BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hường

CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC

QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG

NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU

(1933-1945)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hường

CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC

QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG

NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU

(1933-1945)

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới

Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ PHỤNG HOÀNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học

của TS. Lê Phụng Hoàng.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có

nguốn gốc xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Thị Hường

1

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư Phạm Thành phố

Hồ Chí Minh, phòng Khoa học Công nghệ- Sau Đại học, quý Thầy Cô khoa Sử đã giúp

đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn TS. Lê Phụng Hoàng, Thầy đã tận tình

chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận

văn.

Tôi cũng xin cám ơn Ban Giám Hiệu trường THCS An Bình và các đồng nghiệp

đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành việc học tập và nghiên cứu.

Tôi xin tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, các Thầy Cô đã từng dạy dỗ và tất cả bạn

bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Nguyễn Thị Hường

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9

7. Bố cục của luận văn ........................................................................................................ 9

CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA CHÍNH SÁCH BÀI DO THÁI ..................... 10

1.1. Nền tảng ý thức hệ ..................................................................................................... 10

1.1.1. Học thuyết Darwin xã hội ..................................................................................... 10

1.1.2. Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù .......................................................................... 11

1.1.3. Chủ nghĩa bài Do Thái .......................................................................................... 11

1.2. Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng và Hitler- “cha đẻ của tiến trình ............. 12

diệt chủng” ......................................................................................................................... 12

1.3. Biểu tượng Swastika và lá cờ Đức quốc xã .............................................................. 32

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ( 1933- 1939) ......................................................................... 34

2.1. Tổ chức ........................................................................................................................ 34

2.1.1. GESTAPO ............................................................................................................. 34

2.1.2. SA .......................................................................................................................... 36

2.1.3. SS ........................................................................................................................... 36

2.2. Tiến hành trục xuất ................................................................................................... 38

2.3. Ban hành các đạo luật. .............................................................................................. 42

CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945) ........................................................................... 48

3.1. Tổng quan về Holocaust ............................................................................................ 48

3.1.1. Đặc điểm................................................................................................................ 48

3

3.1.2. Tiến trình thực hiện Holocaust .............................................................................. 50

3.2. Nỗ lực giải cứu và phong trào kháng chiến ............................................................. 72

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 85

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 90

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thế kỷ XX đã khép lại với vô vàn sự kiện, trong đó có sự kiện Chiến tranh thế giới thứ

hai (1939-1945). Tháng 8 năm 1945, cả thế giới bước ra khỏi thảm họa khi chiến tranh thế

giới thứ hai chính thức đi đến hồi kết. Cuộc chiến này có quy mô to lớn và mức độ tàn phá

ghê ghớm trên tất cả mọi khía cạnh của đời sống và nền văn minh loài người. Cuộc chiến

này đã gây nên một tổn thất to lớn về người và của mà không một con số nào có thế miêu tả

chính xác được. Trong số các dân tộc phải trả giá đắt cho cuộc chiến do Đức Quốc xã gây ra

có người Do Thái.

Chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu Âu

(1933-1945) đã được nghiên cứu nhiều ở nhiều nước Âu – Mĩ nhất là trong bối cảnh sau

chiến tranh lạnh kết thúc, họa diệt chủng lại một lần nữa xuất hiện ở châu Âu (vụ thảm sát ở

Kosovo).

Riêng ở Việt Nam, vấn đề chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng

người Do Thái chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy, với đề tài này, người viết hy vọng sẽ

góp phần cung cấp nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy ở

Việt Nam.

Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, người viết đã chọn đề tài: Chính sách của

chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu (1933-1945) làm

đề tài tốt nghiệp Cao học sau khi được sự đồng ý của khoa lịch sử trường Đại học sư phạm

TP. Hồ Chí Minh.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu Âu

(1933-1945) là một đề tài đã được nghiên cứu ở nhiều nước Âu- Mỹ nhưng chưa được

nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử nghiên cứu vấn đề, tác giả chủ

yếu giới thiệu đến các tác phẩm được dịch giả Việt Nam nghiên cứu.

Trong tác phẩm “Trùm phát xít Hitler- cuộc đời và tội ác” của Albert Marrin ấn hành

năm 2004 đã đề cập đến cuộc đời từ thuở ấu thơ của Adolf Hitler, từ một người vô danh đến

khi lên nắm quyền lực. Trong suốt quá trình ấy, Hitler đã để lại cho thế giới hôm nay một

bài học, bài học mang tên “Hitler”, là nếu con người bị chi phối bởi lòng thù hận và sự vô lý

5

thì sẽ thực hiện tất cả mọi tội ác kinh khủng nhất. Cuốn sách đã giúp tác giả tìm hiểu được

nguồn gốc của chính sách bài Do Thái mà Hitler đã xây dựng nên, cách mà Hitler xây dựng

bộ máy để thực hiện có hiệu quả mọi mệnh lệnh và rồi đi đến chỗ sụp đổ vào năm 1945.

Với tiêu đề: “Lịch sử cuộc tàn sát 6 triệu người Do Thái của Đức Quốc xã”, được tạp

chí Chân trời Unesco ấn hành năm 2005 đã cung cấp cho tác giả bức tranh toàn cảnh về

chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu

(1933-1945).

Năm 2007, cuốn sách “Sự trỗi dậy và suy tàn của đế chế thứ ba”, tác giả William L.

Shirer- được Diệp Minh Tâm dịch. Tác phẩm được đánh giá là “Một trong những tác phẩm

về lịch sử quan trọng nhất của thời đại chúng ta”. Đây là một tác phẩm đồ sộ với trên 1.100

trang, đưa ra những minh chứng hùng hồn, những lập luận uyên bác cho sự trỗi dậy và suy

tàn của một chế độ, đi cùng với nó là số phận của con người được sinh ngày 20.4.1889 ở thị

trấn Braunau am Inn gần biên giới Áo-Đức như “định mệnh”: Adolf Hitler. Từ khi được

xuất bản năm 1960, Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ Ba – Lịch sử Đức Quốc xã đã

được ca ngợi rộng khắp như là một hồ sơ cuối cùng về những thời khắc đen tối của thế kỷ

XX. Trải dài từ những giây phút đầu tiên sự ra đời của Đế chế thứ Ba ngày 30.1.1933 cho

đến những ngày cuối cùng của nó. Nền Đế chế chỉ kéo dài 12 năm 4 tháng nhưng đã gây ra

bạo lực dữ dội hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, những thảm cảnh kinh hoàng trên bình diện

toàn nhân loại với hàng triệu người bỏ mạng trong các trận chiến, hàng triệu người Do thái

bị ném vào các lò thiêu sống tại Ba Lan.... Là một phóng viên và nhà nghiên cứu lịch sử

người Mỹ, tác giả William Lawrence Shirer (1904 -1993) đã quan sát và tường thuật cuộc

sống của người Đức Quốc xã từ năm 1925, tiếp cận với các nhà lãnh đạo Quốc xã hàng đầu.

Sau chiến tranh, khi tham dự các phiên tòa xử tội phạm chiến tranh, ông lại có dịp quan sát

họ đứng trước vành móng ngựa. Sau đó, ông đã bỏ ra hơn 5 năm để rà soát từng đống tài

liệu để tổng hợp nên một thiên sử liệu của một trong những thời đại hãi hùng nhất trong lịch

sử nhân loại. Tác phẩm đã giúp tác giả có được cái nhìn toàn cảnh về Đế chế thứ III mà

Hitler xây dựng lên.

Trong khi đó, cũng vào năm 2007, với cuốn sách “Adolf Hitler- Tiểu sử chính trị”, tác

giả Lê Phụng Hoàng người viết được tiếp cận một cách chi tiết về cuộc đời của Adolf

Hitler, về con đường dẫn đến quyền lực để rồi đi đến sụp đổ. Quá trình hoạt động ấy của

Hitler dù chỉ 12 năm nhưng ngần ấy thời gian cũng đủ để Hitler không chỉ kịp xây dựng và

hoàn thiện một chế độ cầm quyền đáng được xếp ngang hàng với những chế độ bạo ác nhất

6

trong lịch sử loài người, mà còn gây ra một cuộc tận diệt đối với cộng đồng người Do Thái

trên thế giới đặc biệt ở châu Âu. Tác phẩm đã giúp tác giả hoàn thành nội dung chương 1

của đề tài.

Trong cuốn sách “Hitler và Lò thiêu sống dân Do Thái” tác giả Serge Millrer – Bản

dịch Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên. Tác phẩm đi sâu nghiên cứu một cách tỉ mỉ cuộc

sống trong các trại tập trung của Đức Quốc xã tại các quốc gia mà Đức chiếm đóng ở châu

Âu trong đó nhiều nhất là ở Ba Lan. Các trại tập trung, phòng hơi ngạt, các lò thiêu xác

được xây dựng ngày một nhiều để làm sao năng xuất giết người cao nhất. Tác phẩm dựng

lại toàn cảnh tội ác của một bộ máy mà cho đến nay khi đọc lại người ta phải suy ngẫm.

Cuốn sách giúp tác giả hoàn thành nôi dung chương 3 đặc biệt là “giải pháp cuối cùng” đối

với người Do Thái.

Năm 2009, trong cuốn sách “Bí mật về Adolf và các chiến hữu” của Mlechin Leonid

đã đã cung cấp cho tác giả thêm nguồn tư liệu về chính phủ Đức Quốc xã đặc biệt là những

người thân cận trong bộ máy chính quyền của Hitler. Những con người ấy đã tôn sùng

Hitler đến mù quáng và trở thành vị lãnh đạo cao nhất, có quyền lực nhất của các tổ chức

SA, SS, Gestapo- sau này là nỗi kinh hoàng cho người Do Thái.

Tác phẩm được coi là quan trọng nhất khi tìm hiểu nguồn gốc chính sách của chính

phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu (1933-1945) là: Mein

Kampf - “Cuộc tranh đấu của tôi”, tác giả Adolf Hitler năm 1971. Đây được xem là tác

là Mein Kampf, cuốn sách “Đời tranh đấu của tôi” trình bày tư tưởng và âm mưu của Adolf Hitler

về Đế chế Đức khi ông ta lên nắm quyền. Nếu một đầu óc bệnh hoạn suy nghĩ ra những tư

phẩm gốc đề cập đến lý thuyết về chủng tộc thượng đẳng và chủng tộc hạ đẳng. Với tên gốc

tưởng mà người bình thường trong thế kỷ 20 thấy là quái đản thì không nói làm gì? Điều kỳ

lạ là hàng triệu người Đức, sau khi đã đọc qua quyển Mein Kampf lại tiếp thu một cách

cuồng tín luồng tư tưởng như thế, và còn bị tư tưởng ấy dẫn đến chỗ hủy diệt cho hàng triệu

con người vô tội bên trong và đặc biệt bên ngoài nước Đức. Tác phẩm đã giúp tác giả tìm

hiểu được tư duy, suy nghĩ của Hitler về vấn đề chủng tộc để sau khi lên cầm quyền Hitler

biến tư duy ấy thành hành động. Với nguồn tư liệu ấy, tác giả hoàn thành nội dung chương

1.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu.

7

- Đề tài góp phần làm rõ chính sách của nước Đức thời kỳ cầm quyền của Hitler đối

với dân tộc Do Thái (1933-1945) qua đó lên án bất kỳ chính phủ nào có tư tưởng phân biệt

chủng tộc và kêu gọi thế giới giải quyết mọi mối quan hệ quốc tế bằng phương pháp hòa

bình.

* Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Đề tài góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân tại sao chính phủ Đức Quốc xã lại muốn

tận diệt người Do Thái?

- Làm rõ chính sách của nước Đức trên các lĩnh vực: Chính trị, xã hội, giáo dục, luật

pháp. Từ những ý tưởng manh nha dẫn đến hình thành chủ nghĩa bài Do Thái cực đoan.

- Tìm hiểu nỗ lực giải cứu người Do Thái khỏi thảm họa diệt chủng nói chung, chính

sách diệt chủng của chế độ Đức Quốc xã nói riêng.

- Đóng góp vào nỗ lực nghiên cứu về chế độ Đức Quốc Xã ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu.

- Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu

Âu(1933- 1945).

* Phạm vi nghiên cứu.

- Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của chính phủ

Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái trên lãnh thổ châu Âu.

- Về phạm vi thời gian: Từ khi chính phủ Đức Quốc xã được thành lập (1933)

đến khi sụp đổ vào 1945.

5. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngành học là phương pháp lịch sử, phương pháp

logic để tìm mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhằm nêu bật nội dung cốt lõi, bản chất

của sự vật, sự việc, cố gắng trình bày lịch sử như nó đã từng diễn ra. Với đề tài trên, tác giả

phải cố gắng tổng hợp, khái quát để nêu được một số nét cơ bản về chính sách của chính

phủ Đức Quốc xã đối với người Do Thái.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp liên ngành : tác giả luận văn kết hợp các

loại tài liệu và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các ngành : lịch sử, địa lý, khảo cổ học, văn

học.

8

6. Đóng góp của luận văn

*Về tư liệu: Đóng góp thêm nguồn tư liệu vào công cuộc nghiên cứu về chế độ

Đức Quốc xã.

* Về nội dung.

- Về mặt khoa học: Đề tài góp phần cung cấp thêm những nghiên cứu trong và ngoài

nước về chế độ Đức Quốc xã.

- Về tính thời sự: Đề tài góp phần trình bày những bài học của lịch sử để góp phân giải

quyết các mối quan hệ quốc tế.

- Về mặt thực tiến: Nội dung đề tài giúp cho việc giảng dạy về chế độ Đức Quốc xã

phong phú hơn.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần: mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì đề tài cấu tạo

nội dung gồm 3 chương chủ yếu:

Chương 1: Nguồn gốc của chính sách bài Do Thái.

Chương 2: Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do

Thái ở châu Âu trước chiến tranh thế giới thứ 2 (1933-1939).

Chương 3: Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do

Thái ở châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ 2 (1933-1939).

9

CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA CHÍNH SÁCH BÀI DO THÁI

1.1. Nền tảng ý thức hệ

Lý thuyết “Chủng tộc thượng đẳng” của Chủ nghĩa Quốc xã là một quái thai trong

lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con

đẻ của Học thuyết Darwin- xã hội và Tư tưởng phục thù trong xã hội Đức sau chiến tranh

thới thứ nhất, từ đó trở thành cơ sở lý luận cho các chính sách của một chính phủ.

1.1.1. Học thuyết Darwin xã hội

Học thuyết Darwin xã hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hóa thông qua

quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, thích

nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu,

kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải [7]. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách

máy móc Thuyết tiến hóa của Darwin vào trong xã hội loài người. Không phải ngẫu nhiên

mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực

chúng vào trong xã hội học. Chủ nghĩa thực chúng do Auguste Comte (1798- 1887) nêu lên

từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở

thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế. Với

thắng lợi trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chúng đã tạo ra tinh thần lạc quan mạnh

mẽ trong thế kỷ XIX, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích hành vi của số đông

bằng những quy luật của tự nhiên. Đúng lúc đó, Thuyết tiến hóa của Darwin ra đời. Những

kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hóa của Darwin để giải thích sự tiến hóa

của xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loài người cũng phải tiến hóa theo

quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết Darwin xã hội bước vào thế kỷ

XIX, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì

Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất

thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất

mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không

những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những

nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhưng thất bại thảm hại của Đức

trong cuộc Chiến tranh này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất

mãn sâu sắc hơn nữa. Để chống lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng

10

tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị

theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh

cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.

1.1.2. Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù

Học thuyết Darwin xã hội đã trở thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý

thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc

trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thủy tổ của người Đức, người Đức chính là

hậu duệ thuần chủng nhất và tinh túy nhất của người Aryan, do đó xứng đáng để lãnh đạo

thế giới. Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg.

Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong hệ thống các

bậc thang chủng tộc” [74], trong khi “chủng tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một

mối đe dọa đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn

thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn

hóa và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khă năng giữ gìn hoặc phá

hoại những nền văn hóa đó mà thôi. Rosenberg sau này trở thành cánh tay phải của Hitler về

tuyên truyền và giáo dục tư tưởng Quốc xã, đồng thời làm Bộ trưởng Quốc xã phụ trách khu

vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại tòa án

tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16/10/1946.

Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản

năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là

bộ phận tinh túy nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ

Ấn- Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại

[8, tr.60]…Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều

thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là

chủng tộc thượng đẳng về văn hóa, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng

có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới…” [8, tr.661].

1.1.3. Chủ nghĩa bài Do Thái

Chủ nghĩa bài Do Thái- Semitism hoặc Antisemitismus là sự thù địch hoặc thành kiến

đối với người Do Thái với danh nghĩa một nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo. Nó có thể ở nhiều

mức độ, từ sự căm ghét cá nhân cho đến các hành động khủng bố bạo lực được thể chế hóa.

11

Ví dụ cực đoan nhất của hiện tượng này là hệ tư tưởng của chủ nghĩa Phát xít của Hitler- cái

đã dẫn đến cuộc diệt chủng người Do Thái ở châu Âu.

Khi đã có nền tảng ý thức hệ, cuộc tàn sát người Do Thái được biết đến với cái tên

Holocaust.

1.2. Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng và Hitler- “cha đẻ của tiến trình

diệt chủng”

Tư tưởng bài Do Thái được thể hiện qua Martin Luther (1483–1546), là nhà thần học

Đức đã khởi xướng Phong trào Cải cách Đức, có tầm ảnh hưởng sâu rộng từ tôn giáo đến

chính trị, kinh tế, giáo dục và ngôn ngữ, khiến cho ông trở thành một trong những nhân vật

quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Châu Âu. Tư tưởng của ông manh nha ý bài xích Do

Thái tuy không dữ dội như xu hướng đả kích Thiên chúa giáo của ông. Tuy thế, giáo hội

Lutheran mang tên ông không mang tư tưởng bài Do Thái.

Tiến sĩ Karl Lueger (1844–1910), chính trị gia và thị trưởng (1897–1910) thủ đô Viên

nước Áo, có những chính sách bài Do Thái và phân biệt chủng tộc. Lueger trở thành chính

trị gia có ảnh hưởng mạnh nhất ở Áo lúc bấy giờ do tư cách có văn hóa và trình độ tri thức

đáng kể. Những người chống đối ông, kể cả người Do Thái, phải công nhận ông là người tề

chỉnh, có tinh thần hiệp sĩ, khoáng đạt và dễ dung thứ. Ngay cả nhà văn nổi tiếng Áo gốc Do

Thái, Stefan Sweig, cũng có ý kiến thiện cảm về ông. Vì thế, có thể nói tư tưởng bài Do

Thái của Lueger đạt mức độ tinh tế từ cảm quan của cá nhân, dễ thuyết phục người khác.

Người bị thuyết phục mạnh mẽ nhất là Adolf Hitler.

Adolf Hitler sinh ngày 20/04/1889 tại số nhà 219 đường Salzburger Volstadt, thị trấn

Braurau trên sông Inn ngăn cách Áo với bang Bayern của đế quốc Đức. Hitler là con thứ ba

của ông Alois Hitler và bà Klara Polz. Trong số sáu người con của hai người thì chỉ có

Hitler và cô em gái Paula là còn sống đến lúc trưởng thành.

Sau khi học xong bậc tiểu học, (9/1900), Hitller vào học trường Realschule của thành

phố Linz - một trường hướng nghiệp công thương. Tuy nhiên, đến năm 1904, Hitler đã phải

rời trường Realschule sang một trường cao đẳng hướng nghiệp khác ở thành phố Steyr vì

điểm quá kém. Thế nhưng ở ngôi trường mới không được bao lâu, Adolf cũng phải dừng

con đường học vấn của mình do tình hình học tập vẫn không được cải thiện. Lúc này, Hitler

chỉ dồn tâm trí của mình vào một ước mơ duy nhất đó là trở thành một họa sĩ và nghệ sĩ đồ

họa kiến trúc tài danh. Và đề tài hấp dẫn nhất trong những bức tranh anh ta vẽ chính là chiến

12

tranh. Sau này, chính Hitler, khi đã trở thành Quốc trưởng của Đảng Quốc xã, nhớ lại

rằng "Các trận đánh anh dũng là sự trải nghiệm tinh thần quan trọng nhất của tôi. Từ thời đó

trở đi, tôi ngày càng say sưa với bất kì thứ gì có gắn bó chút nào đó với chiến tranh hay với

nghiệp lính" [23, tr.5]. Một thanh niên mới bước vào độ tuổi mới lớn đã có những tư tưởng

khác người. Tại sao con người mơ ước trở thành một họa sĩ, một nhà kiến trúc tài danh ấy

không say mê những đề tài mà các họa sĩ nổi tiếng đương thời ta vẫn thường thấy như : chủ

đề về thiên nhiên, vẻ đẹp của người phụ nữ... mà nó lại là chiến tranh. Thật khó giải thích về

tính cách này của Hitler nhưng chúng ta có thể nhận thấy chính tính cách này đã ảnh hưởng

sâu sắc tới tư tưởng của nhà độc tài phát xít trong tương lai.

Rời khỏi trường Oberrealschule ở Steyz, Hitler bằng mọi cách thuyết phục mẹ cho thi

vào trường Học viện nghệ thuật Viên. Và cuối cùng giấc mơ đến Viên của Adolf cũng trở

thành hiện thực vào mùa thu năm 1907. Tuy nhiên ước mơ trở thành họa sĩ của Hitler đã tan

biến gay sau đó vì kết quả không đủ điểm để vào trường. Song không phải vì thế mà Hitler

chán nản và tiếp tục sống ở Viên để theo đuổi giấc mơ trở thành sinh viên nghệ thuật cho

đến năm 1913. Khoảng thời gian từ 1908-1913, Hitler sống lang thang nghèo khổ ở thành

phố Viên, cũng có lúc Hítler sống bằng những đồng tiền của người làm công nhật hằng

ngày, một thợ vẽ tầm thường trên đường phố. Đây là quãng đời cơ cực nhất trong cuộc đời

của nhà độc tài. Sau này, Hitler nhớ lại trong Mein Kampf "Thành phố Viên vừa là biểu

trưng cho những thú vui vô hại của vô số người, vừa là mảnh đất lễ hội của những kẻ ăn

chơi, còn đối với tôi chỉ là nơi chứng kiến thời kì sầu thảm nhất trong đời… 5 năm trời tôi

buộc phải kiếm sống, lúc đầu như người làm công nhật rồi như một người thợ vê tầm

thường; các công việc này chỉ mang lại cho tôi một số tiền ít ỏi, không bao giờ đủ dù chỉ để

làm dịu cơn đói trong suốt nhiều ngày...Cái đói không ngừng bám theo tôi, không bao giờ

rời tôi lấy một giây và luôn chen lẫn vào mọi giờ giấc sinh hoạt của tôi. Cuộc sống của tôi là

cuộc chiến đấu liên tục chống lại những người bạn đồng hành bất nhân này" [23, tr.8-9].

Có một điều đáng chú ý trong thời gian Hitler sống ở Viên mà sau này, nó ảnh hưởng

tới con người và cá tính của nhà độc tài đó là bắt đầu học hỏi thêm trên các vấn đề chính trị

bằng cách đọc nhiều sách báo và tham gia bàn luận chính trị. Thực tế, đây không phải là sự

đam mê khác lạ gì đối với mỗi người đàn ông khi đã bắt đầu trưởng thành. Nhưng Hitler lại

say sưa các vấn đề chính trị một cách lạ thường đến nổi không quan tâm tới chuyện ăn

uống. Những cảm xúc cuồng nộ, chán chường và suy sụp luôn xen lẫn trong những bài

thuyết giáo của ông. Đặc biệt sở thích đọc sách báo của nhà độc tài tương lai cũng làm

13

nhiều người phải suy nghĩ. Ông đọc rất nhiều loại sách báo nhưng lại không đọc theo một

chủ đề nào và cũng không có hệ thống nào: có lúc là lịch sử cổ La Mã, có khi là các tôn giáo

phương Đông, thôi miên học, huyền bí học, chiêm tinh học hay Đạo Tin Lành. Cách đọc

này ít nhiều phản ánh bản chất con người của Hitler: tức là mơ ước làm đủ mọi chuyện

nhưng lại không đủ kiên trì theo đuổi đến cùng bất cứ chuyện gì, sống bằng đủ thứ nghề

nhưng lại chẳng theo đuổi lâu dài một nghề nào. Một người luôn tự nhận là nghệ sĩ với mơ

ước không bao giờ trở thành hiện thực, tinh thần thường xuyên trong trạng thái cô đơn và

tuyệt vọng. Những mớ kiến thức ấy được Hitler tập hợp thành hệ thống tri thức mà ông luôn

tự hào chứa đựng những quan điểm thù hằn người Do Thái và những người xã hội - dân

chủ. Song không phải vì sự thù ghét ấy mà Hitler phủ nhận những mặt tích cực của các nhà

xã hội - dân chủ cũng như phong trào đấu tranh do họ lãnh đạo. Nhà độc tài đã biết tiếp thu

những bài học kinh nghiệm từ thành công của họ để áp dụng vào quá trình hoạt động chính

trị của mình sau này đó là: cách gây dựng một phong trào quần chúng, nghệ thuật tuyên

truyền và giá trị của cái gọi là khủng bố tinh thần và và thể chất. Còn sự thù ghét người Do

Thái chỉ đơn giản là sự hiểu biết lệch lạc, không có một chứng cớ cụ thể gì mà chỉ là sản

phẩm của sự hoang tưởng bệnh hoạn. Hitler cho rằng" người Do Thái chỉ là giống quái dị,

bê tha, trụy lạc, là hiện thân của cái xấu xa, là tượng trưng cho tất cả những gì Hitler căm

ghét và sợ hãi, nguyền rủa và xa lánh. Người Do Thái có mặt ở khắp mọi nơi, chịu trách

nhiện về mọi thứ, chủ nghĩa cách tân trong nghệ thuật và âm nhạc mà Hitler không biết cảm

thụ, sách báo khiêu dâm và tệ nạn đĩ điếm cho đến ách bóc lột người lao động" [23, tr.14].

Thật ra Hitler kết tội người Do Thái như vậy cũng chỉ nhằm mục đích đổ tội cho người Do

Thái có âm mưu quy mô toàn cầu là "hủy diệt và nô dịch người Aryen" để trả thù cho vị trí

thấp hèn của chính mình. Mục đích của người Do Thái là làm suy yếu đất nước bằng cách

khuấy lên những chia rẽ xã hội và xung đột giai cấp, bằng cách tiến công vào nòi giống,

truyền thống anh hùng, khả năng chiến đấu và bộ máy quyền lực nhưng lại ủng hộ những ý

tưởng dối trá về chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa hòa hiếu và chủ nghĩa

duy vật của chế độ dân chủ. Và công cụ để người Do Thái sử dụng để đạt mục đích là chủ

nghĩa Marx.

Rõ ràng những bài xích trào lưu xã hội- dân chủ, căm ghét chủ nghĩa Marx, thù hằn

người Do Thái đã đẩy Hitler vào chủ nghĩa sôvanh, sản phẩm tệ nhất của chủ nghĩa dân tộc

hẹp hòi. Do vậy trong thời gian ở Viên, Hitler say sưa với những cương lĩnh chứa đựng chủ

nghĩa dân tộc cực đoan (thống nhất với nước Đức, công kích triều Habsburg, tẩy chay tòa

14

thánh Vatican...), những lời lẽ cuồng nộ bài Do Thái và một kế hoạch điên cuồng chống chủ

nghĩa xã hội. Đây cũng là khoảng thời gian những ý niệm đầu tiên về người Do Thái trong

con người Hitler bắt đầu hình thành.

Một hôm khi đang đi lang thang ở một khu phố ở Vienna, Adolf nhìn thấy một người

đàn ông mặc áo khoác màu đen, áo trong dài tay có thắt dây hông, đeo những lọn tóc xoăn

dày sau tay. Người đàn ông đó là thành viên của nhóm Hasid, Hebrew « sùng đạo » của

người Do Thái ở khu vực Đông Âu. Ngạc nhiên, Adolf đi theo ông ta để phát hiện và học

hỏi những cử chỉ của ông ta. Adolf chưa nhìn thấy ai như ông ta trước đây cả.

Sự tò mò của Hitler nổi lên. Cậu bắt đầu đọc về người Do Thái. Trong các câu chuyện

về người Do Thái, cậu bắt gặp những bài báo, những cuốn sổ nhỏ ở quầy sách nói về chủ

nghĩa chống Do Thái. Chủ nghĩa chống Do Thái bắt nguồn từ thời Trung cổ ở châu Âu.

Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do Thái bị coi là nguyên nhân của những tội ác khủng

khiếp. Do tôn giáo của họ khác với tôn giáo đạo Thiên Chúa ở phần lớn các khu vực ở châu

Âu nên rất dễ nhận thấy trong đạo của người Do Thái những điều lạ lùng. Người ta nói rằng,

người Do Thái đã giết chết chúa Jesus, tôn thờ quỉ Satan và dùng máu của trẻ em theo đạo

Thiên chúa để hiến cho quỉ trong các lễ hội. Mặc dù những lời phán xét đó đã bị các nhà

thời Thiên chúa giáo hiện đại bác bỏ nhưng nó vẫn phổ biến khắp châu Âu vào đầu thế kỉ

XX. Mọi người cho rằng chủ nghĩa chống Do Thái của người xưa là sai lầm, là vô căn cứ vì

chủ nghĩa này chỉ đưa ra một lời giải thích đơn giản cho bất kỳ điều bất chắc nào xảy ra trên

thế giới. Nếu ai đó gặp chuyện không may, thì việc đổ lỗi cho người Do Thái dễ dàng hơn

việc tìm ra nguyên nhân thực sự hoặc phải đứng ra chịu trách nhiệm.

Tuy vậy, những điều mà Hitler đọc được về chủ nghĩa chống Do Thái thầm chí còn ăn

sâu vào tâm trí cậu, tạo ra sự phân biệt chủng tộc và lòng thù hận về người Do Thái trong

cậu. Những người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc tin rằng chẳng bao giờ tồn tại một

« mái nhà chung » cho tất cả mọi người, cho dù mọi người có cùng một ngôn ngữ hay theo

một tập tục nào đó vẫn thuộc những giống người và màu da khác nhau. Họ cho rằng, mỗi

chủng tộc đều có chung một « huyết thống » truyền tải mọi tinh túy từ đời này qua đời khác.

Do vậy, chủng tộc người không bao giờ bình đẳng, được sắp xếp theo dạng kim tự tháp với

những chủng tộc siêu đẳng ở phía trên. Chủng tộc Aryan hay Nordic đại diện cho dân tộc

Đức. Những người Aryan được coi là siêu việt hơn các chủng tộc khác, vì đã tạo ra những

đồ vật đẹp đẽ và quí giá cho thế giới. Chủng tộc Negro, Oriental và Slav- người Nga, Ba

Lan và Czech- bị coi là những chủng tộc hạ đảng. Những người theo chủ nghĩa phân biệt

15

chủng tộc cho rằng những chủng tộc đó rất hèn nhát, ngu dốt và theo lẽ tự nhiên là phải làm

nô lệ cho những chủng tộc siêu việt hơn. Họ nói rằng những người Do Thái là những người

hạ đẳng nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất. Người Do Thái muốn chinh phục người Aryan

bằng cách đồng hóa dân tộc qua hôn phối, do đó thay đổi nòi giống người Aryan. Bằng cách

đó, người Do Thái đã trở thành một tộc người hùng mạnh ở nước Áo và các nước khác. Họ

thống trị ngành thương mại, ngân hàng, báo chí và nghệ thuật. Chủ nghĩa cộng sản, ý tưởng

quản lý và điều hành nền kinh tế do tập thể chứ không phải cá nhân, là kế hoạch của người

Do Thái. Ý tưởng dân chủ cũng bắt nguồn từ người Do Thái. Những người theo chủ nghĩa

phân biệt chủng tộc tin rằng chỉ có những chủng tộc người « siêu đẳng » mới có thể lãnh

đạo được nhà nước, chính phủ vì những người bình thường không đủ thông minh để làm

lãnh đạo.

Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc không được những thực tiễn khoa học ủng hộ. Những

nhà nhân chủng học phản đối rằng trên thế giới này không có một chủng tộc thuần khiết nào

cả hoặc không có một dân tộc nào siêu việt hơn dân tộc khác. Người Đức, người Ai Cập,

người Mỹ và người Nhật là những dân tộc chứ không phải là các tộc người. Người Slav nói

dòng ngôn ngữ Slav. Tương tự như vậy, việc nói về chủng tộc người Do Thái cũng giống

như nói về người Hồi giáo hay Tin lành. Đó là những tôn giáo mà nhiều người thuộc nhiều

màu da, ngôn ngữ và dân tộc khác nhau tôn sùng.

Tất cả những dẫn chứng khoa học đó không có tác dụng gì đến chàng thanh niên trẻ

Adolf, người có nhu cầu muốn lòng thù hận lấn át khả năng đối mặt sự thật đau lòng đang

ập lên đầu cậu. Những nhà phân biệt chủng tộc chống Do Thái đã giúp Adolf nhìn nhận

những vấn đề của cậu ở một góc cạnh khác. Cuối cùng cậu cũng hiểu được nguyên nhân tại

sao cậu thi trượt. Đó là những người Do Thái. Cậu tự quyết định cho rằng những giáo viên ở

Học viện có dòng máu Do Thái, những người, do biết mình không có khả năng hơn người,

muốn phá hủy sự nghiệp cậu. Thay vì căm ghét bản thân, Adolf thấy lòng căm ghét người

Do Thái mang lại cho cậu chút thanh thản.

Một khi Adolf đã căm ghét ai đó hoặc điều gì đó, thì chẳng có gì có thể thay đổi được

lòng căm ghét trong cậu. Ở tuổi 19, lòng căm giận càng sâu đậm và mạnh mẽ hơn đến khi

nó vượt qua mọi giới hạn của tinh thần. Cậu chỉ cần nghe đề cập đến người Do Thái, hoặc

nhìn thấy họ là có thể mất hết tự chủ. Những từ mà Adolf phát ra khi đề cập đến người Do

Thái là « lũ sâu bọ », « bọn côn trùng », « lũ hút máu người »…Một ngày, cậu thề là sẽ « trả

16

đủ » cho bọn mọi rợ Do Thái. Chúng phải trả hết, cho đến người cuối cùng, vì sự sỉ nhục mà

chúng đã gây ra cho cậu.

Một công việc ổn định sẽ khiến cuộc sống dễ dàng hơn nhưng Adolf không bao giờ hạ

mình để làm việc cho người khác. Cậu lang thang khắp Vienna lẩm bẩm về người Do Thái

và luôn mơ về một tương lai xán lạn. [33, tr.20-23].

Cũng chính khi tham gia phong trào này, Hitler nhận thấy được sức mạnh của quyền

lực và sự tác động của lời nói. Đây chính là những bí quyết đã được Hitler vận dụng triệt để

vào trong quãng đời hoạt động chính trị của mình, đặc biệt vào cuối thập niên 30 của thế kỉ

XX.

Từ thành phố Viên, từ tháng 5/1913, Hitler chuyển đến sống ở Munchen. Tuy nhiên

cuộc sống của Adolf vẫn không khác gì so với ở Viên. Hitler luôn sống né tránh lao động,

không làm bất cứ việc gì cố định và thường xuyên trong cảnh thiếu trước hụt sau. Bức chân

của Hitler trong khoảng thời gian hơn một năm sống tại Munchen theo nhận xét của những

người láng giềng như "một người tâm thần, thường hay lảm nhảm những lời lẽ dông dài về

chủng tộc, bài Do Thái và chống mácxít, thỉnh thoảng tuôn ra hàng lô lốc những lời quát

tháo thịnh nộ và những câu nguyền rủa độc địa" [23, tr.19]. Dường như tư tưởng bài Do

Thái, chống mácxít ngày càng ăn sâu vào trong tâm trí của nhà độc tài. Nhưng cuộc sống

chản nán và cô đơn của Hitler ở Munchen thật sự thay đổi khi chiến tranh thế giới thứ nhất

bùng nổ. Chiến tranh thế giới đã trở thành dịp để "Hitler phô trương lòng cuồng nhiệt dân

tộc, xua tan nỗi chán chường, cay đắng và oán hận chất chứa trong lòng" [23, tr.20]. Vì thế

khi chiến tranh xảy ra, Hitler đã xin gia nhập hàng ngũ quân đội của xứ Bayern .

Trong chiến tranh thế giói với tư cách là một người lính liên lạc, Hitler luôn cố gắng

hoàn thành nhiệm vụ. Cũng tư trong môi trường này, Adolf đã quen được hai nhân vật mà

sau này đã trở thành những trợ thủ đắc lực cho mình, đó chính là Rudolf Hess và Max

Amann. Cuộc sống chiến tranh thật sự đã cho nhà độc tài tương lai rất nhiều kinh nghiệm bổ

ích cho hoạt động chính trị sau này như kinh nghiệm gắn mình vào tổ chức, biến những ý

tưởng của mình thành ý tưởng và sức mạnh của tập thể.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Hitler được tuyển vào phòng báo chí của Cục chính trị

thuộc quân khu V và sau đó gia nhập Đảng công nhân (1919). Trong khoảng thời gian

(1919-1923), bằng tài nghệ tuyên truyền của mình, Hitler đã biến Đảng Quốc xã thành một

tổ chức chính trị không có tiếng tăm nay phát triển mạnh ở Đức. Tháng 7/1921, Hitler lên

nắm quyền lãnh đạo Đảng, được gọi là Fuhrer, biến nó trở thành tổ chức chuyên chế độc tài

17

của riêng mình. Một mặt Hitler tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc Đức, bài Do Thái; mặt khác

ông bắt tay xây dựng lại tổ chức bộ máy Đảng. Đó là chuyển trụ sở hoạt động của Đảng

sang địa điểm có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, lập tuần báo tuần san Volkischer

Beobachter làm cơ quan tuyên truyền và tuyển chọn thêm những nhân vật có tài làm tay

chân đắc lực cho mình như Rudolf Hess, Alfred Rosenburg, Hermann Goering.

Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Đức là kẻ chiến bại. Do đó mà Đức đã phải chịu

chấp nhận những điều khoản nặng nề từ hòa ước Versailles. Những khó khăn càng chồng

chất đè nặng lên đôi vai của người công nhân, nông dân khi đồng Mark mất giá, giá cả hàng

hóa tăng, lạm phát diễn ra ngày càng mạnh. Vì vậy không ít các cuộc biểu tình của công

nhân nổ ra. Các tầng lớp tiểu và trung tư sản trút mọi oán giận lên chính phủ Weimar. Nhận

thấy những biến đổi của xã hội Đức sau chiến tranh, Hitler đã nắm bắt cơ hội đó, kích động

người dân ủng hộ mình chống lại chế độ cộng hòa nhằm giành lấy quyền lực. Một kế hoạch

đảo chính được sắp đặt sẵn vào tối 8/11/1923 do Hitler, von Kahr dàn dựng: tại một cuộc

mít tinh đông đảo được tổ chức ở quán bia Burgerbraukeller, nằm ở khu ngoại ô tây nam

Munchen, von Kahr sẽ phát biểu theo yều cầu của một vài tổ chức thương mại. Tại buổi mít

tinh này sẽ có những nhân vật hoạt động chính trị hàng đầu ở bang Bayern như: Lossow,

Seisser và nhiều nhân vật quan trọng khác. Một lực lượng SA sẽ kéo đến bao vây chặt quán,

không cho ai thoát ra ngoài. Bản thân Hitler cùng vài người hộ tống sẽ nhảy lên diễn đàn,

dùng súng uy hiếp von Kahr và các quan chức hàng đầu nhằm buộc họ đứng ra lãnh đạo

cuộc cách mạng, và Hitler sẽ tuyên bố ngay lúc đó. Đúng như kế hoạch, 9 giờ 15 phút tối

ngày 8/11/1923, các đơn vị SA bắt đầu bao vây quán bia Burgerbraukeller. Màn kịch đã

diễn ra theo đúng kế hoạch nhưng mục đích của họ vẫn không đạt được. Chỉ một ngày sau

cuộc đảo chính tiệm bia, những nhà lãnh đạo của Đảng Quốc xã phần lớn bị quân đội chế độ

cộng hòa bắt, số còn lại phải bỏ trốn. Bản thân Hitler sau sự biến này đã phải chấp nhận cái

án 5 năm tù giam. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ sau hơn một năm ông đã được trả tự do

(11/11/1923 - 20/12/1924). Cái giá thất bại năm 1923 đã để lại cho Hitler một bài học quý

giá, đó là muốn giành quyền lực không phải bằng con đường bạo lực vũ trang mà phải đi lên

bằng con đường bầu cử, hợp pháp.

Rút kinh nghiệm từ trong thất bại, sau khi ra tù, Hitler tìm mọi cách để nắm lại quyền

lãnh đạo Đảng Quốc xã. Trước tiên Hitler bắt tay vào quy tụ các đơn vị bị tan rã của Liên

minh chiến đấu và đặt cho chúng một cái tên mới: Frontbann. Và chỉ sau một thời gian

ngắn, Frontbann đã đông tới 3 vạn người. Tiếp đến là tìm cách cho tờ báo Volkischer

18

Beobachter của Đảng Quốc xã hoạt động trở lại và cuối cùng khẳng định vị trí lãnh đạo

Đảng của mình. Trong buổi mít tinh ngày 27/2/1925, Hitler tuyên bố: "tôi là người duy nhất

lãnh đạo tổ chức, và không ai có quyền bảo tôi phải lãnh đạo ra sao chừng nào cá nhân tôi

còn là người chịu trách nhiệm về tất cả mọi sự việc đang diễn ra trong phong trào" [23,

tr.62-63]. Để khẳng định đường lối lãnh đạo của mình cũng như trấn áp mọi đối thủ chống

lại mình, tại đại hội Bamberg, Hitler cho thông qua cương lĩnh 25 điểm với các nội dung

chính như hủy bỏ các hòa ước Versailles và Saint Germain và xem xét các đường biên giới

đã được thiết lập (điều 2,3); xác định quốc tịch Đức theo nguyên tắc sinh học chứ không

theo nguyên tắc pháp lí, tức là những ai là người Đức mang dòng máu Đức (điều 4); người

Do Thái không được làm việc trong các cơ quan công quyền (điều 6); người Do Thái sẽ bị

trục xuất nếu xảy ra khủng hoảng (điều 7); tất cả phải lao động (điều 10); xóa bỏ ách nô

dịch của lãi suất ngân hàng (điều 11); các tổ chức độc quyền bị quốc hữu hóa, những xí

nghiệp gia đình lớn phải cho người làm công hưởng lợi nhuận (điều 13,14); giai cấp trung

lưu, người về hưu, tiểu thương, chủ công nghiệp nhỏ được bảo vệ khỏi sự đe dọa của chủ

nghĩa tư bản và được nhà nước ưu đãi (điều 15,16); cải cách nông nghiệp bằng cách tịch thu

không bồi thường các trang trại lớn (điều 17); tinh thần dân tộc phải được khắc sâu vào tâm

não của học sinh ngay khi chúng biết suy nghĩ; Nhà nước phải bảo vệ và phát triển nòi

giống Đức bằng cách bảo vệ bà mẹ và trẻ em và thúc đẩy hoạt động thể dục (điều 20, 21);

tái chế độ quân dịch cưỡng bức và giải tán quân đội đánh thuê mà Hòa ước Versailles đã áp

đặt (điều 22); Nhà nước kiểm soát nghệ thuật, văn học, báo chí (điều 23); tôn giáo chỉ được

hoạt động trong địa hạt của mình và không được xâm phạm đến tình cảm đạo đức của nòi

giống Đức; phải tránh chủ nghĩa duy vật Do Thái (điều 24); Nhà nước tập trung hóa được

lãnh đạo bởi một ủy ban chính trị có quyền lực chuyên chế (điều 25). Như vậy sau đại hội

Bamberg, Hitler thật sự đã hoàn toàn nắm quyền lãnh đạo Đảng mà không bị một thế lực

nào có thể cản trở. Tiếp tục đường lối của cương lĩnh 25, Hitler vẫn tuyên truyền tư tưởng

phát xít trong cả nước thông qua diễn thuyết, báo chí với sự hỗ trợ đắc lực của Goebbels.

Ngoài ra, Hitler còn thành lập những lực lượng quân sự phục vụ cho quá trình thâu tóm

quyền lực của mình như: Gestapo (mật vụ quốc gia), SA (phân đội chiến đấu), SS (hộ vệ

quân trong đội quân chiến đấu và dùng làm hộ vệ quân cho Hitler).

Tuy nhiên trong thời kì giành lại quyền lãnh đạo Đảng, hoạt động tuyên truyền chủ

nghĩa phát xít của Hitler không đạt được hiệu quả như mong muốn vì đây là thời kì ổn định

nhất của chế độ cộng hòa Weimar. Nhờ những chính sách ổn định và phát triển kinh tế của

19

nền cộng hòa mà đời sống nhân dân đã giảm bớt đi sự khó khăn, thất nghiệp cũng giảm dần.

Nhưng thời gian đó kéo dài không được bao lâu khi khủng hoảng kinh tế 1929-1933 diễn

ra. Cuộc khủng hoảng đã để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với nước Đức

thông qua những con số thống kê như sau:

Bảng 1.1. Hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933

đối với nước Đức

Nội dung

Sản xuất

Năm 1929 1930 1931 1932 1933

Công nghiệp (%)

Thất nghiệp

100 88.3 71.7 59.8 66.8

(triệu người)

1.3 3 4.3 5.1 6

Nguồn : diendankienthuc.net

Biểu hiện trên cho thấy thảm cảnh của nước Đức trong cuộc khủng hoảng. Xa xăm

chúng ta thấy những ánh mắt tuyệt vọng của người dân đứng đầy góc đường các thành phố

công nghiệp, những căn nhà không có ánh lửa sưởi ấm, không còn chút lương thực...Khủng

hoảng không chỉ là thảm cảnh đối với người công nhân mà nó còn xảy ra ngay với cả các

tầng lớp trung, tiểu tư sản...Tất cả dường như đều lâm vào cảnh khốn quẫn. Và trong lúc ấy,

những nỗi căm hận chế độ cộng hòa Weimar bỗng dâng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cái

chế độ mà nhân dân cho họ là những kẻ đâm sau lưng sau chiến tranh thế giới thứ nhất, và

cũng là người đã gây ra thảm cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Lợi dụng tình

hình đó, Hitler lại càng tuyên truyền chủ nghĩa phát xít kích động nhân dân chống lại nền

cộng hòa, và hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp nếu ông lên nắm chính quyền. Bằng những

thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, Hitler làm các tầng lớp nhân dân lu mờ hết ý chí. Trong lòng

họ, những nỗi nhục bại trận dường như đã được xoa dịu bằng những lời công kích quyết liệt

nhằm vào "bọn tội phạm tháng Mười một" và huyền thoại "nhát dao đâm sau lưng". Lòng tự

hào dân tộc bị tổn thương của họ được xoa dịu bằng những lời công kích không tiếc của

Hitler nhắm vào Hòa ước Versailles và các nước đồng minh. Tình cảnh khốn khổ của người

dân được bọn phát xít giải thích bằng sự bất tài, ngu dốt của những kẻ cầm quyền, bằng đầu

óc cổ hũ của đám chính khách xa rời quần chúng. Nỗi đắng cay vì phá sản của họ được trút

hết vào bọn đầu cơ Do Thái. Tiến trình chia rẽ đất nước được lí giải vì do thuyết đấu tranh

giai cấp của bọn Mác xít. Những lời lẽ kích động trên thật sự đem lại hiệu quả khi kết quả

20

vận động bầu cử, số phiếu ủng hộ Đảng Quốc xã không ngừng tăng lên, tên tuổi của Hitler

ngày càng bay xa. Theo đánh giá của dư luận thì Hitler sẽ là ứng cử viên sáng giá trong

cuộc chạy đua vào ngôi vị quyền lực cao nhất ở Đức.

Trong bối cảnh hiện nay, Hitler cũng bắt đầu nhận thấy rằng nền cộng hòa Weimar đã

và đang lung lay trong cơn lốc của khủng hoảng kinh tế và biến động của xã hội. Và không

lâu nữa Hitler sẽ là người đứng đầu trong cơ quan quyền lực tại Đức. Vấn đề bây giờ là phải

chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để sau này nắm quyền, đó là tranh thủ sự ủng hộ của

quân đội và giới đại tư sản công nghiệp và tài chính. Giới quân đội chỉ là những kẻ lợi dụng

chế độ cộng hòa Weimar để giải thích cho sự thất bại của mình trên chiến trường. Do đó

giới chỉ huy quân đội xem chế độ cộng hòa chỉ là giải pháp tạm thời nhắm đối phó với làn

sóng cách mạng chịu sự tác động của chủ nghĩa Bônsevik, làn sóng bạo loạn li khai ở các

bang, nhất là ở miền Nam. Nhưng khi bão tố qua đi, lực lượng quân đội sẽ trỗi dậy chống lại

nền cộng hòa Weimar. Còn giới tư sản đại công nghiệp và tài chính vốn chẳng ưa nền chính

trị quá dân chủ, có thể nói là dân chủ nhất châu Âu, của chế độ Weimar. Vì vậy nếu Hitler

nhận được sự ủng hộ của hai lực lượng này thì con đường đi đến nắm quyền lực chỉ còn là

vấn đề thời cơ. Quân đội sẽ là người dọn đường cho Hitler đi đến quyền lực, còn giới đại tư

sản công nghiệp và tài chính sẽ là người cung cấp tiền của phục vụ cho chiến lược đi vào

quần chúng của Hitler. Vì vậy nắm được tầm quan trọng của hai lực lượng này, Hitler ra sức

tranh thủ lôi kéo, tuyên truyền, kích động họ để họ ủng hộ Đảng Quốc xã, đả kích mạnh vào

Hòa ước Versailles, vào những nhà hoạt động chính trị của Đảng xã hội- dân chủ và Đảng

cộng sản. Đánh trúng tâm lí của giới quân đội và tài chính quân phiệt, Hitler đạt được mục

đích của mình một cách nhanh chóng.

Đến những năm 1930-1931, Đảng Quốc xã đã trở thành một tổ chức chính trị mạnh lan

tỏa khắp các địa phương trong cả nước. Số Đảng viên của Quốc xã không ngừng tăng; lực

lượng quân SA, SS tăng nhanh chóng; giới quân đội và đại tư sản công nghiệp tài chính

cũng ngày càng ngả theo phong trào Quốc xã; những dòng tiền của các nhà tư sản cứ tuôn

chảy vào quỹ của Đảng Quốc xã ngày càng nhiều. Trên đà thắng lợi đó, Hitler cũng liên tục

thu được những kết quả hết sức khả quan trong các cuộc bầu cử. Đặc biệt hơn, vị tổng thống

già Hindenburg tái trúng đắc cử lần hai (lần 1, 1925-1932) đang trong giai đoạn hấp hối.

Chiếc ghế quyền lực ngày một gần hơn với Hitler. Nhân cơ hội này, Hitler đã tranh thủ

đứng ra tranh cử nhằm lôi kéo sự ủng hộ của các cử tri cả nước, đồng thời loại trừ các Đảng

phái không hợp với mình. Cuối cùng, sau bao nổ lực của Đảng Quốc xã cùng với Hitler,

21

ngày 29/1/1933, tổng thống Hindenburg đã chính thức bổ nhiệm Hitler trở thành thủ tướng

Đức. Con đường đi đến quyền lực của Hitler giờ đây đã đạt được. Vấn đề còn lại là Hitler sẽ

xây dựng bộ máy Quốc xã như thế nào sau khi lên nắm quyền? Nhưng trước khi tìm đáp án

cho câu hỏi trên, chúng ta cần phải giải thích được tại sao, Hitler cùng đảng phát xít của nó

(Đảng công nhân quốc gia xã hội chủ nghĩa Đức) lại có thể giành thắng lợi một cách dễ

dàng như vậy để rồi chính họ đã đẩy nước Đức cũng như lịch sử thế giới vào chương đen tối

nhất.

Thứ nhất là nó xuất phát từ cội nguồn của lịch sử Đức. Nước Đức thống nhất trong thế

kỉ XIX thực bằng con đường từ trên xuống do quý tộc Phổ tiến hành- là tầng lớp có tinh

thần hiếu chiến, sẵn sàng hi sinh những lợi ích của các dân tộc để thỏa mãn những tham

vọng bá quyền của mình. Sau thời kì Bismarck, nền tảng của nước Đức thống nhất đã hình

thành. Sức mạnh của Đức giờ đây không chỉ là của Phổ mà của toàn đế chế. Sức mạnh ấy đã

làm cho vị vua thứ hai của đế chế, Wilhelm II, lấy làm cơ sở để chuẩn bị cho cuộc chiến

tranh thế giới nhằm giành lấy cho Đức một vị thế xứng đáng dưới ánh mặt trời. Rõ ràng

trong tư tưởng của các nhà quân phiệt Phổ, tinh thần hiếu chiến thể hiện ngày càng mạnh

mẽ. Nếu như trước đây, tầng lớp Junker Phổ chỉ muốn tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm

thống nhất nước Đức thì bây giờ, tham vọng của họ là những vùng đất của người German

nói tiếng Đức, những mảnh đất thuộc địa màu mỡ ở các châu lục mà Anh, Pháp đã chiếm

trong những năm cuối thế kỉ XIX. Lòng tham của quý tộc Phổ dường như không chỉ ăn sâu

vào tầng lớp của họ mà còn lan rộng trong các tầng lớp đại tư sản, tài chính ngân hàng. Cái

tinh thần ấy lại chính là cội nguồn của Đế chế ba do Đảng Quốc xã, đứng đầu bởi Hitler,

lãnh đạo sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Hitler, một kẻ yêu nước đến mức cực

đoan, đã thấm nhuần tinh thần của Phổ từ khi chỉ là một thanh niên lang thang, không nghề

nghiệp ở thành phố Viên tráng lệ và sau đó ở Munchen. Thất bại trong chiến tranh thế giới

thứ nhất không những làm cho những kẻ hiếu chiến ở Đức từ bỏ tham vọng của mình mà nó

càng hun đúc thêm lòng thù hận, mong muốn chờ cơ hội gây chiến hòng phục thù. Tinh thần

ấy càng tiếp thêm sức mạnh khi Hitler ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đức quốc, bài xích

Do Thái, xóa bỏ hòa ước Versailles cùng lời đả kích những kẻ đâm sau lưng của chế độ

cộng hòa Weimar, làm cho nhân dân Đức phải chịu nỗi nhục ê chề và thảm cảnh của đất

nước sau chiến tranh. Với tài nghệ thuật tuyền truyền bẩm sinh, Hitler đã làm cho cả nước

Đức lầm tưởng ràng, nếu ông ta lên nắm quyền lực thì đất nước sẽ thoát khỏi những thảm

cảnh hiện nay, Đức sẽ trở lại là một cường quốc mạnh nhất châu Âu với lãnh thổ rộng lớn

22

nhất bao gồm những phần đất của những người Aryen nói tiếng Đức. Đó là lí do đầu tiên để

Đảng Quốc xã cùng Hitler tranh thủ được sự ủng hộ từ những lá phiếu cử tri của nhân dân

Đức- con đường hợp pháp để Hitler lên nắm quyền lực.

Thứ hai, thắng lợi của Đảng Quốc xã quy về trách nhiệm của hai Đảng quan trọng nhất

trong việc chống chủ nghĩa phát xít: Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng xã hội- dân chủ

(SPD). Hai Đảng này vốn đều lấy công nhân làm chỗ dựa, chủ trương tiến hành cuộc cách

mạng đi đến xây dựng một Nhà nước công bằng, xã hội dân chủ, giàu mạnh nhưng hai Đảng

lại chủ trương tiến hành cách mạng theo hai con đường khác nhau. Nếu KPD muốn tiến

hành một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa giống nước Nga xô viết, tức là phải bằng con

đường bạo lực cách mạng thì SPD lại chủ trương tiến hành cách mạng theo con đường của

những cuộc cải cách liên tục, cải tiến xã hội tư bản chủ nghĩa bằng những nỗ lực dần dần từ

bên trong. Do vậy giữa hai đảng công nhân Đức đã bất đồng quan điểm trong đường lối lãnh

đạo cách mạng. Từ mâu thuẫn ấy, KPD và SPD đã trở thành kẻ thù của nhau. Hai Đảng

quan trọng chống phát xít đã không thể liên kết với nhau tạo thành sức mạnh trước những

biến đổi lớn của đất nước. Lợi dụng tình hình trên, Đảng công nhân quốc gia xã hội chủ

nghĩa (NSDAP) của Hitler từng bước cô lập SPD, khủng bố KPD. Trong khi KPD, SPD suy

yếu thì NSDAP lại vươn lên nắm đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội quyết định vào

ngày 5/3/1933. Chính chiến thắng này đã giúp Hiler giành chức thủ tướng Đức quốc và tiếp

tục vươn lên nắm quyền lực tối cao của đế chế.

Cuộc đời Hitler từ khi chào đời cho đến khi trở thành thủ tướng Đức là chuỗi những

tháng ngày thăng trầm. Hitler từ một đứa trẻ gốc Áo lớn lên với mong muốn trở thành một

họa sĩ tài năng nhưng lại phải từng sống bơ vơ, lang thang cơ cực ở thành phố Viên hay

Munchen tráng lệ vì ước mơ ấy. Thế nhưng từ một binh sĩ sau chiến tranh thứ nhất trở về,

ông đã trở thành một nhà tuyên truyền phát xít đại tài. Với những vốn kiến thức tự học lấy

trong xã hội và sự lọc lõi khôn ngoan, Hitler đã vươn tới đỉnh cao của quyền lực. khi trở

thành thủ tướng Đức và sau đó là lãnh tụ của Đế chế III. Ở Hitler chúng ta thấy được một

con người có tinh thần ái quốc đến cực đoan. Ông ta yêu nước đức, ca ngợi nước Đức với sự

sùng kính mãnh liệt. Nhưng chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra và thất bại thuộc về Đức thì

những trừng phạt nặng nề trong Hòa ước Versailles do đồng minh phương Tây đề ra đã làm

cho nhân dân Đức nói chung và Hitler vô cùng căm phẫn. Đúng là các nước phương Tây đã

không đủ sự rộng lượng xoa dịu nỗi đau cho một nước bại trận như Đức. Nỗi căm phẫn vì

những điều ước khắc nghiệt trong Hòa ước Versailles càng làm cho nhân dân Đức, đặc biệt

23

giới quân đội Đức quyết phải trả thù. Với một người tôn thờ Đế chế của mình như Hitler thì

ông không dễ dàng chấp nhận nỗi nhục này. Vì vậy khi tham gia vào Đảng Quốc xã, Hitler

nhanh chóng trở thành nhà tuyên truyền đắc lực của Đảng: khơi dậy tinh thần ái quốc, xóa

bỏ hòa ước Versailles, bài Do Thái, căm ghét chủ nghĩa Marx… Với bản chất khôn ngoan

lừa dối và tài hùng biện của Hitler khi tuyên truyền mà ông đã nhận được sự ủng hộ của của

nhiều tầng lớp, nhất là giới tài chính – ngân hàng và quân đội. Sử dụng hai lực lượng này

như một con bài, Hitler đã dần vươn lên đỉnh cao của quyền lực.

Ở Hitler, chúng ta vừa nhận thấy những đặc trưng nhất của giới quân phiệt Phổ nhưng

vẫn mang những nét riêng của chính ông: độc đoán, hiếu chiến, ghét chủ nghĩa tự do dân

chủ, bài Do Thái, chủ nghĩa Marx… nhưng có một lòng yêu nước cực đoan đến kì lạ và khả

năng hùng biện thiên phú mà không phải một chính trị gia nào cũng có được.

Trong quyển Mein Kampf, tư tưởng bài Do Thái của Hitler được trình bày rất rõ nét.

Ông ta ngược dòng lịch sử để đánh giá cao sự vinh quang của Đế quốc Đức do Otto von

Bismarck thiết lập năm 1871, nhưng phê phán rằng một trong những lý do khiến cho đế

quốc này sụp đổ là việc dung dưỡng người Do Thái.

Hitler viết trong Mein Kampf- Cuộc tranh đấu của tôi về sự ghê tởm của dân Do Thái:

Chẳng bao lâu cuộc chiến đấu vờ vĩnh giữa những kẻ thuộc phái Do thái tự do và phục

quốc Do thái đã làm tôi ghê tởm; bởi lẽ nó hoàn toàn giả dối, dựa trên những lời dối trá và

hiếm khi thấy được sự cao quý hay trong sạch về mặt đạo đức như bọn người này vẫn tuyên

bố. [1].

Phải nói rằng, sự sạch sẽ của cái chủng tộc này, xét cả về đạo đức và cả các mặt khác,

cũng là một vấn đề trong chính bản thân nó. Cứ suy từ vẻ bề ngoài của những kẻ này, ta hẳn

cho rằng chúng không ưa dùng nước,và thật đáng buồn, ta lại thường nhắm mắt mà vẫn biết

được điều đó. Về sau này, tôi phát buồn nôn bởi cái mùi bốc ra từ những kẻ mặc áo captan

ấy. Lại thêm cả những bộ quần áo bẩn thỉu và cái vẻ ngoài ươn hèn của chúng nữa. Tất cả

những thứ đó không thể gọi là hấp dẫn được; nhưng nó lại trở nên hoàn toàn ghê tởm khi

mà, ngoài bộ dạng bẩn thỉu, ta còn phát hiện ra những vết nhơ nhuốc về đạo đức ở thứ

“chủng tộc được lựa chọn” này.

Chẳng mấy chốc tôi trở nên suy tư hơn bao giờ hết nhờ ngày càng hiểu thấu hơn những

hình thức hoạt động mà bọn Do thái tiến hành trong những lĩnh vực nhất định. Có hình thức

tục tĩu hay phóng đãng nào, nhất là trong đời sống văn hóa, mà không có ít nhất một tên Do

thái tham gia vào! Kể cả khi ta mổ xẻ vào bên trong một khối áp xe như vậy, ta vẫn tìm

24

thấy, giống như lũ giòi sống trong một cơ thể đang mục rữa, và thường lóa mắt bởi thứ ánh

sáng đột ngột – một tên Do thái!

Trong mắt tôi những gì buộc phải toan tính kỹ chống lại dân Do thái đó là khi tôi trở

nên quen với các hành động của chúng qua báo chí, nghê thuật, văn học và nhà hát. Tất cả

những lời cam đoan ngọt xớt giả dối hầu như không hoặc hoàn toàn không giúp ích được gì.

Chỉ cần nhìn vào một bảng cáo thị, học những cái tên ẩn sau những ngôn từ kinh tởm mà

chúng dùng để quảng cáo là đủ để ta sôi máu. Đó là một thứ bệnh dịch hạch, dịch hạch

trong tâm hồn, tồi tệ hơn cả nạn dịch hạch thời xưa và nó đang đầu độc mọi người! Chắc

chắn rằng trình độ trí tuệ của những kẻ làm nghệ thuật này càng thấp kém thì sự sinh sản

của chúng càng trở nên không có giới hạn, và tên vô lại sẽ kết thúc giống như chiếc máy

tách rác, vũng vãi sự bẩn thỉu của mình vào mặt cả nhân loại. Hãy nhớ rằng số lượng bọn

chúng không giới hạn. Thật kinh khủng, nhưng không thể bỏ qua, khi chính bọn Do thái, với

số lượng khổng lồ, lại dường như được Tạo hóa chọn để đón nhận cái nghiệp nhục nhã này.

Liệu đó có phải là lý do mà dân Do thái được gọi là “những kẻ được chọn”?

Giờ đây tôi bắt đầu tìm hiểu kỹ lưỡng những cái tên của tất cả những kẻ tạo ra những

thứ bẩn thỉu trong đời sống nghệ thuật đại chúng. Kết quả càng khiến tôi thêm căm ghét

quân Do thái. Bất kể tình cảm kháng cự thế nào, lý trí của tôi vẫn buộc phải rút ra kết luận

của mình.

Thực tế là chín phần mười tất cả những thứ tục tĩu văn chương, rác rưởi nghệ thuật và

những lời lẽ ngu ngốc trên sân khấu kịch đều thuộc về một chủng tộc chiếm chưa đầy một

phần trăm số dân cư cả nước, cái thực tế này không đơn giản cứ đổ đi là xong; đó là một sự

thật phơi bày ngay trước mắt.

Và bây giờ tôi lại bắt đầu tìm hiểu những “tờ báo của thế giới” mà tôi yêu thích từ trên

quan điểm đó. Càng dò tìm sâu hơn, cái đối tượng khiến tôi thán phục trước đây càng rúm

ró teo tóp hơn. Văn phong của những tờ báo ấy ngày càng trở nên không thể chịu nổi; tôi

không thể không coi những thứ đó là nông cạn và sáo rỗng; tính khách quan của những bài

báo giờ đây với tôi dường như ngày càng gần với những lời dối trá hơn là sự thật chân

chính; và kẻ viết ra những thứ đó chính là dân Do thái. Bao nhiêu điều trước đây tôi không

nhìn thấy thì bây giờ đập thẳng vào nhận thức của tôi, và với những thứ trước đây từng đem

lại cho tôi những điều đáng suy nghĩ thì giờ đây tôi học được cách nắm bắt và hiểu thấu

chúng.

25

Giờ đây tôi nhìn cái tinh thần tự do của những tờ báo ấy dưới con mắt khác; cái giọng

điệu ngạo mạn dùng để đáp trả các cuộc công kích và tiêu diệt chúng bằng cách im lặng giờ

đây đã lộ ra là một trò bịp bợm vừa khôn khéo vừa xảo trá; những lời bình luận tán dương

dành cho các vở kịch luôn hướng tới các tác giả Do thái, và thái độ không tán đồng chẳng

nhắm vào ai khác mà chính là những tác giả người Đức. Cú châm trích nhẹ nhàng nhưng

bền bỉ dành cho William Đệ nhị đã phởi bày phương pháp, và cũng lộ rõ thái độ tán dương

mà chúng dành cho nền văn hóa và văn minh Pháp quốc. Những mẫu chuyện ngắn với nội

dung rác rưởi giờ đây với tôi là một sự khiếm nhã hoàn toàn, và trong ngôn ngữ của nó tôi

nhận ra cái giọng điệu của một dân tộc ngoại bang, tất cả mọi thứ đếu thể hiện sự thù địch

với những giá trị Đức rõ rệt tới mức chỉ có thể nói đó là sự chủ ý. Những ai là kẻ hứng thú

với những chuyện này? Liệu tất cả có phải chỉ là một tai nạn không cố ý? Càng ngày tôi

càng trở nên không chắc chắn.

Quá trình phát triển được thúc đẩy bởi cái nhìn thấu bản chất của một số vấn đề khác.

Tôi đang nói tới quan điểm chung về đạo đức và đạo lý, những thứ mà phần đông bọn Do

thái hay phô bày công khai và việc áp dụng thực tế những thứ ấy có thể nhìn thấy được.

Ở đây, một lần nữa đường phố lại dạy cho tôi một bài học về một thứ đôi khi là sự xấu

xa hoàn toàn.

Mối liên hệ của bọn người Do thái tới nạn mại dâm, và thậm chí hơn thế nữa, tới nạn

buôn nô lệ da trắng, có thể được nhìn thấy rõ ràng nhất ở thành Vienna, rõ hơn bất kỳ thành

phố nào khác ở Tây Âu, chỉ trừ khi cảng ở phía nam nước Pháp. Nếu bạn có dịp dạo bộ

trong đêm các con phố và ngõ hẻm của vùng Leopoldstadt, mỗi bước đi bạn sẽ chứng kiến

những sự vụ vẫn được phần đông người dân Đức dấu giếm mãi tới khi Chiến tranh khiến

những người lính ở mặt trận phía đông có cơ hội nhìn thấy những thứ tương tự, hay nói

đúng hơn, buộc họ phải nhìn thấy.

Vì thế, lần đầu tiên khi tôi nhận ra bọn Do thái là những kẻ máu lạnh, vô liêm sỉ và

tính toàn cầm đầu những vụ mua bán đồi bại đáng kinh tởm trong lớp cặn bã xã hội, tôi thấy

một cơn rùng mình ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Nhưng rồi một ngọn lửa bùng lên trong tôi.

Tôi không còn né tránh các cuộc thảo luận về vấn đề Do thái; trái lại, giờ đây tôi còn tìm

kiếm chúng. Và khi tôi học cách tìm ra bọn Do thái trên mọi ngả đường của đời sống văn

hóa và nghệ thuật, và cả trong những hình dạng khác nhau của chúng, tôi bỗng chạm trán

chúng ở một nơi tôi chưa từng nghĩ chúng sẽ xuất hiện. Khi tôi nhận ra dân Do thái là thủ

26

lĩnh của phe Dân chủ Xã hội, tôi bỗng sáng mắt ra. Cuộc đấu tranh dai dẳng trong tâm hồn

đã tới hồi kết thúc.

Ngay cả trong các mối quan hệ hàng ngày với đồng nghiệp, tôi cũng quan sát khả năng

thích nghi đáng ngạc nhiên khiến họ có những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề,

đôi khi trong vòng vài ngày, có khi chỉ vài giờ. Tôi thấy thật khó có thể hiểu được làm thế

nào mà những con người khi nói chuyện riêng với nhau cũng bộc lộ vài ý kiến hợp lý, thế

mà bỗng nhiên lại tiêu tan mọi ý tưởng dưới ảnh hưởng của số đông. Thường thì thế là đủ

để thất vọng. Và khi, sau hàng giờ tranh cãi, tôi tin tưởng rằng cuối cùng mình đã phá bỏ

được tảng băng ngăn cách, dẹp hết những suy nghĩ vớ vẩn và bắt đầu tận hưởng chiến thắng

thì ngay ngày tiếp theo, trước sự phẫn nộ, tôi buộc phải bắt đầu lại tất cả mọi chuyện; mọi

thứ đã làm chẳng đem lại kết quả gì. Giống như một con lắc vĩnh cửu, ý kiên của họ cứ lắc

qua lắc lại về điểm ngu dốt ban đầu.

Tôi có thể hiểu được tất cả những điều này: họ bất mãn với số phận của mình và

nguyền rủa số phận đã khắc nghiệt với họ; họ căm ghét giới chủ và cho đó là những kẻ chấp

pháp vô lương tâm của số phận; họ nguyền rủa các nhà cầm quyền mà trong mắt họ là lũ

người vô cảm trước số phận của họ. Nhưng điều tôi không sao hiểu nổi được là lòng thù hận

vô biên của những con người này với dân tộc của chính mình, khinh miệt sựu vĩ đại của đất

nước, bôi nhọ lịch sử, và dìm các vĩ nhân xuống bùn đen.

Cuộc đấu tranh chống lại chính giống loài của mình, thị tộc của mình, quê hương của

mình thật điên rồ và không sao hiểu nổi. Điều đó trái với tự nhiên. Ta có thể tạm thời chữa

trị cho họ khỏi căn bệnh xấu xa đó, nhưng chỉ được vài ngày hay vài tuần mà thôi. Nếu sau

đó bạn gặp lại kẻ mà bạn tưởng đã biến đổi được ấy, bạn sẽ thấy hắn vẫn y như trước. Trạng

thái quái đản trái với tự nhiên ấy đã chiếm lĩnh toàn bộ con người hắn.

Thậm chí, Hitler còn viết: Không thể bắt tôi từ bỏ quan điểm “Căm ghét” dân Do Thái.

Dần dần tôi nhận ra rằng báo chí của phe Dân chủ Xã hội chủ yếu là do bọn người Do

thái nắm giữ, nhưng tôi không gán cho điều đó một ý nghĩa đặc biệt nào, bởi lẽ các tờ báo

khác cũng ở trong hoàn cảnh y hệt. Tuy nhiên có một thực tế có vẻ đáng chú ý: không có

một tờ báo nào của người Do thái có thể được xem là mang tính dân tộc chân chính, xét

theo lối suy nghĩ của tôi và những gì tôi được học. Tôi nuốt tức giận vào lòng và cố gắng

đọc những tờ báo theo kiểu Mác-xít này, nhưng nỗi khiếp sợ điều đó đã trở nên lớn tới mức

tôi cố gắn trở nên gần gũi hơn với những kẻ tạo ra bộ sản phẩm này. Từ chủ báo trở đi, tất

cả đều là dân Do thái.

27

Hitler không ưa thích mấy dân Do Thái: "không có một tờ báo nào của người Do thái

có thể được xem là mang tính dân tộc chân chính, xét theo lối suy nghĩ của tôi và những gì

tôi được học". [1].

Tôi lấy tất cả những sách báo của phe Dân chủ Xã hội mà tôi có được và tìm kiếm tên

của các tác giả bài viết: toàn những cái tên Do thái. Tôi ghi chú những cái tên của những kẻ

cầm đầu cũng như những thành viên của “bọn người được chọn”, xem liệu chúng có phải là

đại biểu Quốc hội hay thư ký công đoàn, lãnh đạo các tổ chức hay kẻ gây bạo động đường

phố. Tôi luôn thấy những hình ảnh khủng khiếp giống nhau. Những cái tên như Austerlitzes,

Davids, Adlers, Ellenbogens,v.v…, sẽ mãi mãi ghi khắc trong trí nhớ của tôi. Có một điều

trở nên đáng quý với tôi: tôi nhận ra cái tổ chức đảng mà tôi đã có cuộc đấu tranh khốc liệt

nhất hàng tháng trời với những thành viên đê tiện của nó, hầu như hoàn toàn thuộc về một

dân tộc ngoại bang, và với sự hài lòng sâu sắc và vui sướng, cuối cùng tôi đã đi đến kết luận

rằng dân Do thái không phải là người Đức.

Chỉ tới bây giờ tôi mới biết rõ kẻ dẫn dụ dân tộc ta. Chỉ một năm ở Vienna đã đủ làm

tôi thấm nhuần niềm tin rằng không có người lao động nào lại ương ngạnh tới mức không

khuất phục trước trí tuệ thông hiểu hơn và những lời giải thích hợp lý hơn. Dần dần tôi đã

trở thành một chuyên gia về học thuyết của họ và dùng nó như một thứ vũ khí đấu tranh để

bảo vệ niềm tin sâu sắc của mình. Thành công hầu như luôn đứng về phía tôi.

Nhân dân có thể được cứu thoát, nếu như có sự hy sinh lớn lao nhất và lòng kiên trì

bền bỉ. Nhưng không thể bắt một tên Do thái từ bỏ quan điểm của mình. Khi đó tôi vẫn

ngây ngô lắm nên cứ cố làm cho chúng hiểu sự điên rồ trong những học thuyết của chúng;

trong phạm vi nhỏ bé của mình, tôi nói đến khản cả cổ, tê cả lưỡi, tưởng rằng chắc chắn sẽ

thuyết phục chúng hiểu được những ý tưởng điên rồ Mác-xít tai hại đến thế nào; nhưng

những gì tôi đạt được lại thường khác hẳn. Mọi chuyện cứ như thể càng hiểu rõ những tác

động có tính hủy diệt của những lý thuyết Dân chủ Xã hội và các kết quả của nó, chúng lại

càng thêm quyết tâm theo đuổi ý tưởng của mình.

Càng tranh cãi với chúng, tôi càng hiểu thêm về phép biện chứng của chúng. Ban đầu

chúng kể lể từng sự ngu xuẩn một mà phe đối lập mắc phải, và rồi, khi đã hết cách, chính

bản thân chúng lại giả đò ngu xuẩn. Nếu tất cả đều không ích gì, chúng lại ra vẻ không hiểu,

hoặc nếu bị thích thức, chúng lập tức vội vã thay đổi chủ đề, trích dẫn những lời vô vị, tẻ

nhạt mà nếu người ta chấp nhận, ngay lập tức chúng dẫn dắt tới những vấn đề hoàn toàn

khác, và rồi, nếu lại bị tấn công, chúng sẽ lại thoái lui và vờ như không hiểu người ta đang

28

nói về cái gì. Bất kể khi nào ai đó tìm cách tấn công chúng, họ sẽ thấy tay mình chạm vào

một thứ nhớt nhớt quánh như thạch sẽ tách ra và chay qua các kẻ tay mình, nhưng ngay sau

đó lại tụ lại với nhau. Nhưng nếu người đó giáng cho chúng một đòn đích đáng tới mức,

theo như các độc giả quan sát thấy, chúng không thể làm gì hơn là đồng ý với họ, và nếu họ

tin rằng như vậy là mình đã tiến được một bước thì họ sẽ rất đỗi ngạc nhiên với những gì

diễn ra ngày hôm sau. Tên Do thái chẳng hề nhớ chút gì về ngày trước đó, lại tiếp tục ra rả

những lời vô nghĩa như thể chưa hề xảy ra việc gì, và hắn chẳng thể nhớ một điều gì, ngoại

trừ việc hắn đã chứng minh tính đúng đắn của những lời hắn khẳng định ngày hôm trước.

Đôi khi tôi đứng đó sững sờ như bị sét đánh. Tôi không biết điều gì đáng kinh ngạc hơn:

giọng lưỡi lượn lẹo hay sự dối trá điêu luyện của chúng. Dần dần tôi bắt đầu căm ghét

chúng.

Tuy thế, tất cả những chuyện này cũng có một mặt tốt: càng nhìn thấy nhiều kẻ cầm

đầu thực sự hay ít nhất là những kẻ truyền bá của phe Dân chủ Xã hội, tôi lại càng thêm yêu

quý dân tộc mình. Bởi lẽ nếu xét tới những mánh khóe độc ác của những kẻ dẫn dụ này, ai

có thể chỉ trích những nạn nhân bất hạnh cơ chứ? Thật là khó biết bao, kể cả với tôi, khi

đánh bại cái giống dối trá biện chứng này! Và thật vô ích khi thắng những kẻ dám bóp méo

sự thật những gì ta nói ra, những kẻ đó chẳng hề đỏ mặt xấu hổ khi phủ nhận những gì mình

vừa nói để rồi ngay sau đó lại thừa nhận những điều đó.

Càng hiểu hơn về bọn Do thái tôi lại càng thêm bao dung với những người lao động.

Trong mắt tôi, lỗi lầm lớn nhất không phải là ở họ mà là ở những người cho rằng chẳng nên

bận tâm thương xót họ, với lòng chính trực quả cảm trao cho người con của dân tộc những

gì họ đáng được hưởng, và dồn những kẻ dẫn dụ và mua chuộc kia vào chân tường.

Thôi thúc bới những điều trải qua hàng ngày, giờ đây tôi bắt đầu lần tìm dấu vết nguồn

gốc của học thuyết Mác-xít. Tôi thấy rõ ảnh hưởng của nó qua các trường hợp riêng lẻ; mỗi

ngày thành công của nó lại hiện rõ rành rành trước đôi mắt chăm chú của tôi, và dùng thêm

chút đầu óc tưởng tượng, tôi có thể phác ra những hậu quả của nó. Câu hỏi duy nhất còn lại

là liệu kết quả đó đã có sẵn trong tiên liệu của người tạo ra học thuyết đó hay chỉ là nạn

nhân của một sai lầm.

Tôi cảm thấy, cả hai điều này đều có thể xảy ra. Bốn người lính của đảng công nhân xã

hội Đức hát trước một chi nhánh Berlin tại cửa hiệu Woolworth Co trong cuộc vận động tẩy

chay người Do Thái hiện đang ở Đức, vào tháng 3 năm 1933. Hitler tin rằng những người

sáng lập nên cửa hiệu Woolworth Co. là người Do Thái.

29

Nếu là trường hợp đầu tiên, đương nhiên nghĩa vụ của một người biết suy nghĩ là phải

buộc mình đứng hàng đầu trong cái phong trào chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp, nếu thế còn

có thể ngăn chặn thảm họa xảy ra; chứ trong trường hợp kia, kẻ tạo ra thảm họa hẳn phải là

những thế lực vô cùng ác độc – bởi lẽ chỉ trong đầu lũ quái vật – chứ không thể là đầu óc

con người – thì kết hoạch vè một tổ chức mới có được hình hài và ý nghĩa thực sự, và những

hành động của lũ quái vật ấy chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả cuối cùng là sự sụp đổ của nền

văn minh nhân loại và kế tiếp là sự hủy diệt thế giới. Trong trường hợp này, niềm hy vọng

còn lại duy nhất là đấu tranh, bằng tất cả những vũ khí mà tâm hồn, lý trí và ý chí con người

có thể tạo ra được, bất kể số phận sẽ ban sự may mắn cho bên nào.

Vì thế tôi bắt đầu bắt mình phải làm quen với những kẻ đã tạo ra học thuyết đó, để hiểu

hơn về những cơ sở nền tảng trong sự vận động của chúng. Nếu như tôi có đạt được mục

đích của mình nhanh hơn là trước đó tôi đã tin tưởng thì đó là những kiến thức mà tôi mới

thu nhận được, dẫu khi đó còn chưa thật sâu sắc, về vấn đề dân Do thái. Chỉ riêng điều đó

cũng đã giúp tôi phác ra một sự so sánh thực tế giữa hiện thực và những lý luận tào lao của

những kẻ đã hi sinh ra đảng Dân chủ Xã hội, bởi lẽ chính nó đã dạy tôi hiểu được ngôn ngữ

của dân Do thái, những kẻ mà lời nói là để che đậy hay chí ít cũng ngụy trang những suy

nghĩ của mình; mục tiêu thực sự của chúng vì thế không tìm thấy được ngay trong những

dòng chữ viết ra mà được giấu rất khéo đằng sau đó.

Với tôi đã là thời điểm tôi phải trải những biến động tinh thần mạnh mẽ nhất chưa từng

có.Tôi không còn là kẻ theo chủ nghĩa thế giới yếu đuối mà đã trở thành một người ủng hộ

bài Do thái. Lại một lần nữa – và đây là lần cuối cùng – những ý nghĩ đáng sợ, nặng nề đến

với tôi trong nỗi thống khổ sâu sắc cả về thể xác lẫn tâm hồn.

Khi tìm hiểu kỹ lưỡng hành động của dân Do thái trong suốt lịch sử loài người, tôi

bỗng nảy ra một câu hỏi đáng sợ, liệu số phận khó lường, có thể nào vì những lý do mà

chúng ta, những sinh linh tội nghiệp, không biết được, bằng ý chí quyết tâm không bao giờ

thay đổi, lại mong muôn cái chủng tộc ti tiện này giành được chiến thắng cuối cùng. Có thể

nào trái đất này từng được hứa hẹn làm phần thưởng dành cho cái chủng tộc ấy, cái chủng

tộc sống là vì trái đất này?

Liệu chúng ta có được quyền lợi khách quan để đấu tranh tự bảo tồn, hay phải có điều

này chỉ được biện minh một cách chủ quan ở chúng ta hay không? Khi tôi đào sâu nghiên

cứu luận điệu giáo huấn của chỉ nghĩa Marx và tiếp đó đem những hành vi của bọn người

30

Do thái ra nghiền ngẫm trong sự rõ ràng điềm tĩnh, chính số phận đã trao cho tôi câu trả lời

của mình.

Học thuyết của chủ nghĩa Marx của dân Do thái bác bỏ nguyên tắc cao quý của Tạo

hóa và thay thế những sức mạnh và quyền lực đặc ân bằng số lượng lớn các con số và sức

nặng chết người của nó. Theo cách đó, nó phủ nhận các giá trị nhân cách trong con người,

không thừa nhận ý nghĩa quan trọng của dân tộc và sắc tộc, và bằng cách ấy lấy mất của con

người những tiền đề cho sự sinh tồn và văn hóa của mình. Lấy học thuyết này làm nền tảng

cho vạn vật thì ắt nó sẽ chấm dứt mọi trật tự mà trí tuệ con người có thể hiểu được. Và khi

việc áp dụng một luật lệ như vậy chỉ đem lại sự hỗn loạn, sẽ không còn gì ngoài sự diệt

vong của nhân loại trên hành tinh này.

Chỉ riêng điều đó cũng sẽ khiến những người có bản năng chính trị khác trở thành kẻ

thù của hắn; trong mỗi sự vận động hắn sẽ đánh hơi thấy một điều có thể là khởi đầu cho sự

kết thúc của hắn, và trong mỗi con người dù lớn nhỏ thế nào, hắn đều ngửi thấy cái mùi

nguy hiểm đe dọa hắn. Tôi sẽ còn nhiều điều nữa để nói về hạng người mạt rệp của nghị

viện này. [1].

Tất cả những gì Hitler suy nghĩ trong Mein Kampf không lâu sau đó đều trở thành

hành động khi Hitler lên nắm chính quyền năm 1933. Điều đặc biệt là, những gì Hitler viết

về sự căm ghét người Do Thái và những việc cần phải làm với người Do Thái trong Mein

Kampf được công khai xuất bản , được nhiều người ủng hộ tới mức cuồng tín. Điều này cho

thấy, tài hùng biện cũng như khả năng thuyết phục đám đông của Hitler là rất giỏi. Hitler có

thể điều khiển ý nghĩ, hành động của người khác theo ý nghĩ và hành động của mình.Từ đó,

Hitler có được một bộ máy trung thành đến tuyệt đối khi lên nắm chính quyền. Và cũng

chính sự tài giỏi của Hitler đã dẫn đến sự tuyệt diệt của một dân tộc- dân tộc Do Thái.

Tuy thế, Hitler không phải là người đơn độc bài Do Thái một cách mù quáng. Nhiều

nhân vật chủ chốt lúc đầu của Đảng Lao động Đức đã sẵn có tư tưởng này trong khi Hitler

còn là nhân vật vô danh. Ví dụ điển hình là Dietrich Eckart, thường được xem là nhà sáng

lập tinh thần của Quốc xã, cũng mang tư tưởng này ngay từ đầu. Tư tưởng bài Do Thái trở

nên mù quáng và hàm hồ hơn khi trung ương đảng Lao động Đức, vì muốn tranh giành

quyền lực với Hitler, năm 1921 đã kết án Hitler là người thân Do Thái!.

Vào thời kỳ này, nước Đức đã rộ lên phong trào bài Do Thái, điển hình là vào năm

1920, đảng Lao động Đức mua lại một tờ báo chuyên bài xích Do Thái và biến nó thành tờ

báo tiếng nói chính thức của đảng. Vì thế, tư tưởng có tính cộng hưởng: xu hướng bài Do

31

Thái của nhiều người Đức được Hitler lợi dụng khai thác, và đến phiên Hitler nhờ tài hùng

biện lôi kéo thêm nhiều người Đức đi theo đường lối này.

Suốt đời, Hitler vẫn là người bài xích Do Thái mù quáng và quá khích. Di chúc của

ông, viết ra vài giờ trước khi chết, chứa đựng lời công kích cuối cùng đối với người Do

Thái, cho là họ có trách nhiệm đối với cuộc chiến mà ông ta phát động.

1.3. Biểu tượng Swastika và lá cờ Đức quốc xã

Khi đã có Học thuyết Darwin- xã hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc

Đức” thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa quốc xã chỉ còn

thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó:

Swastika của người Aryan!

Cuối thế kỷ XIX, Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc

xuất bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng chính thức

của những vận động viên thể thao Đức. Đầu thế kỷ XX, Swastika của người Aryan đã trở

thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm

thấy ở nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb- một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp

chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn

vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule. Nhưng Swastika chỉ chính

thức trở thành biểu tượng của chính phủ Đức Quốc xã kể từ khi Hitler chính thức sử dụng

biểu tượng đó. Đến những năm 1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng Quốc xã, Hitler thấy

Đảng cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.

Năm 1923, sau khi trở thành lãnh tụ Đảng Quốc xã, Hitler bị phạt tù 5 năm vì một

hành động chống chính phủ. Trong tù, Hitler đã viết tác phẩm “Mein Kampf”- “Cuộc tranh

đấu của tôi”, trong đó viết: “Lá cờ mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của

chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một áp- phích tuyên truyền”. [1, tr.89].

Không những thế, vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể

của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một hình tròn

màu trắng. Hitler viết trong Mein Kampf: “Màu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng

Swastika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự

chiến thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.

[1, tr.67].

32

Hitler, một họa sĩ thất bại, nhưng là người có khả năng tuyên truyền lão luyện biết cách

lấy được sự ủng hộ của người khác. Một trong những động thái thông minh của Hitler là lấy

dấu thập tự ngoặc làm biểu tượng của Đảng Quốc xã. Dấu thập tự ngoặc là một biểu tượng

cổ xưa về điều lành thể hiện ánh sáng mặt trời tỏa khắp mọi nơi. Dấu thập tự ngoặc cũng

thường thấy trong tác phẩm nghệ thuật của nhiều người. Người Dersian khắc các dấu thập

tự ngoặc lên các vách đền; người Indian ở Mỹ thường hay tô những dấu đó lên quần áo. [33,

tr.44].

Thời Hitler, dấu thập tự ngoặc là biểu tượng chống chủ nghĩa Do Thái và là biểu tượng

của sự “thuần khiết” của tộc Aryan. [33, tr.44].

Chẳng bao lâu sau, Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng

quốc xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả những kỹ thuật

tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm

lĩnh châu Âu.

Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức

phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế vào cuối những

năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế thứ III (The Third Reich) với việc Adolf

lên nắm chính quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa

từng có trong lịch sử.

Như vậy, từ một hình tượng mang tính tôn giáo thuần túy, Hitler đã biến Swastika

thành biểu tượng của sự chết chóc đối với các dân tộc trên thế giới nói chung, và đối với

người Do Thái nói riêng.

Tiểu kết chương 1

Chủ nghĩa bài Do Thái của Hitler ra đời từ quá trình chắt lọc một cách tùy tiện học

thuyết Darwin được bổ sung bằng những ý tưởng bệnh hoạn về chủ nghĩa chủng tộc và phục

thù. Nền tảng ý thức hệ ấy được Hitler sử dụng vào mục đích biện minh cho nỗi căm thù

hướng vào cộng đồng người Do Thái ở Áo, rồi ở Đức trước cả khi quyền lực đến với Hitler

và Đảng Quốc xã. Dựa vào tài hùng biện, hoàn cảnh chính trị- xã hội đương thời, sự trợ

giúp của một số phụ tá, Hitler đã thực hiện một chính sách diệt chủng thảm khốc chưa từng

có trong lịch sử khi lên nắm chính quyền: tuyệt diệt người Do Thái.

33

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ

ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU

TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ( 1933- 1939)

2.1. Tổ chức

Sau khi lên nắm chính quyền trên cơ sở lý luận của “chủng tộc thượng đẳng”, Hitler đã

đưa những ý nghĩ của mình vào hành động. Hitler đã điều hành đất nước nhờ những tổ chức

mà tên gọi và hình thức bên ngoài của chúng đã luôn gieo rắc nỗi kinh hoàng.

2.1.1. GESTAPO

Gestapo (tên viết tắt của tổ chức Geheime Staatspolizei) là tổ chức “cảnh sát mật vụ

quốc gia” do Ger-man Goring lập năm 1933 để tiến hành các vụ bắt bớ và hỏi cung những

người bì tình nghi.

Gestapo giống như Hitler, cũng là luật. Khi Goring bổ nhiệm Heinrich Himmler làm

chỉ huy phó Gestapo Phổ, lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của SS rồi nắm

quyền sinh sát trên toàn nước Đức.

Nhiệm vụ chính của Gestapo là tình báo an ninh, nhưng cũng đảm trách thêm việc

thành lập và điều hành trại tập trung. Đặc biệt, Gestapo phụ trách những nhân vật có tiếng

tăm trong và ngoài nước như tướng lĩnh, cựu thủ tướng, cựu bộ trưởng… Gestapo thường

thi hành nhiệm vụ theo dõi, giam giữ, tra tấn và khi có hiệu lệnh của Adolf Hitler hoặc chỉ

huy trưởng SS Heinrich Himmler- thủ tiêu những người này.

Các chỉ huy trưởng Gestapo là Rudolf Diels (1933-1934), Hermann Goring (1934-

1936), Đại tướng SS Reinhard Heydrich (1936-1939) và Đại tướng SS Heinrich Muller

(1939-1945).

Hermann Wilhelm Goring (1893-1946), trong một thời gian dài, là nhân vật số 2 của

Đức Quốc xã, chỉ sau Adolf Hitler. Ông là Lãnh tụ Lực lượng SA (1923), Chủ tịch Nghị

viện (1932-1933), Chỉ huy trưởng Mật vụ Đức (1934-1936), Bộ trưởng Hàng không kiêm

Tư lệnh Không quân (1935-1945), Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Cơ quan Kế hoạch

Bốn năm (1936), được chỉ định là người kế vị Lãnh tụ khi Hitler chết (1941), người duy

nhất mang quân hàm cao nhất của Quốc xã: Thống chế Đế chế (1941).

Heinrich Luitpol Himmler (1900-1945) là một trong những nhân vật có thế lực nhất

của Đức Quốc xã, là Thống chế SS (từ năm 1933), Lãnh tụ Lực lượng SS (từ năm 1929),

34

Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đức (từ năm 1936), Bộ trưởng Nội vụ (từ năm 1943), Bộ trưởng

Đặc Mệnh Toàn quyền Hành chính (từ năm 1943), Tư lệnh Lực lượng Dân phòng (từ năm

1944). Sau chiến tranh ông tìm cách liên hệ với Đồng minh để đàm phán hòa bình nhưng bị

từ chối, chạy trốn nhưng vẫn bị quân Anh bắt, tự tử trước khi bị xét xử.

Gestapo là xương sống của Đế chế thứ III. Lực lượng này hoạt động mà không quan

tâm đến suy nghĩ và ước vọng của người dân. Gestapo sẵn sang nghiền nát những vật cản

chống lại sự độc tài của Hitler. Lực lượng “Gestapo” có thể thực hiện mọi tội phạm miễn là

việc làm đó phục vụ kế hoạch của Hitler. “Gestapo” cố gắng gieo rắc sự nghi ngờ và sự mất

tin tưởng trong người dân. Lực lượng này phong tỏa đất nước bằng hàng ngàn nhân viên và

người cung cấp thông tin. Người của “Gestapo” giả danh cha xứ và nghe các cuộc xưng tội

của con chiên. Ở mọi góc phố hay khu nhà ở, tất cả các thành phố Đức đều có một tên cung

cấp tin. Tên này có thể là bất kỳ ai: quản gia, người hầu phòng, thủ quỹ cửa hàng hoặc là

người hàng xóm. Những tên nghe tin này nghe mọi chuyện. Herr Schmidt có treo cờ chữ

thập ngoặc vào ngày sinh nhật của Quốc trưởng hay không? Fran Wolff có đóng góp hào

hững vào quĩ của Đảng Đức quốc xã không và số tiền là bao nhiêu? Ông già Herr Schmidt

có nhớ ngày chào “Heil Hitler” thay vì lời chúc một ngày tốt đẹp không? Mọi hành động lẩn

tránh nhiệm vụ, mọi dấu hiệu về sự phản bội đều được thông báo đến lực lượng “Gestapo”

để điều tra. Nhân viên của “Gestapo” thậm chí còn nghe lỏm các cuộc đối thoại ở những

khu vực công cộng như nhà ga, nhà hàng, rạp hát và góc phố. Mọi chuyện diễn ra tồi tệ đến

nỗi người ta sinh ra một “kiểu nhìn” đặc trưng của nước Đức, liếc nhìn nhanh qua vai để

đảm bảo không có ai nghe

trộm cả.

Lực lượng “Gestapo” khơi dậy những cái xấu xa nhất trong con người. Lực lượng này

khuyến khích người ta tố cáo lẫn nhau vì mục đích trả thù hay để nhận một quyền lợi nào

đó. Một người đàn ông muốn cướp công việc của đồng nghiệp của mình thì hắn đến gặp

“Gestapo” với một câu chuyện bịa đặt hoặc một câu chuyện có thật về việc đồng nghiệp của

hắn nói xấu Quốc trưởng. Một phụ nữ có thể sắp sếp các nhân viên “Gestapo” đứng bên

cạnh cửa sổ nhà để nghe chồng thóa mạ Đảng Quốc xã. Chồng cô được đưa ngay đến trại

tập trung và cô sẽ được li dị và hưởng toàn bộ tài sản. Những ai bị nghi ngờ thì thường

xuyên nhận được giấy mời yêu cầu có mặt tại trụ sở của “Gestapo” vào một thời điểm nhất

định. Đó là giấy triệu tập mà bạn không thể từ chối hay làm ngơ nếu như bạn còn quý trọng

35

cuộc sống của bạn. Thông thường bạn bi tra hỏi và được thả cùng với một lời cảnh báo là

bạn sẽ bị theo dõi từng cử chỉ vì “Gestapo” nắm mọi thứ về bạn trong lòng bàn tay.

Lực lượng của “Gestapo” không bao giờ tỏ ra nhân đạo với “những kẻ thù của quốc

gia”. Mọi hành động mà lực lượng này tiến hành nhằm khủng bố các nạn nhân và bẻ gãy sự

chống cự của họ. Nhà của những người nghi ngờ thường bị tập kích vào nửa đêm. Những

người bị nghi ngờ bị đưa đến những nhà tù bí mật và không được liên lạc với thế giới bên

ngoài. Cho dù những người này có cố gắng tìm cách liên lạc thì chẳng ai có thể biết họ đang

ở đâu và còn sống hay không.

“Gestapo” làm mọi việc có thể để bắt những người bị nghi ngờ phải thú nhận tội lỗi và

khai ra đồng bọn. Những tên tra khảo lành nghề tống những người bị tình nghi vào một địa

ngục sống. Những tên này sử dụng những đồ dùng tra tấn của thời Trung cổ để dập nát

những nạn nhân này: những đoạn gỗ xiết ngón tay, ủng xiết chân, kim châm. Những nạn

nhân bị dìm xuống nước, bị điện cao thế giật. Việc tra khảo đánh đập kéo dài hàng giờ; khi

tên này mệt thì có tên khác thay. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy những vết cào sâu lên

tường xi măng bằng tay của những nạn nhân trong các nhà tù tra tấn họ.

Nhiều người đã chết hoặc bị điên dưới những đòn tra tấn vô nhân đạo. Những người

may mắn được thả buộc phải giữ bí mật vì nếu tiết lộ về việc họ bị nhốt ở đâu và những

chuyện xảy ra với họ thì họ sẽ chết. Đó là cách mà “Gestapo” vừa giữ được bí mật của nó

vừa tăng cường gây ra nỗi sợ hãi cho người dân Đức. Hàng năm, lực lượng “Gestapo” tống

hàng ngàn người vào các trại tập trung.

[33, tr.79-83].

2.1.2. SA

SA (tên gọi tắt của tổ chức Sturmab-telilung) là những “đội quân xung kích”, tổ chức

bán quân sự của Đảng Quốc xã, được thành lập vào năm 1923 do chính Hitler tổ chức. Vì

mặc đồng phục màu nâu nên còn gọi là “Quân áo nâu”. Nhiệm vụ chính của SA ban đầu là

bảo vệ buổi họp của Quốc xã, giải tán cuộc họp của đối thủ và nói chung khủng bố người

chống lại Hitler. Lực lượng SA khởi đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Đại úy Ehrhardt, kế

tiếp là Hermann Goring năm và Hitler năm 1930. Việc chỉ đạo trực tiếp là do Tham mưu

trưởng chỉ huy hàng ngày; Tham mưu trưởng SA nổi tiếng nhất là Rohm.

2.1.3. SS

36

Sau khi lực lượng SA trở thành kiêu binh, vô kỷ luật, để được sự hỗ trợ đáng tin cậy

hơn Hitler chính thức thành lập lực lượng SS- Schutzstaffel, điều những người thân tín từ

SA qua và bổ sung bằng những người đã được đào tạo chính quy về học thuyết Quốc xã.

SS là tổ chức an ninh của Đảng quốc xã, trung thành với Hitler tới mức cuồng tín.

Thoạt đầu người ta chỉ lựa chọn để làm đội bảo vệ, nhưng sau này nó cũng biến thành một

đội quân. SS có hai phân đội: “Đội đầu tử thần” chuyên việc bảo vệ văn phòng Quốc

trưởng, còn “Quân đội SS” là một quân đoàn tinh nhuệ thiện chiến. Binh sĩ SS mặc đồng

phục màu đen tương tự như trong quân đội của Phát xít Ý, nên được gọi là “Quân áo đen”.

SS có hệ thống quân hàm tương tự như trong quân đội Đức nhưng với tên gọi khác, mang

quân phù đặc biệt. Tất cả binh sĩ khi gia nhập SS đều phải đọc lời tuyên thệ trung thành với

chính cá nhân Hitler.

Lúc đầu, lực lượng SS chỉ là những cận vệ cho Hitler. Mãi đến năm 1929, Hitler mới

tìm ra được người lãnh đạo trưởng của SS: Heinrich Himmler. Heinrich Himmler là người

phân biệt chủng tộc sâu sắc, ông tin rằng người Do Thái và người Slavơ còn hạ đẳng hơn

những con vật nhỏ nhất và cần phải bị tiêu diệt, Himmler là cánh tay phải của Hitler: cẩn

thận, cần cù và trung thành. Hitler đã thấy trong Himmler một tên cảnh sát trưởng hoàn hảo

của một nhà nước chuyên chế.

Khi Himmler nhận chức vụ chỉ huy trưởng, lực lượng SS có khoảng 280 người. Chỉ

trong một thập kỷ, Himmler đã biến “SS” thành một lực lượng cảnh sát có 250.000 quân, có

tính kỷ luật cao làm bất cứ điều gì để bảo vệ quyền lực của Quốc trưởng. Khẩu hiệu của lực

lượng cảnh sát “SS” là “Tin tưởng, tuân lệnh và chiến đấu”. Điều này có nghĩa là những tên

cảnh sát này thi hành mọi mệnh lệnh mà không cần suy nghĩ rằng mệnh lệnh đó đúng hay

sai. [33, tr.78].

Himmler muốn lực lượng “SS” thể hiện những đặc tính tốt nhất của “chủng tộc

Aryan”. Tiêu chuẩn của lực lượng cảnh sát này rất cao, và 9 trong 10 người tình nguyện sẽ

bị loại vì không thích hợp với lực lượng “SS”. Những người được tuyển phải cao ít nhất từ

1m60 trở lên và không mắc bệnh về thể chất và tinh thần. Điều quan trọng hơn cả là những

người này phải chứng minh rằng bố mẹ họ phải mang dòng máu củ chủng tộc Aryan thuần

chủng trở về từ những năm 1750. [33, tr.78].

“SS” phát triển mạnh theo thời gian, cuối cùng ngự trị nước Đức và là một cái tên gây

kinh hoàng cho mọi vùng bị Đức chiếm đóng ở châu Âu.

37

Vào năm 1930, các đội quân SS và SA gộp lại lên đến hơn 100.000 người- còn đông

hơn cả quân đội Đức lúc này còn bị Hòa ước Versailles hạn chế. Hai năm sau, lực lượng SA

đã lớn mạnh với quân số 400.000.

Ngày 26/7/1934, để tưởng thưởng công sức của họ trong vụ thanh trừng đẫm máu ngày

30/6/1934, lực lượng SS được tách ra độc lập với SA, vẫn dưới quyền chỉ huy của Himmler.

Chẳng bao lâu, với kỷ luật và lòng trung thành hơn SA, lực lượng SS trở nên hùng mạnh

hơn hẳn SA. Được như vậy một phần là do Himmler có quyền lực mạnh trên Đế chế thứ Ba,

chỉ báo cáo với Hitler mà không phải thông qua bộ trưởng hoặc tướng lĩnh nào.

Lực lượng quân sự có tính chuyên nghiệp, được trang bị hỏa lực và cơ giới hùng mạnh

là Waffen- SS. Được phát triển như đội quân thứ hai bên cạnh quân chính quy, tụ họp

những người cuồng tín đã được rèn luyện kỹ học thuyết Quốc xã, cuối cùng lực lượng này

có 38 sư đoàn tác chiến gồm 800-950.000 người. [33].

2.2. Tiến hành trục xuất

Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Đảng Quốc xã của Adolf Hitler lên nắm chính quyền, hầu

như ngay lập tức tiến hành các cuộc bách hại và trục xuất 525.000 người Do Thái đang sinh

sống tại Đức. Trong cuốn “Mein Kampf” (1925), Hitler không giấu diếm sự căm ghét đối

với người Do Thái, và hé lộ những dấu hiệu về ý định truất họ khỏi đời sống chính trị, trí

thức và văn hóa Đức.

Vào thời điểm này, có khoảng 9,5 triệu người Do Thái sống ở châu Âu, bao gồm 1,7%

tổng dân số châu Âu. Con số này chiếm hơn 60 phần trăm dân số của người Do Thái trên

thế giới tại thời điểm đó, ước tính khoảng 15,3 triệu. [73].

Đa số người Do Thái ở châu Âu trước chiến tranh cư trú ở miền đông châu Âu. Các

cộng đồng người Do Thái lớn nhất trong khu vực này là ở Ba Lan, với khoảng 3.000.000

người Do Thái (9,5%), phần châu Âu của Liên Xô, với 2.525.000 (3,4%) và Romania, với

756.000 (4,2%). Dân số Do Thái ở các bang ba Baltic đạt 255.000: 95.600 trong Latvia,

155.000 ở Lithuania, và 4560 ở Estonia. Ở đây, người Do Thái bao gồm 4,9%, 7,6%, và

0,4% dân số của mỗi nước, tương ứng, và 5% tổng dân số của khu vực.

Trước chiến tranh trong trung tâm châu Âu, cộng đồng người Do Thái lớn nhất là ở

Đức, với khoảng 500.000 thành viên (0.75% tổng dân số của Đức). Tiếp theo đó là

Hungary với 445.000 (5,1%), Tiệp Khắc với 357.000 (2,4%), và Áo với 191.000, hầu hết

trong số đó cư trú tại thủ đô Vienna (2,8%).

38

Ở Tây Âu cộng đồng người Do Thái lớn nhất là ở Anh, với 300.000 người Do Thái

(0,65%); Pháp, với 250.000 (0,6%) và Hà Lan, với 156.000 (1,8%). Ngoài ra, 60.000 người

Do Thái (0,7%) sống ở Bỉ, 4000 (0,02%) ở Tây Ban Nha, và 1200 (0,02%) ở Bồ Đào Nha.

Gần 16.000 người Do Thái sống ở Bắc Âu, bao gồm 6.700 (0,11%) ở Thụy Điển, 5700

(0,15%) ở Đan Mạch, 1800 (0,05%) ở Phần Lan, và 1400 (0,05%) ở Na Uy. Ở miền nam

châu Âu, Hy Lạp đã có số dân Do Thái lớn nhất, với khoảng 73.000 người Do Thái (1,2%).

Cũng có những cộng đồng Do Thái có ý nghĩa tại Nam Tư (68.000, tương đương

0,49%), Ý (48.000, tương đương 0,11%), và Bulgaria (48.500, tương đương 0,8%). 200

người Do Thái (0,02%) sống ở Albania. [73].

Trước khi Đức quốc xã lên nắm quyền vào năm 1933, châu Âu đã có một sự phong

phú đa dạng của các nền văn hóa của người Do Thái, nhiều trong số đó là các nhân vật năng

động và phát triển cao trong một số lĩnh vực. Tính chất đa dạng của các cộng đồng cá nhân

của người Do Thái trong nghề nghiệp, tôn giáo, sự tham gia và hội nhập trong đời sống khu

vực và quốc gia và các khu vực khác làm cho cuộc sống của người Do Thái có hiệu quả và

phong phú trên khắp châu Âu. Ở nhiều nước, người Do Thái đứng như những ngôi sao sáng

về văn hóa và chính trị, và đã đồng hành với các chính phủ trong chiến tranh thế giới thứ I.

Trong hơn một thập kỷ qua, hầu hết châu Âu bị chinh phục, chiếm đóng, hoặc sáp

nhập vào Đức Quốc xã và các đối tác trục của nó, và đa số người Do Thái châu Âu đã chết.

Tại Đức, những nhà trí thức Do Thái là những người đầu tiên rời bỏ nước Đức. Nhà

triết học Walter Benjamin đến Paris ngày 18 tháng 3 năm 1933. Nhà văn Leon

Feuchtwanger đến Thụy Sĩ. Nhà chỉ huy dàn nhạc Bruno Walter vội đào thoát khi biết tin

sảnh đường của Dàn nhạc giao hưởng Berlin sẽ làm mồi lửa nếu ông tiếp tục làm việc tại

đây. Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Albert Einstein đang ở Hoa Kỳ trong một chuyến tham

quan; sau đó ông đến Ostende ở Bỉ, nhưng không bao giờ trở lại Đức, ông lên tiếng cáo

buộc tình hình ở Đức là “một sự bệnh hoạn tinh thần của quần chúng”, Einstein bị trục xuất

khỏi Hội Kaiser Wilhelm và Hàn lâm viện Khoa học Phổ, quốc tịch của ông cũng bị tước

bỏ. Saul Friedlander thuật lại rằng khi Max Liebermann- có lẽ là họa sĩ tài danh nhất nước

Đức, cũng là chủ tịch danh dự Hàn lâm viện nghệ thuật Phổ- từ nhiệm, không ai trong số

các đồng nghiệp tìm đến bày tỏ sự đồng cảm, hai năm sau ông chết trong khi bị phát vãng.

Hệ thống giáo dục của Đức, đã từng là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế

giới, bị Đảng Đức quốc xã thay đổi và hủy hoại. Những giáo viên người Do Thái bị mất

việc ngay lập tức còn những giáo viên khác phải gia nhập Liên đoàn giáo dục xã hội chủ

39

nghĩa dân tộc. Các lớp học trở thành trung tâm chỉ huy của lính bão táp. Lá cờ có hình dấu

thập ngoặc được treo trước mỗi phòng học. Trên tường có treo ảnh Hitler. Lúc lên lớp hay

tan học mọi người đều phải chào theo kiểu nhà binh “Hiel Hitler”.

Đặc biệt, cuốn sách “Mein Kampf” là cuốn sách bắt buộc của học sinh ở mọi cấp độ và

ở mọi lớp. Các lớp học phải tổ chức đọc, thảo luận và viết nhận xét về quyển sách đó, và khi

đến hết chương cuối cùng thì phải quay lại từ trang đầu tiên.

Tất cả sách giáo khoa phải viết lại và mỗi môn học đều được dạy theo quan điểm của

Đảng Đức Quốc xã. Chủ nghĩa dân tộc và chống người Do Thái được nhồi vào đầu của học

sinh. Học sinh được học là họ, những người Aryan, thuộc dân tộc thượng đẳng sinh ra đã

thống trị thế giới. Người Do Thái là loại người đáng kinh tởm và đáng ghét. Ví dụ như học

sinh ở lớp thấp được những cuốn sách có tranh minh họa như: “Không nên tin tưởng vào bất

cứ con cáo và người Do Thái nào”. Một cuốn sách nổi tiếng khác là “Cây nấm độc” coi

những người Do Thái xấu xa như những nọc độc. [33, tr.100-101].

Suốt trong thập niên 1930, các quyền pháp lý, kinh tế, và xã hội của người Do Thái

dần dà bị hạn chế. Theo Friedlander, đối với Quốc xã, sức mạnh của nước Đức bắt nguồn từ

“sự tinh tuyền của dòng máu Đức” và “sự bắt rễ sâu trong mảnh đất Đức thiêng liêng”.

Trong lĩnh vực kinh tế, chính phủ Đức Quốc xã tiến hành tẩy chay các doanh nghiệp

của người Do Thái ở Đức diễn ra vào ngày 01 tháng 4 năm 1933, ngay sau khi Adolf Hitler

tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Tẩy chay là biện pháp đầu

tiên trong nhiều biện pháp chống lại người Do Thái của Đức, mà cuối cùng lên đến đỉnh

điểm trong các "giải pháp cuối cùng". Đó là một chiến dịch nhà nước quản lý việc quấy rối,

bắt bớ, cướp đoạt có hệ thống, chuyển giao bắt buộc quyền sở hữu cho các nhà hoạt động

đảng Quốc xã (do quản lý Phòng Thương mại) và cuối cùng là giết chủ sở hữu được định

nghĩa là "người Do Thái". Chỉ tính riêng trong Berlin, đã có 50.000 doanh nghiệp thuộc sở

hữu của người Do Thái (gần 50% doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của tất cả các doanh

nghiệp ở Berlin) khi Đức quốc xã lên nắm quyền. [73].

Trong tháng 3 năm 1933 Đức quốc xã giành được một số lượng lớn các ghế trong quốc

hội Đức. Sau chiến thắng đã có bạo lực lan rộng nhắm vào các doanh nghiệp của người Do

Thái và cá nhân. Luật sư người Do Thái và các thẩm phán đã bị ngăn cản đến các tòa án.

Trong một số trường hợp SA tạo ra trại tập trung đối với người Do Thái chống lại Đức quốc

xã.

40

Kể từ khi báo chí quốc tế được báo cáo một cách chi tiết về tội ác của lực lượng SA,

bao gồm đưa ra khỏi đời sống chính trị của người Do Thái đến trại tập trung 'hoang dã', nơi

họ đã bị lạm dụng, tra tấn và sát hại, và sự lãnh đạo của NSDAP tổ chức các nạn nhân chịu

trách nhiệm về phản ứng quốc tế với các hành động NSDAP. Họ tuyên bố chính sách

chống Do Thái của họ là phòng thủ.

Ngày 01 tháng 4 năm 1933, Đức quốc xã thực hiện trên toàn quốc, kế hoạch hành động

đầu tiên của họ chống lại người Do Thái: tẩy chay nhắm mục tiêu các doanh nghiệp của

người Do Thái. Trong lúc này, nếu bạn mua hàng của người Do Thái thì bạn phải lau sạch

một dãy phố với bàn chải trong khi hàng đoàn người đứng xung quanh cười nhạo.

Vào ngày tẩy chay, các lực lượng SA đe dọa trước các cửa hàng của người Do Thái và

các văn phòng của các chuyên gia như bác sĩ và luật sư. Ngôi sao David đã được sơn màu

vàng và đen gắn trên hàng ngàn cửa ra vào và cửa sổ, đi kèm với khẩu hiệu chống Do Thái.

Khẩu hiệu được viết: "Đừng mua từ người Do Thái!" (Kauf nicht bei Juden!), "Người Do

Thái là bất hạnh của chúng tôi!" (Die Juden sind Unser Unglück! [53].

Hoạt động tẩy chay hàng hóa của chính phủ Đức Quốc xã đối với người Do Thái còn

được sự ủng hộ của quốc tế.

Tẩy chay của Đức Quốc xã lấy từ cuộc tẩy chay tương tự ở các nước khác. Ở Ba Lan,

người đứng đầu Giáo hội Công giáo, Đức Hồng Y Hlond kêu gọi tẩy chay các doanh nghiệp

của người Do Thái trên khắp đất nước. Chính phủ dừng lại thuê người Do Thái và phát huy

việc tẩy chay các doanh nghiệp của người Do Thái từ năm 1935. Nghi lễ giết mổ của người

Do Thái đã bị cấm ở Ba Lan vào năm 1936 (trong đó Đức đã bị cấm từ năm 1930).

Ở Palestine, lãnh đạo Ả Rập tổ chức tẩy chay của các doanh nghiệp của người Do

Thái từ năm 1929 trở đi, với bạo lực thường hướng vào người Ả Rập, những người đã kinh

doanh với người Do Thái.

Ở Mỹ ủng hộ Đức Quốc xã như Cha Charles Coughlin kích động tẩy chay của các

doanh nghiệp của người Do Thái và có bạo lực lan rộng chống lại các mục tiêu của người

Do Thái. Các trường Đại học Ivy League hạn chế số lượng người Do Thái cho phép nhập

học.

Áo trong một tổ chức gọi là Antisemitenbund đã vận động chống lại quyền công dân

của người Do Thái từ năm 1919. Tổ chức lấy cảm hứng từ Karl Lueger huyền thoại thế kỷ

19, thị trưởng Do Thái Vienna, người truyền cảm hứng cho Hitler và cũng đã vận động tẩy

41

chay của các doanh nghiệp của người Do Thái. Chiến dịch tẩy chay ở Áo có xu hướng nâng

cao vào dịp Giáng sinh và có hiệu lực từ năm 1932.

Tại Hungary, chính phủ thông qua luật hạn chế hoạt động kinh tế của người Do Thái

từ năm 1938 trở đi. Kích động tẩy chay ngày trở lại vào giữa thế kỷ XIX, khi người Do

Thái nhận quyền bình đẳng.

Các hoạt động tẩy chay quốc gia đánh dấu sự khởi đầu của một chiến dịch toàn quốc

của đảng Quốc xã đối với toàn bộ dân số của người Do Thái tại Đức.

2.3. Ban hành các đạo luật.

Năm 1933, một loạt các đạo luật được thông qua nhằm trục xuất người Do Thái khỏi

những khu vực quan trọng: luật dịch vụ dân sự, luật thầy thuốc và luật nông trang cấm

người Do Thái sở hữu nông trại hay hoạt động nông nghiệp, luật sư Do Thái bị loại khỏi

luật sư đoàn. Tại Dresden, các luật sư và thẩm phán người Do Thái bị lôi ra khỏi văn phòng

và tòa án, rồi bị hành hung. Người Do Thái bị đuổi khỏi trường học và các viện đại học,

cũng như bị loại bỏ khỏi hội nhà báo.

Một tuần sau đó, vào 07 tháng 4 năm 1933, các Luật dân sự đã được thông qua, trong

đó hạn chế quyền của dân tộc không phải "người Aryan ". Điều này có nghĩa rằng người

Do Thái không được phục vụ trong các ngành như giáo viên, giáo sư, thẩm phán, hoặc các

vị trí khác của chính phủ. Nhân viên chính phủ Do Thái, kể cả giáo viên trong các trường

công lập và các trường đại học, đã bị bắn. Người Do Thái đã bị cấm không được tuyên bố

bất kỳ quyền lợi nào như cựu chiến binh chiến tranh (35.000 người Do Thái của Đức đã

chết trong chiến tranh thế giới thứ nhất). Bất kỳ người Do Thái mang quốc tịch Đức đều bị

tước quyền công dân. Chỉ 1% về số lượng người Do Thái được phép học trong các trường

đại học. Trong việc sửa đổi pháp luật, trong đó nói rằng tất cả người không phải là người

Aryan bị loại ra khỏi đời sống xã hội.

Đặc biệt, năm 1935, Hitler giới thiệu bộ luật Nurnberg tước quyền công dân và tất cả

các quyền dân sự của người Do Thái. Trong bài diễn văn của mình, Hitler nói nếu bộ luật

này không giải quyết nổi “vấn nạn Do Thái” thì cần phải làm luật giao cho Đảng Quốc xã

đưa ra giải pháp tối hậu (Endlosung). Thuật Endlosung trở thành cách nói chuẩn của chính

phủ Quốc xã khi ám chỉ biện pháp tuyệt diệt dân Do Thái.

Theo luật Nuremberg người Do Thái không được coi là công dân, thậm chí họ cũng

không được coi là con người, người Do Thái thấy cuộc sống của họ trở thành cơn ác mộng.

42

Dưới đây là danh sách tóm tắt những điều mà người Do Thái không được làm hay không có

được vào thời đế chế thứ III. [33].

*Người Do Thái không được đi trên một số con phố nhất định, không được ngồi trên

ghế ở công viên, không được sử dụng bể bơi hay phương tiện công cộng, không được đến

bảo tàng, nhà hát và rạp chiếu phim, không được lái xe hay cắt tóc mà thợ cắt tóc là người

“Aryan”.

*Người Do Thái không được phép có đồ dùng bằng điện , đài máy đánh chữ , máy

hát hay xe đạp.

*Ở nhiều nơi , người Do Thái không được mua thuốc, hoặc không được mua hoa quả

hay rau thậm chí sữa cho con họ.

*Những cửa hàng, những trang trại của người Do Thái đều bị cướp phá, kèm theo đó

là hầu hết số tiền tiết kiệm của họ trong ngân hàng.

* Để khiến cho họ dễ bị nhận diện, người Do Thái phải đeo một ngôi sao vàng trên áo

với dòng chữ: “Do Thái” mầu đen. Đàn ông Do Thái lấy “Israel” làm họ và phụ nữ thì lấy từ

“Sara”. Đến cuối năm 30, tỉ lệ tự sát của người Do Thái tăng gấp ba lần tỉ lệ khi người ta

tuyệt vọng.

Cuộc hôn nhân giữa người Do Thái và người dân ( Đức : Staatsangehörige) máu Đức

hoặc họ hàng đều bị cấm. Cuộc hôn nhân bất chấp pháp luật này sẽ bị hủy, ngay cả khi, với

mục đích trốn tránh pháp luật này, họ đã kết hôn ở nước ngoài.

Thời gian 1933-1939, đã ban hành hơn 400 đạo luật chống Do Thái. Người Do Thái

ở Đức và các vùng quân Đức chiếm đóng lúc này bị buộc phải đeo hình ngôi sao David sáu

cánh màu vàng để phân biệt với những người khác.

Như vậy, có thể nói rằng, với những đạo luật đã ban hành, việc phân biệt đối xử đối

với người Do Thái dưới thời cầm quyền của Hitler đã được nâng lên cấp chính phủ, được

thực hiện một cách công khai.

Đồng thời, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, một chiến

dịch bôi nhọ đã được dàn dựng kỹ lưỡng nhằm mô tả người Do Thái là kẻ thù của dân tộc

Đức. Hàng ngày, những luận điệu vu khống chống Do Thái đã xuất hiện trên các báo chí

Quốc xã, các áp phích chiếu bóng, phát thanh, trong các diễn văn của Hitler, của các thủ

lĩnh Quốc xã và trong cả trường học. Người Do Thái đã mất tất cả, kể cả nhà ở và cơ sở

kinh doanh, thế nhưng, người Đức không phải gốc Do Thái lại không hề phản đối hoặc công

khai la ó. Cuốn phim tuyên truyền của đảng Quốc xã nhan đề “Tên Do Thái muôn thuở” đã

43

đi xa tới mức so sánh người Do Thái như những con chuột mang bệnh dịch. Cuốn phim này

chính là điềm báo trước những hậu quả sẽ tới…

Tháng 3/1938, Hitler dùng vũ lực thôn tính nước Áo. Ngay lập tức, Hitler bắt đầu trấn

áp người Do Thái tại đó. Người Do Thái ở Áo cũng mất tất cả và bị công khai làm nhục,

như phải đi cọ rửa vỉa hè trước sự chế nhạo của những đám đông thân Quốc xã.

Nhiều nhà nghiên cứu xem vụ bạo động bài Do Thái mệnh danh Kristallnacht (Đêm

Kính vỡ), ngày 9 tháng 11 năm 1938, là thời điểm khởi phát vụ Holocaust. Trên khắp nước

Đức, người Do Thái bị tấn công và tài sản của họ bị cướp phá. Khoảng 100 người Do Thái

bị giết, và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, có hơn 7.000 cửa hiệu và 1 668

hội đường của người Do Thái bị tàn phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Những cảnh tương tự

cũng diễn ra tại Áo, đặc biệt là ở Wien.

Bắt đầu người ta đuổi ra khỏi nước Đức những người Do Thái có gốc rễ Ba Lan láng

giềng. Đêm 27 tháng 10 năm 1938, 18.000 người Do Thái công dân Ba Lan bị chở đến biên

giới và buộc phải rời khỏi lãnh thổ Đức. Nhưng giờ đây lại đến lượt các cấp chính quyền Ba

Lan từ chối tiếp nhận họ.

Được biết về những nỗi khổ của đồng bào mình bị đẩy vào giải phân cách giữa hai

nước, chàng thanh niên 17 tuổi Hershel, đã đến đại sứ quán Đức ở Pari ngày 7 tháng 11 năm

1938. Anh dự định bắn chết viên đại sứ- Nam tước Iokhaes Fon Velchek nhưng lại bắn vào

nhân viên đại sứ quán đầu tiên mà anh nhìn thấy.

Sự thật trớ trêu đó chính là bí thư sứ quán Ernst fon Rat- người mà Gestapo đã để ý

đến vì bị tình nghi là có quan điểm chống Quốc xã. Ông ta bị thương nặng và chết không

lâu sau đó. [33].

Việc ám sát Ernst fon Rat được chính phủ Quốc xã sử dụng cho hành động tổng lực

chống lại người Do Thái trên toàn nước Đức. Đêm rạng ngày 10 tháng 11 năm 1938, tư lệnh

Himler, viên chỉ huy cơ quan an ninh quốc gia của SS Reinchard Heidric và chỉ huy

Gestapo Hendric Miuler đã tổ chức các cuộc tấn công hành loạt vào những người Do Thái,

các cửa hàng và các nhà thờ Do Thái. Cuộc triệt hạ này đi vào lịch sử dưới cái tên “Đêm

pha lê”.

Trong mệnh lệnh cho các toán xung kích ngày 9 tháng 11 năm 1938 nêu: “Các thành

viên SA mặc đồng phục phải phá hủy tất cả các cửa hàng của người Do Thái. Sau đó đặt các

trại gác để những loại hàng hóa quý không bị đánh cắp. Tất cả các nhà thờ Do Thái phải bị

thiêu cháy ngay lập tức”. [34, tr.48].

44

Các cuộc tàn sát diễn ra đặc biệt ở Berlin và Vienna, nơi có cộng đồng người Do Thái

lớn nhất ở Đức. Lực lượng SA tấn công người Do Thái trong nhà của họ và buộc người Do

Thái thực hiện hành vi sỉ nhục công khai.

Nhận lệnh của Hitler, Hermann Goering và Richard Heydich đã gây ra cuộc khủng bố

với ngưới dân yếu đuối. Những giáo đường chìm ngập trong bể lửa. Những nhà kho của

người Do Thái bị cướp phá, những mảnh vỡ từ những khung cửa kính bị vứt đầy trên đường

phố. Hàng nghìn người Do Thái bị lôi đến trại tâp trung. Cộng đồng người Do Thái sau đó

buộc phải trả cho Đức quốc xã vì những thiệt hại với tài chính của họ, cộng thêm số tiền

phạt rất lớn.

Trẻ em Do Thái cũng cảm thấy cực kỳ căm hờn giống như cha mẹ các em. Chúng

được nuôi dậy để nghĩ rằng họ là người Đức với niềm tin của người Do Thái; nhiều người

cha mẹ của các em đã phục vụ cho nước Đức và đã được tặng rất nhiều huy chương trong

suốt thế chiến thứ I. Giờ đây, chúng bỗng thấy mình bị căm ghét, bị xa lánh.

Những bé trai và bé gái Do Thái phải ngồi trong lớp học, lắng nghe một cách trăm

chú, trong khi đó cô giáo của họ đang thuyết giải về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và nói

những trò đùa chống đối người Do Thái. Vào những giờ ra chơi hoặc sau giờ tan học họ lại

bị những bọn hay bắt nạt người khác - thuộc hội thanh niên Hitler – đánh đập. Phàn nàn với

cảnh sát hoặc hiệu trưởng, họ có thể bị tát hoặc bị chửi là “đồ Do Thái bẩn thỉu”. Cuối cùng

sau thế chiến “Đêm thủy tinh” tất cả học sinh Do Thái bị đuổi học.

Như sự lây lan cuộc tàn sát, các đơn vị của SS và Gestapo, theo hướng dẫn của

Heydrich, đã bắt giữ lên đến 30.000 nam giới của người Do Thái, và chuyển giao hầu hết

trong số họ khỏi các nhà tù địa phương ở Dachau, Buchenwald, Sachsenhausen, và các trại

tập trung khác. Đáng kể, Kristallnacht đánh dấu thời khắc đầu tiên mà chế độ Đức Quốc xã

giam giữ người Do Thái trên quy mô lớn. Hàng trăm người chết trong các trại như một kết

quả của việc điều trị tàn bạo và bắt đầu quá trình di cư khỏi nước Đức. Thật vậy, những tác

động của Kristallnacht đã thúc đẩy việc di cư của người Do Thái từ Đức trong những tiếp

theo sau đó.

Do hậu quả trực tiếp của cuộc tàn sát, nhiều nhà lãnh đạo Đức, như Hermann Göring,

chỉ trích các thiệt hại vật chất mở rộng sản xuất bởi các cuộc bạo loạn Do Thái, chỉ ra rằng

nếu không có gì đã được thực hiện để can thiệp, công ty, không bảo hiểm Đức Do Thái

thuộc sở hữu doanh nghiệp, sẽ phải thực hiện các chi phí thiệt hại. Tuy nhiên, các nhà lãnh

đạo Đảng quyết định sử dụng các biện pháp để loại bỏ người Do Thái và ảnh hưởng của

45

người Do Thái từ các lĩnh vực kinh tế Đức. Chính phủ Đức đã thực hiện một tuyên bố ngay

rằng "người Do Thái" chính là nguyên nhân cho các cuộc tàn sát và phạt tiền trừng phạt

một tỷ Reichsmark (khoảng 400 triệu đô la Mỹ năm 1938) trên cộng đồng Do Thái của Đức.

Chính phủ Đức quốc xã tịch thu tất cả tiền thưởng bảo hiểm của người Do Thái, các doanh

nghiệp và nhà cửa đều bị cướp hoặc bị phá hủy, để lại các chủ sở hữu cá nhân của người Do

Thái chịu trách nhiệm về chi phí của tất cả các sửa chữa.

Trong những tuần sau đó, chính phủ Đức đã ban hành hàng chục luật và nghị định để

tước đoạt tài sản của người Do Thái và các phương tiện sinh kế. Nhiều người trong số

những luật này được thực thi "Aryanization"- chính sách chuyển doanh nghiệp và tài sản

cho "người Aryan" quyền sở hữu, thường là trong một phần nhỏ của giá trị thật của người

Do Thái sở hữu. Pháp luật tiếp theo cấm người Do Thái, đã không đủ điều kiện cho việc

làm trong khu vực công, từ thực hành hầu hết các ngành nghề trong khu vực tư nhân, và có

những bước tiến xa hơn trong việc loại bỏ người Do Thái khỏi đời sống công cộng. Các

quan chức giáo dục Đức bị trục xuất nếu trẻ em Do Thái vẫn còn theo học tại trường Đức.

Tại Đức, người Do Thái bị mất quyền được giữ giấy phép lái xe hoặc sở hữu một chiếc ô tô,

pháp luật cố định hạn chế quyền truy cập vào giao thông công cộng. Người Do Thái có thể

không còn được nhận vào nhà hát, rạp chiếu phim, hoặc phòng hòa nhạc.

Các sự kiện của Kristallnacht đại diện một trong những bước ngoặt quan trọng nhất

trong chính sách xã hội quốc gia Do Thái. Nhà sử học đã lưu ý rằng sau khi cuộc tàn sát,

chính sách chống Do Thái đã được tập trung hơn và cụ thể hơn vào tay của lực lượng SS.

Chế độ Quốc xã mở rộng một cách cực đoan biện pháp nhằm loại bỏ người Do Thái hoàn

toàn từ đời sống kinh tế và xã hội Đức trong những năm tới, từ đó đi đến giải pháp cuối

cùng đối với chính sách di cư cưỡng bức, và cuối cùng đối với việc thực hiện một Đức

"miễn phí của người Do Thái" (judenrein) bằng cách trục xuất số dân Do Thái "tới Trung

Đông."

Do đó, Kristallnacht như một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đàn áp người Do

Thái, mà lên đến đỉnh điểm trong nỗ lực của Đức Quốc xã tàn sát người Do Thái ở châu Âu.

Hơn một ngàn người đã chết. Hai trăm sáu mươi nhà thờ bị phá hoại. Đây là sự khởi

đầu cho sự tiêu diệt người Do Thái.

46

Tiểu kết chương 2

Được mang ra thực hiện ngay sau khi nắm quyền, chính sách bài Do Thái của chính

quyền Quốc xã do Hitler cầm đầu đã tạo ra những nạn nhân đầu tiên của chế độ. Vốn là một

cộng đồng sinh sống đã nhiều trăm năm trên lãnh thổ Đức, người Do Thái đã đóng góp

không biết bao công sức vào tiến trình kiến tạo nước Đức và giữ một vai trò không thể thiếu

được trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước này. Do vậy, chính sách gạt bỏ người Do

Thái một cách không thương tiếc và rất đỗi tùy tiện chắc chắn đã tạo ra một khoảng trống

không thể tram đầy chỉ trong một thời gian ngắn. Hẳn đây là một trong những nguyên nhân

góp phần đẩy chế độ Quốc xã đến chỗ sụp đổ chỉ sau 12 năm tại vị.

47

CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ

ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU

TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)

Đây là giai đoạn đỉnh cao của chủ nghĩa Bài Do Thái. Chính phủ Đức Quốc xã đi đến

giải pháp tối hậu cho vấn đề Do Thái bằng việc tàn sát có quy mô lớn và tàn bạo nhất trong

lịch sử nhân loại mà cả thế giới biết đến với cái tên Holocaust.

3.1. Tổng quan về Holocaust

Thuật từ Holocaust được dùng để chỉ cách Hitler đối xử với người Do Thái, dù nó

không được xem là cách dùng chuẩn mực mãi cho đến thập niên 1950. Đến cuối thập niên

1970, thuật từ này mang ý nghĩa qui ước được dùng để chỉ cuộc tàn sát diệt chủng của Quốc

Xã. Trong nghĩa hẹp, nó cũng được sử dụng để nói đến sự hủy diệt mà người Do Thái ở

châu Âu phải gánh chịu.

3.1.1. Đặc điểm

3.1.1.1. Qui mô

Cuộc tàn sát được tiến hành có hệ thống trên toàn bộ lãnh thổ bị Quốc Xã chiếm đóng.

Tại 35 quốc gia ở Âu châu có người Do Thái và những nạn nhân khác bị bắt và đưa đến các

trại lao động tại một số nước, và đến các trại hành quyết tại những nơi khác. Những vụ hành

quyết tập thể xảy ra nhiều nhất tại Đông Âu và Trung Âu, năm 1939, trong số hơn 7 triệu

người Do Thái thiệt mạng, có khoảng 5 triệu người bị giết tại đây, trong đó có 3 triệu người

chết ở Ba Lan và hơn 1 triệu người chết ở Liên Xô. Hàng trăm ngàn người khác bị giết ở Hà

Lan, Pháp, Bỉ, Nam Tư và Hi Lạp. [73].

Có những chứng cứ cho thấy Quốc Xã lập kế hoạch tiến hành “giải pháp tối hậu” tại

những vùng khác nếu chúng bị chiếm đóng như Anh và Ireland. Những vụ tàn sát vẫn tiếp

diễn trên các vùng đất khác nhau dưới sự kiểm soát của Quốc Xã cho đến khi Đệ Nhị Thế

chiến kết thúc, khi quân đội Đồng Minh tiến vào nước Đức và buộc Quốc Xã đầu hàng vào

tháng 5 năm 1945.

3.1.1.2. Tác động của Holocaust.

Một trong những đặc điểm của Holocaust là đưa con số nạn nhân bị tập trung và sát hại

đến mức cao nhất bằng cách sử dụng mọi nguồn lực và kỹ thuật hiện có trong nước. Lúc ấy,

48

Đức là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực như kỹ thuật, công

nghiệp, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu, giáo dục, tính hiệu quả của guồng máy hành chính...

Chẳng hạn như các bản danh sách những người được xem là đối tượng được thiết lập

và lưu giữ bởi guồng máy của công ty thống kê Dehomag, người ta cũng viết những bản báo

cáo chi tiết về các vụ hành quyết. Khi bị đưa vào các trại tử hình, tù nhân bị buộc phải giao

nộp toàn bộ tài sản cá nhân cho Quốc Xã, chúng được phân loại, đánh số và người tù được

nhận một biên nhận về tài sản đã giao nộp, với mục đích đánh lừa nạn nhân, tạo cho họ cảm

giác an toàn là sẽ có cơ hội nhận lại tài sản và đồ dùng cá nhân của mình.

Ngoài ra, những nỗ lực đáng kể được thực hiện suốt trong thời gian xảy ra vụ

Holocaust nhằm tìm kiếm các phương tiện hiệu quả hơn để có thể sát hại nhiều người hơn.

Những cuộc hành quyết ban đầu thực hiện bởi binh sĩ Đức dùng súng hạ sát hàng ngàn

người Do Thái ở Ba Lan, Ukraina và Belarus gây ra nhiều phản ứng về tình trạng căng

thẳng và suy sụp tinh thần trong vòng binh lính Đức. Các sĩ quan báo cáo với thượng cấp

của họ rằng phương cách giết người mặt đối mặt đã gây ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực

đối với thuộc cấp của họ. Vì muốn tận diệt dân tộc Do Thái, chính quyền Đức Quốc Xã

quyết định tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật, khởi đầu với những thử nghiệm trong sử

dụng chất nổ và độc dược.

Trong tác phẩm Russia’s War, nhà sử học người Anh Richard Overy đã miêu tả tiến

trình tìm kiếm các phương pháp hiệu quả hơn để sát hại nạn nhân của chính phủ Đức Quốc

Xã. Năm 1941, sau khi chiếm đóng Belarus, họ sử dụng các bệnh nhân tâm thần trong các

dưỡng trí viện ở Minsk làm vật thí nghiệm. Lúc đầu, những người này bị buộc đứng sát

nhau theo hàng dọc để bị giết bằng cách bắn xâu chuỗi, nhưng phương pháp này là quá

chậm. Rồi chất nổ được sử dụng, nhưng số người chết không nhiều trong khi nhiều người

khác chỉ bị mất tay và chân. Sau cùng, người Đức chọn cách dùng súng máy để giết hết số

bệnh nhân tâm thần này. Tháng 10 năm 1941, tại Mogilev, Quốc Xã thử nghiệm một loại

hình khác, Gaswagen tức “xe hơi ngạt”. Đầu tiên, họ sử dụng một xe quân sự hạng nhẹ,

nhưng phải mất 30 phút mới giết chết nạn nhân; kế đó, họ dùng một xe tải lớn hơn, nhét đầy

người vào trong và chỉ cần 8 phút để kết thúc mạng sống tất cả người trong xe.

Mùa xuân năm 1942, Chiến dịch Reinhard được khởi động. Carbon monoxide được

đưa vào sử dụng tại những phòng hơi ngạt ở các trại tập trung Belzec, Sobibór và Treblinka;

trong khi đó, Zyklon B được dùng tại trại Majdanek và trại Auschiwitz.

49

Số lượng lớn các thi thể cũng gây khó khăn trong việc tìm chỗ chứa xác. Lúc đầu giải

pháp thiêu xác được xem là bất khả thi cho đến khi họ khám phá ra rằng nếu có thể giữ các

lò thiêu xác ở nhiệt độ thích hợp thì mỡ của các thi thể sẽ giúp lò thiêu vận hành liên tục.

Khi vấn đề kỹ thuật này đã được giải quyết, Quốc Xã đẩy mạnh kế hoạch tàn sát tập thể đến

mức độ cao nhất.

3.1.2. Tiến trình thực hiện Holocaust

3.1.2.1. Khu biệt cư (1939-1942)

Vấn đề xác định biện pháp đối với người Do Thái trở nên cấp bách khi Đức Quốc xã

chiếm đóng phía tây Ba Lan vào tháng 9 năm 1939; khu vực này là nơi sinh sống của

khoảng 2 triệu người Do Thái. Liền sau khi bị Đức chiếm, dân Ba Lan đã phải đi vào lịch sử

của thống khổ triền miên, cuộc sống tủi nhục, đói rách, đầy đọa dưới gót giày của Đức Quốc

xã bắt đầu. Nếu có một dân tộc nào bất hạnh hơn, chỉ có thể là dân tộc Do Thái. Những cuộc

cưỡng chế di dân bắt đầu [38, tr.610].

Cánh tay phải của Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich, đề xuất tập trung tất cả

người Do Thái vào các khu biệt cư (ghetto) ở các thành phố lớn, và buộc họ làm việc phục

vụ cho công nghiệp chiến tranh Đức. Cần phải đặt các khu biệt cư gần các ga hỏa xa đầu

mối, theo lời của Heydrich, để “có thể dễ dàng xử lý sau này”. Trong lần thẩm vấn năm

1961, Adolf Eichmann làm chứng rằng “xử lý” nghĩa là “tàn sát”.

Hitler cố tình đổ lỗi cho người Do Thái về cuộc Chiến tranh thế giới mới do chính

Hitler sắp gây ra. Cuộc chiến tranh này được khởi sự vào tháng 9/1939, khi quân Đức đột

ngột tấn công xâm chiếm Ba Lan, nơi có trên 3 triệu người Do Thái đang sinh sống. Người

Do Thái bị vây ráp và dồn vào các khu biệt cư tại Lodz, Krakov và Varsava, để chờ những

kế hoạch sắp tới. Hàng vạn người đã chết vì đói và bệnh tật trong các khu ổ chuột này. Các

khu biệt cư này được đặt dưới quyền của Himmler, thủ lĩnh của Tổ chức SS Quốc xã, gồm

những tên lính trẻ cuồng tín được coi như thuần khiết về mặt chủng tộc.

Một người Ba Lan kể lại: Người Đức đến, toàn là cảnh sát, họ bắt đầu đập cửa từng

nhà: "Raus, raus, raus, Juden raus." … Một đứa bé kêu khóc... Những đứa khác khóc theo.

Bà mẹ vội tiểu vào tay mình rồi cho đứa bé uống để ngừng khóc... Khi cảnh sát đi rồi, tôi

bảo các bà mẹ bước ra. Một đứa bé đã chết... vì quá sợ hãi, người mẹ đã làm con mình ngạt

thở. [73].

50

Đức ra lệnh đăng ký của tất cả người Do Thái và một từ " Jude "đã được đóng dấu

trong chứng minh nhân dân. Nhiều điều hạn chế và cấm nhằm vào mục tiêu người Do Thái

đã được giới thiệu và áp dụng. Ví dụ, người Do Thái bị cấm không được đi bộ trên vỉa hè,

sử dụng giao thông công cộng, nhập địa điểm giải trí, đấu trường thể thao, nhà hát, bảo tàng

và thư viện. Trên đường phố, người Do Thái đã phải nâng chiếc mũ của mình để người Đức

đi qua. Tính đến cuối năm 1941 tất cả người Do Thái ở Ba Lan bị Đức chiếm đóng, ngoại

trừ trẻ em, phải đeo một huy hiệu với một ngôi sao màu xanh David. Đồng thời, Đức cho

phép Ba Lan xuất bản các tờ báo chống đối không cho người Do Thái cư trú và tỏ thái độ

thờ ơ đối với họ. [35].

Sau năm 1939, lúc khởi phát chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều trại tập trung được

xây dựng để giam cầm những kẻ thù phi chính trị của Quốc Xã, trong đó có người Do Thái

và tù binh chiến tranh, những người này hoặc bị giết hoặc trở thành lao động khổ sai, luôn

luôn chịu đói và bị tra tấn.

Trong thời kỳ chiến tranh, trại tập trung dành cho dân Do Thái và những “người đáng

ghét” mọc lên khắp mọi nơi ở Âu châu, lúc này những trại tân lập được xây dựng kế cận các

khu trung tâm có nhiều “người đáng ghét”, thường tập trung vào những khu vực có đông

người Do Thái. Ngay trên đất Đức cũng có các trại tập trung, nhưng đa phần đều nằm trong

lãnh thổ bị Đức chiếm đóng của Ba Lan. Việc vận chuyển tù nhân thường diễn ra trong tình

trạng khủng khiếp, tù nhân bị nhồi nhét vào những toa hàng đóng kín, nhiều người chết trên

đường đi.

Khi nhập trại, tù nhân bị buộc phải xăm trên mình số tù. Những người còn đủ sức phải

làm việc 12–14 giờ mỗi ngày. Luôn luôn có tập hợp điểm danh trước khi bắt đầu và sau khi

kết thúc những giờ lao động khổ sai. Những lần tập hợp điểm danh này kéo dài hàng tiếng

đồng hồ, ngay cả lúc trời mưa hoặc tuyết rơi, nhiều tù nhân chết vì bị cảm lạnh.

Giữa hai thời điểm nhập trại và chết, người tù chịu đựng nhiều hình thức nhục mạ và

tra tấn tinh thần. Họ thường bị đánh đập, roi vọt, trói giật tay treo trên sà ngang, rồi bị bắn

chết cách ngẫu hứng.

Các loại nhục hình đan xen lẫn nhau tạo nên một trải nghiệm kinh hoàng cho những

người bị giam cầm trong trại. Nhiều người mong đợi cái chết như một sự giải thoát.

Tại Ba Lan, Quốc Xã bắt đầu thiết lập những khu biệt cư (ghetto) dành cho người Do

Thái (một số cho người Roma và Sinti) cho đến khi họ bị đưa đến những trại tử thần. Rộng

lớn nhất trong số này là khu biệt cư Warszawa có 380.000 cư dân, đứng thứ nhì là khu biệt

51

cư Łódź, cầm giữ 160.000 người; ngoài ra còn có những khu biệt cư được thiết lập ở nhiều

thành phố khác nhau. Các khu biệt cư được thiết lập trong năm 1940 và 1941, hầu như ngay

lập tức chật cứng tù nhân; mặc dù khu biệt cư Warszawa chứa 30% dân số thành phố

Warszawa, nó chỉ chiếm 2,4% diện tích thành phố, tính trung bình mỗi phòng trong khu biệt

cư chứa 9,2 người ở. Từ năm 1940 đến 1942, trong những khu biệt cư các loại bệnh tật

(nhiều nhất là sốt thương hàn) và đói kém cướp mạng sống hàng trăm ngàn người Do Thái.

[73].

Mùa xuân 1940, Himmler ra lệnh xây dựng một trại tập trung gần thị trấn Oswiecim

của Ba Lan, người Đức gọi là Auschwitz, để giam giữ các tù binh Ba Lan và cung cấp lao

công nô dịch cho các nhà máy của Đức sẽ được xây dựng gần đấy. Cũng trong thời gian

này, Hitler đã xâm chiếm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và Pháp, khiến số người Do Thái đặt

dưới quyền kiểm soát của Hitler ngày càng tăng thêm.

Năm 1941, phát xít Đức xâm chiếm Liên Xô. Tại đây, cũng có khoảng 3 triệu người

Do Thái đang sinh sống trong các làng nhỏ hẻo lánh gọi là Shtetls. Cùng đi với các đội quân

xâm lược Đức có 4 đội quân đặc nhiệm SS mang tên “Einsatzgruppen” đã triệt để vây ráp

và bắn chết tất cả cư dân tại các Shtetls này.

Mùa hè năm 1941, thủ lĩnh Himmler triệu tập tên trưởng trại Auschwitz, Rudolf Hoess,

đến Berlin và căn dặn: “Thủ lĩnh tối cao Hitler đã ra lệnh phải giải quyết cho xong vấn đề

Do Thái, và đã chọn Auschwitz cho mục đích này”[12, tr.22]. Tại Auschwitz, một trại lớn

nữa đã được xây dựng và được gọi là Auschwitz II (tức Birkenau). Đây sẽ là nơi đặt 4

phòng hơi ngạt để tàn sát hàng loạt. Ý niệm sử dụng phòng hơi ngạt xuất phát từ “Chương

trình chết không đau” giống như cuộc “giết người nhân ái” mà bọn thầy thuốc Quốc xã

tiến hành đối với những người bệnh và người tàn tật tại Đức và Áo. [12, tr.22].

Khi Đức xâm lược Liên Xô vào năm 1941. Các nhà lãnh đạo của SS và cảnh sát và

các nhà lãnh đạo của lực lượng vũ trang Đức đã ký kết thỏa thuận trước cuộc xâm lược. Phù

hợp với các thỏa thuận này, SS và các đơn vị công an - bao gồm Einsatzgruppen của an ninh

cảnh sát Đức và SD và tiểu đoàn của cảnh sát Đức - theo sau quân đội Đức vào lãnh thổ

Liên Xô mới chiếm đóng. Đóng vai trò là đơn vị giết chết di động, họ tiến hành các hoạt

động nhằm mục đích tiêu diệt toàn bộ cộng đồng người Do Thái. Đến mùa thu năm 1941,

SS và cảnh sát giới thiệu xe tải khí di động. Những chiếc xe tải có ốp ống xả cấu hình lại để

bơm khí carbon monoxide độc hại vào không gian kín, giết chết những người bị khóa bên

trong. Chúng được thiết kế để bổ sung cho các hoạt động giết liên tục.

52

Chính quyền của Đức tại các nơi chiếm đóng thực hiện các hoạt động tiêu diệt người

Do Thái và những người khác họ coi là kẻ thù vĩnh viễn của Đức ở phía đông; các hoạt

động này kéo dài cho đến khi người Đức chiếm đóng hoàn toàn Liên Xô trong nửa đầu năm

1944. SS và cảnh sát thường không có đủ nhân lực để thực hiện các hoạt động này, vì vậy

họ đã được hỗ trợ bất cứ khi nào cần thiết của chính quyền địa phương mà họ tuyển dụng và

các đơn vị lực lượng vũ trang Đức. Đức và các cộng sự đã giết chết từ 1.0 và 1.5 triệu

người Do Thái trong các xe hơi ngạt ở Liên Xô. [73].

Bốn tuần sau khi cuộc xâm lược của Liên Xô, vào ngày 17 tháng 7 năm 1941, Hitler

giao nhiệm vụ trưởng SS cho Heinrich Himmler chịu trách nhiệm cho tất cả các vấn đề an

ninh ở đây. Hitler đã để Himmler quyền để có thể loại bỏ bất kỳ mối đe dọa cho nước Đức.

Hai tuần sau đó, vào ngày 31, Reich Marshall Hermann Göring- giám đốc của Tổng cục an

ninh quốc gia (RSHA) và cấp dưới trực tiếp của Himmler, để chuẩn bị cho thực hiện một

"giải pháp cuối cùng “cho người Do Thái." Từ đây, SS nói chung và RSHA có thẩm quyền

quyết định cuả Hitler để quản lý việc thực hiện "giải pháp cuối cùng." [Các RSHA bao gồm

lực lượng An Ninh (Gestapo và Cảnh sát hình sự) và Cơ quan An ninh (Sicherheitsdienst-

SD)]

Trong tháng 10 năm 1941, Himmler cho phép SS cùng Odilo Globocnik (SS và cảnh

sát nhà lãnh đạo cho các huyện Lublin của Generalgouvernement) để thực hiện một kế

hoạch có hệ thống giết tất cả người Do Thái cư trú tại các Generalgouvernement.

Vào ngày 16 tháng 12 năm 1941, tại một cuộc họp của các quan chức của Chính phủ

chung , Hans Frank gọi bài phát biểu của Hitler như ông mô tả sự hủy diệt sắp tới của người

Do Thái.

Trước đó, các đơn vị đặc nhiệm Einsatzgruppen đã làm thí điểm bằng cách sử dụng các

xe chở hơi ngạt lưu động để giết người Do Thái tại Liên Xô. Người Do Thái bị dồn vào một

conterno khép kín ở phía sau xe rồi bị xả hơi độc. Tuy nhiên, phương cách này tỏ ra chậm

chạp bởi “năng xuất” trung bình của mỗi xe chỉ được gần 50 người. Vì vậy cách giết người

nhanh nhất lúc đó vẫn là xử bắn hàng loạt. Trên 33.000 người Do Thái đã bị bắn chết tại khe

núi Babi Yan gần Kiev, chỉ trong 2 ngày của tháng 9/1941.

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II đã thay đổi mọi thứ. Cuộc càn quét của Hitler ở

Đông Âu đã giúp Hitler nắm trong tay mạng sống của những người Do Thái châu Âu. Chỉ

riêng Ba Lan và những phần nước Nga bị chiếm đóng đã có 5,5 triệu người Do Thái; ở

Rumani và Hungary có 1,2 triệu. Số còn lại sống rải rác ở Đông và Tây Âu và bán đảo Ban

53

Căng. Tháng 7/1941, khi những cỗ xe thiết giáp đang tiến vào Matxcơva thì Hitler đã quyết

định tiến hành trước “phương án cuối cùng”.

Bốn nhóm hoạt động đặc biệt với khoảng một nghìn người mỗi nhóm đã được thành

lập và gửi tới Đông Âu. Mỗi nhóm gồm có đội quân SS và những tội phạm được thả tự do

để thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”. Nhiệm vụ: theo dõi những đội quân và quét sạch những

cộng đồng người Do Thái đằng sau những đội quân đó. Những tướng quân đội phải thường

xuyên giúp đỡ họ bằng mọi cách có thể.

Một nhóm hoạt động đặc biệt sẽ vây bắt tất cả số người Do Thái ở một khu vực và

buộc họ phải đào một cái hố ở một nơi xa đường cái, giống như một cuộc đốn rừng. Sau đó

từng người một, không kể già trẻ, phải lột hết quần áo và giày dép, xếp thành những chồng

ngay ngắn. Thời tiết không hề có ảnh hưởng gì, những người này bị bắt phải đứng đợi trong

nhiệt độ dưới 0. Khi đến lượt mình, họ phải nhảy xuống cái hố đó và nằm đè lên người

trước họ. Những tên lính cận vệ với những khẩu súng máy và súng tự động sau đó đã bắn

chết họ từ sau gáy. [73].

Ở những nơi Babi Yar- Ucraina, hàng nghìn người bị tàn sát mỗi ngày. Ở đó, trong hai

ngày đã có 35.000 người chết, và cuối cùng có 100.000 xác người bị chôn ở thung lũng sâu

này. Cả bốn nhóm này đã giết hại không dưới 700.000 người Do Thái trong chưa đầy một

năm.

Có khoảng 1,6 triệu người Do Thái bị giết chết bởi Quốc Xã và những người cộng tác trong

những cuộc hành quyết ngoài trời, nhất là trong năm 1941 trước khi thiết lập những trại tập

trung. Trong thời gian xâm lăng Liên Xô, có hơn 3.000 đội hành quyết đặc biệt (được tổ

chức thành bốn lực lượng đặc nhiệm – Einsatzgruppen) theo chân quân đội Quốc Xã và tiến

hành những vụ hành quyết tập thể mà nạn nhân là người Ba Lan, các viên chức Cộng sản và

dân Do Thái sống trong lãnh thổ Liên Xô.

Theo lời của Otto Ohlendorf khi bị đem ra xét xử, “Einsatzgruppen có nhiệm vụ bọc

hậu cho quân đội bằng cách áp dụng các biện pháp như tàn sát người Do Thái, dân Di-gan,

các viên chức Cộng sản, và bất cứ ai tỏ ra nguy hiểm cho nền an ninh”. Trong thực tế, nạn

nhân của họ đa phần là dân thường người Do Thái (không có thành viên nào của

Einsatzgruppen bị giết khi thi hành nhiệm vụ). Đến tháng 12 năm 1941, bốn đội

Einsatzgruppen báo cáo số người họ sát hại lần lượt là 125.000, 45.000, 75.000, và 55.000 –

tổng cộng là 300.000 – thường thì họ nhắm bắn hoặc ném lựu đạn vào hố tập thể bên ngoài

các thị trấn.

54

Vụ tàn sát người Do Thái sinh sống ở Liên Xô diễn ra trong một khe núi gọi là Babi

Yar bên ngoài Kiev, có 33 771 người Do Thái bị sát hại chỉ trong một cuộc càn quét từ 29

đến 30 tháng 9 năm 1941. Thiếu tướng Friedrich Eberhardt, chỉ huy trưởng quân sự, SS-

Obergruppenführer Friedrich Jeckeln, chỉ huy trưởng cảnh sát, và Otto Rasch, tư lệnh

Einsatzgruppe C là những người ra lệnh tiến hành cuộc tàn sát được phối hợp bởi các lực

lượng SS, SD và an ninh, với sự hỗ trợ của cảnh sát Ukraina.

Vào thứ Hai, dân Do Thái ở Kiev bị tập trung tại một nghĩa trang, chờ đưa lên tàu hỏa. Số

người tập trung khá đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em nên không ai biết điều gì sẽ xảy ra

cho đến khi quá trễ: đến lúc họ nghe tiếng súng máy khai hỏa thì không ai còn có cơ hội

trốn thoát. Tất cả bị dẫn vào một con rãnh hẹp theo mỗi nhóm mười người, rồi bị bắn. Một

tài xế xe tải kể lại:

Lần lượt từng người một bị lột bỏ hành lý, rồi áo khoác, giày, áo trong, và cả đồ lót…

Sau khi đã trần truồng, họ bị dẫn vào hẻm núi khoảng 150 m dài, 30 m ngang, và sâu 15

m… Khi đến đáy hẻm núi, Schutzpolizei bắt họ nằm trên lớp người vừa bị hành quyết trước

đó… Xác chết xếp thành nhiều lớp. Một tay súng cầm súng máy đến bắn từng người vào

cổ… Tôi thấy những xạ thủ đứng trên các lớp thi thể nhắm bắn từng người một…Một tay

súng bước qua các xác chết để nhắm vào một người đang nằm kế đó, và bắn người ấy. [73].

Tháng 8 năm 1941, Himmler đến Minsk, đích thân chứng kiến vụ hành quyết 100

người Do Thái bên ngoài thành phố. SS-Obergruppenführer Karl Wolff ghi lại trong nhật

ký, “Mặt Himmler tái mét, móc vội khăn tay ra lau mặt khi óc của nạn nhân văng vào mặt

ông ấy, rồi nôn thốc tháo.”

Viện Bảo tàng Holocaust Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện của một nạn nhân của

Einsatzgruppen may mắn còn sống sót khi đội này sát hại 1.600 người Do Thái vào ngày 6

tháng 4 năm 1942 tại Piryatin, Ukraine, tức là ngày thứ hai của Lễ Vượt qua:

Tôi chứng kiến cuộc tàn sát. Lúc 5 giờ chiều phát ra mệnh lệnh, “Lấp đầy các hố.”

Tiếng gào thét và rên rỉ vọng lên từ đáy hố. Đột nhiên, tôi thấy người hàng xóm Ruderman

ngoi lên từ mặt đất... Đôi mắt của anh đầy máu, kêu la: “Giết tôi đi!”... Một phụ nữ gục chết

dưới chân tôi. Một bé trai năm tuổi từ dưới xác mẹ bò ra và bắt đầu kêu khóc thảm thiết.

“Mẹ ơi!”. Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy, trước khi bất tỉnh.

Đối tượng ban đầu là người Ba Lan, trong đó có 30.000 nhà trí thức và chính trị gia bị

vây bắt, 7.000 người trong số họ bị hành quyết. Đến mùa hè năm 1941, các đội hành quyết

quay sang tìm giết người Do Thái, khởi đầu với vụ hành quyết 2.000 người Do Thái tại

55

Bialystok ngày 27 tháng 6 năm 1941, sau đó con số nạn nhân gia tăng mau chóng. Ngày 26

tháng 6, các lực lượng SS Đức hạ sát 1.500 người Do Thái. Từ ngày 30 tháng 6 đến 3 tháng

7 năm 1941, 4.000 người Do Thái thiệt mạng bởi tay những người Ukraina cộng tác với

Đức. Từ tháng 9 cho đến cuối năm 1941, một chuỗi các vụ tàn sát tập thể được tiến hành

trên khắp Ba Lan, Litva, Ukraina và Latvia: hơn 33.000 người Do Thái mất mạng tại Babi

Yar, 25.000 người khác bị giết bởi Quốc Xã Latvia (Arjas Commando), hơn 36.000 người

chết tại Odessa bởi lực lượng Romania, 19.000 người tại Pháo đài số chín ở Kaunas, và

40.000 (đến năm 1944, con số này là 100.000) bị hành quyết bởi SS Đức. Trong vòng năm

tháng, tại châu Âu mỗi tháng có khoảng 100.000 người Do Thái bị hành quyết. Đến cuối

năm 1943, có thêm 900.000 người Do Thái bị giết theo cách này, nhưng tiến độ này vẫn bị

xem là chậm đối với giới lãnh đạo Quốc Xã, nên đến cuối năm 1941 đầu năm 1942 họ cho

tiến hành Giải pháp Tối hậu, nhằm tận diệt người Do Thái tại châu Âu.

3.1.2.2. Giải pháp cuối cùng (1942-1945)

Năm 1942 đã đánh dấu sự mở đầu của cuộc tàn sát với quy mô chưa từng thấy trong

lịch sử nhân loại. Tháng 1/1942, 15 tên trùm phát xít , đứng đầu là Reinhard, thủ lĩnh thứ

hai của lực lượng SS, đã dự Hội nghị Wannsee tại Berlin, để cùng phối hợp thực hiện “giải

pháp cuối cùng” đối với người Do Thái. Người Do Thái ở châu Âu sẽ bị quy tập và đẩy

sang Ba Lan, là nơi đang xây dựng các trung tâm thủ tiêu tại Belzec, Sobibor, Trebinka và

Auschwitz- Birkenau. “Giải pháp cuối cùng” này mang mật danh “Hành động Reinhard”,

được bắt đầu vào mùa xuân 1942: trên 2 triệu người Do Thái đã bị đưa vào các phòng hơi

ngạt.

Đức Quốc xã thường xuyên sử dụng ngôn ngữ hoa mỹ để che giấu bản chất thật sự

của tội ác của họ. Họ sử dụng thuật ngữ "Giải pháp cuối cùng" để tham khảo kế hoạch của

họ để tiêu diệt dân Do Thái. Người ta không biết khi các nhà lãnh đạo của Đức Quốc xã dứt

khoát quyết định thực hiện "giải pháp cuối cùng." Tội ác diệt chủng, hoặc hủy diệt hàng

loạt, của người Do Thái là đỉnh điểm của một thập kỷ của các biện pháp phân biệt đối xử

ngày càng nghiêm trọng.

Cuối năm 1941, Himmler và Heydrich tỏ ra mất kiên nhẫn với tiến độ của Giải pháp

Tối hậu. Đối thủ chính của họ là Göring, vốn thành công trong nỗ lực giữ các công nhân Do

Thái khỏi bị trục xuất đến Ba Lan, ông cũng liên kết với các tư lệnh quân đội là những

người chống đối việc trục xuất người Do Thái do những tính toán về lợi ích kinh tế, do sự

ghê tởm đối với lực lượng SS, và cũng vì lòng nhân đạo (trong một số trường hợp). Mặc dù

56

quyền lực của Göring đã suy giảm từ khi lực lượng không quân của ông thất bại trước sức

mạnh phòng không của Anh, ông vẫn được duy trì đặc quyền tiếp cận với Hitler.

Vì vậy, Heydrich phải triệu tập Hội nghị Wannsee vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 tại

biệt thự Am Großen Wannsee No. 56-58 ngoại ô Berlin để đúc kết kế hoạch tiêu diệt dân Do

Thái. [40]. Kế hoạch được biết với tên Aktion Reinhard (Chiến dịch Reinhard). Có mặt tại

hội nghị có Heydrich, Eichmann, Heinrich Müller (lãnh đạo Gestapo), đại diện của Bộ Các

Lãnh thổ Miền đông bị Chiếm đóng, Bộ Nội vụ, Văn phòng Kế hoạch Bốn năm, Bộ Tư

pháp, Chính quyền ở Ba Lan (có 2 triệu người Do Thái sống ở đây), Văn phòng Ngoại giao,

Văn phòng Chủng tộc và Tái định cư, Đảng Quốc Xã, và văn phòng phân phối tài sản người

Do Thái. Ngoài ra còn có SS-Sturmbannführer Rudolf Lange, chỉ huy SD ở Riga, người mới

vừa dọn sạch khu biệt cư Riga.

Theo Michael Berenbaum, 15 người ngồi quanh chiếc bàn hội nghị được xem là những

nhân vật tài trí nhất; hơn một nửa trong số họ đều có học vị tiến sĩ của các đại học Đức.

Rượu mạnh được dọn lên trong khi họ bàn luận.

Người ta trình lên hội nghị kế hoạch tàn sát tất cả người Do Thái ở châu Âu, kể cả

330.000 người sinh sống ở Anh và 4.000 ở Ireland.

Theo báo cáo, có 2,3 triệu người Do Thái ở Ba Lan, 85.000 ở Hungary, 1,1 triệu sống

tại các quốc gia bị chiếm đóng, và có đến 5 triệu người Do Thái ở Liên Xô (3 triệu trong số

này đang sống trong vùng bị Đức chiếm đóng) – tổng cộng có khoảng 6,5 triệu. Tất cả sẽ

được vận chuyển bằng tàu hỏa đến các trại hành quyết (Vernichtungslager) ở Ba Lan, tại đó

những người không thể làm việc sẽ bị giết bằng hơi ngạt ngay lập tức. Tại các trại khác, như

Auschwitz, những người còn có thể làm việc được cho sống một thời gian, nhưng rồi cũng

bị mất mạng. Đại diện của Göring, Tiến sĩ Erich Neumann, giành được một sự miễn trừ có

giới hạn cho một số tầng lớp công nhân Do Thái.

Các "giải pháp cuối cùng" là tên mã cho các hệ thống, có chủ ý, sự hủy diệt vật chất

của người Do Thái châu Âu. Tại một số thời điểm vẫn chưa được xác định trong năm 1941,

Hitler ủy quyền chương trình giết người hàng loạt người Do Thái ở châu Âu cho Heydrich.

Heydrich triệu tập Hội nghị Wannsee (1) để thông báo và đảm bảo sự hỗ trợ của các bộ và

các cơ quan liên quan khác có liên quan đến việc thực hiện "giải pháp cuối cùng", và (2) tiết

lộ cho những người tham gia rằng Hitler đã giao nhiệm vụ Heydrich và RSHA cùng phối

hợp hoạt động.

57

Mục đích của Hội nghị Wannsee là rõ ràng đối với người tham gia: hơn nữa sự phối

hợp của một chính sách nhắm vào sự hủy diệt người Do Thái ở châu Âu .

Đức Quốc Xã thành lập sáu trại hủy diệt khắp Ba Lan năm 1942. Tất cả các trại

Chelmno (Kulmhof), Belzec, Sobibor, Treblinka, Majdanek và Auschwitz (Oswiecim) -

được đặt trên mạng lưới đường sắt để các nạn nhân có thể dễ dàng vận chuyển cho họ. Hệ

thống các trại đã được mở rộng trong quá trình của Đức chiếm đóng Ba Lan và mục đích

của họ là đa dạng, một số từng là trại trung chuyển, một số trại lao động cưỡng bức và một

số trại như tử thần. Trong khi ở các trại tử thần, các nạn nhân thường được giết ngay sau khi

đến, trong những trại khác người Do Thái có thể thân được làm việc và bị đánh đến chết.

Trại hành quyết được thiết lập với mục đích sử dụng công nghiệp hành quyết để tận

diệt tù nhân trong trại. Đây là loại hình khác với các trại tập trung hoặc trại lao động. Hơn

ba triệu người Do Thái mất mạng trong các trại hành quyết này. Phương pháp sát hại là

dùng khí độc (Zyklon B hoặc carbon monoxide) trong những “phòng hơi ngạt”, mặc dù vẫn

có nhiều nạn nhân bị giết bằng súng hoặc bằng các phương tiện khác. Thi thể của họ bị đem

vào các lò thiêu xác (riêng ở trại Sobibór, dùng các giàn thiêu ngoài trời), tro người chết

được rải hoặc chôn.

Các trại hành quyết được điều hành bởi các sĩ quan SS, dưới quyền họ thường là các

phụ tá người Ukraina hoặc Baltic. Lính chính quy Đức không được đến gần.

Tại các trại hành quyết có phòng hơi ngạt, tất cả tù nhân được đưa đến bằng xe lửa,

vào địa điểm tiếp nhận, tại đây tất cả áo quần và tư trang đều bị tước đoạt. Họ bị dồn, thân

thể trần truồng, vào các phòng hơi ngạt. Trước đó họ được bảo cho biết được đưa đi tắm

hoặc tẩy trừ rận chấy, trên đường đi có các bảng chỉ dẫn “phòng tắm” hoặc “tắm hơi”. Mọi

chi tiết về quá trình thủ tiêu đã được hoạch định kỹ lưỡng. Những người Do Thái bị đưa đến

các trại tập trung bằng xe lửa đều bị lừa dối là họ được đưa đến các “trạm quá cảnh” để chờ

đưa đến nơi khác làm việc. Bọn SS bảo họ cởi bỏ quần áo để được đưa đến các phòng tắm

rửa cho thỏa mái. Trước tiên là đàn ông sau đó là đàn bà bị cắt hết tóc và trẻ em, tất cả đều

trần truồng và bị lùa vào một hành lang nhỏ hẹp mà bọn SS gọi là “Đường lên thiên đàng”.

Cuối con đường này là các “phòng tắm”. Khi đoàn người Do Thái đã vào chật kín, các

phòng này liền bị đóng chặt và khói monoxyt carbon gây tử vong được phun vào bởi các

máy nổ chạy bằng diesel đặt bên ngoài.

Theo Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, boong ke 1 chứa 800 người, boong ke 2

chứa 1.200. Một khi phòng hơi ngạt đầy người, cửa phòng bị khóa chặt và những viên

58

Zyklon-B, được thả vào phòng qua những lỗ thông hơi trên tường, bắt đầu tỏa khí độc.

Những người bị nhốt trong phòng sẽ chết trong vòng 20 phút; chết nhanh hay chậm phụ

thuộc vào vị trí người ấy đứng gần lỗ thông hơi hay không, theo ước tính của Rudolf Höß,

khoảng một phần ba nạn nhân chết tức khắc. Joann Kremer, một bác sĩ SS, làm chứng: “Có

thể nghe tiếng la hét kêu gào của các nạn nhân, rõ ràng là họ đang cố tìm cách cứu mạng

mình.”

Khi dọn xác nạn nhân, các tù nhân từng là nha sĩ được giao nhiệm vụ dùng kềm thu hồi

răng vàng trong miệng các xác chết, và tóc của những xác phụ nữ đều bị cắt.

Một phát kiến mới là chúng tôi cho xây dựng các phòng hơi ngạt có thể chứa 2.000

người cùng một lúc, trong khi trại Treblinka với 10 phòng hơi ngạt chỉ chứa mỗi lần 200

người. Tù nhân được phân loại như sau: tại Auschwitz chúng tôi có hai bác sĩ chuyên làm

việc này. Tù nhân xếp hàng từng người một đến trình diện bác sĩ, những người có đủ sức

khỏe để làm việc sẽ được nhập trại. Những người còn lại bị đưa đến chỗ hành quyết. Trẻ em

còn nhỏ chắc chắn bị giết vì chúng không thể làm việc. Một cải tiến khác khiến chúng tôi

qua mặt trại Treblinka, là ở Treblinka nạn nhân hầu như luôn biết là họ sẽ bị hành quyết,

trong khi ở Auschwitz chúng tôi cố làm cho họ tin là họ đang được đưa đi tẩy trừ chấy rận.

Dĩ nhiên, nhiều khi họ nhận ra ý định của chúng tôi, vì vậy đôi khi chúng tôi cũng gặp khó

khăn hoặc có khi bùng nổ bạo loạn. Thường thì các bà mẹ cố giấu con mình sau những lớp

áo, nhưng chúng tôi phát hiện ra ngay và đem chúng đi hành quyết. Chúng tôi được lệnh

tiến hành các cuộc hành quyết trong bí mật, nhưng mùi hôi thối bốc ra từ những thi thể bị

thiêu lan tỏa khắp vùng, nên mọi người dân sinh sống gần đó đều biết rằng các cuộc hành

quyết đang diễn ra trong trại Auschwitz. - Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, làm chứng

tại Nuremberg.

Trong số các trại được xây dựng, phải kể đến ba loại trại tử thần:

Trại hủy diệt: Treblinka, Sobibor, Belzec, nơi các tù nhân bị giết chết ngay khi đến

nơi. Ban đầu, các trại sử dụng carbon monoxide phòng hơi ngạt, lúc đầu, xác chết đã bị

chôn vùi, nhưng sau đó đốt trên pyres. Sau đó, khí phòng và lò hỏa táng được xây dựng ở

Treblinka và Belzec; Zyklon-B . đã được sử dụng trong Belzec.

Các trại tập trung, tiêu diệt nơi một số tù nhân đã được lựa chọn cho lao động nô lệ,

thay vì cái chết ngay lập tức, họ đã được giữ sống như tù nhân trại, sẵn sàng làm việc bất cứ

nơi nào Đức Quốc Xã. Các trại này - bao gồm cả Auschwitz, Majdanek, và Jasenovac - sau

59

đó đã được trang bị thêm với Zyklon-B khí phòng và lò hỏa táng, còn lại hoạt động cho đến

khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945.

Trại hủy diệt nhỏ như Sajmiste ở Serbia, Trostenets Maly ở Liên Xô, Janowska , ở Ba

Lan, và Gornija Rijeka , ban đầu hoạt động như trại giam, trại trung chuyển, sau đó là trại

hủy diệt vào cuối chiến tranh, sử dụng di động khí phòng và xe hơi . Xe tải khí ban đầu

được phát triển tại các trại diệt Chelmno , trước khi được sử dụng ở những nơi khác.

Xác chết bị thiêu rụi trong lò hỏa táng và tro hoặc chôn hoặc rải rác, nhưng, tại

Sobibor , Treblinka, Belzec, và Chelmno, những xác chết bị thiêu rụi trên pyres. Mỗi trại

hủy diệt hoạt động khác nhau, nhưng mỗi trại đều được thiết kế để giết hại công nghiệp hóa

nhanh chóng và hiệu quả. SS Obersturmführer Kurt Gerstein, Viện Vệ sinh của lực lượng

Waffen-SS, trong chiến tranh nói với một nhà ngoại giao Thụy Điển của cuộc sống trong

một trại chết, như thế nào, vào ngày 19 Tháng 8 năm 1942, ông đến trại tiêu diệt Belzec

(được trang bị carbon monoxide khí phòng) và được thể hiện việc dỡ 45 toa xe lửa chứa đầy

6.700 người Do Thái, nhiều người đã chết, nhưng phần còn lại được tiến hành khỏa thân để

đưa vào các phòng hơi ngạt.

Một tù nhân Sonderkommando (Biệt đội đặc biệt) thực hiện hầu hết các quá trình tiêu

diệt, họ đi kèm với dân Do Thái vào phòng hơi ngạt (một buồng phòng, thường trang bị để

xuất hiện như một phòng tắm lớn, với phun nước, tường gạch… và vẫn ở lại đó cho đến khi

ngay trước cửa phòng đóng lại. Để duy trì tâm lý "tác dụng làm dịu" của sự lừa dối, một

bảo vệ SS đứng ở cửa, như thể đang chờ các tù nhân. Các Sonderkommando vội vã họ cởi

quần áo và bước vào "phòng tắm" càng nhanh càng tốt. Để có hiệu lực đó, họ cũng hỗ trợ

người già và trẻ em bên trong cởi quần áo.

Để thuyết phục thêm các tù nhân rằng không có gì có hại đã xảy ra, các

Sonderkommando lừa dối họ nói chuyện nhỏ về cuộc sống trại. Lo sợ rằng việc "khử trùng"

có thể gây hại cho con cái của họ, nhiều bà mẹ giấu trẻ sơ sinh của họ dưới quần áo chất

đống của họ. Chỉ huy Hoss báo cáo rằng "người đàn ông của Biệt đội đặc biệt là đặc biệt

trên nhìn ra cho việc này", và khuyến khích các phụ nữ để đưa con vào "tắm phòng". Tương

tự như vậy, các Sonderkommando an ủi con- những người có thể khóc "vì sự kì lạ của bị

cởi quần áo trong thời gian này".

Tuy nhiên, không phải tất cả tù nhân đã bị lừa dối bởi như chiến tranh tâm lý chiến

thuật; chỉ huy Hoss báo cáo của người Do Thái "người hoặc đoán, hoặc biết, những gì đang

chờ đợi họ, tuy nhiên ... họ có đủ can đảm để nói đùa với các em, để khuyến khích họ, bất

60

chấp sự khủng bố chết có thể nhìn thấy trong đôi mắt của mình ". Một số phụ nữ sẽ bất ngờ

"cho những tiếng kêu la khủng khiếp nhất trong khi cởi quần áo, hoặc cắt tóc của họ, hoặc la

hét như điên". Các Sonderkommando ngay lập tức đưa họ đi xử bắn.

Một khi cánh cửa của căn phòng chứa đầy khí ga đã được niêm phong, bột viên của

Zyklon B đã được thả xuống thông qua các lỗ đặc biệt trên mái nhà. Quy định của Đức

Quốc xã đòi hỏi chỉ huy trại, giám sát công tác chuẩn bị, các thoát khí và cướp bóc tài sản

của xác chết. Chỉ huy trại báo cáo rằng các nạn nhân hơi ngạt "cho thấy không có dấu hiệu

co giật". Các bác sĩ trại Auschwitz do đó để "làm tê liệt ảnh hưởng đến phổi" của khí

Zyklon-B, giết chết trước khi nạn nhân bắt đầu co giật đau khổ.

Sau khi loại bỏ các xác chết từ các phòng hơi ngạt, họ bắt đầu chiết xuất bất kỳ răng

vàng, và để giảm thiểu mùi riêng biệt của việc đốt cháy tóc con người, họ đã cạo tóc của

những xác chết, trước khi phân phối chúng đến lò hỏa táng hoặc các hố lửa, do đó duy trì bí

mật về sự tồn tại của các trại hủy diệt. Các Sonderkommando chịu trách nhiệm về đốt xác

chết, và việc tăng thêm các vụ cháy, thoát mỡ trong cơ thể, và việc lật lại cái "núi của xác

chết cháy" cho cả quá trình đốt cháy và ngọn lửa nhiệt độ cao nhất. Chỉ huy trại rất ấn tượng

với sự tích cực của các tù nhân Sonderkommando, mặc dù là của họ "cũng nhận thức được

rằng ... họ cũng có cùng số phận", nhưng luôn luôn làm công việc của rất tích cực. Chỉ huy

trại tiếp tục báo cáo rằng những người đàn ông ăn và hút thuốc "ngay cả khi tham gia vào

công việc ghê rợn của xác chết cháy", trong quá trình đó họ thỉnh thoảng gặp phải những

xác chết của một người thân, nhưng mặc dù họ "đã rõ ràng bị ảnh hưởng bởi điều này ... nó

không bao giờ dẫn đến bất kỳ sự cố "của cuộc nổi dậy, như trong trường hợp của một

Sonderkommando người nên gặp xác chết của người vợ, nhưng cư xử" như không có gì xảy

ra".

Như một vấn đề đào tạo chính trị, một lãnh đạo cao cấp Đảng Quốc xã và lãnh đạo các

sĩ quan SS đã được gửi đến Auschwitz-Birkenau để chứng kiến; các chỉ huy trại báo cáo

rằng "tất cả đã được ấn tượng sâu sắc bởi những gì họ nhìn thấy ... nhưng một số ... người

trước đó đã nói lớn tiếng nhất, về sự cần thiết phải tiêu diệt này, im lặng một khi họ đã thực

sự nhìn thấy "giải pháp cuối cùng của vấn đề Do Thái". Như chỉ huy trại Auschwitz là

Rudolf Hoss lý giải việc tiêu diệt trên bằng cách giải thích sự cần thiết phải "quyết tâm sắt

mà chúng ta phải thực hiện mệnh lệnh của Hitler", nhưng thấy rằng ngay cả "Adolf

Eichmann, người chắc chắn là đủ cứng rắn, không có mong muốn thay đổi địa điểm với tôi

". Cuộc sống trong các trại tập trung trong giai đoạn này là vô cùng khắc khiệt. [41].

61

* Trại tập trung Auschwitz

Năm 1942, Quốc Xã cho khởi động giai đoạn tàn sát cao nhất trong vụ Holocaust, theo đề

án Aktion Reinhard, mở cửa các trại hành quyết Belzec, Sobibór, và Treblinka. Tháng 9

năm 1943, hơn 1,7 triệu người Do Thái bị giết trong ba trại này. Trại tử thần lớn nhất được

xây dựng tại Auschwitz-Birkenau, gồm có một trại lao động (Auschwitz) và một trại hành

quyết (Birkenau); trong trại Birkenau có bốn phòng hơi ngạt và một lò thiêu xác. Trại

Birkenau là nơi kết thúc mạng sống của khoảng 1,6 triệu người Do Thái (trong đó có

438.000 người Do Thái bị đem đến từ Hungary chỉ trong vòng vài tháng), 75.000 người Ba

Lan và đồng tính nam, cùng khoảng 19.000 người Roma. Vào lúc cao điểm, mỗi ngày có

đến 8.000 người bị đưa vào phòng hơi ngạt. [73].

Auschwitz II-Birkenau được chỉ định bởi Heinrich Himmler , Bộ trưởng Bộ Nội vụ

Đệ Tam Quốc Xã, như vị trí của các " giải pháp cuối cùng của vấn đề Do Thái ". Từ đầu

năm 1942 cho đến cuối năm 1944, xe lửa vận chuyển người Do Thái đến phòng hơi ngạt

của trại từ khắp nơi mà Đức chiếm đóng.

Sự phức tạp của trại Auschwitz được đặt tại Landkreis Bielitz , khoảng 30 km về phía

nam Katowice và 50 km về phía tây của Kraków, như một phần của khu vực Ba Lan sáp

nhập vào Đức Quốc Xã, bao gồm một công nghiệp lớn khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên.

Có 48 trại trong tất cả. Ba trại chính là Auschwitz I, II Auschwitz-Birkenau, và một trại lao

động gọi là Auschwitz III-Monowitz hoặc Buna.

Các SS-Totenkopfverbände (SS-TV) là tổ chức SS trách nhiệm quản lý các trại tập

trung của Đức Quốc xã cho Đệ Tam Quốc Xã. SS-TV là một đơn vị độc lập trong SS với

cấp bậc của mình và cấu trúc lệnh. Obersturmbannführer Rudolf Hoss là chỉ huy tổng thể

của Auschwitz từ tháng năm 1940 đến tháng 11 1943; Obersturmbannführer Arthur

Liebehenschel từ tháng mười năm 1943 đến tháng 5 năm 1944; và Sturmbannführer

Richard Baer từ tháng 5 năm 1944 đến tháng giêng năm 1945.

Yisrael Gutman viết rằng nó là trong các trại tập trung mà Adolf Hitler khái niệm của

quyền lực tuyệt đối đã thành hiện thực. Primo Levi, người đã mô tả năm của mình trong trại

tập trung Auschwitz trong này Nếu là một người đàn ông , đã viết:

Đã bao giờ có tồn tại một trạng thái thực sự "độc tài toàn trị." ... Không bao giờ có

một số hình thức phản ứng, một sự điều chỉnh tổng thể chuyên chế, còn thiếu, không ngay

cả trong Đế chế thứ ba hoặc Liên Xô của Stalin: trong cả hai trường hợp, dư luận, báo chí

nước ngoài, các nhà thờ, cảm giác cho công lý và nhân loại mười hay hai mươi năm của chế

62

độ độc tài là không đủ để xóa, có đến một mức độ nhiều hay ít hoạt động. Chỉ trong Lager-

trại là sự kiềm chế từ dưới đây không tồn tại, và sức mạnh của các quan trấn thủ nhỏ tuyệt

đối. [41].

Khi nhập trại, mọi vật dụng có giá trị đều bị tịch thu, phụ nữ bị buộc cắt tóc ngắn. Theo

những tài liệu của Quốc Xã, tóc của tù nhân được dùng để sản xuất vớ dài. Tù nhân bị chia

thành hai nhóm: những người yếu sức bị đưa ngay vào phòng hơi ngạt (đôi khi ngụy trang

thành phòng tắm), những người khác bị sử dụng như những lao động khổ sai trong nhà máy

hoặc tại các cơ sở công nghiệp được xây dựng bên trong hoặc kế cận trại. Giầy, vớ dài và

các vật dụng khác của người tù được tái chế thành các sản phẩm phục vụ chiến tranh. Một

số tù nhân bị buộc làm công việc gom xác và thu hồi răng vàng từ các thi thể.

Người dân địa phương bị đuổi, trong đó có 1.200 người sống trong các lều xung quanh doanh trại, tạo ra một vùng trống trên 40 km 2, trong đó người Đức gọi là "khu vực quan tâm

của trại". 300 cư dân Do Thái Oświęcim được đưa vào để đặt nền móng. Từ 1940-1941

17.000 cư dân Ba Lan và người Do Thái của các huyện phía Tây của Oświęcim thị trấn, từ

những nơi tiếp giáp với Trại tập trung Auschwitz, đã bị trục xuất. Đức cũng đã ra lệnh trục

xuất từ các làng của Broszkowice, Babice, Brzezinka, Rajsko, Pławy, Harmęże và Budy.

Việc trục xuất người Ba Lan thường dân là một bước tiến tới thiết lập trại lãi Zone, được

thành lập để cô lập các trại từ thế giới bên ngoài và thực hiện các hoạt động kinh doanh để

đáp ứng nhu cầu của SS. Đức và Volksdeutsche định cư di chuyển vào một số tòa nhà có

dân số Do Thái đã bị trục xuất về các khu ổ chuột.

SS lựa chọn một số tù nhân, bọn tội phạm thường của Đức, như giám sát đặc biệt đặc

quyền của các tù nhân khác (được gọi là kapos ). Mặc dù tham gia vào nhiều tội ác, chỉ có

hai Kapos đã từng bị khởi tố về hành vi cá nhân của họ. Nhiều người coi là đã có nhiều lựa

chọn nhưng phải hành động như họ đã làm. Các lớp khác nhau của tù nhân đã phân biệt bởi

các dấu đặc biệt trên quần áo của họ, người Do Thái và các tù nhân chiến tranh của Liên Xô

đã được thường bị đối xử tồi tệ nhất. Tất cả các tù nhân phải làm việc trong các nhà máy vũ

khí liên quan, trừ chủ nhật. Yêu cầu công việc khắc nghiệt, kết hợp với dinh dưỡng và vệ

sinh, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao trong số các tù nhân.

Auschwitz là "nhà tù trong nhà tù", nơi người vi phạm nhiều quy định bị trừng phạt. Các tù nhân chỉ có diện tích khoảng 1,5 m 2, và bốn người đàn ông sẽ được đặt trong đó, họ

không thể làm gì, hoặc đứng hoặc bị buộc để làm việc với các tù nhân khác. Trong tầng hầm

là tù nhân; các tù nhân này chỉ có một cửa sổ rất nhỏ, và một cánh cửa vững chắc. Tù nhân

63

được đặt trong các tầng hầm này sẽ dần dần chết ngạt khi họ sử dụng hết tất cả lượng oxy

trong tầng hầm. Đôi khi các SS sẽ thắp một ngọn nến trong các tầng hầm để sử dụng hết ôxy

nhanh chóng hơn. Nhiều người đã bị treo với tay ra sau lưng nhiều giờ, thậm chí cả ngày, do

đó khớp vai của họ có thể bị tê liệt.

Xây dựng trên Auschwitz II-Birkenau, các trại diệt chủng, bắt đầu vào tháng 10 năm

1941 để giảm bớt tình trạng tắc nghẽn tại các trại chính. Nó lớn hơn những trại tập trung

Auschwitz I, và nhiều người đi qua cửa của mình hơn thông qua Auschwitz I. Nó được thiết

kế để giữ một số hạng mục của tù nhân, và hoạt động như một trại hủy diệt trong bối cảnh

chuẩn bị của Heinrich Himmler cho giải pháp cuối cùng của người Do Thái. Buồng khí đầu

tiên tại Birkenau là "The Little Red House", một ngôi nhà gạch chuyển đổi thành một cơ sở

thoát khí bằng cách đặt bên trong và lên các bức tường. Nó đã hoạt động vào tháng ba năm

1942. Một ngôi nhà gạch thứ hai, "The Little Nhà Trắng", được chuyển đổi tương tự như

một vài tuần sau đó.

Đầu năm 1943, Đức quốc xã đã quyết định tăng đáng kể khả năng thoát khí của

Birkenau. Hoả táng II, ban đầu được thiết kế như một nhà xác, với nhà xác trong tầng hầm

và trong lòng đất được chuyển đổi thành một nhà máy giết chết bằng cách đặt một cánh cửa

khí hướng về nhà xác và thêm lỗ thông hơi cho khí Zyklon-B vào. Nó đã đi vào hoạt động

vào tháng Ba. Hoả táng III được xây dựng bằng cách sử dụng thiết kế tương tự. Lò hỏa

táng IV và V, được thiết kế từ đầu như các trung tâm thoát khí, cũng được xây dựng sao cho

mùa xuân. Tháng 6 năm 1943 tất cả bốn lò hỏa táng được hoạt động. Hầu hết các nạn nhân

bị giết trong khoảng thời gian sau đó.

Tiếp đó Monowitz (còn gọi là Monowitz-Buna hoặc Auschwitz III), ban đầu được

thành lập như một phần của trại tập trung Auschwitz, đã trở thành một trong ba trại chính

trong hệ thống trại tập trung Auschwitz, với thêm 45 trại trong khu vực xung quanh. Nó

được đặt theo tên thị trấn Monowice (Đức, Monowitz) mà nó được xây dựng đã được nằm ở

phần phụ lục của Ba Lan . Trại được thành lập vào tháng 10 năm 1942 của SS theo lệnh của

IG Farben giám đốc điều hành để cung cấp lao động nô lệ cho họ Buna Werke (Buna trình)

cụm công nghiệp. Tên Buna bắt nguồn từ butadien cao su tổng hợp và dựa trên các ký hiệu

hóa học của natri, Na, sử dụng trong quá trình sản xuất cao su tổng hợp được phát triển ở

Đức. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp khác của Đức xây dựng nhà máy với subcamps riêng

của họ, chẳng hạn như Siemens-Schuckert 's Bobrek subcamp, gần Monowitz để trục lợi từ

64

việc sử dụng lao động nô lệ. Các nhà sản xuất vũ khí Đức Krupp , đứng đầu là thành viên

SS Alfried Krupp , cũng được xây dựng cơ sở sản xuất của họ gần Monowitz.

Monowitz được xây dựng như một Arbeitslager (trại lao động), nó cũng chứa một

"ArbeitsausbildungLager" ("Trại Lao động Giáo dục") cho các tù nhân không phải Do Thái

nhận thức không lên đến ngang bằng với tiêu chuẩn làm việc của Đức. Nó nắm giữ khoảng

12.000 tù nhân, phần lớn trong số họ là người Do Thái, nhưng cũng có bọn tội phạm không

phải Do Thái và tù nhân chính trị. Monowitz tù nhân đã được cho thuê bởi SS để IG Farben

lao động tại Buna Werke, một bộ sưu tập của nhà máy hóa chất bao gồm cả những người sử

dụng để sản xuất Buna ( cao su tổng hợp ) và dầu tổng hợp . SS tính IG Farben ba

reichsmarks (RM) mỗi giờ cho người lao động không có tay nghề, RM4 mỗi giờ cho công

nhân lành nghề và RM1 ½ cho trẻ em. Elie Wiesel , tác giả đoạt giải Pulitzer cuốn sách đêm

, một tù nhân vị thành niên tại Monowitz cùng với cha mình . Tuổi thọ trung bình của người

lao động của người Do Thái tại Buna Werke là 3-4 tháng, đối với những người làm việc

trong các mỏ xa trung tâm, chỉ có một tháng. Những người không thích hợp cho công việc

được coi là cung cấp nhiên liệu ở Birkenau hoặc gửi "đến Birkenau" (nach Birkenau), theo

một uyển ngữ được sử dụng trong IG Farben sách kỷ lục.

Fritz Lohner-Beda (tù nhân số 68.561) là một ca khúc viết lời nổi tiếng, người đã bị

sát hại trong Monowitz-Buna theo lệnh của một IG Farben điều hành, như người bạn của

ông Raymond van den Straaten làm chứng tại phiên tòa Nuremberg của 24 giám đốc điều

hành IG Farben:

Một ngày, hai Buna tù nhân, Tiến sĩ Raymond van den Straaten và Tiến sĩ Fritz

Lohner-Beda, đã đi về công việc của mình khi một bên của quý khách đến thăm IG Farben

chức sắc thông qua. Một trong những đạo chỉ tiến sĩ Lohner-Beda và nói với đồng SS của

mình, "Đây lợn của người Do Thái có thể làm việc nhanh hơn một chút." Giám đốc khác

thì tình cờ nhận xét: "Nếu họ không thể làm việc, cho họ chết trong phòng hơi ngạt". Sau

khi kiểm tra kết thúc, Tiến sĩ Lohner-Beda đã được kéo ra khỏi đảng làm việc và bị đánh

đập và đá cho đến khi, một người đàn ông chết, ông bị bỏ lại trong vòng tay của người bạn

tù của mình, kết thúc cuộc sống của mình trong IG Auschwitz. [73].

Có 45 trại vệ tinh nhỏ hơn, một số người trong số họ hàng chục cây số từ trại chính,

với dân số tù nhân khác nhau, từ vài chục đến vài ngàn, lớn nhất được xây dựng tại

Trzebinia , Blechhammer và Althammer. Subcamps của phụ nữ đã được xây dựng tại

Budy, Pławy , Zabrze , Gleiwitz I, II, III, Rajsko , và Lichtenwerden (nay Svetla). Các trại

65

vệ tinh được đặt tên là Aussenlager (trại bên ngoài), Nebenlager (mở rộng hoặc subcamp),

và Arbeitslager (trại lao động).

Do kích thước lớn và vai trò quan trọng trong các chương trình diệt chủng của Đức

Quốc xã, Trại tập trung Auschwitz bao phủ nhân viên từ các chi nhánh khác nhau của SS,

một số trong đó đã tổ chức chồng chéo và các khu vực chia sẻ trách nhiệm. Trong tất cả, đã

có hơn 7000 thành viên của SS được gán cho Auschwitz trong toàn bộ sự tồn tại của trại.

Cơ quan chỉ huy chung cho toàn bộ trại là văn phòng SS-Kinh tế chính, được gọi là

SS-Wirtschafts-Verwaltungshauptamt hoặc SS-WVHA. Trong WVHA, đó là Bộ D (các trại

tập trung thanh tra ) mà chỉ huy trực tiếp các hoạt động tại trại tập trung Auschwitz.

Các nhân viên chỉ huy của trại tập trung Auschwitz đều là thành viên của SS-

Totenkopfverbände , hoặc SS-TV. Do một nhân viên chỉ thị từ năm 1941 SS

Personalhauptamt , các thành viên của SS-TV cũng được coi là thành viên đầy đủ của lực

lượng Waffen-SS . Nhân viên như vậy đã được ủy quyền tiếp tục để hiển thị trưởng cổ áo vá

của cái chết, cho thấy thành viên đầy đủ trong cả SS-TV và Waffen-SS.

Các Gestapo cũng duy trì một văn phòng lớn ở Auschwitz, nhân viên của nhân viên

Gestapo mặc đồng phục và nhân viên. Auschwitz cũng duy trì một đội ngũ y tế, dẫn đầu

bởi Eduard Wirths , mà các bác sĩ và nhân viên y tế đến từ nguồn gốc khác nhau trong SS.

Khét tiếng Joseph Mengele, ví dụ, là một bác sĩ lĩnh vực chiến đấu trong lực lượng Waffen-

SS trước khi chuyển đến Auschwitz sau khi bị thương trong chiến đấu.

Để trại nội bộ là thuộc thẩm quyền của một nhóm SS, trả lời trực tiếp đến chỉ huy trại

thông qua cán bộ được biết đến với danh hiệu Lagerführer . Mỗi phòng trong số ba trại

chính ở Auschwitz đã được chỉ định một Lagerführer mà trả lời một số SS-hạ sĩ quan được

gọi là Rapportführers. Các Rapportführer chỉ huy nhiều người giám sát trật tự trong doanh

trại tù cá nhân. Giúp SS với nhiệm vụ này là một bộ sưu tập lớn của Kapos, những người tù

nhân được ủy thác. Nhân viên SS giao cho các phòng hơi ngạt là kỹ thuật thuộc cùng một

chuỗi các lệnh như trại nhân viên SS nội bộ khác, nhưng trong thực tế đã được tách riêng và

làm việc và sống tại địa phương trên trang web tại lò thiêu. Trong tất cả, thường là có bốn

nhân viên SS mỗi phòng hơi ngạt, do một hạ sĩ quan, người giám sát xung quanh một trăm

tù nhân Do Thái (được gọi là Sonderkommando) buộc phải hỗ trợ trong quá trình tiêu diệt.

Việc cung cấp thực tế của khí cho các nạn nhân đã được luôn luôn xử lý bởi các SS, điều

này đã được thực hiện bởi một đơn vị SS đặc biệt được gọi là "Phòng vệ sinh" mà sẽ lái xe

Zyklon B đến lò thiêu trong xe cứu thương và sau đó trống rỗng ống đựng vào khí buồng.

66

Ban vệ sinh được đặt dưới sự kiểm soát của các trại tập trung Auschwitz Quân đoàn y tế,

với Zyklon B đặt hàng và phân phối thông qua hệ thống cung cấp trại.

An ninh trại bên ngoài là thuộc thẩm quyền của một đơn vị SS được gọi là "Bộ đội

Tiểu đoàn", hoặc Wachbattalion. Những tháp canh bảo vệ người lái và tuần tra hàng rào

chu vi của trại. Trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như một cuộc nổi dậy của tù nhân,

Tiểu Đoàn Guard có thể được triển khai trong trại như nhu cầu phát sinh, một cảnh trong bộ

phim Khu xám mô tả Tiểu đoàn Guard vào và máy săn nhà hoả táng sau khi

Sonderkommando Do Thái nổi dậy chống lại các đội ngũ bình thường của các lính gác SS.

Khác nhau hành chính và cung cấp nhân viên SS cũng đã được giao cho Auschwitz,

thường là "ra khỏi con đường" của các hoạt động khủng khiếp hơn của trại, dựa ra khỏi cơ

quan hành chính lệnh trong trại chính của Auschwitz I. Oskar Gröning là một trong những

nổi tiếng Auschwitz nhân viên bán hàng, người đã xuất hiện trên một số tài liệu nói về cuộc

sống trong trại tập trung Auschwitz cho SS, và làm thế nào sống trong trại là trong thực tế,

một trải nghiệm thú vị. Auschwitz cũng duy trì một hồ bơi động cơ cũng như một kho vũ

khí mà từ đó tất cả các nhân viên SS sẽ rút vũ khí và đạn dược, mặc dù một số của SS đã

được biết đến để mua khẩu súng ngắn và súng lục của mình.

Ngoài các chỉ huy và kiểm soát thích hợp của Trại tập trung Auschwitz, trại tiếp tục

thường xuyên nhận được đơn đặt hàng, chỉ thị từ các cơ quan khác của SS và nhà nước Đức

Quốc xã. Hơn nữa, trại giảm dưới sự chỉ huy trực thuộc SS và cảnh sát trưởng của khu vực

và thường ban hành lệnh của SS-Reichssicherheitshauptamt hoặc RSHA, mà là một tổ chức

SS chính tham gia trong các chương trình diệt chủng. Reichsführer-SS Heinrich Himmler đã

được biết đến để ra lệnh cho các chỉ huy trại, bỏ qua tất cả các dây chuyền khác của lệnh, để

đáp ứng với chỉ thị của chính mình. Himmler cũng thỉnh thoảng nhận được hướng dẫn rộng

rãi của Adolf Hitler hoặc Hermann Göring , mà ông sẽ giải thích khi thấy phù hợp và

chuyển cho chỉ huy trại Auschwitz.

Tháng Bảy năm 1942, SS đã được tiến hành "lựa chọn," nổi tiếng trong đó người Do

Thái đến được chia thành những người coi là có thể làm việc, người được gửi sang bên phải

và được nhận vào trại, và những người đã được gửi đến bên trái và ngay lập tức cung cấp

nhiên liệu . Các tù nhân đã được vận chuyển từ khắp nơi trên Đức chiếm đóng châu Âu

bằng đường sắt, đến đoàn xe hàng ngày. SS buộc một dàn nhạc để chơi như các tù nhân

mới đi về phía "lựa chọn" của họ và có thể tiêu diệt, các nhạc sĩ có tỷ lệ tự tử cao nhất của

bất cứ ai trong các trại tập trung, bên cạnh Sonderkommandos . Các nhóm được lựa chọn để

67

chết, khoảng ba phần tư tổng số, bao gồm gần như tất cả trẻ em, phụ nữ có con, tất cả tất cả

người già, và những người xuất hiện trên kiểm tra ngắn gọn và hời hợt bởi một bác sĩ SS

không phải là hoàn toàn phù hợp. Auschwitz II-Birkenau tuyên bố nạn nhân nhiều hơn bất

kỳ trại hủy diệt khác của Đức, mặc dù đi vào sử dụng sau khi tất cả những người khác.

Sĩ quan SS nói với các nạn nhân họ đi tắm. Các nạn nhân sẽ cởi quần áo trong một căn

phòng bên ngoài và đi bộ vào phòng hơi ngạt, được ngụy trang như một cơ sở tắm, hoàn

thành với vòi hoa sen giả. Sau khi các cửa đều đóng kín, những người đàn ông SS sẽ đổ ở

dạng bột viên xyanua thông qua lỗ hổng trên mái nhà hoặc cửa sổ bên cạnh. Ở Auschwitz

II-Birkenau, hơn 20.000 người có thể được cung cấp nhiên liệu và hỏa táng mỗi ngày. Đức

quốc xã sử dụng xyanua khí sản xuất từ Zyklon B bột viên, sản xuất bởi hai công ty đã mua

lại quyền cấp phép cho các sáng chế của IG Farben . Mặc dù các bức tường bê tông dày của

các phòng hơi ngạt, la hét và rên rỉ từ bên trong có thể nghe thấy bên ngoài trong vòng 15

đến 20 phút. Trong một không nỗ lực để bóp nghẹt tiếng ồn, hai động cơ xe máy đã rồ ga

đến ga đầy đủ gần, nhưng những âm thanh la hét có thể nghe thấy trên các công cụ.

Sonderkommandos loại bỏ răng vàng từ xác chết của nạn nhân phòng hơi ngạt, vàng

đã được nấu chảy và thu SS. Các đồ dùng của các khách đã bị thu giữ bởi các SS và được

sắp xếp trong một khu vực của trại được gọi là "Canada," cái gọi là vì Canada được xem là

một vùng đất rất nhiều. Nhiều của SS tại trại phong phú mình bằng cách sự ăn că p vặt tài

sản bị tịch thu. ́

Khí phòng làm việc để phát huy tối đa khả năng của họ từ tháng Tư-tháng Bảy năm

1944, trong vụ thảm sát người Do Thái của Hungary . Hungary là một đồng minh của Đức

trong chiến tranh, nhưng nó đã chống lại người Do Thái của mình cho người Đức cho đến

khi Đức xâm lược tháng 3 năm 1944. Từ tháng tư đến 09 tháng 7 năm 1944, 475.000 người

Do Thái Hungary, một nửa dân số trước chiến tranh, bị trục xuất đến Auschwitz, với tốc độ

12.000 một ngày cho một phần đáng kể của thời kỳ đó. Khối lượng lớn đến nỗi SS viện đến

xác chết cháy trong hầm lò ngoài trời cũng như trong các lò hỏa táng.

Đối với hầu hết các tù nhân, một ngày trước khi bình minh bắt đầu (lúc 04:30 theo một

báo cáo; cách khác, vào lúc 3:00 sáng theo tiến sĩ Miklos Nyiszli , người vào trại Tháng

Năm, 1944) với tiếng trống đánh thức vào mỗi buổi sáng hoặc cuộc gọi, với 30 phút cho

phép vệ sinh cá nhân buổi sáng. [41].

Tiến sĩ Nyiszli mô tả điểm danh như kéo dài bốn tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 3:00, vào

thời điểm đó các tù nhân sau đó được lệnh phải xếp hàng bên ngoài trong hàng năm, và "sau

68

đó bắt đầu phần điểm danh", trong đó các nhân viên và lãnh đạo doanh trại gậy đánh các tù

nhân bằng nắm đấm khép kín, bố trí và sắp xếp lại chúng mà không có một lời giải thích

hợp lý , và phát minh ra lý do để làm những việc như vậy, trật tự toàn bộ doanh trại vẫn

ngồi xổm trong một giờ, tay giơ cao lên đầu, chân run rẩy với sự mệt mỏi và lạnh. Đối với

ngay cả trong mùa hè Auschwitz là lạnh, và ánh sáng của những người tù vải bố từng làm

bảo vệ rất ít chống lại mưa và lạnh ". Nyiszli tiếp tục: "Môn thể thao này tiếp tục trong vài

giờ", cho đến khi 7:00, khi các sĩ quan SS đến. Các sĩ quan SS tái kiểm tra và tính lại hàng

ngũ, ghi những con số trong máy tính xách tay của họ, và "Nếu có bất kỳ người chết trong

các doanh trại - và có chung năm hoặc sáu ngày, đôi khi như nhiều như mười - họ cũng có

phải có mặt để kiểm tra. Và không chỉ xuất hiện trong tên, nhưng chất hiện nay, đứng, trần

như nhộng, được hỗ trợ bởi hai tù nhân sống cho đến khi xứng đáng hơn. Đối với sống hay

đã chết, số lượng quy định của tù nhân phải có mặt và điểm danh".

Các tù nhân được lựa chọn để làm việc như Tiến sĩ Josef Mengele nhân viên y tế cấp

cao, tuy nhiên, đã được đưa ra quần áo dân sự, ngủ trong phòng y tế của mười hai "bệnh

viện" doanh trại, và tăng lên hiệu ke n đa nh thư c môi buổi sa ng lúc 7 giờ sáng cho một cuộc

́ ̀ ́

gọi mất "hai hoặc ba phút". Các tù nhân liệt giường cũng được tính”, cũng như các đêm ́ trước đó đã chết. Ở đây cũng vậy người chết được kéo dài ra bên cạnh cuộc sống." Những

tù nhân mất bữa ăn sáng trong phòng của họ.

Sau khi điểm danh, các Kommando , hoặc làm việc chi tiết, có thể đi bộ đến nơi làm

việc của họ, năm ngang nhau, mặc mệt mỏi sọc trại, không có đồ lót và giày gỗ mà không

vớ, hầu hết thời gian không vừa, gây đau đớn. Dàn nhạc của một tù nhân (chẳng hạn như

dàn nhạc nữ của Auschwitz ) đã buộc phải chơi âm nhạc vui vẻ kỳ quặc như các công nhân

đã tuần hành qua các cửa trong bước. Kapos -tù nhân đã được lên chức thợ cả, chịu trách

nhiệm về hành vi của những người tù trong khi họ làm việc, như là một hộ tống SS. Ngày

làm việc kéo dài 12 giờ trong mùa hè, và một chút ít trong mùa đông. Không có thời gian

nghỉ ngơi được phép.

Sau khi làm việc, đã có một buổi tối điểm danh bắt buộc. Nếu một tù nhân bị mất

tích, những người khác phải tiếp tục đứng ở vị trí cho đến khi ông đã tìm thấy một trong hai

hoặc lý do vắng mặt của mình phát hiện ra, ngay cả khi mất tới hàng giờ, không phụ thuộc

vào điều kiện thời tiết. Sau khi điểm danh, có những hình phạt cá nhân và tập thể, tùy thuộc

vào những gì đã xảy ra trong ngày, và sau đó, các tù nhân được phép lui về khối của họ vào

ban đêm để nhận khẩu phần bánh mì và nước. Lệnh giới nghiêm là hai hoặc ba giờ sau đó.

69

Các tù nhân ngủ trong hàng dài những chiếc giường bằng gỗ, nằm trong và trên quần áo và

giày của họ để ngăn chặn chúng không bị đánh cắp.

Theo Nyiszli, "Tám trăm đến một ngàn người bị nhồi nhét vào ngăn chồng của mỗi

doanh trại. Không thể căng ra hoàn toàn, họ phải ngủ có cả chiều dọc và chiều ngang, với

bàn chân của một người trên đầu, cổ, ngực của người khác. Tất cả phẩm giá con người, họ

xô đẩy và cắn và đá nhau trong một nỗ lực để có được không gian rộng hơn "trên đó để ngủ

nhiều hơn một chút thoải mái. Đối với họ không có thời gian để ngủ".

Bác sĩ người Đức thực hiện một loạt các thí nghiệm trên tù nhân tại trại tập trung

Auschwitz. Bác sĩ SS kiểm tra hiệu quả của X-quang như một khử trùng thiết bị bằng cách

quản lý liều lượng lớn cho các tù nhân nữ. Giáo sư Tiến sĩ Carl Clauberg tiêm hóa chất vào

tử cungphụ nữ. Bayer , sau đó là một công ty con của IG Farben , mua tù nhân để sử dụng

như chuột lang để thử nghiệm các loại thuốc mới.

Các bác sĩ nổi tiếng nhất ở Auschwitz là Josef Mengele , được gọi là "Angel of

Death". Đặc biệt quan tâm nghiên cứu về cặp song sinh giống hệt nhau , Mengele đã thực

hiện thí nghiệm tàn ác trên họ, chẳng hạn như gây bệnh trong một đôi và giết chết khác khi

lần đầu tiên đã chết để thực hiện so sánh khám nghiệm tử thi . Ông cũng có mối quan tâm

đặc biệt trong sao lùn, và ông cố tình gây ra hoại tử trong cặp sinh đôi, sao lùn và các tù

nhân khác để nghiên cứu ảnh hưởng. [33, tr.220].

Mặc dù bọn Quốc xã cố tình bưng bít sự tồn tại của các trại thủ tiêu người, nhưng tin

đồn và những báo cáo của một số nhân chứng mục kích được tội ác đã dần dần lọt ra ngoài,

nhất là khi những cuộc xử bắn hàng loạt diễn ra tại các vùng của Liên Xô bị bọn Đức chiếm

đóng.

Nhưng cả Bộ Ngoại giao Mỹ lẫn Anh đều không có hành động nào chống lại sự hủy

diệt người Do Thái. Mãi đến tháng 11/1943, Quốc hội Mỹ mới tổ chức các cuộc điều trần về

tình trạng hoàn toàn thiếu hoạt động của Bộ Ngoại giao Mỹ trước cảnh ngộ bi thảm của

người Do Thái.

Trước sức ép chính trị ngày một tăng, tháng 1/1944, Tổng thống F. Roosevelt đã cho

thành lập Ban Di tản chiến tranh (WRB) nhằm giúp những nước trung lập cứu thoát người

Do Thái. WRB đã giúp cứu sống được 20 vạn người Do Thái nhờ hành động dũng cảm của

một nhà ngoại giao Thụy Sĩ, tên là Raoul Wallenberg, làm việc tại các vùng bị chiếm đóng.

70

Tháng 4/1944, hai tù nhân Do Thái đã trốn khỏi trại Auschwitz và tháng 6/1944 đã

được chuyển đến Vantican để báo cáo tình hình với Giáo hoàng Pius XII, nhưng Giáo hoàng

vẫn im lặng và không hề công khai lên án tội ác của bọn phát xít.

Tháng 7/1944, để lừa bịp dư luận, bọn Quốc xã đã mời một phái đoàn Hồng thập tự

quốc tế đến thăm trại giam giữ người Do Thái tại Theresienstadr, Tiệp Khắc. Phái đoàn này

đã thấy tại đó các ngân hàng, cửa hàng, cửa tiệm café, các lớp học được vội vã dựng lên

hoặc được tân trang, sửa chữa thậm chí còn có cả một chương trình âm nhạc do trẻ em trình

diễn. Nhưng sau khi đoàn Hồng thập tự ra về, phần lớn người dân ở đây, kể cả trẻ em, đã bị

bọn chúng thủ tiêu bằng hơi ngạt.

Tại các trại tập trung, một số cuộc nổi dậy đập phá các lò thiêu người , giết chết bọn

SS do chính người Do Thái và các tù binh Liên Xô thực hiện, tuy đã gây được tiếng vang,

nhưng đã không thành công trọn vẹn.

Nhìn chung, ở khắp châu Âu, dân chúng có thái độ thụ động trước cảnh tượng các gia

đình Do Thái bị đưa lên các đoàn tàu tới các trại tập trung. Chỉ có tại Đan Mạch là đã cứu

thoát được toàn bộ 7.000 cư dân Do Thái tại nước này bằng cách đưa họ lên tàu biển tới nơi

an toàn. [12, tr.23]

Năm 1944, quân đội Hitler liên tiếp bại trận, nhưng việc giết hại vẫn được tiếp tục. Từ

tháng 5 đến tháng 7/1944, dưới sự chỉ đạo của Adolf Eichman, trung tá SS, 430.000 người

Do Thái ở Hunggari đã bị đày ải tới Auschwitz. Trong thời gian này, tại Auschwitz, số

người bị giết và bị thiêu đốt mỗi ngày vẫn lên tới trên 900.

Ngày 24/7/1944, quân đội Xô viết giải phóng trại tập trung đầu tiên tại Majdanek ở

miền Đông Ba Lan, nơi trên 360.000 người đã bị giết hại. Khi Hồng quân tiến gần tới

Auschwitz, Himmler ra lệnh phá hủy toàn bộ các phòng hơi ngạt và buộc 60.000 người

đang bị giam rời khỏi nơi này. Trên đường đi, họ bị bỏ chết dọc đường vì kiệt sức hoặc bị

bọn SS bắn chết vì không theo kịp đoàn tù. Khi Hồng quân đến Auschwitz vào ngày

27/1/1945, ước tính đã có 1.500.000 người Do Thái, 500.000 tù binh Ba Lan, Liên Xô và

người Digân đã bị chết ở đây.

Mùa xuân năm 1945, quân đồng minh phương Tây cũng tiến vào nước Đức, giải phóng

các trại Buchenwald, Bergen-Belsen và Dachau.

Ngày 30/4/1945, bị Hồng quân bao vây tại Berlin, Hitler đã tự sát và nước Đức Quốc

xã đã nhanh chóng sụp đổ. Đến thời điểm ấy, phần lớn người Do Thái ở châu Âu đã bị giết

hại, trong đó 4 triệu người đã bị chết vì hơi độc, 2 triệu bị bắn chết hoặc chết vì đói khổ

71

trong các khu biệt cư. 7 tháng sau, vụ xử tội phạm chiến tranh đã được khởi sự tại

Nuremberg, Đức, với 22 tên đầu sỏ Quốc xã còn sống đã bị kết tội chống lại nhân loại.

Hans Frank, cựu toàn quyền Quốc xã tại Ba Lan, đã tuyên bố tại phiên tòa, với thái độ

ăn năn, rằng:“Hàng ngàn năm sẽ qua đi, nhưng tội lỗi của nước Đức sẽ không thể xóa bỏ”.

[12, tr.23].

3.2. Nỗ lực giải cứu và phong trào kháng chiến

Nếu trận bão lửa Holocaust khiến cho người ta bộc lộ bản chất xấu xa nhất thì nó cũng

làm cho người ta bộc lộ những điều tốt đẹp nhất. Không phải tất cả người Đức đều là những

kẻ phân biệt chủng tộc và những kẻ sát nhân. Một số người, giống như Hoa Hồng trắng,

không chịu nghe theo những lời dối trá của Hitler và liều mạng để giúp đỡ những nạn nhân

của hắn.

Trong số đó có Oskar Schindler, một chủ nhà máy giàu có, người đã không đương đầu

với mọi thứ để giúp đỡ những người không nơi nương tựa. Sau khi Ba Lan bị xâm chiếm,

Schindler đã xây dựng một nhà máy cơ khí tại thành phố Cracow, trong đó có những nô lệ

người Do Thái làm việc. Trong nhà máy của ông, không ai bị đánh đập, bị giết mà được đối

xử bằng sự tôn trọng và sự nhã nhặn. Trong suốt những cuộc vây bắt của quân SS, “người

Do Thái của Schindler” vẫn an toàn.

Oskar Schindler đã làm nên những điều kì diệu. Nhã nhặn và hào phóng, ông rất dễ kết

bạn. Những người “bạn” tốt nhất của ông là những sĩ quan quân đội cấp cao và những tướng

của cơ quan mật vụ, những người luôn được ông đón chào tại nhà và được trao những món

quà có giá trị. Họ thích “Oskar của chúng ta” và giúp đỡ ông rất nhiều. Oskar đã dùng tình

bạn đó để cứu được hơn 1.000 người Do Thái. Họ ẩn náu trong nhà máy của ông trong suốt

những cuộc vây bắt. Nhà máy của ông không bao giờ bị lục soát là nhờ vào những người

“bạn” có thế lực của ông.

Oskar Schindler thậm chí đã cứu những người Do Thái thoát khỏi những chuyến tàu

chết người. Biết rằng có một số công nhân của mình bị bắt trên đường, ông đã tới ga xe lửa.

Khi những người Do Thái bị lùa vào những toa hàng, ông đã hỏi một trung úy SS về những

công nhân của mình. Tên trung úy đã không chịu

thả họ.

Oskar Schindler đã giải thích một cách lịch sự ông là ai và nói tên những người bạn

của mình. Tên trung úy lắc đầu và nói rằng hắn phải thi hành mệnh lệnh và những người Do

72

Thái đó phải đi. “Tôi có thể biết tên anh không?” Oskar Schindler vừa nói vẻ dọa nạt vừa

rút một quyển sổ từ túi ra. Sau đó, hạ thấp giọng, ông nói chuyện như một người đàn ông

với một người đàn ông, rằng: “Tôi tin là tôi có thể đảm bảo với anh rằng anh sẽ được ở Nga

trong vòng một tuần nữa”. Vào năm 1942, Nga có nghĩa là Stalingrad. Những công nhân Do

Thái của Oskar Schindler đã được thả ngay tại chỗ. [33, tr.221-222].

Đã xảy ra tình huống mà toàn thể một quốc gia đứng lên chống lại lệnh trục xuất dân

Do Thái. Trong tháng 10 năm 1943, Vua Christian X của Đan Mạch và thần dân đã cứu

mạng gần 7.500 người Do Thái sinh sống ở Đan Mạch bằng cách lén lút đưa họ đến Thụy

Điển bằng những thuyền đánh cá. Hơn nữa, chính quyền Đan Mạch tiếp tục hành động để

bảo vệ những người Do Thái tại Đan Mạch bị Chính phủ Đức Quốc Xã giam giữ. Khi

những người tù Do Thái trở về sau chiến tranh, họ thấy nhà cửa và tài sản còn nguyên vẹn

như lúc họ bị bắt.

Tại Bulgaria, chính quyền đồng minh với chính phủ Đức Quốc Xã dưới quyền lãnh

đạo của Bogdan Filov, sau khi nhượng bộ trước áp lực của phó chủ tịch quốc hội Dimitar

Peshev và Giáo hội Chính Thống Bulgaria, đã cứu mạng 50.000 công dân gốc Do Thái vì

không chịu trục xuất họ. Chính quyền Phần Lan nhiều lần từ chối các yêu cầu của Đức trục

xuất người Do Thái tại Phần Lan đến Đức. Tương tự, phần lớn những yêu cầu trục xuất

người Do Thái khỏi Na Uy cũng bị khước từ. Tại Roma, khoảng 4.000 người Do Thái và tù

binh tránh khỏi bị trục xuất. Nhiều người được giấu trong những căn nhà an toàn và được

đưa ra khỏi nước Ý bởi một nhóm kháng chiến của một linh mục người Ireland, Monsignor

Hugh O’Flaherty thuộc Tòa Thánh. Một lần, một đại sứ của Vatican tại Ai Cập đã sử dụng

những mối quan hệ chính trị để bảo đảm chỗ trú ẩn cho những người Do Thái bị tước đoạt

tài sản.

Aristides de Sousa Mendes, một nhà ngoại giao Bồ Đào Nha, đã cấp hộ chiếu cho

khoảng 30.000 người Do Thái và các nhóm thiểu số khác tại Âu châu. Ông cứu nhiều mạng

người nhưng phải hi sinh sự nghiệp chính trị của mình. Năm 1941, nhà độc tài Salazar buộc

ông từ chức. Năm 1954, Sousa Mendes chết trong nghèo đói.

Tháng 4 năm 1943, một vài kháng chiến quân Bỉ chặn một đoàn tàu đang đến

Auschwitz và giải thoát 231 người (115 người trong số này thoát khỏi cuộc thảm sát).

Một số thị trấn và nhà thờ đã giúp che giấu người Do Thái và bảo vệ những người khác

khỏi cuộc thảm sát, như trường hợp nhà thờ của Mục sư Andre Trocmé tại thị trấn Le

Chambon-sur-Lignon, Pháp, đã che giấu 3.000 đến 5.000 người Do Thái. Trong thời kỳ La

73

Mã bị chiếm đóng, Giáo hoàng Pius XII đã giúp che giấu nhiều người Ý gốc Do Thái trong

các tu viện; có đến 1.000 người Do Thái ẩn náu tại Lâu đài Mùa hè Castel Gandolfo của

giáo hoàng. Nhiều cá nhân và gia đình trên khắp châu Âu cũng tìm cách cứu giúp các nạn

nhân, như trong trường hợp của Anne Frank, thường họ phải bị liên lụy và chịu nguy hiểm

vì hành động này.

Có những nhà ngoại giao và những người có nhiều ảnh hưởng, như Oskar Schindler

hoặc Nicholas Winton, đã bảo vệ được nhiều người Do Thái. Nhà ngoại giao Thụy Điển

Raoul Wallenberg, Giorgio Perlasca người Ý, nhà ngoại giao Trung Hoa Hà Phượng San và

những người khác đã cứu mạng hàng ngàn người Do Thái bằng những hộ chiếu ngoại giao

giả mạo. Tương tự, Sugihara Chiune đã cấp hộ chiếu Nhật Bản cho hàng ngàn người Do

Thái bất kể lập trường đồng minh với Quốc Xã của chính quyền Nhật.

Có những nhóm như tổ chức Żegota của Ba Lan đã tiến hành những hoạt động táo bạo

và ngoạn mục nhằm giải cứu người Do Thái và các nạn nhân khác khỏi tay Quốc Xã.

Witold Pilecki, thành viên của Armia Krajowa, từ năm 1940 đã tổ chức một phong trào

kháng chiến bên trong trại tập trung Auschwitz.

Từ năm 1963, một ủy ban, đứng đầu là một thẩm phán Tối cao Pháp viện Israel, được

giao nhiệm vụ ban tặng những người này danh hiệu Righteous Among the Nations.

Tuy nhiên, người Do Thái phải dựa vào chính bản thân mình là chính. Những người có

thể làm như vậy tiếp tục trốn thoát khỏi những cuộc truy lung đẫm máu của Hitler. Điều đó

không dễ. Một số người có thể đút lót cho những người nông dân để cho họ ở trong những

căn hầm đào dưới kho lúa hoặc chuồng gia súc. Cuộc sống với những người bị truy bắt này

trở thành cơn ác mộng của nỗi sợ hãi. Chấy rận và bùn nhơ trong một cái lỗ tối đầy mùi hôi

hám.

Ở các thị trấn, người Do Thái trở thành “tàu ngầm” họ có thể ẩn náu ở bất cứ nơi đâu

họ thấy an toàn. Một trong số đó là Anne Frank, một cô bé 13 tuổi., cô đã ẩn náu trong một

căn phòng bí mật trên một nhà kho ở Amsterdam, Hà Lan. Anne cùng với cha mẹ và một số

người bạn của cô đã sống ở những nơi chật hẹp này trong hai năm với đầy nỗi sợ hãi.

Là một cô bé nhạy cảm, Anne đã viết một cuốn nhật ký, ghi lại những suy nghĩ và tình

cảm của mình. Mặc dù gặp khó khăn, cô bé vẫn không dám mất niềm tin vào lòng tốt của

con người và vào cuộc sống. Cuối cùng, cô viết: “Bất chấp mọi thứ, tôi vẫn tin rằng con

người vẫn có trái tim nhân hậu. Tôi chỉ đơn giản không tạo dựng được niềm hi vọng vào

74

một nền tảng đầy sự hỗn độn, đau khổ và cái chết…chắc chắn một ngày nào đó chúng ta lại

trở lại là người, mà không chỉ là người Do Thái”.

Ngày đó đã đến với Anne Frank. Gia đình cô bị giết hại và cô bị đưa đến trại tập trung

và đã chết ở đó. [33, tr.222-223].

Phần lớn người Do Thái không chống lại mà đi đến cái chết không hề kháng cự.

Nguyên nhân của điều này không phải là sự hèn nhát hay ngu dốt. Khác xa với những điều

đó. Như bất kỳ ai, người Do Thái rất yêu cuộc sống, cuộc sống trong tín ngưỡng của họ là

rất thiêng liêng. Thời gian duy nhất mà người Do Thái nghĩ là vào ngày chủ nhật là để giữ

gìn cho cuộc sống.

Nhưng họ cũng yêu gia đình họ. Mối quan hệ gia đình của người Do Thái rất chặt chẽ.

Một người trẻ và khỏe mạnh không thể bỏ rơi vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ hay ông bà để

cứu chính mình. Vì vậy, họ thường chết với cả gia đình.

Còn một số nguyên nhân khác nữa. Âm mưu của Hitler xấu xa đến nỗi mà người Do

Thái không thể tưởng tượng được một tội ác như thế có thể xảy ra. Từ trước tới giờ chưa có

điều nào như thế xảy ra. Là những con người trong sáng, họ nghĩ rằng người Đức sẽ hành

động theo ý họ muốn. Trong nỗ lực chiến tranh của Đức, người Do Thái là những công

nhân thậm chí là những nô lệ. Việc giết hại nhiều người hữu ích như thế không có nghĩa gì

trong việc làm giảm đi nỗ lực đó. Chỉ sau này, khi đã quá muộn, họ mới hiểu ra rằng Hitler

muốn họ phải chết bằng bất kỳ giá nào.

Tuy nhiên, một số người Do Thái đã chiến đấu lại một cách riêng lẻ hoặc như những

thành viên của phong trào kháng chiến. Họ chiến đấu để trả thù và cho lòng tự trọng hơn là

để giữ gìn tính mạng.

Những tên lính mật vụ hỏi một người Do Thái trước khi bị treo cổ: “Tại sao mày lại

giết một người Đức?” Anh ta trả lời: “Tao căm thù bọn mày. Tao tiếc rằng tao mới chỉ giết

được một tên người Đức. Tao đã chứng kiến tận mắt cảnh bố mẹ tao bị giết. Tao đã chứng

kiến tận mắt cảnh chúng mày giết hại hàng nghìn người Do Thái”. Sau đó anh ta hét lên:

“Đả đảo Hitler!” và nhổ vào mặt tên treo cổ.

Người Do Thái đã trốn thoát khỏi những trại giam người đó và gia nhập đội quân du

kích ở trong rừng của Ba Lan và Nga. Phong trào kháng chiến đã lan rộng đến cả những trại

giết người. Ở Treblinkar và Seberia, những nô lệ Do Thái đã tấn công những tên lính gác

bằng công cụ và tay không. Một số người đã trốn vào rừng, một số khác bị giết. Ở

Auschwitz, người Do Thái với những khẩu súng và những quả lựu đạn cướp được, đã giết

75

một số tên lính gác và làm nổ tung một trong số những lò thiêu cuộc bạo loạn đã bị dìm

trong bể máu.

Cuộc nổi dậy nổi tiếng nhất xảy ra ở trại người Do Thái ở Vacsava. Khi tên treo người

Heydrich vây khu người Do Thái vào năm 1940 thì nửa triệu người Do Thái bị dồn đến đó

từ khắp nơi trên đất nước Ba Lan; chính những người Do Thái này đã phải trả tiền cho việc

xây dựng những bức tường vây kín họ.

Trong suốt những năm sau, hàng nghìn người bị bắt mỗi tháng và bị đưa đến

Treblinkar. Bệnh tật và đói rét đã cướp đi sinh mạng hàng trăm người khác mỗi ngày. Trẻ

em đã quen với việc nhìn thấy xác người chết trên đường phố đến nỗi mà chúng còn cù

những xác chết đó để xem họ còn cử động không. Một bé gái tên là Marth đã viết một bài

thơ về cuộc sống của em ở trại Vacsava:

“Em phải giữ gìn những ngày này

(Em không có tiền để giữ gìn)

Em phải giữ gìn sức khỏe và sức lực,

Đủ để cho em sống lâu hơn…

Em phải ngăn dòng nước mắt

Em sẽ phải cần nước mắt trong một thời gian dài nữa.

Em phải chịu đựng qua những ngày going bão này.

Có quá nhiều điều em cần trong cuộc sống:

Cảm giác ấm áp và một trái tim nhân hậu-

Em thiếu những thứ đó trong những thứ mà em phải giữ gìn?

Tất cả những thứ này, những món quà của Chúa,

Em ước ao có được

Em sẽ buồn biết bao

Nếu em đánh mất chung”. [33, tr.225-226].

Tháng 7-1942, khi những cỗ xe thiết giáp tiến vào Stalingrad, khoảng 1.000 người đã

thành lập tổ chức chiến đấu vì người Do Thái. Họ trốn khỏi những khu trại bằng đường ống

cống nước để mua vũ khí từ những người buôn lậu Ba Lan. Họ đã có được một số súng

ngắn, súng trường và lựu đạn. Với số người còn lại, vũ khí của họ và những câu lạc bộ,

những li cốc- tai Môlotôp, những chai axit và tay không.

Những người Do Thái ở những khu trại này biết rằng họ sẽ chết. Không gì có thể cứu

được họ. Nhưng những chiến binh Do Thái kiên quyết giết càng nhiều bọn Đức Quốc xã

76

càng tốt trước khi chết. Cho đến mùa xuân năm 1943, quân Đức đã tiêu diệt gần hết số trại

này, khi chỉ còn 56.000 người Do Thái, vẫn ở bên trong. Ngay sau đó, bọn Đức Quốc xã đã

tự hào mà “khoe” rằng: Vacsava sẽ “không còn bọn Do Thái nữa”.

Ngày 19/4/1943, là ngày đầu tiên của lễ “Quá hải” ngày lễ tưởng nhớ đến sự thoát khỏi

cảnh nô lệ ở Ai Cập trong thời kỳ Kinh thánh. Đó là một ngày lễ tự do và trong ngày đó, tổ

chức chiến đấu vì người Do Thái đã bất ngờ tấn công. Những tên lính tuần tra của Đức đã

trúng hàng loạt viên đạn và bom dầu. Một số tên bị chết và một số khác đã bỏ chạy để giữ

mạng sống.

Chúng đã chạy! Lần đầu tiên người Do Thái nhìn thấy bọn lính SS phải bỏ chạy trước

họ.

Phong trào kháng chiến này kéo dài 28 ngày. Người ta ít khi đánh nhau trong thế

không cân bằng như thế. Những người Do Thái, những chiến binh không được huấn luyện

quân sự và sức khỏe yếu vì đói, đã chiến đấu với bọn SS. Tướng Juergen Stroop của quân

SS đã đưa lực lượng của mình vào trận chiến. Những đội quân được trang bị thuốc nổ và

súng phun lửa đã đốt cháy từng nhà một. Máy bay, xe tăng và pháo đã nã vào khu trại người

Do Thái. Hàng đội thanh niên Hitler được đưa đến đặc biệt từ Đức rất thích thú với việc truy

lùng người Do Thái. Họ đi lang thang trên những con phố bị cháy, sẵn sang bắn chết bất cứ

người Do Thái nào.

Thỉnh thoảng họ cũng gặp một số trường hợp vượt quá sự mong đợi của họ. Tướng

Stroop đã báo cáo công việc tiến hành của mình về Béclin mỗi ngày và đã bất ngờ khi người

Do Thái thà bị thiêu sống còn hơn bắt họ chờ cho lính Đức khám xét họ, họ mở hết lựu đạn

lấy ra từ bên trong người và làm nổ tung họ và tên lính đó.

Ngày 16/5, Stroop đã gửi bản báo cáo cuối cùng: “Trại người Do Thái ở Vacsava

không còn nữa”. Những người trong đó hoặc là đã chết hoặc là sẽ bị giết ở Treblinka.

Những tòa nhà ở đó đã bị san bằng.

Nhưng họ vẫn sống mãi trong trí nhớ mọi người. Người Do Thái chưa bao giờ quên

cuộc nổi dậy ở Vacsava. Hàng năm, trong suốt những ngày lễ Quá hải, họ tưởng nhớ về nó

trong những lời cầu nguyện, cùng với việc rời khỏi Ai Cập.

Cho đến năm 1945, có khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết trong những cuộc tàn

sát, là nạn nhân của sự ngu dốt và lòng hận thù sắc tộc. Adolf Hitler đã thực hiện được lời

đe dọa của mình. Chỉ có một điều khiến hắn phải nuối tiếc là hắn đã không thể hoàn thành

nhiệm vụ của mình trước khi thời của hắn chấm dứt.

77

[33, tr.226-228].

Sự đàn áp và giết người hàng loạt của chính phủ Đức Quốc xã thúc đẩy sức đề kháng

của những người bị đàn áp ở Đức trong Đế chế thứ ba và trên khắp các nước ở châu Âu bị

chiếm đóng. Mặc dù người Do Thái là nạn nhân chính của Đức quốc xã, họ cũng chống lại

sự đàn áp của Đức Quốc xã trong nhiều cách khác nhau, cả tập thể và cá nhân.

Tổ chức kháng chiến vũ trang là hình thức mạnh mẽ nhất của người Do Thái phản đối

các chính sách của Đức Quốc xã những nơi Đức chiếm đóng ở châu Âu. Thường dân Do

Thái được cung cấp kháng chiến vũ trang trong hơn 100 khu nhà ổ chuột trong chiếm đóng

Ba Lan và Liên Xô. Vào tháng Tư-tháng năm 1943, người Do Thái ở khu ổ chuột Warsaw

tăng trong cuộc nổi dậy vũ trang sau khi tin đồn rằng Đức sẽ trục xuất các cư dân khu ổ

chuột còn lại cho trung tâm giết Treblinka. Khi các lực lượng SS và các đơn vị cảnh sát

bước vào khu ổ chuột, các thành viên của Tổ chức chiến đấu của người Do Thái (Zydowska

Organizacja Bojowa; ZOB) và các nhóm Do Thái khác tấn công xe tăng Đức với chai xăng,

lựu đạn, và một số vũ khí hạng nhẹ. Mặc dù người Đức, bị sốc bởi sự tàn khốc của kháng

chiến, đã có thể kết thúc chiến tranh lớn trong vòng vài ngày, nó đã cho các lực lượng cấp

trên của Đức gần một tháng trước khi họ có thể hoàn toàn bình định các khu ổ chuột và trục

xuất hầu như tất cả các cư dân còn lại . Trong nhiều tháng sau khi kết thúc các khu ổ chuột

nổi dậy Warsaw, đối kháng cá nhân của người Do Thái tiếp tục ẩn trong đống đổ nát của các

khu ổ chuột, trong đó SS và các đơn vị cảnh sát tuần tra ngăn chặn cuộc tấn công vào nhân

viên của Đức.

Trong cùng năm đó, cư dân khu ổ chuột tăng so với Đức ở Vilna (Vilnius), Bialystok ,

và một số khu nhà ổ chuột khác. Khi phần lớn các cư dân khu ổ chuột đã bị trục xuất đến

các trung tâm giết chết, và cũng trong sự hiểu biết rằng sức đề kháng của họ ngay cả bây giờ

không thể cứu khỏi sự hủy diệt người Do Thái còn lại người không thể chiến đấu. Nhưng

họ đã chiến đấu vì lợi ích của danh dự của người Do Thái và để trả thù cho việc giết hại rất

nhiều người Do Thái.

Hàng ngàn người Do Thái chống lại bằng cách thoát khỏi khu nhà ổ chuột vào rừng.

Ở đó, họ gia nhập các đơn vị du kích của Liên Xô hoặc hình thành các đơn vị đảng phái

riêng biệt để quấy rối những kẻ chiếm đóng của Đức. Mặc dù nhiều hội đồng Do Thái

(Judenrat) thành viên hợp tác dưới sức ép với người Đức cho đến khi bản thân họ bị trục

xuất, một số, chẳng hạn như người Do Thái đồng chủ tịch Moshe Jaffe ở Minsk, chống lại

78

bằng cách từ chối thực hiện khi Đức ra lệnh cho ông để bàn giao cho người Do Thái bị trục

xuất trong tháng Bảy năm 1942.

Tù nhân Do Thái tăng lên so với nhân viên của họ tại ba trung tâm trại. Ở Treblinka

trong tháng 8 năm 1943 và Sobibor trong tháng 10 năm 1943, các tù nhân được trang bị vũ

khí bị đánh cắp tấn công các nhân viên SS và bảo vệ phụ trợ Trawniki được đào tạo. Đức

và phụ trợ của họ đã giết chết hầu hết các phiến quân, hoặc trong cuộc nổi dậy hoặc sau đó,

sau khi săn lùng những người trốn thoát. Vài chục tù nhân lảng tránh sự đeo bám của họ và

sống sót chiến tranh, tuy nhiên. Trong tháng 10 năm 1944, tại trại tập trung Auschwitz-

Birkenau, các thành viên của Biệt đội đặc biệt của người Do Thái (Sonderkommando) nổi

loạn chống lại lính SS. Gần 250 người chết trong chiến đấu; lính SS bắn 200 khác sau khi

cuộc binh biến đã bị đàn áp. Vài ngày sau đó, SS xác định năm người phụ nữ, bốn người Do

Thái, người đã tham gia trong việc cung cấp các thành viên của Sonderkommando thuốc nổ

để nổ tung một lò hoả thiêu. Tất cả năm người phụ nữ đã bị giết.

Ở nhiều quốc gia bị chiếm đóng bởi Đức hoặc liên minh với Đức, sức đề kháng của

người Do Thái thường lấy hình thức viện trợ và cứu hộ. Chính quyền Do Thái ở Palestine

gửi bí mật nhảy dù như Hannah Szenes vào Hungary và Slovakia vào năm 1944 để cung cấp

cho bất cứ điều gì giúp họ có thể cho người Do Thái lẩn trốn. Tại Pháp, các yếu tố khác

nhau của người Do Thái dưới lòng đất hợp nhất để hình thành các nhóm kháng chiến khác

nhau, bao gồm cả Armée Juive (Do Thái quân đội) mà hoạt động ở miền Nam nước Pháp.

Nhiều người Do Thái đã chiến đấu như các thành viên của phong trào kháng chiến quốc gia

Bỉ, Pháp, Ý, Ba Lan, Nam Tư, Hy Lạp, và Slovakia.

Người Do Thái trong các khu nhà ổ chuột và các trại cũng phản ứng lại sự áp bức của

Đức Quốc xã với các hình thức kháng chiến tinh thần . Họ đã cố gắng có ý thức để bảo tồn

lịch sử và đời sống cộng đồng của người Do Thái bất chấp nỗ lực của Đức Quốc xã để tiêu

diệt người Do Thái từ bộ nhớ của con người. Những nỗ lực này bao gồm: lập các tổ chức

văn hóa của người Do Thái, tiếp tục quan sát ngày lễ tôn giáo và nghi thức, cung cấp giáo

dục bí mật, xuất bản báo chí chui, và thu thập và cất giấu tài liệu, như trong trường hợp của

Oneg Shabbat lưu trữ ở Warsaw rằng sẽ kể lại câu chuyện của người Do Thái trong các khu

ổ chuột Warsaw, mặc dù nó bị phá hủy vào năm 1943.

Giữa năm 1941 và năm 1943, phong trào kháng chiến bí mật phát triển trong khoảng

100 khu nhà ổ chuột trong Đức Quốc xã chiếm đóng Đông Âu (khoảng một phần tư của tất

cả các khu nhà ổ chuột), đặc biệt là ở Ba Lan, Lithuania, Belarus và Ukraine. Mục tiêu

79

chính của họ là để tổ chức các cuộc nổi dậy, thoát ra khỏi các khu nhà ổ chuột, và tham gia

các đơn vị đảng phái trong cuộc chiến chống lại Đức.

Người Do Thái biết rằng cuộc nổi dậy sẽ không ngăn chặn người Đức và chỉ có một

số ít các máy bay chiến đấu sẽ thành công trong việc thoát khỏi tham gia du kích. Tuy

nhiên, một số người Do Thái đã quyết định chống lại. Vũ khí được buôn lậu vào khu nhà ổ

chuột. Cư dân trong các khu nhà ổ chuột của Vilna, Mir, Lachva ( Lachwa ), Kremenets,

Czestochowa, Nesvizh, Sosnowiec, và Tarnow, trong số những người khác, chống lại với

lực lượng khi người Đức bắt đầu trục xuất người dân khu ổ chuột. Trong Bialystok, công

trình ngầm tổ chức một cuộc nổi dậy ngay trước khi hủy diệt cuối cùng của các khu ổ chuột

trong tháng 9 năm 1943. Hầu hết các máy bay chiến đấu khu ổ chuột, chủ yếu là thanh niên

và phụ nữ, đã chết trong cuộc chiến.

Cuộc nổi dậy của các khu ổ chuột ở Warsaw vào mùa xuân năm 1943 là cuộc nổi dậy

lớn nhất của người Do Thái. Hàng trăm người Do Thái chiến đấu với Đức và phụ trợ của họ

trong các đường phố của khu ổ chuột. Hàng ngàn người Do Thái từ chối chấp hành mệnh

lệnh của Đức để báo cáo đến một điểm lắp ráp cho trục xuất. Cuối cùng Đức quốc xã đốt

cháy khu ổ chuột xuống dưới cả lòng đất để buộc người Do Thái ra. Mặc dù họ biết thất bại

chắc chắn, người Do Thái trong các khu ổ chuột đã chiến đấu một cách tuyệt vọng và dũng

cảm.

Theo các điều kiện bất lợi nhất, tù nhân Do Thái đã thành công trong việc khởi xướng

sức đề kháng và cuộc nổi dậy ở một số trại Nazi. Số công nhân Do Thái còn sống sót phát

động cuộc nổi dậy ngay cả trong các trại hủy diệt của Treblinka, Sobibor, và Auschwitz-

Birkenau. Khoảng 1.000 tù nhân Do Thái tham gia trong các cuộc nổi dậy ở Treblinka. Vào

ngày 02 Tháng Tám năm 1943, người Do Thái bắt giữ những thứ vũ khí mà họ có thể tìm

thấy như rìu và một số vũ khí bị đánh cắp từ các kho vũ khí trại - và đốt trại. Khoảng 200

người trốn thoát. Đức chiếm lại và giết chết khoảng một nửa trong số họ.

Trên 14 tháng mười năm 1943, các tù nhân trong Sobibor giết chết 11 lính gác SS và

phụ trợ cảnh sát và thiết lập trại trên lửa. Khoảng 300 tù nhân trốn thoát, phá vỡ thông qua

hàng rào kẽm gai và mạo hiểm cuộc sống của họ trong các bãi mìn xung quanh trại. Hơn

100 bị bắt lại và sau đó bị bắn.

Trên 07 Tháng Mười 1944, các tù nhân được giao hỏa táng IV tại Auschwitz-Birkenau

nổi loạn sau khi biết rằng họ sẽ bị giết. Đức đè bẹp cuộc nổi dậy và giết chết gần như tất cả

hàng trăm tù nhân tham gia vào cuộc nổi loạn.

80

Cuộc nổi dậy của trại khác đã diễn ra ở Kruszyna (1942), Minsk-Mazowiecki (năm

1943), và (1943) trại Janowska. Trong hàng chục trại tù tổ chức thoát để tham gia các đơn vị

du kích. Trốn thoát thành công đã được thực hiện, ví dụ, từ đường trại lao động Lipowa tại

Lublin.

Mặc dù bị bao vây và bị đánh bại và một số người Do Thái trong khu nhà ổ chuột và

các trại đã chống lại người Đức với lực lượng chênh lệch. Tinh thần của những nỗ lực vượt

qua thất bại của họ để ngăn chặn các chính sách diệt chủng của Đức quốc xã.

Sự thiếu thốn của cuộc sống ở khu ổ chuột và sợ hãi khủng bố của Đức Quốc xã đã

làm cho sự kháng cự khó khăn và nguy hiểm nhưng không phải không thể. Ngoài kháng

chiến vũ trang, người Do Thái tham gia vào các hình thức khác nhau của sự thách thức

không mang vũ khí. Chúng bao gồm những nỗ lực tổ chức thoát khỏi khu nhà ổ chuột vào

khu rừng gần đó, không phù hợp với nhu cầu phát xít trên một phần của một số nhà lãnh đạo

cộng đồng Do Thái, buôn lậu thực phẩm vào các khu nhà ổ chuột, và sức đề kháng chiến

tinh thần.

Kháng chiến tinh thần đề cập đến những nỗ lực của các cá nhân để duy trì nhân loại

của họ, toàn vẹn cá nhân, nhân phẩm, và ý thức của nền văn minh khi đối mặt với những nỗ

lực của Đức Quốc xã để mâ t ti nh ca ch nhân đạo và làm suy giảm chúng. Thông thường, sức

đề kháng tinh thần là thứ có thể làm cho con người ta thoát khỏi sự sợ hãi. Hoạt động văn ́ ́ ́

hóa và giáo dục, bảo trì các tài liệu cộng đồng, và lễ tôn giáo bí mật là ba lĩnh vực kháng

chiến tinh thần dễ dàng nhất.

Toàn bộ Ba Lan khi bị chiếm đóng, hàng trăm trường học và các lớp học bí mật được

tổ chức bên trong các khu nhà ổ chuột. Sẽ đến và đi từ lớp học trong căn hộ khác nhau và

tầng hầm, sinh viên giấu cuốn sách của mình theo quần áo của họ. Người Do Thái nhập lậu

sách và bản thảo thành nhiều khu nhà ổ chuột cho an toàn, và mở thư viện dưới lòng đất

trong nhiều khu nhà ổ chuột. Các thư viện dưới lòng đất bao gồm các thư viện bí mật ở

Czestochowa, Ba Lan, đã phục vụ hơn 1.000 độc giả. Hoạt động thành lập một thư viện

60.000 lượng trong khu ổ chuột Theresienstadt , gần Prague.

Trong các khu nhà ổ chuột, người Do Thái cũng tham gia - trong chừng mực có thể -

trong một loạt các hoạt động văn hóa. Không giống như các trường học, những điều này

không luôn luôn bị cấm bởi chính quyền Đức. Buổi hòa nhạc, các bài giảng, tác phẩm sân

khấu, cabarets và các cuộc thi nghệ thuật đã diễn ra trong nhiều khu nhà ổ chuột, bất chấp

những khó khăn của cuộc sống hàng ngày.

81

Trong nhiều nhóm của khu nhà ổ chuột thành lập kho lưu trữ bí mật và có phương

pháp viết, thu thập và lưu trữ các báo cáo, sổ nhật ký và các tài liệu về cuộc sống hàng ngày

trong các khu nhà ổ chuột. Những nỗ lực phục vụ để thu thập chứng cứ trên tình hình của

người Do Thái ở châu Âu và chiếm đóng cũng tìm cách tái khẳng định ý thức của cộng

đồng Do Thái, lịch sử và nền văn minh khi đối mặt với sự hủy diệt cả thể chất và tinh thần.

Được biết đến trong các tài liệu lưu trữ tốt nhất là của các khu ổ chuột Warsaw , có tên

mã là Oneg Shabbat ("Niềm vui của ngày Sa-bát") và được thành lập bởi nhà sử học

Emanuel Ringelblum (1900-1944). Một số các đồ đựng tài liệu lưu trữ đã được đào lên từ

đống đổ nát của các khu ổ chuột Warsaw sau chiến tranh. Các giấy tờ tìm thấy bên trong đã

cung cấp tài liệu có giá trị của cuộc sống và cái chết trong các khu ổ chuột. Trong các khu ổ

chuột Bialystok , nhà hoạt động Mordechai Tenenbaum, người đã đến Bialystok từ Warsaw

trong tháng 11 năm 1942 để tổ chức các phong trào kháng chiến, được thành lập theo mô

hình lưu trữ ổ chuột Oneg Shabbat. Một kho lưu trữ cũng được giữ trong các khu ổ chuột

Lodz , nhưng không giống như Warsaw và Bialystok lưu trữ, nó không hoàn toàn bí mật và

do đó hoạt động theo những hạn chế nhất định.

Đức cấm các dịch vụ tôn giáo ở hầu hết các khu nhà ổ chuột, vì vậy nhiều người Do

Thái cầu nguyện và tổ chức các nghi lễ trong bí mật - trong hầm, gác xép, và trở lại phòng -

như những người khác đứng bảo vệ. Chỉ tính riêng trong Warsaw, vào năm 1940, 600

nhóm cầu nguyện của người Do Thái tồn tại. Các cơ quan giáo sĩ Do Thái xét xử các tranh

chấp tôn giáo trên cơ sở luật pháp tôn giáo và cố gắng thích nghi với luật này với những

hoàn cảnh đã thay đổi và khó khăn, trong đó cộng đồng tìm thấy chính nó. Cầu nguyện đã

giúp duy trì tinh thần, khẳng định bản sắc văn hóa và tôn giáo, và cung cấp sự thoải mái tinh

thần. Nhiều người Do Thái Chính thống giáo người phản đối việc sử dụng vũ lực xem lời

cầu nguyện và lễ tôn giáo như là hình thức xác thực nhất của kháng chiến.

Tiểu kết chương 3

Được mang ra thi hành khắp lục địa châu Âu, chính sách diệt chủng nhắm vào người

Do Thái đã tạo ra một thảm họa kinh hoàng ăn sâu mãi mãi vào kí ức của không chỉ người

Do Thái còn sống sót, mà toàn nhân loại dưới tên gọi Holocaust. Không gì có thể biện minh

cho chính sách diệt chủng của cá nhân Hitler, và Đảng Quốc xã. Không để cho thảm họa

82

Holocaust tái sinh sẽ là một trong những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại thời

hậu chiến của các nước châu Âu.

83

KẾT LUẬN

1. Hitler đã chắt lọc một cách tùy tiện ý tưởng “tiến hóa bằng con đường đấu tranh sinh

tồn” của nhà bác học Cherles Darwin, rồi pha trộn ý tưởng này theo định hướng đã vạch sẵn

với chủ nghĩa phục thù và chủ nghĩa bài Do Thái để tạo ra một học thuyết được gọi là chủ

nghĩa Quốc xã. Một trong các nội dung chính của chủ nghĩa này là tiêu diệt cộng đồng

người Do Thái trước tiên ở Đức, rồi sau đó trên toàn châu Âu.

2. Được mang ra thực hiện ngay sau khi Đảng Quốc xã cầm quyền, chủ nghĩa Quốc xã

trở thành nền tảng lí luận cho chính sách bài Do Thái bằng những biện pháp cực đoan nhất.

Không vấp phải một sự phản đối đáng được coi là kiên quyết nào, chính sách bài Do Thái

không chỉ tạo ra những nạn nhân đầu tiên của chế độ Quốc xã, mà còn dọn đường cho một

thảm họa kinh khủng hơn có tên gọi là Holocaust trên toàn lục địa châu Âu.

3. Đi vào lịch sử nhân loại bằng những hồi ức kinh khủng nhất, chính sách diệt chủng

của chế độ Quốc xã được xếp vào loại tội ác chống nhân loại, nấc tột cùng của bậc thầy các

tội ác. Ngăn chặn nguy cơ hồi sinh của thứ tội ác tột cùng này được xem là một trong các

nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của các nước châu Âu sau chiến tranh. Đây là

nguyên nhân lí giải cho phản ứng nhanh nhạy của các nước châu Âu trong cuộc chiến sắc

tộc bùng nổ ở Balkans trong những năm đầu thập niên 1990.

4. Dù đã được tổ chức Liên Hợp Quốc chính thức xếp vào loại tội ác không thể được

biện minh bằng bất kỳ lý do nào, với thời hiệu truy tố không giới hạn, phạm vi truy bắt được

mở rộng khắp toàn cầu, nhưng chính sách diệt chủng vẫn chưa thực sự lùi hẳn vào quá khứ.

Đôi lúc, ở nơi này, nơi nọ, nó vẫn được mang ra thi hành ở quy mô cả quốc gia.

“Đừng để ai bị lãng quên. Đừng lãng quên điều gì cả” [33, tr.266] là bài học được rút ra

từ quá trình nghiên cứu chính sách của chính phủ Đức quốc xã đối với cộng đồng người Do

Thái ở châu Âu (1933-1945).

84

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Adolf Hitler (1971), Meinkampf, Nxb Boston, Houghton Mifflin.

2. Aly, Götz (1999), Chính sách dân số của Đức Quốc xã và Giết người Do Thái châu Âu,

Nxb London.

3. Alfred A. Knopf Inc (1991), Himmler và Giải pháp cuối cùng, Nxb New York.

4. Bergen, Doris (2003 ), Chiến tranh và diệt chủng- một lịch sử ngắn gọn của Holocaust,

Nxb Rowman & Littlefield.

5. Breitman, Richard (1991), Kiến trúc sư diệt chủng: Himmler và giải pháp cuối cùng,

Nxb New York.

6. Bartov, Omer (2000), The Holocaust:. Nguồn gốc, thực hiện, hậu quả, Nxb London,

Anh.

7. Chu Hảo (2010), 150 năm thuyết tiến hóa và Charles Darwin, Nxb Tri thức.

8. Christopher (2004), Nguồn gốc của các giải pháp cuối cùng:. Diễn biến của chính sách

của người Do Thái của Đức Quốc xã, tháng 9 năm 1939-tháng 3 năm 1942, Nxb

Lincol.

9. Chambers (1994), Từ điển Lịch sử thế giới, Nxb Oxford.

10. Cesarani, David (1994), Giải pháp cuối cùng: Nguồn gốc và thực hiện, Nxb London.

11. Crane Brinton, John B.Christopher, Robert Lee Wolff (1998), Chủ nghĩa phát xít (1918-

1939), Nxb Văn minh phương Tây.

12. Chân trời Unesco, (2005), “Lịch sử cuộc tàn sát 6 triệu người Do Thái của Đức Quốc

xã”, Tr.21-23.

13. Dawidowicz Lucy S (1975), Chiến tranh chống người Do Thái 1933-1945, Nxb New

York.

14. David Vital (2001), Một lịch sử chính trị của người Do Thái ở châu Âu 1789-1939,

Nxb Oxford University Press.

15. Evans, Richard J (2001), Lịch sử, Holocaust và David , Nxb New York.

16. Gilbert Martin (1986) Holocaust- Một lịch sử của người Do Thái ở châu Âu trong cuộc

chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb New York.

17. Gutman, Israel (1990), Bách khoa toàn thư của Holocaust, Nxb New York.

18. Gutman, Israel (1982), Người Do Thái của Warsaw, 1939-1943, Nxb Bloomington.

85

19. Gerald Fleming (1984), Hitler và các giải pháp cuối cùng, Nxb University of California

Press.

20. Gilbert, Martin (1997), Holocaust Hành trình, Nxb Phoenix.

21. Green, Gerald (1990), Hỏa ngục trần gian Tập 1 (Tô Giang- An Giang dịch), Nxb An

Giang.

22. Green, Gerald (1990), Hỏa ngục trần gian Tập 2 (Tô Giang- An Giang dịch), Nxb An

Giang.

23. Lê Phụng Hoàng (2007), Adolf Hitler- tiểu sử chính trị, Nxb ĐHSP TPHCM, TP. Hồ

Chí Minh.

24. Heydecker, Joe J (1973), Hitler : tội phạm chiến tranh (Võ Lang dịch), Nxb Sống mới.

25. Hilberg, Raul (2003), Sự phá hủy của người Do Thái châu Âu, Nxb New Haven.

26. Hilberg, Raul (2003), Sự phá hủy của người Do Thái châu Âu, Nxb New Haven.

27. Jacques Droz (1962), Lịch sử nước Đức, Viện Đại học Huế.

28. John Toland (2012), Adolf Hitler chân dung một trùm phát xít (Nguyễn Hiền Thu,

Nguyễn Hồng Hải dịch), Nxb Công an Nhân dân.

29. James M (2004), Kháng cự của người Do Thái trong Holocaust, Nxb Macmillan.

30. Krakowski, Shmuel (1984), Kháng chiến vũ trang Do Thái ở Ba Lan 1942-1944, Nxb

New York.

31. Longerich, Peter (2010), Holocaust: Cuộc bức hại của Đức Quốc xã và giết người

người Do Thái, Nxb Oxford.

32. Longerich, Peter (2003), Vai trò của Hitler trong Giải pháp cuối cùng, Nxb Tempus

Limited, Stroud.

33. Marrin Albert (2004), Truøm phaùt xít Hitler - cuoäc ñôøi vaø toäi aùc ( Caûnh Döông, Anh

Ñöùc dịch ), Nxb Coâng an Nhaân daân.

34. Mc Govern, James (1973), Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler (Người Sông Kiên, Lê

Thị Duyên dịch), Nxb Sông Kiên.

35. Mlechin, Leonid (2009), Bí mật về Adolf Hitler và các chiến hữu (Đỗ Hương Lan, Đặng

Quốc dịch), Nxb Công an Nhân dân.

36. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 1: 1350-1881, Nxb Thư

viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.

37. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 2: 1881-1914, Nxb Thư

viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.

86

38. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 3: 1914-1939, Nxb Thư

viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.

39. R- H Tenbrock (1972), Lịch sử Đức Quốc (bản dịch Sài Gòn- Phủ quốc vụ Khanh), Nxb

Sài Gòn.

40. Roseman (2002), Hội nghị Wannsee và các giải pháp cuối cùng, Nxb

41. New York.

42. Serge Miller, Hitler và Lò thiêu sống dân Do Thái (Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên

dịch), Nxb Sông Kiên.

43. Thông tấn xã Việt Nam (2009), “Hitler với kế hoạch xâm lăng Nam Cực”, Thời báo

kinh tế Việt Nam, tr.14.

44. Thông tấn xã Việt Nam (2009), “Bí mật về suy đoàn nhí phát xít Đức”, Tin

45. tức, tr.14.

46. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Chiến dịch ám sát tên trùm an ninh phát xít Đức”, Tin

Tức, tr.14.

47. Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Truy lùng những tên phát xít cuối cùng”, Thanh niên,

tr.19.

48. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Phải chăng Hitler đã trốn thoát”, Văn nghệ trẻ, tr.11.

49. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Những khoảnh khắc cuối cùng của Adolf Hitler”,

Thanh niên, tr.5.

50. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Số phận của những người phụ nữ của Hitler”, Sức khỏe

đời sống, tr.16.

51. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Ngôi làng phát xít mới ở Đức”, Thanh niên, tr.13.

52. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Hầm ngầm của Hitler có gì?”, Sức khỏe đời sống,

tr.13.

53. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Truy bắt Bác sĩ tử thần Đức Quốc xã”, Thanh niên,

tr.19.

54. Thông tấn xã Việt Nam (2010), “Hồ sơ Hitler con nghiện và con bệnh”, Sức khỏe đời

sống, tr.14.

55. Thông tấn xã Việt Nam (2010), “Bí ẩn xung quanh số phận những tên trùm phát xít

Đức”, Pháp luật Việt Nam, tr.13.

56. Wiliam L. Shirer (2007), Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế ba, Nxb Tri Thức.

87

57. 55.Yahil, Leni (1990), Holocaust: Số phận của người Do Thái châu Âu, 1932-1945,

Nxb New York.

Tiếng Anh

58. Bullock, Alan (1958), Hitler : A study in tyranny, Nxb Bantam.

59. Clendinnen, Inga (1999), Reading the Holocaust, Nxb Cambridge University.

60. Dawidowicz, Lucy S (1981), The Holocaust and the historians, Nxb Lond.

61. Dehio, Ludwig (1967), Germany and world politics in the twentieth century, Nxb

W.Norton.

62. Franz Bertsch (2000), National socialism and the Holocaust, Nxb Bonn.

63. Goldsmith, Martin (2000), The inextinguishable symphony, Nxb John Wiley

64. & Sons.

65. Halperin, S. William (1965), Germany tried democracy : A political history of the Reich

from 1918 to 1933, Nxb The Norton Library.

66. Havas, Laslo (1967), Hitler's plot to kill the big three, Nxb A National General.

67. Israel Pocket Library (1974), Holocaust, Nxb Keter books.

68. Kettenacker, Lothar (1997), Germany since 1945, Nxb Opus.

69. Levy, Daniel (2006), The Holocaust and memory in the global age, Nxb Assenka

Oksiloff.

70. Levi, Primo (1959), Survival in Auschwitz, Nxb Colliers.

71. Mankowitz, Zeev W (2002), Life between memory and hope, Nxb Cambridge

University.

72. Meyerhoff, Marianne (2007), Four girls from Berlin: A true story of a friendship that

defied the Holocaust, Nxb John Wiley & Sons.

73. Pinson, Roppel S (1966), Modern Germany: Its history and civilization, Nxb The

Macmillan.

74. Payne, Robert (1973), The life and death of Adolf Hitler, Nxb Popular Library.

75. Wardi, Dina (1992), Memorial candles : children of the Holocaust, Nxb Naomi

Goldblum, Nxb Lond.

Tài liệu Internet

76. vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.

77. Wikimedia Commons.

88

89

PHỤ LỤC

Hình 1. Bản đồ vị trí các trại tập trung do nước Đức Quốc xã dựng lên trong Chiến tranh thế giới thứ hai. (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.)

Hình 2. Tẩy chay hàng hóa của người Do Thái Hình 3. Hành quyết người Do Thái ở Ba Lan (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.)

90

Hình 4. Hố chôn tập thể. Hình 5. Tù nhân trại tập trung Mauthausen ở Ebensee Áo.

Hình 6. Phòng ăn tại biệt thự Wannsee, nơi triệu tập Hội nghị Wannsee. (Nguồn:Wikimedia Commons.)

91

Hình 8: Trại tập trung Auschwitz Hình 7. Tù binh Liên Xô trần truồng trong trại tập trung Mauthausen.

Nguồn: Wikimedia Commons. Hình 9. Di tích các phòng hơi ngạt tại Auschwitz II (Nguồn: Wikimedia Commons.)

92

Christian X của Đan Mạch. Aristides de Sousa Mendes.

Raoul Wallenberg Chiune Sugihara

Hình 10. Những người giải cứu cho người Do Thái. (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust)

93