Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mực hợp lý để có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: CHÍNH SÁCH DÂN SỐ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
- CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM
Nhóm 9:
1.Lê Thị Thanh
2.Nguyễn Phương Thanh
3.Chu Diệp Thu
4.Đỗ Thị Thu Thủy
5.Đặng Thùy Trang
6.Hồ Quỳnh Trang
- Mục tiêu của chính sách
DS-KHHGĐ
Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, chủ động
kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù
hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mực hợp lý
để có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình.
Nâng cao chất lượng dân số, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý
dân số và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào
sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
- Nội dung của chính sách
DS-KHHGĐ
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
về chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình.
- Nội dung của chính sách
DS-KHHGĐ
1. Điều chỉnh Quy mô dân số
Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con
Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh
Phụ nữ sinh con trong độ tuổi từ 22 đến 34,
khoảng cách giữa các lần sinh là 3-5 năm,
mỗi cặp vợ chồng có từ 1 đến 2 con và được
lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai theo
nguyện vọng
- Nội dung của chính sách
DS-KHHGĐ
2. Khuyến khích sử dụng biện pháp tránh thai
3. Giảm nạo, phá thai
4. Điều chỉnh cơ cấu dân số
5. Giảm mất cân bằng giới tính khi sinh
6. Bảo vệ các dân tộc thiểu số
- Nội dung của chính sách DS-
KHHGĐ
7. Phân bố dân cư
8. Nâng cao chất lượng dân số
9. Kiểm tra sức khỏe di truyền và sức
khỏe trước khi kết hôn
10. Tuyên truyền, vận động, giáo dục về
dân số
11. Nâng cao chất lượng cung cấp dịch
vụ SKSS, KHHGĐ
- Thực trạng thực hiện chính sách
DS-KHHGĐ
Quy mô gia đình có 1 hoặc 2 con ngày
càng rộng rãi
Số con trung bình của một phụ nữ trong
đội tuổi sinh đẻ đã giảm mạnh từ trên
3,8 con (năm 1990) xuống 2,2 con (năm
2000) và đến nay đạt tiệm cận mức sinh
thay thế (mỗi cặp vợ chồng có khoảng
2,1 con); tỉ lệ phát triển dân số giảm
tương ứng từ hơn 2% xuống còn 1,25%
- Thực trạng thực hiện chính sách
DS-KHHGĐ đây, đặc biệt từ năm 2003, tình
Những năm gần
hình dân số có diễn biến phức tạp, mức sinh và tỉ
lệ sinh con thứ ba tăng trở lại, nhất là trong cán
bộ, đảng viên, làm ảnh hưởng tiêu cực đến
phong trào thực hiện chính sách dân số kế hoạch
hóa gia đình. Năm 2007, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng
hơn nhiều so với năm 2006, nhiều chỉ tiêu về
thực hiện các biện pháp tránh thai đạt kết quả
thấp. Quý I năm 2008, số trẻ sinh ra tăng 7,2%, tỉ
lệ sinh con thứ ba tăng 17,3% so với cùng kỳ năm
2007, kết quả thực hiện các biện pháp tránh thai
giảm nhiều so với kế hoạch
- Nguyên nhân yếu kém
Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp còn có tư
tưởng chủ quan, thỏa mãn, buông lỏng lãnh đạo
Hệ thống tổ chức làm công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình trong những năm qua có nhiều thay
đổi, không ổn định
Các cấp, các ngành chưa xử lý nghiêm những cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu gương
mẫu, vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hóa
gia đình
Một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ,
đảng viên cho rằng, công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình đã kết thúc, dẫn tới việc coi nhẹ
công tác này
- Giải pháp hoàn thiện chính sách
dân số KKHGĐ
Hoàn thiện hệ thống chính sách rõ ràng
tránh bị hiểu lầm
Tăng cường tuyên truyền, đa dạng hóa
sản phẩm truyền thông
Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình
hình thực hiện KKHGĐ ở địa phương
Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc
SKSS