bố trí bằng các ô in sắn tiêu đề. Để tránh tranh chấp phát sinh, khi ghi hành trình chuyên chở trên vận đơn phải căn cứ vào quy định trong hợp đồng vận tải hoặc quy đinh trong L/C. 1.3.9. Về giao nhận hàng hóa: Trên mặt trước vận đơn phải thể hiện rõ tình trạng giao hàng, tùy theo loại vận đơn, có thể là: - Đã bốc hàng lên tàu (Shipped on Board, On Board, Shipped, Laden on Board) - Nhận hàng để chở (Received for Shipment hoặc Accepted for Carriage).
  6. 1.3.10.Về cước phí: - Nếu cước phí được thanh toán tại cảng đi thì trên vận đơn sẽ ghi hoặc đóng dấu chữ “Freight Prepaid hay Freight Paid – cước đã trả” - Nếu thỏa thuận cước phí trả sau (tức là trả tại cảng đích) thì trên vận đơn sẽ ghi nội dung “Freight to Collect hoặc Freight Payable at Destination – cước thu tại cảng đích”, trường hợp này người nhận hàng phải trả cước mới được nhận hàng, còn người chuyên chở chỉ giao hàng sau khi đã nhận được cước. Chi phí phát sinh lien quan đ ến con tàu và hàng hóa do trả cước chậm do người nhận hàng chịu 1.3.11. Kí vận đơn: Những người có chức năng kí vận đơn chủ yếu bao gồm người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của họ. Tuy nhiên, trong thực tế giao dịch, người chuyên chở hoặc thuyền trưởng không kí vận đơn mà ủy quyền cho đại lí của họ. Sau đây là các trường hợp kí vận đơn: - Người chuyên chở hay đại lí của người chuyên chở kí vận đơn: • Nếu trên vận đơn đã in sẵn tên người chuyên chở thì kí vận đơn không cần lặp lại tên người chuyên chở mà chỉ cần ghi rõ chức năng của mình (là người chuyên chở hay đại lí của người chuyên chở) • Nếu trên vận đơn không in sẵn tên người chuyên chở thì khi kí bắt buộc phải ghi đầy đủ tên người chuyên chở và chức năng của người kí. - Thuyền trưởng hay đại lí của thuyền trưởng kí vận đơn: • Vì mỗi con tàu biển đích danh chỉ có 1 thuyền trưởng và tên của con tàu luôn phải thể hiện trên vận đơn, do đó khi kí vận đơn, thuyền trưởng không cần chỉ ra tên của mình, tuy nhiên trong thực tế ta vẫn gặp trường hơp thuyền trưởng kí vẫn đơn và ghi đầy đủ họ tên của mình (điều này không bắt buộc và được chấp nhận). Vì thuyền trưởng có thể có nhiều đại lí, do đó, để biết chính xác đại lí nào đã kí vận đ ơn thì khi kí vận đơn, đại lí của thuyền trưởng phải ghi rõ đầy đủ tên và chức năng của mình. • Do tên của người chuyên chở luôn phải thể hiện trên vận đơn bằng cách in sẵn hoặc ghi thêm hoặc đóng dấu trên vận đơn. Do đó khi kí vận đơn, thuyền trưởng hay đại lí của thuyền trưởng không cần lặp lại tên của người chuyên chở nữa.
  7. PHẦN 2. CÁC LOẠI VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trong thực tế có rất nhiều loại vận đơn đường biển, sau đây là một số loại vận đơn đường biển được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Phổ biến nhất là phân loại theo các tiêu chí sau: 2.1. Căn cứ vào quyền chuyển nhượng, sở hữu hàng hóa ghi trên vận đơn. + Vận đơn đích danh (Straight Bill of Lading/ Bill of Lading to a name person): là vận đơn mà trên đó người ta ghi rõ tên và địa chỉ người nhận. Người chuyên trở chỉ giao hàng hóa cho ai là người có tên trong vận đơn và vận đơn loại này khi muốn chuyển nhượng phải tuân theo luât pháp hoặc tập quán nơi diễn ra hành động chuyển nhượng. + Vận đơn theo lệnh (Bill of lading to oder of….) là loại vận đơn mà trên đó không ghi tên người nhận hàng mà ghi “theo lệnh của….” hoặc “theo lệnh – to oder”. Đây là loại phổ biến nhất trong thương mại và vận tải quốc tế, mà theo đó người vận tải sẽ giao hàng theo lệnh của người gửi hàng, hoặc của người được ghi trên vận đơn. + Vận đơn vô danh: là vận đơn quy định giao hàng cho bất kì ai là người cầm vận đơn hợp pháp. Có thể coi đây là một dạng vận đơn theo lệnh nhưng trên đó không ghi theo lệnh của ai. Theo một cách khác, vận đơn theo lệnh có thể chuyển thành vận đơn vô danh bằng cách ký hậu vào mặt sau nhưng không ghi rõ giao hàng theo lệnh của ai (blank indorsement). 2.2. Căn cứ vào tình trạng bốc xếp hàng hóa + Vận đơn đã bốc xếp hàng(Shipped on board bill of lading): là loại vận đơn được phát hành sau khi hàng hóa đã được bốc lên tàu. + Vận đơn nhận hàng để xếp (received for Shipment Bill of Lading): là loại vận đơn được phát hành sau khi người chuyên trở nhận hàng và cam kết s ẽ xếp hàng và vận chuyển hàng hóa bằng con tàu ghi trên vận đơn . 2.3. Căn cứ vào phê chú của thuyển trưởng trên vận đơn. + Vận đơn hoàn hảo (clean Bill of Lading): là loại vận đơn trên đó không có phê chú xấu của thuyền trưởng về hàng hóa cũng như tình trạng của hàng hóa. + Vận đơn không hoàn hảo (Unelean Bill of lading): là vận đơn mà ở trên đó có phê chú xấu của thuyển trưởng về hàng hóa cũng như tình trạng của hàng hóa. 2.4. Căn cứ vào hành trình chuyên chở + Vận đơn đi thẳng (Direct B/L, Straight B/L): là vận đơn được cấp trong trường hợp hàng hóa được vận chuyển thẳng từ cảng bốc hàng tới cảng dỡ hàng mà không phải qua bất cứ một lần chuyển tải nào. + Vận đơn chở suốt (Through B/L) được sử dụng trong trường hợp hàng hóa phải chuyển tải qua một con tàu trung gian. + Vận đơn vận tải liên hợp (Combined Transport B/L): là vận đơn được cấp trong trường hơp hàng được vận chuyển ít nhất bằng hai phương thức vận tải khác nhau trở lên. 2.5. Căn cứ vào giá trị sử dụng và khả năng lưu thông. + Vận đơn gốc (Original Bill of Lading) là loại vận đơn được dùng để nhận hàng, thanh toán chuyển nhượng, khiếu nại, kiện tụng,….do người chuyên trở phát hành theo yêu cầu của người gửi hàng. + Vận đơn Copy (bản sao) là vận đơn không có giá trị lưu thông, chuyển nhượng đặc biệt không phải là chứng từ sở hữu hàng hóa. Người ta dùng vận đơn copy
  8. làm thủ tục hành chính, tham khảo hoặc lưu trữ hồ sơ,… vận đơn copy cũng do người chuyên chở phát hành theo lệnh của người gửi hàng. 2.6. Căn cứ vào tính độc lập của vận đơn + Vận đơn theo hợp đồng vận chuyển theo chuyến : Loại vận đơn phổ biến nhất, chiếm đại đa số khối lượng hàng hóa vận chuyển là vận đơn dùng để chở hàng bằng đường biển từ cảng biển đến cảng biển. + Vận đơn không cấp theo hợp đồng vận chuyển theo chuyến : Đây là loại vận đơn độc lập, không phụ thuộc vào hợp đồng vận chuyển theo chuyến. 2.7. Một số loại vận đơn khác + Vận đơn rút gọn (short B/L) là vận đơn chỉ có nôi dung ở mặt trước, mặt sau để trống. Ở mặt trước, ngoài những điều khoản có trên tờ vận đ ơn bình thường còn có dẫn chiếu để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh. + Vận đơn hải quan (Custom’s B/L) khi hàng chưa bốc lên tàu mà phải nhập kho hải quan để làm thủ tục thì hải quan sẽ cấp cho chủ hàng hóa một loại vận đơn gọi là vận đơn hải quan. Vận đơn hải quan chỉ dùng để giải quyết các thủ tục hải quan. + Vận đơn của người giao nhận (Forwarder B/L): ngày nay người giao nhận không chỉ làm đại lý, ủy thác giao nhận hàng hóa đơn thuần mà họ còn có thêm chức năng vận tải. Vì thế người giao nhận sẽ cấp cho người giao hàng cho mình một vận đơn goi là vận đơn của người giao nhận. + Vận đơn Container: gồm có vận đơn container nguyên (Full Container Load – FCL) và vận đơn Container hàng hàng lẻ (less than container Load – LCL). Trong FCL người chuyên trở nhận hàng trực tiếp từ người gủi hàng là những container nguyên đã được niêm phong kẹp chì, thì người chuyên trở cấp cho người gửi hàng một vận đơn goi là Container Bill of Lading. Trong LCL thì những hàng hóa không đủ để đóng chung hàng những người khác trong cùng một container mà phải gửi hàng với những người khác trong cũng một container thì người chuyên chở sẽ cấp cho người gửi hàng một vận đơn container hàng lẻ. + Vận đơn xếp hàng lên boong (Deck B/L) là vận đơn được cấp trong trường hợp hàng được xếp trên boong để chuyên chở. + Vận đơn điện tử (BOLERO Bill of Lading) : những năm gần đây thương mại điện tử được ra đời và phát triển nhanh, các loại vận đơn thông thường không đáp ứng được yêu cầu của thương mại điện tử, vì vậy trong thương mại và hàng hải quốc tế người ta bắt đầu thử nghiệm một loại vận đơn mới áp dụng cho thương mại điện tử gọi là BOLERO Bill of Lading. + Vận đơn bên thứ ba (Third Party B/L): là vận đơn mà người thụ hưởng (beneficiary) thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) không phải là người gửi hàng hay người giao hàng (Shipper) mà là người khác. Vận đơn loại này thường đ ược sử dụng trong xuất khẩu ủy thác khi đơn vị sản xuất, kinh doanh không trực tiếp xuất khẩu mà làm việc này thông qua một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu L/C có quy đ ịnh chấp nhận vận đơn bên thứ ba thì có nghĩa là vận đơn và các chứng từ gửi hàng khác được phép ghi tên người giao hàng (người gửi hàng) không phải là người thụ hưởng L/C. + Vận đơn có thể thay đổi (Switch B/L), viết tắt là “S/B”, là vận đơn cho phép thay đổi một số chi tiết trên đó theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan như: ngày ký vận đơn, người gửi hàng (người giao hàng), cảng bốc, cảng dỡ hàng, số lượng hàng… Thường gặp S/B trong trường hợp nếu vì lý do nào đó mà không hoàn thành việc bốc hàng kịp thời theo yêu cầu của thư tín dụng (Letter of Credit - L/C), chủ tàu/ng ười
  9. vận chuyển và người thuê có thể thỏa thuận ký lùi (ante-date) ngày ghi trên v ận đ ơn. Cũng có thể dùng kỹ thuật S/B để giải quyết việc xuất trình chứng từ cho ngân hàng kịp thời trong phương thức thanh toán bằng L/C. Chủ hàng/người thuê vận chuyển có thể yêu cầu chủ tàu/người vận chuyển chỉ thị cho đại lý của họ ở một nơi nào đó cấp một bộ vận đơn có nội dung hoàn toàn giống bộ vận đơn đường biển đã ký phát t ại cảng bốc hàng. + Giấy gửi hàng đường biển (Sea Waybill, Seaway Bill) “Người giao hàng có thể thỏa thuận với người vận chuyển việc thay vận đơn bằng giấy gửi hàng đường biển hoặc chứng từ vận chuyển khác và thỏa thuận về nội dung, giá trị của các chứng từ này theo tập quán hàng hải quốc tế” (Điều 90, Bộ luật HHVN 2005). Giấy gửi hàng đường biển thường được sử dụng trong những trường hợp sau: - Khi không cần dùng vận đơn để khống chế hàng hóa (với những lô hàng đã đ ược thanh toán trước, trị giá nhỏ, hoặc của cùng một chủ sở hữu…, ví dụ: công ty mẹ gửi cho công ty con…); không cần chuyển nhượng vận đơn (vì không có nhu c ầu mua đi bán lại…); không cần xuất trình (nộp) vận đơn khi nhận hàng tại cảng trả hàng... - Tiến bộ về khoa học kỹ thuật và tổ chức luồng tàu vận chuyển trong ngành Vận tải biển đã giảm đáng kể thời gian vận chuyển hàng từ cảng bốc đến cảng dỡ nên trong nhiều trường hợp, hàng đến cảng đích mà vận đơn vẫn chưa tới làm cho việc nhận hàng gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, không cần dùng vận đơn cho các mục đích nêu trên. “Giấy gửi hàng đường biển” được dùng để tạo thuận lợi trong thương mại quốc tế. Có thể nói, “Giấy gửi hàng đường biển” là một “vận đơn” nhưng không có chức năng là chứng từ sở hữu hàng hóa (document of title). Cần lưu ý về tính năng, giá trị pháp lý của “Giấy gửi hàng đường biển” để sử dụng phù hợp vì để nhận hàng không cần nộp “Giấy gửi hàng đường biển” mà chỉ cần xuất trình giấy tờ (chứng từ) chứng minh người nhận hàng đúng là người có tên trên “Giấy gửi hàng đường biển”. Giấy tờ này có thể chỉ là Giấy giới thiệu (của tổ chức, công ty) và Giấy chứng minh nhân dân c ủa người đi nhận hàng thay mặt công ty hoặc giấy tờ tùy thân nếu là hàng của cá nhân. Nhìn chung phân loại theo cách nào thì các vận đơn đều có các đặc điểm cơ bản là: - Vận đơn là chứng từ vận chuyển làm bằng chứng về việc người vận chuyển đã nhận hàng hóa với số lượng, chủng loại, tình trạng như được ghi trong vận đ ơn đ ể vận chuyển đến nơi trả hàng; bằng chứng về sở hữu hàng hóa dùng để định đoạt, nhận hàng và là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. - Nội dung của vận đơn bao gồm tên và trụ sở chính của người vận chuyển; tên người gửi hàng; tên người nhận hàng hoặc ghi rõ vận đơn được ký phát dưới dạng vận đ ơn theo lệnh hoặc vận đơn vô danh; tên tàu biển; mô tả về chủng loại, kích thước, thể tích, số lượng đơn vị, trọng lượng hoặc giá trị hàng hóa, nếu xét thấy cần thiết; mô tả tình trạng bên ngoài hoặc bao bì hànghóa; ký, mã hiệu và đặc điểm nhận biết hàng hóa mà người giao hàng đã thông báo bằng văn bản trước khi bốc hàng lên tàu biển và được đánh dấu trên từng đơn vị hàng hóa hoặc bao bì; cước vận chuyển và các khoản thu khác của người vận chuyển; phương thức thanh toán; nơi bốc hàng và cảng nhận hàng; cảng trả hàng hoặc chỉ dẫn thời gian, địa điểm sẽ chỉ định cảng trả hàng; số bản vận đơn gốc đã ký phát cho người giao hàng; thời điểm và địa điểm ký phát vận đơn; chữ ký của người vận chuyển hoặc thuyền trưởng hoặc đại diện khác có thẩm quy ền của người vận chuyển. - Về ghi chú trong vận đơn, người vận chuyển có quyền: ghi các nhận xét của mình nếu có nghi vấn về tình trạng bên ngoài hoặc bao bì hàng hóa; từ chối ghi trong vận đơn
  10. sự mô tả về hàng hóa, nếu có đủ căn cứ nghi ngờ tính chính xác về lời khai báo c ủa người gửi hàng, người giao hàng ở thời điểm bốc hàng hoặc khi không có điều kiện xác minh; từ chối ghi trong vận đơn ký, mã hiệu hàng hóa, nếu chúng chưa được đánh dấu rõ ràng trên từng kiện hàng hoặc bao bì, bảo đảm dễ nhận thấy khi chuyến đi kết thúc. - Trường hợp hàng hóa được đóng gói trước khi giao cho người vận chuyển thì người vận chuyển có quyền ghi vào vận đơn là không biết rõ nội dung bên trong. Ng ười vận chuyển không chịu trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa hoặc tổn thất liên quan đến hànghóa trong mọi trường hợp, nếu người gửi hàng, người giao hàng đã cố tình khai gian về chủng loại, giá trị của hàng hóa khi bốc hàng và khai báo đó đã được ghi nhận vào vận đơn.
  11. PHẦN 3. LƯU Ý KHI LẬP VÀ KIỂM TRA VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN Như đã trình bày phía trên, trong thương mại và hàng hải quốc tế, vận đơn đường biển không chỉ dùng trong giao nhận và vận chuyển hàng hóa mà được dùng để điều chỉnh nhiều mối quan hệ, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Vận đơn đường biển là chứng t ừ không thể thiếu được trong bộ chứng từ thanh toán tiền hàng, đặc biệt là phương thức thanh toán bằng tín dụng thư (letter of credit - L/C). Vì là chứng từ hết sức quan trọng trong bộ chứng từ thanh toán nên khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, các ngân hàng có liên quan bao giờ cũng thận trọng trong việc kiểm tra các chứng từ, đ ặc biệt là vận đơn đường biển. Bỏ qua những yêu cầu khác, thông thường một bộ chứng từ chỉ được các ngân hàng chấp nhận thanh toán khi có vận đơn hợp lệ. Điều đó có nghĩa, muốn được thanh toán tiền hàng, chủ hàng xuất khẩu phải xuất trình vận đ ơn hợp lệ. Vậy thế nào là một vận đơn đường biển hợp lệ? Những nội dung trên vận đơn đ ược coi là hợp lệ theo tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế thể hiện như thế nào? Đây là vấn đề mà các chủ hàng xuất nhập khẩu cần quan tâm nhằm tránh những tranh chấp có thể phát sinh, bảo vệ được quyền lợi của mình trong mọi trường hợp. Dưới đây, nhóm xin trình bày một số điểm lưu ý cơ bản trong quá trình lập và kiểm tra vận đơn: 3.1. Một số vấn đề cần lưu ý với vận đơn đường biển theo tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế (ISBP 681 năm 2007) Trên thực tế, khi tờ vận đơn xuất trình được các ngân hàng chấp nhận là hợp lệ có thể chia thành hai trường hợp. 3.1.1. Trường hợp tín dụng thư có quy định về chứng từ vận tải Khi tín dụng thư có quy định về chứng từ vận tải thì vận đơn xuất trình phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của tín dụng thư về hình thức, nội dung, số bản gốc, các thông tin trên chứng từ... Nếu vận đơn khi xuất trình không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu theo quy định thì vận đơn đó coi như không hợp lệ và như vậy bộ chứng từ sẽ không được chấp nhận thanh toán. Vì vậy, khi kiểm tra L/C (người nhập khẩu mở cho người xuất khẩu hưởng), nếu thấy yêu cầu nào đó trên L/C không thể đáp ứng được thì người xuất khẩu phải yêu cầu sửa đổi hoặc hủy bỏ... Người xuất khẩu chỉ giao hàng khi L/C đã sửa đổi và các yêu cầu trên L/C có thể đáp ứng được. Có như vậy mới đảm bảo khả năng bộ chứng từ được chấp nhận thanh toán khi xuất trình tại ngân hàng. 3.1.2. Trường hợp hợp đồng mua bán và tín dụng thư không quy định về chứng từ vận tải Nếu hợp đồng mua bán và L/C không có quy định gì về chứng từ vận tải, khi xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng, vận đơn sẽ được coi là hợp lệ theo tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế (ISBP số 681 năm 2007) dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức thanh toán bằng tín dụng thư phải đáp ứng các yêu cầu sau: Về hình thức của tờ vận đơn Trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, vận đơn có thể được phát hành dưới dạng giấy hoặc bằng dữ liệu điện tử. Nếu vận đơn được phát hành dưới dạng giấy thì gọi là vận đơn giấy, phát hành dưới dạng điện tử thì gọi là vận đơn điện tử (electronic Bill of Lading). Về hình thức của tờ vận đơn đường biển, mỗi hãng tàu khác nhau có thể phát hành khác nhau, song tính hợp lệ của tờ vận đơn đường biển về hình thức theo ISBP số 681 năm 2007 có thể khái quát lại như sau: + Vận đơn phải thể hiện được dùng cho việc vận chuyển hàng hóa t ừ cảng đ ến c ảng (to covers a port to port shipment). Và trên tờ vận đơn không nhất thiết phải có tiêu đ ề như: “Vận đơn hàng hải – marine bill of lading” hay “vận đơn đ ường biển – ocean bill
  12. of lading” hoặc “vận đơn từ cảng đến cảng – port to port bill of lading” hay các tiêu đề tương tự khác. + Vận đơn phải được làm thành văn bản và do người vận chuyển phát hành. + Vận đơn bao giờ cũng bao gồm hai mặt (trừ vận đơn điện tử – E.B/L). Mặt trước bao gồm các ô, cột, dòng in sẵn để điền những thông tin cần thiết khi sử dụng; mặt sau của vận đơn phải chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc dẫn chiếu tới các nguồn luật có quy định những điều kiện và điều khoản chuyên chở (đ ối với vận đơn rút gọn hay vận đơn trắng lưng). + Ngôn ngữ sử dụng trong tờ vận đơn phải là ngôn ngữ thống nhất (thường sử dụng tiếng Anh). + Hình thức thể hiện của tờ vận đơn không quyết định giá trị pháp lý của vận đơn. Về nội dung thể hiện của tờ vận đơn Theo tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế, để kiểm tra chứng từ trong bộ chứng từ thanh toán bằng thư tín dụng – số 681 của ICC tuân thủ UCP 600 năm 2007, thì tính hợp lệ về nội dung của tờ vận đơn được khái quát như sau: * Bộ vận đơn gốc phát hành Điều 20 UCP 600 năm 2007 của ICC (các quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng Thương mại quốc tế) quy định số lượng các bản gốc phát hành phải được thể hiện cụ thể trên vận đơn. Vận đơn gốc (original B/L) có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, như: “Bản gốc thứ nhất – first original”, “bản gốc thứ hai – second original”, “bản gốc thứ ba – third original” hoặc “original”, “Duplicate”, “triplicate”... hay các ghi chú tương tự (similar expressions) đều là bản gốc. Theo ISBP số 681 năm 2007 nêu rõ, một vận đơn đường biển gốc không nhất thiết trên đó phải có chữ “original” mới được chấp nhận là gốc. Miễn là tờ vận đơn đó được lập hoặc thể hiện là được lập bằng các phương pháp theo quy định như đánh máy, viết tay... hay mẫu chứng từ chính thức của người phát hành và được ghi chú là chứng từ gốc. Theo ISBP số 681 năm 2007 thì ngân hàng sẽ coi là chứng từ gốc một khi trên chứng từ đó thể hiện có chữ ký, ký hiệu, dấu hoặc nhãn gốc chân thực của người phát hành chứng từ (trừ trường hợp trên chứng từ chỉ rõ không phải là bản gốc). * Chữ ký và người ký vận đơn Vận đơn đường biển do người vận chuyển phát hành khi nhận hàng đ ể chở. Vì v ậy trên bề mặt của tờ vận đơn phải có tên của người vận chuyển và được ghi rõ là người vận chuyển (as the carrier), và trên các tờ vận đơn gốc phải có chữ ký của người vận chuyển hoặc những người được phép ký theo quy định. Theo Điều 94 – ISBP s ố 681 năm 2007, người ký vận đơn trên thực tế có thể là: - Người vận chuyển ký vận đơn: Người vận chuyển ký và ghi rõ tên đ ồng thời ph ải thể hiện là người vận chuyển. - Đại lý của người vận chuyển ký vận đơn: Đại lý của người vận chuyển ký vận đơn phải ghi rõ tên đồng thời thể hiện là đại lý thay mặt người vận chuyển. - Thuyền trưởng ký vận đơn: Thuyền trưởng ký vận đơn phải thể hiện rõ là thuy ền trưởng. - Đại lý thay mặt thuyền trưởng ký vận đơn: Khi ký vận đơn phải thể hiện là đại lý và ghi rõ tên của thuyền trưởng mà đại lý thay mặt. Các chữ ký của người vận chuyển, thuyền trưởng hoặc đại lý phải xác định được đích thực chữ ký đó là của người vận chuyển, của thuyền trưởng hoặc đại lý đã ký thay hoặc đại diện cho người vận chuyển, thuyền trưởng. Trường hợp nếu L/C quy đ ịnh “vận đơn của người giao nhận cũng chấp nhận-freight for warrder’s bill of lading is
  13. acceptable” thì người giao nhận có thể ký vận đơn với tư cách của người giao nhận mà không cần phải thể hiện anh ta là người vận chuyển hay đại lý cho người vận chuy ển và cũng không cần thiết phải nêu tên người vận chuyển thực tế. * Những ghi chú bốc hàng lên tàu Khi giao hàng bằng đường biển, vận đơn xuất trình tại ngân hàng phải có ghi chú “đã bốc hàng – shipped on board”. Nếu trên tờ vận đơn đã in sẵn từ “đã bốc hàng” đ ược xuất trình thì ngày phát hành vận đơn được coi là ngày bốc hàng lên tàu và cũng chính là ngày giao hàng. Trường hợp trên tờ vận đơn lại ghi chú ngày bốc hàng lên tàu riêng biệt, khác với ngày phát hành vận đơn, thì ngày bốc hàng lên tàu vẫn được coi là ngày giao hàng cho dù ngày bốc hàng lên tàu có thể trước hoặc sau ngày phát hành vận đơn. Vận đơn thể hiện hàng đã được bốc lên tàu trên thực tế có thể được diễn đạt bằng nhiều cụm từ khác nhau. “Đã bốc hàng lên tàu – Laden on board”; “Đã bốc hàng lên tàu, hoàn hảo – Clean on board”; “Đã bốc hàng – shipped”; “Đã bốc lên tàu – on board”... Các cụm từ thể hiện như trên đều cùng nghĩa với cụm từ “shipped on board - đã bốc hàng lên tàu”. Trường hợp trên tờ vận đơn có ghi “con tàu dự kiến – intended vessel” hoặc quy định tương tự liên quan đến tên tàu vận chuyển thì ghi chú xếp hàng lên tàu nào phải ghi rõ tên tàu, ngay cả khi xếp hàng lên chính con tàu dự kiến vận chuyển. * Cảng bốc và cảng dỡ hàng Theo ISBP số 681 năm 2007, khi tín dụng thư quy định cảng bốc (hoặc cảng dỡ) là một cảng cụ thể thì trên tờ vận đơn cảng làm hàng cụ thể phải được thể hiện ở ô cảng bốc (hoặc cảng dỡ) hàng. Hoặc cũng có thể ghi vào ô “nơi nhận hàng” (hoặc “nơi đến cuối cùng”) với điều kiện có ghi chú chứng minh rằng hàng hóa đã được bốc lên tàu tại cảng chỉ định ở “nơi nhận hàng” (hoặc hàng hóa đã được dỡ ra khỏi tàu tại cảng chỉ đ ịnh ở “nơi đến cuối cùng”). Trường hợp nếu L/C quy định một khu vực địa lý hay một loạt cảng bốc (hoặc dỡ) thì cảng bốc (hoặc dỡ) thực tế phải được thể hiện trên vận đơn và các cảng trên vận đơn phải nằm trong khu vực địa lý hoặc trong số các cảng đã quy định trong tín dụng thư. * Chuyển tải Điều 104-ISBP số 681 năm 2007 quy định: Chuyển tải là việc dỡ hàng từ tàu biển này và lại bốc hàng lên tàu biển khác trong một hành trình vận chuyển từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng theo quy định của tín dụng thư. Như vậy, chuyển tải có nghĩa trong hành trình có sự thay đổi tàu và người vận chuyển. Trường hợp L/C quy định “cấm chuyển tải – transhipment not allowed” thì tất cả các vận đơn có phê chú chuyển tải đều là không hợp lệ, trừ khi hàng được vận chuy ển bằng container, xe rơ-moóc hay tàu Lash đã ghi trên vận đơn. * Giao hàng từng phần Điều 105-ISBP số 681 năm 2007 quy định, nếu một tín dụng thư cấm giao hàng từng phần và có nhiều bộ vận đơn gốc được xuất trình cho lô hàng từ một hay nhiều c ảng bốc hàng thì các chứng từ đó vẫn được ngân hàng chấp nhận, miễn là chúng dùng cho việc giao hàng trên cùng một con tàu, trên cùng một hành trình và đ ược chở đ ến cùng một cảng dỡ hàng. Nếu trên các bộ vận đơn được xuất trình có ngày giao hàng khác nhau thì ngày giao hàng muộn nhất trong các ngày đó được dùng để xác định thời hạn xuất trình theo yêu cầu của tín dụng thư. Giao hàng từng phần là giao hàng trên nhiều con tàu, ngay cả khi những con tàu này rời cảng cùng một ngày và đến cùng cảng đến.
  14. Người nhận hàng, bên ra lệnh, người gửi hàng và ký hậu, bên thông báo Tín dụng thư yêu cầu vận đơn phát hành dưới dạng đích danh, ví dụ “consigned to V.C.B”, thì trên tờ vận đơn không được ghi từ “theo lệnh – to order” hoặc “theo l ệnh của – to order of” trước tên của bên đích danh đó cho dù đánh máy hay in sẵn. Nếu tín dụng thư yêu cầu hàng hóa phải giao “theo lệnh – to order” hoặc “theo lệnh của – to order of” một bên đích danh thì trên tờ vận đơn không được ghi hàng hóa được giao trực tiếp cho bên đích danh đó. Khi vận đơn được phát hành “theo lệnh – to order” hoặc “theo lệnh của người gửi hàng – to order of the Shipper” thì vận đơn phải được người gửi hàng ký hậu. Người gửi hàng có thể cho phép hoặc ủy quyền cho người khác ký hậu vận đơn thay mình, đều có thể chấp nhận được. * Tính hoàn hảo của vận đơn Trường hợp tín dụng thư không quy định gì, vận đơn xuất trình tại ngân hàng được coi là hợp lệ phải là vận đơn hoàn hảo (clean bill of lading). Vận đơn hoàn hảo là vận đơn mà trên đó không có phê chú xấu về hàng hóa cũng như tình trạng hàng hóa lúc giao. Như vậy, một vận đơn hoàn hảo không nhất thiết phải có từ “hoàn hảo – clean” trên đó, kể cả khi từ “hoàn hảo” trên tờ vận đơn bị xóa đi cũng không làm mất tính hoàn hảo của tờ vận đơn. Hay trên vận đơn có những phê chú chung chung như: “bao bì dùng lại – second hand cases”, “nghe nói cân được – said to weight” hoặc “bao bì có thể không thích hợp cho vận tải đường biển – packaging may not be sufficient for the sea journey”... thì các ngân hàng vẫn cho rằng những phê chú đó không phải là những phê chú xấu – vận đơn vẫn được coi là hợp lệ. * Sửa chữa và thay đổi trên vận đơn Một tờ vận đơn sau khi đã phát hành, thực tế vẫn có thể được sửa chữa và thay đổi. Song những sửa chữa và thay đổi trên vận đơn, ngân hàng chỉ chấp nhận khi có xác nhận của người vận chuyển, thuyền trưởng hay đại lý của người vận chuyển hoặc thuyền trưởng. Riêng đối với vận đơn copy, những thay đổi hay sửa chữa trên vận đơn như bản vận đơn gốc đã được thực hiện thì không cần thiết phải có ch ữ ký hay xác nhận của người vận chuyển, thuyền trưởng hoặc đại lý của họ. * Cước và phụ phí Cước và phụ phí cũng là nội dung mà các ngân hàng thường chú ý kiểm tra khi vận đơn được xuất trình. Nếu tín dụng thư yêu cầu vận đơn phải ghi rõ cước phí đã trả hoặc sẽ trả ở cảng đến thì trên tờ vận đơn phải thể hiện rõ ràng. Nếu không đáp ứng như yêu cầu thì vận đơn xuất trình coi như là không hợp lệ. Nếu tín dụng thư quy định không chấp nhận các phụ phí thì vận đơn không được thể hiện là phụ phí đã hoặc sẽ có… Tóm lại, một tờ vận đơn khi xuất trình được coi là hợp lệ theo tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế – ISBP số 681 năm 2007 về hình thức cũng như nội dung phải đáp ứng các yêu cầu như đã phân tích. Ngân hàng khi kiểm tra chứng từ trong phương thức thanh toán bằng tín dụng thư thường căn cứ vào yêu cầu của tín dụng thư, nếu chứng từ đáp ứng đầy đủ yêu cầu của tín dụng thư thì ngân hàng chấp nhận thanh toán ti ền hàng. Trường hợp tín dụng thư không có quy định thì ngân hàng sẽ kiểm tra chứng từ theo tập quán của ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế. Tập quán này đã được Ủy ban Ngân hàng c ủa Phòng Thương mại quốc tế thông qua (ISBP 681 năm 2007 của ICC) có hiệu l ực từ 01/7/2007. 3.2. Những lưu ý khi sử dụng vận đơn đường biển Vận đơn đường biển là một chứng từ quan trọng trong giao nhận vận chuyển, bảo hiểm, thanh toán và khiếu nại (nếu có). Trong thực tiễn sử dụng vận đ ơn phát sinh
  15. nhiều tranh chấp gây ảnh hưởng đến các bên liên quan do các bên chưa thực s ự hi ểu hoặc có những cách hiểu khác nhau về giá trị pháp lý của vận đơn, về nội dung và hình thức của vận đơn… Vì vậy khi lập và sử dụng vận đơn cần lưu ý những điểm sau đây: * Giá trị pháp lý của vận đơn: Theo thông lệ Hàng hải Quốc tế (công ước Brussels 1924, điều 1 khoản b) và Bộ luật Hàng hải Việt nam thì vận đơn là cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người nhận hàng và người chuyên chở. Khi xảy ra thiếu hụt, hư hỏng, tổn thất…. đôí với hàng hoá ở cảng đến thì người nhận hàng phải đứng ra giải quyết với người chuyên chở căn cứ vào vận đơn. Trên lý thuyết thì như vậy nhưng trong thực tế có rất nhi ều tranh ch ấp phát sinh xung quanh vấn đề này. Cụ thể là: Trong thương mại hàng hải quốc tế thường lưu hành phổ biến 2 loại vận đơn: vận đơn loại thông thường (gọi là Conline bill) và vận đơn cấp theo hợp đồng thuê tàu (gọi là Congen bill). Điểm khác nhau cơ bản của 2 loại vận đơn này là: Conline bill ch ức đ ầy đủ mọi quy định để điều chỉnh quan hệ giữa người nhận hàng và người chuyên chở như phạm vi trách nhiện, miễn trách, thời hiệu tố tụng, nơi giải quyết tranh chấp và luật áp dụng, mức giới hạn bồi thường, các quy định về chuyển tải, giải quyết tổn thất chung, những trường hợp bất khả kháng…. Thông thường loại vận đơn này có đầy đủ 3 chức năng như Bộ luật Hàng hải Việt nam quy định. Ngược lại, Congen bill được cấp phát theo một hợp đồng thuê tàu chuyến nào đó. Loại này thường chỉ có chức năng là một biên nhận của người chuyên chở xác nhận đã nhận lên tàu số hàng hoá được thuê chở như đã ghi trên đó. Nội dung của loại vận đơn này rất ngắn gòn và bao giờ cũng phải ghi rõ: phải sử dụng cùng với hợp đ ồng thuê tàu (to be used with charter parties). Ngoài ra trong vận đơn loại này bao giờ cũng có câu: mọi điều khoản, mọi quy định miễn trách nhiệm cho người chuyên chở đã ghi trong hợp đồng thuê tàu kể cả các điều khoản luật áp dụng và trọng tài phải được áp dụng cho vận đơn (All terms and conditions, leberties and exceptions of the charter party, dated as overleaf, including the law and abitration clause, are herewwith incorporated). Trong trường hợp xảy ra mất mát. hư hỏng, thiếu hụt hoặc chậm giao hàng… ở cảng dỡ hàng thì chỉ phải sử dụng vận đơn để giải quyết tranh chấp (nếu là Conline bill), nhưng sẽ phải sử dụng cả vận đơn và hợp đồng thuê tàu (nếu là Congen bill). ở đây có thể xảy ra khả năng có mâu thuẫn giữa quy định của vận đơn và quy đ ịnh trong hợp đồng thuê tàu. Lúc này ưu tiên áp dụng những quy định của vận đơn để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cả vận đơn và hợp đồng đều không có quy định gì (khả năng thứ 2) thì áp dụng luật do vận đơn chỉ ra trước, luật do hợp đồng chỉ ra sau nhưng phải xét đến các mối quan hệ liên quan. Vấn đề là ở chỗ các doanh nghiệp Việt nam hay mua hàng theo điều kiện CIF hoặc C&F thì hợp đồng thuê tàu do người bán ký với chủ tàu, người mua (người nhận hàng) Việt nam khó lòng biết được. Để hạ giá bán, thường là bằng cách hạ giá cước (phần F trong giá C&F vàCIF) người bán hàng nước ngoài sẵn sàng chấp nhận những quy định khắt khe của chủ tàu, k? cỏ các quy đ ịnh về luật áp dụng và trọng tài. Có khi họ thuê cả những tàu già, cũ, rách nát hay hỏng hóc. Nếu có hư hỏng mất mát thiệt hại về hàng hoá thì việc khiếu nại chủ tàu rất khó khăn vì người mua hàng không có hợp đồng thuê tàu trong tay hoặc có những hợp đồng toàn những quy định bất lợi cho người mua hàng. Đôi khi lấy được hợp đồng thuê tàu từ người bán thì thời hiệu tố tụng không còn nữa hoặc hợp đồng quy định tranh chấp (nếu có) sẽ xét xử theo luật Anh và ở trọng tài hàng hải London…. Những quy dịnh này hết sức bất lợi cho người mua Việt Nam. * Vận đơn là loại vận đơn chủ (Master bill of lading) hay vận đơn nhà (house bill lading).
  16. Vận đơn chủ hay vận đơn đường biển là vận đơn do người chuyên chở chính thức (effective carrier) phát hành còn vận đơn nhà hay vận đơn thứ cấp do người chuyên chở không chính thức (contracting carrier) hay còn gọi là người giao nhận phát hành trên cơ sở vận đơn chủ. Đây là cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ giao nhận kho vận với khách hàng. Muốn phân biệt một vận đơn là Master bill hay House bill phải căn cứ vào nội dung và hình thức cuả vận đơn. Thứ nhất, vận đơn đường biển thường có dẫn chiếu một số công ước quốc tế phổ biến như Hague Rules, Hague Visby Rules hoặc Hamburge Rules. Ngược lại, trên thế giới không có một công ước nào điều chỉnh vận đơn thứ cấp. Thứ hai, vận đơn đường biển chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ người vận tải biển liên quan tới việc bốc xếp, chuyên chở, dỡ hàng và trả hàng phát sinh từ hợp đồng thuê tàu. Ngược lại vận đơn thứ cấp còn chứa đựng những quy định pháp lý về chuyên chở bằng đường bộ, đường sông, đường sắt. Vì vậy, không gian pháp lý của vận đơn thứ cấp rộng hơn vận đơn đường biển. Thứ ba, trong vận đơn thứ cấp thường ghi địa điểm nhận hàng để chở (place of receip) và địa điểm trả hàng (place of delivery) chứ không đơn thuần cảng bốc hàng và cảng dỡ hàng. Thứ tư, vận đơn đường biển bao giờ cũng ghi rõ: đã bốc hàng lên tàu (shipped on board) hoặc đã nhận để bốc lên tàu (received for shipment). Ngược lại, vận đơn thứ cấp thường ghi: nhận để vận chuyển (taken in charge for transport) vì có thể chở bằng đường biển, đường sông, đường bộ… Thứ năm, trong vận đơn đường biển, người gửi hàng gọi là shipper còn trong vận đơn thứ cấp, người gửi hàng gọi là congignor. Trong vận đơn đường biển luôn ghi người nhận hàng (consignee) hoặc đích danh hoặc theo lệnh nhưng trong vận đơn thứ cấp luôn ghi là: hàng được giao nhận theo lệnh (consigned to order of….) Thứ sáu, vận đơn đường biển luôn có chức năng là chứng từ nhận quyền định đoạt hàng hoá nhưng với vận đơn thứ cấp, tính chất này có hay không do hai bên thoả thuận khi phát hành. Thứ bảy, người chuyên chở đường biển không chịu trách nhiệm về hàng đến chậm nhưng người giao nhận lại phải chịu trách nhiệm về việc này.Có khi họ phải đ ến gấp đôI số tiền cước cho thiệt hại do giao hàng chậm. Thứ tám, thời hiệu khiếu nại trong vận đơn đường biển là 1 năm, trong khi đó ở vận đơn thứ cấp chỉ là 9 tháng. Số thời gian chênh lệch là dành cho người giao nhận khiếu nại lại người vận tải chính thức. Thứ chín, vận đơn đường biển chỉ cần 1 con dấu và 1 chữ ký vì nó chỉ được cấp sau khi hàng đã bốc lên tàu. Trong khi đó, vận đơn thứ cấp do được phát hành khi nhận hàng để chở nên phải có thêm 1 con dấu và 1 chữ ký nữa xác nhận rằng hàng đã đ ược bốc lên tàu (ngày cấp vận đơn thứ cấp và ngày bốc hàng có thể khác nhau). Tuy nhiên trong thức tế sự phân biệt giữa 2 loại vận đơn này chỉ là tương đ ối. Đi ều quan trọng là khi có một vận đơn trong tay phải xem xét xem nó là loại gì và ai là người phát hành để khi có tổn thất có thể giải quyết kịp thời, đúng đối tượng. Do House Bill là vận đơn do người giao nhận cấp (freight forwader), khi họ cung cấp dịch vụ gom hàng trong vận tải đường biển cung như vận tải hàng không. Vận đơn này chưa được Phòng Thương mại quốc tế thông qua và người cấp thông thường không là người chuyên chở thực sự (người kinh doanh vận tải không có tàu). Vì vậy trong nhiều trường hợp nó không đáp ứng yêu cầu của L/C, nên nó có xu hướng bị thay thế bằng FBL (FIATA bill of lading) và Neutral Air waybill (trong vận tải hàng không)…
  17. * Nội dung và hình thức của vận đơn - Về nội dung: + Mục số lượng, trọng lượng, bao bì, ký mã hiệu mô tả hàng hoá phải ghi phù hợp với số lượng hàng thực tế xếp lên tàu và phải ghi thật chính xác. Khi nhận hàng theo vận đơn, phải lưu ý số hàng thực nhận so với số hàng ghi trong vận đơn, nếu thấy thiếu, sai hoặc tổn thất thì phải yêu cầu giám định để khiếu nại ngay. Nếu tổn thất không rõ rệt thì phải yêu cầu giám định trong 3 ngày kể từ ngày dỡ hàng. + Mục người nhận hàng: Nếu là vận đơn đích danh thì phải ghi rõ họ tên và đ ịa chỉ người nhận hàng, nếu là vận đơn theo lệnh thì phải ghi rõ theo lệnh của ai (ngân hàng, người xếp hàng hau người nhận hàng). Nói chung, mục này ta nên ghi theo yêu cầu của thư tín dụng (L/C) nếu áp dụng thanh toán bằng tín dụng chứng từ. + Mục địa chỉ người thông báo: Nếu L/C yêu cầu thì ghi theo yêu cầu của L/C, n ếu không thì để trống hay ghi địa chỉ của người nhận hàng. + Mục cước phí và phụ phí: phải lưu ý đến đơn vị tính cước và tổng số tiền cước. Nếu cước trả trước ghi: “Freight prepaid” Nếu cước trả sau ghi: “Freight to collect hay Freight payable at destination”. Có khi trên vận đơn ghi : “Freight prepaid as arranged” vì người chuyên chở không muốn tiết lộ mức cước của mình. + Mục ngày ký vận đơn: Ngày ký vận đơn thường là ngày hoàn thành việc bốc hàng hoá lên tàu và phải trong thời hạn hiệu lực của L/C. + Mục chữ ký vận đơn: Chữ ký trên vận đơn có thể là trưởng hãng tàu, đại lý của hãng tàu. Khi đại lý ký thì phải ghi rõ hay đóng dấu trên vận đơn “chỉ là đại lý (as agent only)”. - Về hình thức Hình thức của vận đơn do các hãng tự lựa chọn và phát hành để sử dụng trong kinh doanh. Vì vậy, mỗi hãng khác nhau phát hành vận đơn có hình thức khác nhau. Tuy nhiên hình thức phát hành không quyết định giá trị pháp lý của vận đơn. Những hình thức thể hiện của vận đơn: Hình thức phổ biến nhất là loại vận đơn đường biển thông thường, chỉ sử dụng trong chuyên chở hàng hoá bằng đường biển (trên vận đơn chỉ ghi “Bill of lading”. Loại vận đơn này là loại vận đơn truyền thống đang dần được thay thế bởi loại vận đơn phát hành dùng cho nhiều mục đích, nhiều phương thức chuyên chở. Đó là: - Loại vận đơn dùng cho cả vận tải đơn phương thức và đa phương thức: trên vận đơn ghi: “bill of lading for combined transport shipment or port shipment”. Loại chứng từ này được hiểu là vận đơn đường biển và có thể chuyển nhượng được trừ phi người phát hành đánh dấu vào ô “Seaway bill, non negotiable”. - Vận đơn dùng cho cả lưu thông và không lưu thông: “bill of lading not negotiable unless consigned to order” (vận đơn này không chuyển nhượng được trừ phi phát hành theo lệnh)…. Như vậy nhìn vào hình thức vận đơn chúng ta không biết đươc nó là loại nào, giá tr ị pháp lý như thế nào. Muốn xác định cụ thể ta lại phải xem xét đ ến các nội dung th ể hiện trên vận đơn. Giấy gửi hàng đường biển (seaway bill) Vận đơn là một trong những chứng từ quan trọng nhất của mua bán quốc tế khi hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển. Tuy vậy, dần dần vận đơn đã bộc lộ nhiều nhược điểm như:
  18. - Thứ nhất, nhiều khi hàng hoá đã đến cảng dỡ hàng nhưng người nhận không có vận đơn (B/L) để nhận hàng vì thời gian hành trình của hàng hoá trên biển ngắn hơn thời gian gửi bill từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng. - Thứ hai, B/L không thích hợp với việc áp dụng các phương tiện truyền số liệu hiện đại tự động (fax, teleax…) bởi việc sử dụng B/L trong thanh toán, nhận hàng…. đòi hỏi phải có chứng từ gốc. - Thứ ba, việc in ấn B/L đòi hỏi nhiều công sức và tốn kém bởi chữ in mặt sau của B/L thường rất nhỏ, khoảng 0,3mm để chống làm giả. - Thứ tư, việc sử dụng B/L có thể gặp rủi ro trong việc giao nhận hàng hoá (nếu đơn vị bị mất cắp) vì B/L là chứng từ sở hữu hàng hoá…. Như vậy một loại chứng từ mới có thể thay thế được cho B/L và có chức năng tương tự như B/L đã ra đời. Đó là giấy gửi hàng đường biển (seaway bill). Sử dụng seaway bill có thể khắc phục được những tồn tại đã phát sinh của B/L. Thứ nhất, khi sử dụng seaway bill người nhận hàng có thể nhận được hàng hoá ngày khi tàu đến cảng dỡ hàng hoá mà không nhất thiết phải xuất trình vận đơn đường biển gốc vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá. Hàng hoá sẽ được người chuyên chở giao cho người nhận hàng trên cơ sở những điều kiện của người chuyên chở hoặc một tổ chức quản lý hàng hoá tại cảng đến. Thứ hai, seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá, do đó người ta không nhất thiết phải gửi ngay bản gốc cho người nhận hàng ở cảng đến mà có thể gửi bản sao qua hệ thống truyền số liệu tự động. Như vậy đồng thời với việc xếp hàng lên tàu, người xuất khẩu có thể gửi ngày lập tức seaway bill cho người nhận hàng trong vòng vài phút. Người nhận hàng cũng như người chuyên chở không phải lo l ắng khi giao nhận mà không có chứng từ. Thứ ba, khi sử dụng seaway bill, việc in các điều khoản bằng chữ rất nhỏ ở mặt sau được thay thế bằng việc dẫn chiếu đến các điều kiện, quy định liên quan đ ến vận chuyển ở mặt trước bằng một điều khoản ngắn gọn. Mặt khác người chuyên chở chỉ cần phát hành 1 bản gốc seaway bill trong khi phải phát hành tối thiểu 1 bộ 3 b ản gốc nếu sử dụng B/L. Thứ tư, seaway bill cho phép giao hàng cho một người duy nhất khi họ chứng minh họ là người nhận hàng hợp pháp. Điều này giúp cho các bên hữu quan hạn chế được rất nhiều rủi ro trong việc giao nhận hàng, không những thế, vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá nên khi bị mất hay thất lạc thì cũng không ra hậu quả nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, seaway bill không phải là không có những hạn chế như seaway bill cản trở mua bán quốc tế (vì seaway bill là rất phức tạp và khó khăn khi người chuyên chở và người nhận hàng là những người xa lạ, mang quốc tịch khác nhau; luật quốc gia c ủa một số nước và công ước quốc tế chưa thừa nhận seaway bill như một chứng từ giao nhận hàng…. Ở Việt nam, việc áp dụng seaway bill vận còn rất mới mẻ, mặc dù đã có cơ sở pháp lý để áp dụng seaway bill. Mục C – điều.... Bộ luật Hàng hải Việt nam quy định. Người vận chuyển và người giao nhận hàng có thể thoả thuận việc thay thế B/L bằng giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương đương và thoả thuận về nội dụng, giá trị của các chứng từ này theo tập quán Hàng hải quốc tế. 3.3. Một số điểm cần lưu ý khi kiểm tra vận đơn Có rất nhiều điểm cần lưu ý khi kiểm tra vận đơn đường biển. Tuy nhiên do thời gian có hạn, nhóm thảo luận chỉ đưa ra những vướng mắc thường gặp phải trong quá trình kiểm tra vận đơn. Cụ thể là:
  19. 3.3.1. Ngày giao hàng trên B/L Tầm quan trọng của ngày giao hàng: Ngày giao hàng là căn cứ để các bên tham gia thương mại và thanh toán quốc tế khẳng định người bán đã thực hiện đúng thời hạn giao hàng được quy định trong Hợp đồng thương mại hoặc L/C. Căn cứ để xác định ngày giao hàng: Ngày giao hàng được căn cứ vào chứng từ vận tải. Tuy nhiên, trên B/L, có thể có thông tin về ngày tháng trong mục ghi chú On Board. Ðiều này thường dẫn đến băn khoăn cho ngân hàng là ngày nào sẽ được coi là ngày giao hàng. Kết luận về ngày giao hàng: - Trường hợp B/L có ghi chú On Board:Ngày của ghi chú On Board - OBN (On Board Notation) sẽ được coi là ngày giao hàng cho dù ngày On Board trước hoặc sau ngày phát hành B/L. Nếu trên 1 B/L có nhiều hơn một ghi chú On Board, ngày On Board sớm hơn sẽ được coi là ngày giao hàng. Nếu bộ chứng từ được xuất trình nhiều hơn một bộ B/L thì ngày On Board muộn hơn sẽ được coi là ngày giao hàng. - Trường hợp B/L không ghi chú On Board: Ở phần sau, chúng ta cùng bàn luận tới vấn đề B/L có cần thiết có OBN hay không và bao gồm những thông tin gì trong phần OBN. Ở đây, chúng ta chỉ xem xét đối với trường hợp B/L không ghi chú On Board là đ ược phép. Ðối với trường hợp này, ngày phát hành sẽ được coi là ngày giao hàng. 3.3.2. Ghi chú On Board trên B/L (OBN) 3.3.2.1. Tổng quan về ghi chú On Board trên B/L Ghi chú On Board On Board Notation (OBN) là việc xác nhận rằng hàng hóa đã được xếp lên tàu. Việc hàng hóa đã được xếp lên tàu không chỉ liên quan đến quyền lợi của người mua, người bán mà còn là cơ sở trong việc kiểm tra chứng từ bảo hiểm, vì vậy được tất cả các bên tham gia thương mại và thanh toán quốc tế đặc biệt quan tâm. Khi nào cần có OBN? OBN cần có khi những nội dung của B/L không chỉ ra một cách rõ ràng rằng hàng hóa đã được xếp lên con tàu được xuất phát tại cảng đi đúng như quy định của L/C. Những nội dung nào cần phải có trong OBN? Tùy thuộc vào nội dung và loại B/L sử dụng để quyết định những nội dung cần phải có trong OBN. Việc ghi chú OBN là nhằm xác định hàng hóa đó đã được xếp lên con tàu, tại cảng đi được quy định trong hợp đồng thương mại cũng như trong L/C. Vi ệc có những nội dung nào trên OBN tùy thuộc vào những yếu tố sau đây: (1) Ðó là B/L đã xếp hàng lên tàu hay B/L nhận hàng để chở? (2) Nội dung ở trong mục cảng đi trên B/L có phù hợp với cảng đi quy định trong L/C hay không? (3) Trên B/L có chặng trước hay không? Mục đích của OBN là để xác định hàng hóa đã được xếp lên tàu tại cảng được quy định trong L/C, vì vậy bản thân từng B/L đã cho thấy sự cần thiết của OBN là khác nhau. 3.3.2.2. Những vướng mắc khi kiểm tra OBN Các bên tham gia thanh toán thường đặt ra hàng loạt các câu hỏi trong quá trình kiểm tra OBN. Ðó là: (1) Có chấp nhận B/L không ghi chú On Board hay không? (2) OBN chỉ ghi ngày tháng có hợp lệ hay không? (3) OBN có ngày tháng, tên tàu đã đủ điều kiện thanh toán hay chưa? (4) Mọi OBN có phải chỉ ra ngày tháng, tên tàu, tên cảng đi, cảng đến? Liên quan đến vấn đề này, dựa trên hàng loạt các tài liệu đã có của ICC, chúng tôi xin tổng hợp và phân loại như sau: B/L không cần chỉ ra OBN:
  20. Các bên tham gia thanh toán sẽ chấp nhận B/L không có OBN nếu đồng thời thỏa mãn các điều kiện sau đây: - Nếu B/L là loại đã xếp hàng lên tàu. - Cảng bốc hàng phù hợp với quy định của L/C. - Trên B/L không có chặng trước cho dù có nơi nhận hàng đ ể chở khác với c ảng bốc hàng theo L/C. Ví dụ: L/C quy định hàng được xếp từ Hải Phòng tới Oakland (California, USA). B/L được chấp nhận nếu B/L đó không chỉ ra chặng trước - precarriage và có in sẵn dòng chữ đã xếp hàng lên tàu - shipped on board. B/L cần có OBN thể hiện ngày tháng: Ðối với B/L nhận hàng để chở và không có chặng trước. Ví dụ trên, nếu người thụ hưởng xuất trình vận đơn nhận hàng đ ể chở - Receipt for shipment B/L thì cần có OBN, tuy nhiên chỉ cần chỉ ra ngày tháng OBN là phù hợp. B/L cần có OBN thể hiện ngày tháng và tên con tàu thực tế: Nếu B/L có ghi “con tàu dự định” hoặc quy định tương tự liên quan đến tên con tàu, thì việc ghi chú hàng đã xếp lên tàu, ghi rõ ngày giao hàng và tên con tàu là cần thiết. Ví dụ: B/L thể hiện Intended vessel: MOONLIGHT III => Ngay cả khi hàng hóa thực tế được giao trên tàu MOONLIGHT III, B/L cần phải có OBN thể hiện: Vessel: MOONLIGHT III Date: ….. B/L cần có OBN thể hiện ngày tháng, tên tàu và cảng đi: Thứ nhất, nếu trên B/L thể hiện có chặng trước, cho dù đó là shipped on board B/L hay Receipt for shipment B/L. Ví dụ: L/C quy định hàng được chuyên chở từ Ðà Nẵng đến Long Beach, California, USA. Người thụ hưởng xuất trình shipped on board B/L chỉ ra nơi nhận hàng để chở là Hải Phòng, tàu S1 (precarriage); Port of loading là Ðà Nẵng, tàu S2. Ðể được thanh toán, B/L phải chỉ rõ ngày tháng, tên cảng và tên tàu trong phần ghi chú B/L như sau: On Board on Vessel S2 at Danang Port on (date...) Thứ hai, OBN cần đầy đủ các thông tin về tên tàu, cảng đi và ngày tháng đối với B/L thể hiện tên cảng đi ở mục “Place of receipt” thay vì “Port of Loading”. Ví dụ: L/C quy định Port of loading: Anwept Trên mục Place of receipt thể hiện: “Anwept Vessel: MOONLIGHT III Date …” => Trên B/L cần có dấu On Board thể hiện: Port of Loading: Anwept Vessel: MOONLIGHT III Date: 25/12/2010 Thứ ba, OBN cần đầy đủ các thông tin về tên tàu, cảng đi và ngày tháng đối với B/L thể hiện cảng xếp hàng là dự định hoặc quy định tương tự liên quan. Ví dụ: Port of Loading: intended Kobe port => Cần phải có OBN thể hiện các thông tin: Port of Loading: Kobe Vessel: … Date: ….. 3.3.3. Cảng đi, cảng đến Cảng đi và cảng đến trên B/L đòi hỏi phải phù hợp với quy định của L/C. Tuy nhiên, do nhiều hãng chuyên chở muốn phản ánh đầy đủ các thông tin trên bề mặt B/L từ nơi nhận hàng để chở cho đến nơi chuyển tải, cảng dỡ nhưng phần lớn trên B/L không có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0