BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hường
CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC
QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU
(1933-1945)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hường
CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC
QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU
(1933-1945)
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Lê Phụng Hoàng.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có
nguốn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả
Nguyễn Thị Hường
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư Phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, phòng Khoa học Công nghệ- Sau Đại học, quý Thầy Cô khoa Sử đã giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn TS. Lê Phụng Hoàng, Thầy đã tận tình
chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận
văn.
Tôi cũng xin cám ơn Ban Giám Hiệu trường THCS An Bình và các đồng nghiệp
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành việc học tập và nghiên cứu.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, các Thầy Cô đã từng dạy dỗ và tất cả bạn
bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Thị Hường
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9
7. Bố cục của luận văn ........................................................................................................ 9
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA CHÍNH SÁCH BÀI DO THÁI ..................... 10
1.1. Nền tảng ý thức hệ ..................................................................................................... 10
1.1.1. Học thuyết Darwin xã hội ..................................................................................... 10
1.1.2. Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù .......................................................................... 11
1.1.3. Chủ nghĩa bài Do Thái .......................................................................................... 11
1.2. Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng và Hitler- “cha đẻ của tiến trình ............. 12
diệt chủng” ......................................................................................................................... 12
1.3. Biểu tượng Swastika và lá cờ Đức quốc xã .............................................................. 32
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ( 1933- 1939) ......................................................................... 34
2.1. Tổ chức ........................................................................................................................ 34
2.1.1. GESTAPO ............................................................................................................. 34
2.1.2. SA .......................................................................................................................... 36
2.1.3. SS ........................................................................................................................... 36
2.2. Tiến hành trục xuất ................................................................................................... 38
2.3. Ban hành các đạo luật. .............................................................................................. 42
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945) ........................................................................... 48
3.1. Tổng quan về Holocaust ............................................................................................ 48
3.1.1. Đặc điểm................................................................................................................ 48
3
3.1.2. Tiến trình thực hiện Holocaust .............................................................................. 50
3.2. Nỗ lực giải cứu và phong trào kháng chiến ............................................................. 72
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 85
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 90
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã khép lại với vô vàn sự kiện, trong đó có sự kiện Chiến tranh thế giới thứ
hai (1939-1945). Tháng 8 năm 1945, cả thế giới bước ra khỏi thảm họa khi chiến tranh thế
giới thứ hai chính thức đi đến hồi kết. Cuộc chiến này có quy mô to lớn và mức độ tàn phá
ghê ghớm trên tất cả mọi khía cạnh của đời sống và nền văn minh loài người. Cuộc chiến
này đã gây nên một tổn thất to lớn về người và của mà không một con số nào có thế miêu tả
chính xác được. Trong số các dân tộc phải trả giá đắt cho cuộc chiến do Đức Quốc xã gây ra
có người Do Thái.
Chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu Âu
(1933-1945) đã được nghiên cứu nhiều ở nhiều nước Âu – Mĩ nhất là trong bối cảnh sau
chiến tranh lạnh kết thúc, họa diệt chủng lại một lần nữa xuất hiện ở châu Âu (vụ thảm sát ở
Kosovo).
Riêng ở Việt Nam, vấn đề chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng
người Do Thái chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy, với đề tài này, người viết hy vọng sẽ
góp phần cung cấp nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy ở
Việt Nam.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, người viết đã chọn đề tài: Chính sách của
chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu (1933-1945) làm
đề tài tốt nghiệp Cao học sau khi được sự đồng ý của khoa lịch sử trường Đại học sư phạm
TP. Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chính sách của Chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu Âu
(1933-1945) là một đề tài đã được nghiên cứu ở nhiều nước Âu- Mỹ nhưng chưa được
nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử nghiên cứu vấn đề, tác giả chủ
yếu giới thiệu đến các tác phẩm được dịch giả Việt Nam nghiên cứu.
Trong tác phẩm “Trùm phát xít Hitler- cuộc đời và tội ác” của Albert Marrin ấn hành
năm 2004 đã đề cập đến cuộc đời từ thuở ấu thơ của Adolf Hitler, từ một người vô danh đến
khi lên nắm quyền lực. Trong suốt quá trình ấy, Hitler đã để lại cho thế giới hôm nay một
bài học, bài học mang tên “Hitler”, là nếu con người bị chi phối bởi lòng thù hận và sự vô lý
5
thì sẽ thực hiện tất cả mọi tội ác kinh khủng nhất. Cuốn sách đã giúp tác giả tìm hiểu được
nguồn gốc của chính sách bài Do Thái mà Hitler đã xây dựng nên, cách mà Hitler xây dựng
bộ máy để thực hiện có hiệu quả mọi mệnh lệnh và rồi đi đến chỗ sụp đổ vào năm 1945.
Với tiêu đề: “Lịch sử cuộc tàn sát 6 triệu người Do Thái của Đức Quốc xã”, được tạp
chí Chân trời Unesco ấn hành năm 2005 đã cung cấp cho tác giả bức tranh toàn cảnh về
chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu
(1933-1945).
Năm 2007, cuốn sách “Sự trỗi dậy và suy tàn của đế chế thứ ba”, tác giả William L.
Shirer- được Diệp Minh Tâm dịch. Tác phẩm được đánh giá là “Một trong những tác phẩm
về lịch sử quan trọng nhất của thời đại chúng ta”. Đây là một tác phẩm đồ sộ với trên 1.100
trang, đưa ra những minh chứng hùng hồn, những lập luận uyên bác cho sự trỗi dậy và suy
tàn của một chế độ, đi cùng với nó là số phận của con người được sinh ngày 20.4.1889 ở thị
trấn Braunau am Inn gần biên giới Áo-Đức như “định mệnh”: Adolf Hitler. Từ khi được
xuất bản năm 1960, Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ Ba – Lịch sử Đức Quốc xã đã
được ca ngợi rộng khắp như là một hồ sơ cuối cùng về những thời khắc đen tối của thế kỷ
XX. Trải dài từ những giây phút đầu tiên sự ra đời của Đế chế thứ Ba ngày 30.1.1933 cho
đến những ngày cuối cùng của nó. Nền Đế chế chỉ kéo dài 12 năm 4 tháng nhưng đã gây ra
bạo lực dữ dội hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, những thảm cảnh kinh hoàng trên bình diện
toàn nhân loại với hàng triệu người bỏ mạng trong các trận chiến, hàng triệu người Do thái
bị ném vào các lò thiêu sống tại Ba Lan.... Là một phóng viên và nhà nghiên cứu lịch sử
người Mỹ, tác giả William Lawrence Shirer (1904 -1993) đã quan sát và tường thuật cuộc
sống của người Đức Quốc xã từ năm 1925, tiếp cận với các nhà lãnh đạo Quốc xã hàng đầu.
Sau chiến tranh, khi tham dự các phiên tòa xử tội phạm chiến tranh, ông lại có dịp quan sát
họ đứng trước vành móng ngựa. Sau đó, ông đã bỏ ra hơn 5 năm để rà soát từng đống tài
liệu để tổng hợp nên một thiên sử liệu của một trong những thời đại hãi hùng nhất trong lịch
sử nhân loại. Tác phẩm đã giúp tác giả có được cái nhìn toàn cảnh về Đế chế thứ III mà
Hitler xây dựng lên.
Trong khi đó, cũng vào năm 2007, với cuốn sách “Adolf Hitler- Tiểu sử chính trị”, tác
giả Lê Phụng Hoàng người viết được tiếp cận một cách chi tiết về cuộc đời của Adolf
Hitler, về con đường dẫn đến quyền lực để rồi đi đến sụp đổ. Quá trình hoạt động ấy của
Hitler dù chỉ 12 năm nhưng ngần ấy thời gian cũng đủ để Hitler không chỉ kịp xây dựng và
hoàn thiện một chế độ cầm quyền đáng được xếp ngang hàng với những chế độ bạo ác nhất
6
trong lịch sử loài người, mà còn gây ra một cuộc tận diệt đối với cộng đồng người Do Thái
trên thế giới đặc biệt ở châu Âu. Tác phẩm đã giúp tác giả hoàn thành nội dung chương 1
của đề tài.
Trong cuốn sách “Hitler và Lò thiêu sống dân Do Thái” tác giả Serge Millrer – Bản
dịch Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên. Tác phẩm đi sâu nghiên cứu một cách tỉ mỉ cuộc
sống trong các trại tập trung của Đức Quốc xã tại các quốc gia mà Đức chiếm đóng ở châu
Âu trong đó nhiều nhất là ở Ba Lan. Các trại tập trung, phòng hơi ngạt, các lò thiêu xác
được xây dựng ngày một nhiều để làm sao năng xuất giết người cao nhất. Tác phẩm dựng
lại toàn cảnh tội ác của một bộ máy mà cho đến nay khi đọc lại người ta phải suy ngẫm.
Cuốn sách giúp tác giả hoàn thành nôi dung chương 3 đặc biệt là “giải pháp cuối cùng” đối
với người Do Thái.
Năm 2009, trong cuốn sách “Bí mật về Adolf và các chiến hữu” của Mlechin Leonid
đã đã cung cấp cho tác giả thêm nguồn tư liệu về chính phủ Đức Quốc xã đặc biệt là những
người thân cận trong bộ máy chính quyền của Hitler. Những con người ấy đã tôn sùng
Hitler đến mù quáng và trở thành vị lãnh đạo cao nhất, có quyền lực nhất của các tổ chức
SA, SS, Gestapo- sau này là nỗi kinh hoàng cho người Do Thái.
Tác phẩm được coi là quan trọng nhất khi tìm hiểu nguồn gốc chính sách của chính
phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do Thái ở châu Âu (1933-1945) là: Mein
Kampf - “Cuộc tranh đấu của tôi”, tác giả Adolf Hitler năm 1971. Đây được xem là tác
là Mein Kampf, cuốn sách “Đời tranh đấu của tôi” trình bày tư tưởng và âm mưu của Adolf Hitler
về Đế chế Đức khi ông ta lên nắm quyền. Nếu một đầu óc bệnh hoạn suy nghĩ ra những tư
phẩm gốc đề cập đến lý thuyết về chủng tộc thượng đẳng và chủng tộc hạ đẳng. Với tên gốc
tưởng mà người bình thường trong thế kỷ 20 thấy là quái đản thì không nói làm gì? Điều kỳ
lạ là hàng triệu người Đức, sau khi đã đọc qua quyển Mein Kampf lại tiếp thu một cách
cuồng tín luồng tư tưởng như thế, và còn bị tư tưởng ấy dẫn đến chỗ hủy diệt cho hàng triệu
con người vô tội bên trong và đặc biệt bên ngoài nước Đức. Tác phẩm đã giúp tác giả tìm
hiểu được tư duy, suy nghĩ của Hitler về vấn đề chủng tộc để sau khi lên cầm quyền Hitler
biến tư duy ấy thành hành động. Với nguồn tư liệu ấy, tác giả hoàn thành nội dung chương
1.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu.
7
- Đề tài góp phần làm rõ chính sách của nước Đức thời kỳ cầm quyền của Hitler đối
với dân tộc Do Thái (1933-1945) qua đó lên án bất kỳ chính phủ nào có tư tưởng phân biệt
chủng tộc và kêu gọi thế giới giải quyết mọi mối quan hệ quốc tế bằng phương pháp hòa
bình.
* Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân tại sao chính phủ Đức Quốc xã lại muốn
tận diệt người Do Thái?
- Làm rõ chính sách của nước Đức trên các lĩnh vực: Chính trị, xã hội, giáo dục, luật
pháp. Từ những ý tưởng manh nha dẫn đến hình thành chủ nghĩa bài Do Thái cực đoan.
- Tìm hiểu nỗ lực giải cứu người Do Thái khỏi thảm họa diệt chủng nói chung, chính
sách diệt chủng của chế độ Đức Quốc xã nói riêng.
- Đóng góp vào nỗ lực nghiên cứu về chế độ Đức Quốc Xã ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu.
- Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái ở châu
Âu(1933- 1945).
* Phạm vi nghiên cứu.
- Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của chính phủ
Đức Quốc xã đối với cộng đồng người Do Thái trên lãnh thổ châu Âu.
- Về phạm vi thời gian: Từ khi chính phủ Đức Quốc xã được thành lập (1933)
đến khi sụp đổ vào 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngành học là phương pháp lịch sử, phương pháp
logic để tìm mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhằm nêu bật nội dung cốt lõi, bản chất
của sự vật, sự việc, cố gắng trình bày lịch sử như nó đã từng diễn ra. Với đề tài trên, tác giả
phải cố gắng tổng hợp, khái quát để nêu được một số nét cơ bản về chính sách của chính
phủ Đức Quốc xã đối với người Do Thái.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp liên ngành : tác giả luận văn kết hợp các
loại tài liệu và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các ngành : lịch sử, địa lý, khảo cổ học, văn
học.
8
6. Đóng góp của luận văn
*Về tư liệu: Đóng góp thêm nguồn tư liệu vào công cuộc nghiên cứu về chế độ
Đức Quốc xã.
* Về nội dung.
- Về mặt khoa học: Đề tài góp phần cung cấp thêm những nghiên cứu trong và ngoài
nước về chế độ Đức Quốc xã.
- Về tính thời sự: Đề tài góp phần trình bày những bài học của lịch sử để góp phân giải
quyết các mối quan hệ quốc tế.
- Về mặt thực tiến: Nội dung đề tài giúp cho việc giảng dạy về chế độ Đức Quốc xã
phong phú hơn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần: mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì đề tài cấu tạo
nội dung gồm 3 chương chủ yếu:
Chương 1: Nguồn gốc của chính sách bài Do Thái.
Chương 2: Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do
Thái ở châu Âu trước chiến tranh thế giới thứ 2 (1933-1939).
Chương 3: Chính sách của chính phủ Đức Quốc xã đối với các cộng đồng người Do
Thái ở châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ 2 (1933-1939).
9
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA CHÍNH SÁCH BÀI DO THÁI
1.1. Nền tảng ý thức hệ
Lý thuyết “Chủng tộc thượng đẳng” của Chủ nghĩa Quốc xã là một quái thai trong
lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con
đẻ của Học thuyết Darwin- xã hội và Tư tưởng phục thù trong xã hội Đức sau chiến tranh
thới thứ nhất, từ đó trở thành cơ sở lý luận cho các chính sách của một chính phủ.
1.1.1. Học thuyết Darwin xã hội
Học thuyết Darwin xã hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hóa thông qua
quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, thích
nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu,
kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải [7]. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách
máy móc Thuyết tiến hóa của Darwin vào trong xã hội loài người. Không phải ngẫu nhiên
mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực
chúng vào trong xã hội học. Chủ nghĩa thực chúng do Auguste Comte (1798- 1887) nêu lên
từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở
thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế. Với
thắng lợi trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chúng đã tạo ra tinh thần lạc quan mạnh
mẽ trong thế kỷ XIX, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích hành vi của số đông
bằng những quy luật của tự nhiên. Đúng lúc đó, Thuyết tiến hóa của Darwin ra đời. Những
kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hóa của Darwin để giải thích sự tiến hóa
của xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loài người cũng phải tiến hóa theo
quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết Darwin xã hội bước vào thế kỷ
XIX, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì
Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất
thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất
mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không
những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những
nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhưng thất bại thảm hại của Đức
trong cuộc Chiến tranh này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất
mãn sâu sắc hơn nữa. Để chống lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng
10
tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị
theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh
cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
1.1.2. Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù
Học thuyết Darwin xã hội đã trở thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý
thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc
trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thủy tổ của người Đức, người Đức chính là
hậu duệ thuần chủng nhất và tinh túy nhất của người Aryan, do đó xứng đáng để lãnh đạo
thế giới. Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg.
Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong hệ thống các
bậc thang chủng tộc” [74], trong khi “chủng tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một
mối đe dọa đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn
thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn
hóa và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khă năng giữ gìn hoặc phá
hoại những nền văn hóa đó mà thôi. Rosenberg sau này trở thành cánh tay phải của Hitler về
tuyên truyền và giáo dục tư tưởng Quốc xã, đồng thời làm Bộ trưởng Quốc xã phụ trách khu
vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại tòa án
tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16/10/1946.
Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản
năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là
bộ phận tinh túy nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ
Ấn- Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại
[8, tr.60]…Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều
thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là
chủng tộc thượng đẳng về văn hóa, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng
có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới…” [8, tr.661].
1.1.3. Chủ nghĩa bài Do Thái
Chủ nghĩa bài Do Thái- Semitism hoặc Antisemitismus là sự thù địch hoặc thành kiến
đối với người Do Thái với danh nghĩa một nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo. Nó có thể ở nhiều
mức độ, từ sự căm ghét cá nhân cho đến các hành động khủng bố bạo lực được thể chế hóa.
11
Ví dụ cực đoan nhất của hiện tượng này là hệ tư tưởng của chủ nghĩa Phát xít của Hitler- cái
đã dẫn đến cuộc diệt chủng người Do Thái ở châu Âu.
Khi đã có nền tảng ý thức hệ, cuộc tàn sát người Do Thái được biết đến với cái tên
Holocaust.
1.2. Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng và Hitler- “cha đẻ của tiến trình
diệt chủng”
Tư tưởng bài Do Thái được thể hiện qua Martin Luther (1483–1546), là nhà thần học
Đức đã khởi xướng Phong trào Cải cách Đức, có tầm ảnh hưởng sâu rộng từ tôn giáo đến
chính trị, kinh tế, giáo dục và ngôn ngữ, khiến cho ông trở thành một trong những nhân vật
quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Châu Âu. Tư tưởng của ông manh nha ý bài xích Do
Thái tuy không dữ dội như xu hướng đả kích Thiên chúa giáo của ông. Tuy thế, giáo hội
Lutheran mang tên ông không mang tư tưởng bài Do Thái.
Tiến sĩ Karl Lueger (1844–1910), chính trị gia và thị trưởng (1897–1910) thủ đô Viên
nước Áo, có những chính sách bài Do Thái và phân biệt chủng tộc. Lueger trở thành chính
trị gia có ảnh hưởng mạnh nhất ở Áo lúc bấy giờ do tư cách có văn hóa và trình độ tri thức
đáng kể. Những người chống đối ông, kể cả người Do Thái, phải công nhận ông là người tề
chỉnh, có tinh thần hiệp sĩ, khoáng đạt và dễ dung thứ. Ngay cả nhà văn nổi tiếng Áo gốc Do
Thái, Stefan Sweig, cũng có ý kiến thiện cảm về ông. Vì thế, có thể nói tư tưởng bài Do
Thái của Lueger đạt mức độ tinh tế từ cảm quan của cá nhân, dễ thuyết phục người khác.
Người bị thuyết phục mạnh mẽ nhất là Adolf Hitler.
Adolf Hitler sinh ngày 20/04/1889 tại số nhà 219 đường Salzburger Volstadt, thị trấn
Braurau trên sông Inn ngăn cách Áo với bang Bayern của đế quốc Đức. Hitler là con thứ ba
của ông Alois Hitler và bà Klara Polz. Trong số sáu người con của hai người thì chỉ có
Hitler và cô em gái Paula là còn sống đến lúc trưởng thành.
Sau khi học xong bậc tiểu học, (9/1900), Hitller vào học trường Realschule của thành
phố Linz - một trường hướng nghiệp công thương. Tuy nhiên, đến năm 1904, Hitler đã phải
rời trường Realschule sang một trường cao đẳng hướng nghiệp khác ở thành phố Steyr vì
điểm quá kém. Thế nhưng ở ngôi trường mới không được bao lâu, Adolf cũng phải dừng
con đường học vấn của mình do tình hình học tập vẫn không được cải thiện. Lúc này, Hitler
chỉ dồn tâm trí của mình vào một ước mơ duy nhất đó là trở thành một họa sĩ và nghệ sĩ đồ
họa kiến trúc tài danh. Và đề tài hấp dẫn nhất trong những bức tranh anh ta vẽ chính là chiến
12
tranh. Sau này, chính Hitler, khi đã trở thành Quốc trưởng của Đảng Quốc xã, nhớ lại
rằng "Các trận đánh anh dũng là sự trải nghiệm tinh thần quan trọng nhất của tôi. Từ thời đó
trở đi, tôi ngày càng say sưa với bất kì thứ gì có gắn bó chút nào đó với chiến tranh hay với
nghiệp lính" [23, tr.5]. Một thanh niên mới bước vào độ tuổi mới lớn đã có những tư tưởng
khác người. Tại sao con người mơ ước trở thành một họa sĩ, một nhà kiến trúc tài danh ấy
không say mê những đề tài mà các họa sĩ nổi tiếng đương thời ta vẫn thường thấy như : chủ
đề về thiên nhiên, vẻ đẹp của người phụ nữ... mà nó lại là chiến tranh. Thật khó giải thích về
tính cách này của Hitler nhưng chúng ta có thể nhận thấy chính tính cách này đã ảnh hưởng
sâu sắc tới tư tưởng của nhà độc tài phát xít trong tương lai.
Rời khỏi trường Oberrealschule ở Steyz, Hitler bằng mọi cách thuyết phục mẹ cho thi
vào trường Học viện nghệ thuật Viên. Và cuối cùng giấc mơ đến Viên của Adolf cũng trở
thành hiện thực vào mùa thu năm 1907. Tuy nhiên ước mơ trở thành họa sĩ của Hitler đã tan
biến gay sau đó vì kết quả không đủ điểm để vào trường. Song không phải vì thế mà Hitler
chán nản và tiếp tục sống ở Viên để theo đuổi giấc mơ trở thành sinh viên nghệ thuật cho
đến năm 1913. Khoảng thời gian từ 1908-1913, Hitler sống lang thang nghèo khổ ở thành
phố Viên, cũng có lúc Hítler sống bằng những đồng tiền của người làm công nhật hằng
ngày, một thợ vẽ tầm thường trên đường phố. Đây là quãng đời cơ cực nhất trong cuộc đời
của nhà độc tài. Sau này, Hitler nhớ lại trong Mein Kampf "Thành phố Viên vừa là biểu
trưng cho những thú vui vô hại của vô số người, vừa là mảnh đất lễ hội của những kẻ ăn
chơi, còn đối với tôi chỉ là nơi chứng kiến thời kì sầu thảm nhất trong đời… 5 năm trời tôi
buộc phải kiếm sống, lúc đầu như người làm công nhật rồi như một người thợ vê tầm
thường; các công việc này chỉ mang lại cho tôi một số tiền ít ỏi, không bao giờ đủ dù chỉ để
làm dịu cơn đói trong suốt nhiều ngày...Cái đói không ngừng bám theo tôi, không bao giờ
rời tôi lấy một giây và luôn chen lẫn vào mọi giờ giấc sinh hoạt của tôi. Cuộc sống của tôi là
cuộc chiến đấu liên tục chống lại những người bạn đồng hành bất nhân này" [23, tr.8-9].
Có một điều đáng chú ý trong thời gian Hitler sống ở Viên mà sau này, nó ảnh hưởng
tới con người và cá tính của nhà độc tài đó là bắt đầu học hỏi thêm trên các vấn đề chính trị
bằng cách đọc nhiều sách báo và tham gia bàn luận chính trị. Thực tế, đây không phải là sự
đam mê khác lạ gì đối với mỗi người đàn ông khi đã bắt đầu trưởng thành. Nhưng Hitler lại
say sưa các vấn đề chính trị một cách lạ thường đến nổi không quan tâm tới chuyện ăn
uống. Những cảm xúc cuồng nộ, chán chường và suy sụp luôn xen lẫn trong những bài
thuyết giáo của ông. Đặc biệt sở thích đọc sách báo của nhà độc tài tương lai cũng làm
13
nhiều người phải suy nghĩ. Ông đọc rất nhiều loại sách báo nhưng lại không đọc theo một
chủ đề nào và cũng không có hệ thống nào: có lúc là lịch sử cổ La Mã, có khi là các tôn giáo
phương Đông, thôi miên học, huyền bí học, chiêm tinh học hay Đạo Tin Lành. Cách đọc
này ít nhiều phản ánh bản chất con người của Hitler: tức là mơ ước làm đủ mọi chuyện
nhưng lại không đủ kiên trì theo đuổi đến cùng bất cứ chuyện gì, sống bằng đủ thứ nghề
nhưng lại chẳng theo đuổi lâu dài một nghề nào. Một người luôn tự nhận là nghệ sĩ với mơ
ước không bao giờ trở thành hiện thực, tinh thần thường xuyên trong trạng thái cô đơn và
tuyệt vọng. Những mớ kiến thức ấy được Hitler tập hợp thành hệ thống tri thức mà ông luôn
tự hào chứa đựng những quan điểm thù hằn người Do Thái và những người xã hội - dân
chủ. Song không phải vì sự thù ghét ấy mà Hitler phủ nhận những mặt tích cực của các nhà
xã hội - dân chủ cũng như phong trào đấu tranh do họ lãnh đạo. Nhà độc tài đã biết tiếp thu
những bài học kinh nghiệm từ thành công của họ để áp dụng vào quá trình hoạt động chính
trị của mình sau này đó là: cách gây dựng một phong trào quần chúng, nghệ thuật tuyên
truyền và giá trị của cái gọi là khủng bố tinh thần và và thể chất. Còn sự thù ghét người Do
Thái chỉ đơn giản là sự hiểu biết lệch lạc, không có một chứng cớ cụ thể gì mà chỉ là sản
phẩm của sự hoang tưởng bệnh hoạn. Hitler cho rằng" người Do Thái chỉ là giống quái dị,
bê tha, trụy lạc, là hiện thân của cái xấu xa, là tượng trưng cho tất cả những gì Hitler căm
ghét và sợ hãi, nguyền rủa và xa lánh. Người Do Thái có mặt ở khắp mọi nơi, chịu trách
nhiện về mọi thứ, chủ nghĩa cách tân trong nghệ thuật và âm nhạc mà Hitler không biết cảm
thụ, sách báo khiêu dâm và tệ nạn đĩ điếm cho đến ách bóc lột người lao động" [23, tr.14].
Thật ra Hitler kết tội người Do Thái như vậy cũng chỉ nhằm mục đích đổ tội cho người Do
Thái có âm mưu quy mô toàn cầu là "hủy diệt và nô dịch người Aryen" để trả thù cho vị trí
thấp hèn của chính mình. Mục đích của người Do Thái là làm suy yếu đất nước bằng cách
khuấy lên những chia rẽ xã hội và xung đột giai cấp, bằng cách tiến công vào nòi giống,
truyền thống anh hùng, khả năng chiến đấu và bộ máy quyền lực nhưng lại ủng hộ những ý
tưởng dối trá về chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa hòa hiếu và chủ nghĩa
duy vật của chế độ dân chủ. Và công cụ để người Do Thái sử dụng để đạt mục đích là chủ
nghĩa Marx.
Rõ ràng những bài xích trào lưu xã hội- dân chủ, căm ghét chủ nghĩa Marx, thù hằn
người Do Thái đã đẩy Hitler vào chủ nghĩa sôvanh, sản phẩm tệ nhất của chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi. Do vậy trong thời gian ở Viên, Hitler say sưa với những cương lĩnh chứa đựng chủ
nghĩa dân tộc cực đoan (thống nhất với nước Đức, công kích triều Habsburg, tẩy chay tòa
14
thánh Vatican...), những lời lẽ cuồng nộ bài Do Thái và một kế hoạch điên cuồng chống chủ
nghĩa xã hội. Đây cũng là khoảng thời gian những ý niệm đầu tiên về người Do Thái trong
con người Hitler bắt đầu hình thành.
Một hôm khi đang đi lang thang ở một khu phố ở Vienna, Adolf nhìn thấy một người
đàn ông mặc áo khoác màu đen, áo trong dài tay có thắt dây hông, đeo những lọn tóc xoăn
dày sau tay. Người đàn ông đó là thành viên của nhóm Hasid, Hebrew « sùng đạo » của
người Do Thái ở khu vực Đông Âu. Ngạc nhiên, Adolf đi theo ông ta để phát hiện và học
hỏi những cử chỉ của ông ta. Adolf chưa nhìn thấy ai như ông ta trước đây cả.
Sự tò mò của Hitler nổi lên. Cậu bắt đầu đọc về người Do Thái. Trong các câu chuyện
về người Do Thái, cậu bắt gặp những bài báo, những cuốn sổ nhỏ ở quầy sách nói về chủ
nghĩa chống Do Thái. Chủ nghĩa chống Do Thái bắt nguồn từ thời Trung cổ ở châu Âu.
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do Thái bị coi là nguyên nhân của những tội ác khủng
khiếp. Do tôn giáo của họ khác với tôn giáo đạo Thiên Chúa ở phần lớn các khu vực ở châu
Âu nên rất dễ nhận thấy trong đạo của người Do Thái những điều lạ lùng. Người ta nói rằng,
người Do Thái đã giết chết chúa Jesus, tôn thờ quỉ Satan và dùng máu của trẻ em theo đạo
Thiên chúa để hiến cho quỉ trong các lễ hội. Mặc dù những lời phán xét đó đã bị các nhà
thời Thiên chúa giáo hiện đại bác bỏ nhưng nó vẫn phổ biến khắp châu Âu vào đầu thế kỉ
XX. Mọi người cho rằng chủ nghĩa chống Do Thái của người xưa là sai lầm, là vô căn cứ vì
chủ nghĩa này chỉ đưa ra một lời giải thích đơn giản cho bất kỳ điều bất chắc nào xảy ra trên
thế giới. Nếu ai đó gặp chuyện không may, thì việc đổ lỗi cho người Do Thái dễ dàng hơn
việc tìm ra nguyên nhân thực sự hoặc phải đứng ra chịu trách nhiệm.
Tuy vậy, những điều mà Hitler đọc được về chủ nghĩa chống Do Thái thầm chí còn ăn
sâu vào tâm trí cậu, tạo ra sự phân biệt chủng tộc và lòng thù hận về người Do Thái trong
cậu. Những người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc tin rằng chẳng bao giờ tồn tại một
« mái nhà chung » cho tất cả mọi người, cho dù mọi người có cùng một ngôn ngữ hay theo
một tập tục nào đó vẫn thuộc những giống người và màu da khác nhau. Họ cho rằng, mỗi
chủng tộc đều có chung một « huyết thống » truyền tải mọi tinh túy từ đời này qua đời khác.
Do vậy, chủng tộc người không bao giờ bình đẳng, được sắp xếp theo dạng kim tự tháp với
những chủng tộc siêu đẳng ở phía trên. Chủng tộc Aryan hay Nordic đại diện cho dân tộc
Đức. Những người Aryan được coi là siêu việt hơn các chủng tộc khác, vì đã tạo ra những
đồ vật đẹp đẽ và quí giá cho thế giới. Chủng tộc Negro, Oriental và Slav- người Nga, Ba
Lan và Czech- bị coi là những chủng tộc hạ đảng. Những người theo chủ nghĩa phân biệt
15
chủng tộc cho rằng những chủng tộc đó rất hèn nhát, ngu dốt và theo lẽ tự nhiên là phải làm
nô lệ cho những chủng tộc siêu việt hơn. Họ nói rằng những người Do Thái là những người
hạ đẳng nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất. Người Do Thái muốn chinh phục người Aryan
bằng cách đồng hóa dân tộc qua hôn phối, do đó thay đổi nòi giống người Aryan. Bằng cách
đó, người Do Thái đã trở thành một tộc người hùng mạnh ở nước Áo và các nước khác. Họ
thống trị ngành thương mại, ngân hàng, báo chí và nghệ thuật. Chủ nghĩa cộng sản, ý tưởng
quản lý và điều hành nền kinh tế do tập thể chứ không phải cá nhân, là kế hoạch của người
Do Thái. Ý tưởng dân chủ cũng bắt nguồn từ người Do Thái. Những người theo chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc tin rằng chỉ có những chủng tộc người « siêu đẳng » mới có thể lãnh
đạo được nhà nước, chính phủ vì những người bình thường không đủ thông minh để làm
lãnh đạo.
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc không được những thực tiễn khoa học ủng hộ. Những
nhà nhân chủng học phản đối rằng trên thế giới này không có một chủng tộc thuần khiết nào
cả hoặc không có một dân tộc nào siêu việt hơn dân tộc khác. Người Đức, người Ai Cập,
người Mỹ và người Nhật là những dân tộc chứ không phải là các tộc người. Người Slav nói
dòng ngôn ngữ Slav. Tương tự như vậy, việc nói về chủng tộc người Do Thái cũng giống
như nói về người Hồi giáo hay Tin lành. Đó là những tôn giáo mà nhiều người thuộc nhiều
màu da, ngôn ngữ và dân tộc khác nhau tôn sùng.
Tất cả những dẫn chứng khoa học đó không có tác dụng gì đến chàng thanh niên trẻ
Adolf, người có nhu cầu muốn lòng thù hận lấn át khả năng đối mặt sự thật đau lòng đang
ập lên đầu cậu. Những nhà phân biệt chủng tộc chống Do Thái đã giúp Adolf nhìn nhận
những vấn đề của cậu ở một góc cạnh khác. Cuối cùng cậu cũng hiểu được nguyên nhân tại
sao cậu thi trượt. Đó là những người Do Thái. Cậu tự quyết định cho rằng những giáo viên ở
Học viện có dòng máu Do Thái, những người, do biết mình không có khả năng hơn người,
muốn phá hủy sự nghiệp cậu. Thay vì căm ghét bản thân, Adolf thấy lòng căm ghét người
Do Thái mang lại cho cậu chút thanh thản.
Một khi Adolf đã căm ghét ai đó hoặc điều gì đó, thì chẳng có gì có thể thay đổi được
lòng căm ghét trong cậu. Ở tuổi 19, lòng căm giận càng sâu đậm và mạnh mẽ hơn đến khi
nó vượt qua mọi giới hạn của tinh thần. Cậu chỉ cần nghe đề cập đến người Do Thái, hoặc
nhìn thấy họ là có thể mất hết tự chủ. Những từ mà Adolf phát ra khi đề cập đến người Do
Thái là « lũ sâu bọ », « bọn côn trùng », « lũ hút máu người »…Một ngày, cậu thề là sẽ « trả
16
đủ » cho bọn mọi rợ Do Thái. Chúng phải trả hết, cho đến người cuối cùng, vì sự sỉ nhục mà
chúng đã gây ra cho cậu.
Một công việc ổn định sẽ khiến cuộc sống dễ dàng hơn nhưng Adolf không bao giờ hạ
mình để làm việc cho người khác. Cậu lang thang khắp Vienna lẩm bẩm về người Do Thái
và luôn mơ về một tương lai xán lạn. [33, tr.20-23].
Cũng chính khi tham gia phong trào này, Hitler nhận thấy được sức mạnh của quyền
lực và sự tác động của lời nói. Đây chính là những bí quyết đã được Hitler vận dụng triệt để
vào trong quãng đời hoạt động chính trị của mình, đặc biệt vào cuối thập niên 30 của thế kỉ
XX.
Từ thành phố Viên, từ tháng 5/1913, Hitler chuyển đến sống ở Munchen. Tuy nhiên
cuộc sống của Adolf vẫn không khác gì so với ở Viên. Hitler luôn sống né tránh lao động,
không làm bất cứ việc gì cố định và thường xuyên trong cảnh thiếu trước hụt sau. Bức chân
của Hitler trong khoảng thời gian hơn một năm sống tại Munchen theo nhận xét của những
người láng giềng như "một người tâm thần, thường hay lảm nhảm những lời lẽ dông dài về
chủng tộc, bài Do Thái và chống mácxít, thỉnh thoảng tuôn ra hàng lô lốc những lời quát
tháo thịnh nộ và những câu nguyền rủa độc địa" [23, tr.19]. Dường như tư tưởng bài Do
Thái, chống mácxít ngày càng ăn sâu vào trong tâm trí của nhà độc tài. Nhưng cuộc sống
chản nán và cô đơn của Hitler ở Munchen thật sự thay đổi khi chiến tranh thế giới thứ nhất
bùng nổ. Chiến tranh thế giới đã trở thành dịp để "Hitler phô trương lòng cuồng nhiệt dân
tộc, xua tan nỗi chán chường, cay đắng và oán hận chất chứa trong lòng" [23, tr.20]. Vì thế
khi chiến tranh xảy ra, Hitler đã xin gia nhập hàng ngũ quân đội của xứ Bayern .
Trong chiến tranh thế giói với tư cách là một người lính liên lạc, Hitler luôn cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ. Cũng tư trong môi trường này, Adolf đã quen được hai nhân vật mà
sau này đã trở thành những trợ thủ đắc lực cho mình, đó chính là Rudolf Hess và Max
Amann. Cuộc sống chiến tranh thật sự đã cho nhà độc tài tương lai rất nhiều kinh nghiệm bổ
ích cho hoạt động chính trị sau này như kinh nghiệm gắn mình vào tổ chức, biến những ý
tưởng của mình thành ý tưởng và sức mạnh của tập thể.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Hitler được tuyển vào phòng báo chí của Cục chính trị
thuộc quân khu V và sau đó gia nhập Đảng công nhân (1919). Trong khoảng thời gian
(1919-1923), bằng tài nghệ tuyên truyền của mình, Hitler đã biến Đảng Quốc xã thành một
tổ chức chính trị không có tiếng tăm nay phát triển mạnh ở Đức. Tháng 7/1921, Hitler lên
nắm quyền lãnh đạo Đảng, được gọi là Fuhrer, biến nó trở thành tổ chức chuyên chế độc tài
17
của riêng mình. Một mặt Hitler tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc Đức, bài Do Thái; mặt khác
ông bắt tay xây dựng lại tổ chức bộ máy Đảng. Đó là chuyển trụ sở hoạt động của Đảng
sang địa điểm có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, lập tuần báo tuần san Volkischer
Beobachter làm cơ quan tuyên truyền và tuyển chọn thêm những nhân vật có tài làm tay
chân đắc lực cho mình như Rudolf Hess, Alfred Rosenburg, Hermann Goering.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Đức là kẻ chiến bại. Do đó mà Đức đã phải chịu
chấp nhận những điều khoản nặng nề từ hòa ước Versailles. Những khó khăn càng chồng
chất đè nặng lên đôi vai của người công nhân, nông dân khi đồng Mark mất giá, giá cả hàng
hóa tăng, lạm phát diễn ra ngày càng mạnh. Vì vậy không ít các cuộc biểu tình của công
nhân nổ ra. Các tầng lớp tiểu và trung tư sản trút mọi oán giận lên chính phủ Weimar. Nhận
thấy những biến đổi của xã hội Đức sau chiến tranh, Hitler đã nắm bắt cơ hội đó, kích động
người dân ủng hộ mình chống lại chế độ cộng hòa nhằm giành lấy quyền lực. Một kế hoạch
đảo chính được sắp đặt sẵn vào tối 8/11/1923 do Hitler, von Kahr dàn dựng: tại một cuộc
mít tinh đông đảo được tổ chức ở quán bia Burgerbraukeller, nằm ở khu ngoại ô tây nam
Munchen, von Kahr sẽ phát biểu theo yều cầu của một vài tổ chức thương mại. Tại buổi mít
tinh này sẽ có những nhân vật hoạt động chính trị hàng đầu ở bang Bayern như: Lossow,
Seisser và nhiều nhân vật quan trọng khác. Một lực lượng SA sẽ kéo đến bao vây chặt quán,
không cho ai thoát ra ngoài. Bản thân Hitler cùng vài người hộ tống sẽ nhảy lên diễn đàn,
dùng súng uy hiếp von Kahr và các quan chức hàng đầu nhằm buộc họ đứng ra lãnh đạo
cuộc cách mạng, và Hitler sẽ tuyên bố ngay lúc đó. Đúng như kế hoạch, 9 giờ 15 phút tối
ngày 8/11/1923, các đơn vị SA bắt đầu bao vây quán bia Burgerbraukeller. Màn kịch đã
diễn ra theo đúng kế hoạch nhưng mục đích của họ vẫn không đạt được. Chỉ một ngày sau
cuộc đảo chính tiệm bia, những nhà lãnh đạo của Đảng Quốc xã phần lớn bị quân đội chế độ
cộng hòa bắt, số còn lại phải bỏ trốn. Bản thân Hitler sau sự biến này đã phải chấp nhận cái
án 5 năm tù giam. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ sau hơn một năm ông đã được trả tự do
(11/11/1923 - 20/12/1924). Cái giá thất bại năm 1923 đã để lại cho Hitler một bài học quý
giá, đó là muốn giành quyền lực không phải bằng con đường bạo lực vũ trang mà phải đi lên
bằng con đường bầu cử, hợp pháp.
Rút kinh nghiệm từ trong thất bại, sau khi ra tù, Hitler tìm mọi cách để nắm lại quyền
lãnh đạo Đảng Quốc xã. Trước tiên Hitler bắt tay vào quy tụ các đơn vị bị tan rã của Liên
minh chiến đấu và đặt cho chúng một cái tên mới: Frontbann. Và chỉ sau một thời gian
ngắn, Frontbann đã đông tới 3 vạn người. Tiếp đến là tìm cách cho tờ báo Volkischer
18
Beobachter của Đảng Quốc xã hoạt động trở lại và cuối cùng khẳng định vị trí lãnh đạo
Đảng của mình. Trong buổi mít tinh ngày 27/2/1925, Hitler tuyên bố: "tôi là người duy nhất
lãnh đạo tổ chức, và không ai có quyền bảo tôi phải lãnh đạo ra sao chừng nào cá nhân tôi
còn là người chịu trách nhiệm về tất cả mọi sự việc đang diễn ra trong phong trào" [23,
tr.62-63]. Để khẳng định đường lối lãnh đạo của mình cũng như trấn áp mọi đối thủ chống
lại mình, tại đại hội Bamberg, Hitler cho thông qua cương lĩnh 25 điểm với các nội dung
chính như hủy bỏ các hòa ước Versailles và Saint Germain và xem xét các đường biên giới
đã được thiết lập (điều 2,3); xác định quốc tịch Đức theo nguyên tắc sinh học chứ không
theo nguyên tắc pháp lí, tức là những ai là người Đức mang dòng máu Đức (điều 4); người
Do Thái không được làm việc trong các cơ quan công quyền (điều 6); người Do Thái sẽ bị
trục xuất nếu xảy ra khủng hoảng (điều 7); tất cả phải lao động (điều 10); xóa bỏ ách nô
dịch của lãi suất ngân hàng (điều 11); các tổ chức độc quyền bị quốc hữu hóa, những xí
nghiệp gia đình lớn phải cho người làm công hưởng lợi nhuận (điều 13,14); giai cấp trung
lưu, người về hưu, tiểu thương, chủ công nghiệp nhỏ được bảo vệ khỏi sự đe dọa của chủ
nghĩa tư bản và được nhà nước ưu đãi (điều 15,16); cải cách nông nghiệp bằng cách tịch thu
không bồi thường các trang trại lớn (điều 17); tinh thần dân tộc phải được khắc sâu vào tâm
não của học sinh ngay khi chúng biết suy nghĩ; Nhà nước phải bảo vệ và phát triển nòi
giống Đức bằng cách bảo vệ bà mẹ và trẻ em và thúc đẩy hoạt động thể dục (điều 20, 21);
tái chế độ quân dịch cưỡng bức và giải tán quân đội đánh thuê mà Hòa ước Versailles đã áp
đặt (điều 22); Nhà nước kiểm soát nghệ thuật, văn học, báo chí (điều 23); tôn giáo chỉ được
hoạt động trong địa hạt của mình và không được xâm phạm đến tình cảm đạo đức của nòi
giống Đức; phải tránh chủ nghĩa duy vật Do Thái (điều 24); Nhà nước tập trung hóa được
lãnh đạo bởi một ủy ban chính trị có quyền lực chuyên chế (điều 25). Như vậy sau đại hội
Bamberg, Hitler thật sự đã hoàn toàn nắm quyền lãnh đạo Đảng mà không bị một thế lực
nào có thể cản trở. Tiếp tục đường lối của cương lĩnh 25, Hitler vẫn tuyên truyền tư tưởng
phát xít trong cả nước thông qua diễn thuyết, báo chí với sự hỗ trợ đắc lực của Goebbels.
Ngoài ra, Hitler còn thành lập những lực lượng quân sự phục vụ cho quá trình thâu tóm
quyền lực của mình như: Gestapo (mật vụ quốc gia), SA (phân đội chiến đấu), SS (hộ vệ
quân trong đội quân chiến đấu và dùng làm hộ vệ quân cho Hitler).
Tuy nhiên trong thời kì giành lại quyền lãnh đạo Đảng, hoạt động tuyên truyền chủ
nghĩa phát xít của Hitler không đạt được hiệu quả như mong muốn vì đây là thời kì ổn định
nhất của chế độ cộng hòa Weimar. Nhờ những chính sách ổn định và phát triển kinh tế của
19
nền cộng hòa mà đời sống nhân dân đã giảm bớt đi sự khó khăn, thất nghiệp cũng giảm dần.
Nhưng thời gian đó kéo dài không được bao lâu khi khủng hoảng kinh tế 1929-1933 diễn
ra. Cuộc khủng hoảng đã để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với nước Đức
thông qua những con số thống kê như sau:
Bảng 1.1. Hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933
đối với nước Đức
Nội dung
Sản xuất
Năm 1929 1930 1931 1932 1933
Công nghiệp (%)
Thất nghiệp
100 88.3 71.7 59.8 66.8
(triệu người)
1.3 3 4.3 5.1 6
Nguồn : diendankienthuc.net
Biểu hiện trên cho thấy thảm cảnh của nước Đức trong cuộc khủng hoảng. Xa xăm
chúng ta thấy những ánh mắt tuyệt vọng của người dân đứng đầy góc đường các thành phố
công nghiệp, những căn nhà không có ánh lửa sưởi ấm, không còn chút lương thực...Khủng
hoảng không chỉ là thảm cảnh đối với người công nhân mà nó còn xảy ra ngay với cả các
tầng lớp trung, tiểu tư sản...Tất cả dường như đều lâm vào cảnh khốn quẫn. Và trong lúc ấy,
những nỗi căm hận chế độ cộng hòa Weimar bỗng dâng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cái
chế độ mà nhân dân cho họ là những kẻ đâm sau lưng sau chiến tranh thế giới thứ nhất, và
cũng là người đã gây ra thảm cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Lợi dụng tình
hình đó, Hitler lại càng tuyên truyền chủ nghĩa phát xít kích động nhân dân chống lại nền
cộng hòa, và hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp nếu ông lên nắm chính quyền. Bằng những
thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, Hitler làm các tầng lớp nhân dân lu mờ hết ý chí. Trong lòng
họ, những nỗi nhục bại trận dường như đã được xoa dịu bằng những lời công kích quyết liệt
nhằm vào "bọn tội phạm tháng Mười một" và huyền thoại "nhát dao đâm sau lưng". Lòng tự
hào dân tộc bị tổn thương của họ được xoa dịu bằng những lời công kích không tiếc của
Hitler nhắm vào Hòa ước Versailles và các nước đồng minh. Tình cảnh khốn khổ của người
dân được bọn phát xít giải thích bằng sự bất tài, ngu dốt của những kẻ cầm quyền, bằng đầu
óc cổ hũ của đám chính khách xa rời quần chúng. Nỗi đắng cay vì phá sản của họ được trút
hết vào bọn đầu cơ Do Thái. Tiến trình chia rẽ đất nước được lí giải vì do thuyết đấu tranh
giai cấp của bọn Mác xít. Những lời lẽ kích động trên thật sự đem lại hiệu quả khi kết quả
20
vận động bầu cử, số phiếu ủng hộ Đảng Quốc xã không ngừng tăng lên, tên tuổi của Hitler
ngày càng bay xa. Theo đánh giá của dư luận thì Hitler sẽ là ứng cử viên sáng giá trong
cuộc chạy đua vào ngôi vị quyền lực cao nhất ở Đức.
Trong bối cảnh hiện nay, Hitler cũng bắt đầu nhận thấy rằng nền cộng hòa Weimar đã
và đang lung lay trong cơn lốc của khủng hoảng kinh tế và biến động của xã hội. Và không
lâu nữa Hitler sẽ là người đứng đầu trong cơ quan quyền lực tại Đức. Vấn đề bây giờ là phải
chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để sau này nắm quyền, đó là tranh thủ sự ủng hộ của
quân đội và giới đại tư sản công nghiệp và tài chính. Giới quân đội chỉ là những kẻ lợi dụng
chế độ cộng hòa Weimar để giải thích cho sự thất bại của mình trên chiến trường. Do đó
giới chỉ huy quân đội xem chế độ cộng hòa chỉ là giải pháp tạm thời nhắm đối phó với làn
sóng cách mạng chịu sự tác động của chủ nghĩa Bônsevik, làn sóng bạo loạn li khai ở các
bang, nhất là ở miền Nam. Nhưng khi bão tố qua đi, lực lượng quân đội sẽ trỗi dậy chống lại
nền cộng hòa Weimar. Còn giới tư sản đại công nghiệp và tài chính vốn chẳng ưa nền chính
trị quá dân chủ, có thể nói là dân chủ nhất châu Âu, của chế độ Weimar. Vì vậy nếu Hitler
nhận được sự ủng hộ của hai lực lượng này thì con đường đi đến nắm quyền lực chỉ còn là
vấn đề thời cơ. Quân đội sẽ là người dọn đường cho Hitler đi đến quyền lực, còn giới đại tư
sản công nghiệp và tài chính sẽ là người cung cấp tiền của phục vụ cho chiến lược đi vào
quần chúng của Hitler. Vì vậy nắm được tầm quan trọng của hai lực lượng này, Hitler ra sức
tranh thủ lôi kéo, tuyên truyền, kích động họ để họ ủng hộ Đảng Quốc xã, đả kích mạnh vào
Hòa ước Versailles, vào những nhà hoạt động chính trị của Đảng xã hội- dân chủ và Đảng
cộng sản. Đánh trúng tâm lí của giới quân đội và tài chính quân phiệt, Hitler đạt được mục
đích của mình một cách nhanh chóng.
Đến những năm 1930-1931, Đảng Quốc xã đã trở thành một tổ chức chính trị mạnh lan
tỏa khắp các địa phương trong cả nước. Số Đảng viên của Quốc xã không ngừng tăng; lực
lượng quân SA, SS tăng nhanh chóng; giới quân đội và đại tư sản công nghiệp tài chính
cũng ngày càng ngả theo phong trào Quốc xã; những dòng tiền của các nhà tư sản cứ tuôn
chảy vào quỹ của Đảng Quốc xã ngày càng nhiều. Trên đà thắng lợi đó, Hitler cũng liên tục
thu được những kết quả hết sức khả quan trong các cuộc bầu cử. Đặc biệt hơn, vị tổng thống
già Hindenburg tái trúng đắc cử lần hai (lần 1, 1925-1932) đang trong giai đoạn hấp hối.
Chiếc ghế quyền lực ngày một gần hơn với Hitler. Nhân cơ hội này, Hitler đã tranh thủ
đứng ra tranh cử nhằm lôi kéo sự ủng hộ của các cử tri cả nước, đồng thời loại trừ các Đảng
phái không hợp với mình. Cuối cùng, sau bao nổ lực của Đảng Quốc xã cùng với Hitler,
21
ngày 29/1/1933, tổng thống Hindenburg đã chính thức bổ nhiệm Hitler trở thành thủ tướng
Đức. Con đường đi đến quyền lực của Hitler giờ đây đã đạt được. Vấn đề còn lại là Hitler sẽ
xây dựng bộ máy Quốc xã như thế nào sau khi lên nắm quyền? Nhưng trước khi tìm đáp án
cho câu hỏi trên, chúng ta cần phải giải thích được tại sao, Hitler cùng đảng phát xít của nó
(Đảng công nhân quốc gia xã hội chủ nghĩa Đức) lại có thể giành thắng lợi một cách dễ
dàng như vậy để rồi chính họ đã đẩy nước Đức cũng như lịch sử thế giới vào chương đen tối
nhất.
Thứ nhất là nó xuất phát từ cội nguồn của lịch sử Đức. Nước Đức thống nhất trong thế
kỉ XIX thực bằng con đường từ trên xuống do quý tộc Phổ tiến hành- là tầng lớp có tinh
thần hiếu chiến, sẵn sàng hi sinh những lợi ích của các dân tộc để thỏa mãn những tham
vọng bá quyền của mình. Sau thời kì Bismarck, nền tảng của nước Đức thống nhất đã hình
thành. Sức mạnh của Đức giờ đây không chỉ là của Phổ mà của toàn đế chế. Sức mạnh ấy đã
làm cho vị vua thứ hai của đế chế, Wilhelm II, lấy làm cơ sở để chuẩn bị cho cuộc chiến
tranh thế giới nhằm giành lấy cho Đức một vị thế xứng đáng dưới ánh mặt trời. Rõ ràng
trong tư tưởng của các nhà quân phiệt Phổ, tinh thần hiếu chiến thể hiện ngày càng mạnh
mẽ. Nếu như trước đây, tầng lớp Junker Phổ chỉ muốn tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm
thống nhất nước Đức thì bây giờ, tham vọng của họ là những vùng đất của người German
nói tiếng Đức, những mảnh đất thuộc địa màu mỡ ở các châu lục mà Anh, Pháp đã chiếm
trong những năm cuối thế kỉ XIX. Lòng tham của quý tộc Phổ dường như không chỉ ăn sâu
vào tầng lớp của họ mà còn lan rộng trong các tầng lớp đại tư sản, tài chính ngân hàng. Cái
tinh thần ấy lại chính là cội nguồn của Đế chế ba do Đảng Quốc xã, đứng đầu bởi Hitler,
lãnh đạo sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Hitler, một kẻ yêu nước đến mức cực
đoan, đã thấm nhuần tinh thần của Phổ từ khi chỉ là một thanh niên lang thang, không nghề
nghiệp ở thành phố Viên tráng lệ và sau đó ở Munchen. Thất bại trong chiến tranh thế giới
thứ nhất không những làm cho những kẻ hiếu chiến ở Đức từ bỏ tham vọng của mình mà nó
càng hun đúc thêm lòng thù hận, mong muốn chờ cơ hội gây chiến hòng phục thù. Tinh thần
ấy càng tiếp thêm sức mạnh khi Hitler ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đức quốc, bài xích
Do Thái, xóa bỏ hòa ước Versailles cùng lời đả kích những kẻ đâm sau lưng của chế độ
cộng hòa Weimar, làm cho nhân dân Đức phải chịu nỗi nhục ê chề và thảm cảnh của đất
nước sau chiến tranh. Với tài nghệ thuật tuyền truyền bẩm sinh, Hitler đã làm cho cả nước
Đức lầm tưởng ràng, nếu ông ta lên nắm quyền lực thì đất nước sẽ thoát khỏi những thảm
cảnh hiện nay, Đức sẽ trở lại là một cường quốc mạnh nhất châu Âu với lãnh thổ rộng lớn
22
nhất bao gồm những phần đất của những người Aryen nói tiếng Đức. Đó là lí do đầu tiên để
Đảng Quốc xã cùng Hitler tranh thủ được sự ủng hộ từ những lá phiếu cử tri của nhân dân
Đức- con đường hợp pháp để Hitler lên nắm quyền lực.
Thứ hai, thắng lợi của Đảng Quốc xã quy về trách nhiệm của hai Đảng quan trọng nhất
trong việc chống chủ nghĩa phát xít: Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng xã hội- dân chủ
(SPD). Hai Đảng này vốn đều lấy công nhân làm chỗ dựa, chủ trương tiến hành cuộc cách
mạng đi đến xây dựng một Nhà nước công bằng, xã hội dân chủ, giàu mạnh nhưng hai Đảng
lại chủ trương tiến hành cách mạng theo hai con đường khác nhau. Nếu KPD muốn tiến
hành một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa giống nước Nga xô viết, tức là phải bằng con
đường bạo lực cách mạng thì SPD lại chủ trương tiến hành cách mạng theo con đường của
những cuộc cải cách liên tục, cải tiến xã hội tư bản chủ nghĩa bằng những nỗ lực dần dần từ
bên trong. Do vậy giữa hai đảng công nhân Đức đã bất đồng quan điểm trong đường lối lãnh
đạo cách mạng. Từ mâu thuẫn ấy, KPD và SPD đã trở thành kẻ thù của nhau. Hai Đảng
quan trọng chống phát xít đã không thể liên kết với nhau tạo thành sức mạnh trước những
biến đổi lớn của đất nước. Lợi dụng tình hình trên, Đảng công nhân quốc gia xã hội chủ
nghĩa (NSDAP) của Hitler từng bước cô lập SPD, khủng bố KPD. Trong khi KPD, SPD suy
yếu thì NSDAP lại vươn lên nắm đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội quyết định vào
ngày 5/3/1933. Chính chiến thắng này đã giúp Hiler giành chức thủ tướng Đức quốc và tiếp
tục vươn lên nắm quyền lực tối cao của đế chế.
Cuộc đời Hitler từ khi chào đời cho đến khi trở thành thủ tướng Đức là chuỗi những
tháng ngày thăng trầm. Hitler từ một đứa trẻ gốc Áo lớn lên với mong muốn trở thành một
họa sĩ tài năng nhưng lại phải từng sống bơ vơ, lang thang cơ cực ở thành phố Viên hay
Munchen tráng lệ vì ước mơ ấy. Thế nhưng từ một binh sĩ sau chiến tranh thứ nhất trở về,
ông đã trở thành một nhà tuyên truyền phát xít đại tài. Với những vốn kiến thức tự học lấy
trong xã hội và sự lọc lõi khôn ngoan, Hitler đã vươn tới đỉnh cao của quyền lực. khi trở
thành thủ tướng Đức và sau đó là lãnh tụ của Đế chế III. Ở Hitler chúng ta thấy được một
con người có tinh thần ái quốc đến cực đoan. Ông ta yêu nước đức, ca ngợi nước Đức với sự
sùng kính mãnh liệt. Nhưng chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra và thất bại thuộc về Đức thì
những trừng phạt nặng nề trong Hòa ước Versailles do đồng minh phương Tây đề ra đã làm
cho nhân dân Đức nói chung và Hitler vô cùng căm phẫn. Đúng là các nước phương Tây đã
không đủ sự rộng lượng xoa dịu nỗi đau cho một nước bại trận như Đức. Nỗi căm phẫn vì
những điều ước khắc nghiệt trong Hòa ước Versailles càng làm cho nhân dân Đức, đặc biệt
23
giới quân đội Đức quyết phải trả thù. Với một người tôn thờ Đế chế của mình như Hitler thì
ông không dễ dàng chấp nhận nỗi nhục này. Vì vậy khi tham gia vào Đảng Quốc xã, Hitler
nhanh chóng trở thành nhà tuyên truyền đắc lực của Đảng: khơi dậy tinh thần ái quốc, xóa
bỏ hòa ước Versailles, bài Do Thái, căm ghét chủ nghĩa Marx… Với bản chất khôn ngoan
lừa dối và tài hùng biện của Hitler khi tuyên truyền mà ông đã nhận được sự ủng hộ của của
nhiều tầng lớp, nhất là giới tài chính – ngân hàng và quân đội. Sử dụng hai lực lượng này
như một con bài, Hitler đã dần vươn lên đỉnh cao của quyền lực.
Ở Hitler, chúng ta vừa nhận thấy những đặc trưng nhất của giới quân phiệt Phổ nhưng
vẫn mang những nét riêng của chính ông: độc đoán, hiếu chiến, ghét chủ nghĩa tự do dân
chủ, bài Do Thái, chủ nghĩa Marx… nhưng có một lòng yêu nước cực đoan đến kì lạ và khả
năng hùng biện thiên phú mà không phải một chính trị gia nào cũng có được.
Trong quyển Mein Kampf, tư tưởng bài Do Thái của Hitler được trình bày rất rõ nét.
Ông ta ngược dòng lịch sử để đánh giá cao sự vinh quang của Đế quốc Đức do Otto von
Bismarck thiết lập năm 1871, nhưng phê phán rằng một trong những lý do khiến cho đế
quốc này sụp đổ là việc dung dưỡng người Do Thái.
Hitler viết trong Mein Kampf- Cuộc tranh đấu của tôi về sự ghê tởm của dân Do Thái:
Chẳng bao lâu cuộc chiến đấu vờ vĩnh giữa những kẻ thuộc phái Do thái tự do và phục
quốc Do thái đã làm tôi ghê tởm; bởi lẽ nó hoàn toàn giả dối, dựa trên những lời dối trá và
hiếm khi thấy được sự cao quý hay trong sạch về mặt đạo đức như bọn người này vẫn tuyên
bố. [1].
Phải nói rằng, sự sạch sẽ của cái chủng tộc này, xét cả về đạo đức và cả các mặt khác,
cũng là một vấn đề trong chính bản thân nó. Cứ suy từ vẻ bề ngoài của những kẻ này, ta hẳn
cho rằng chúng không ưa dùng nước,và thật đáng buồn, ta lại thường nhắm mắt mà vẫn biết
được điều đó. Về sau này, tôi phát buồn nôn bởi cái mùi bốc ra từ những kẻ mặc áo captan
ấy. Lại thêm cả những bộ quần áo bẩn thỉu và cái vẻ ngoài ươn hèn của chúng nữa. Tất cả
những thứ đó không thể gọi là hấp dẫn được; nhưng nó lại trở nên hoàn toàn ghê tởm khi
mà, ngoài bộ dạng bẩn thỉu, ta còn phát hiện ra những vết nhơ nhuốc về đạo đức ở thứ
“chủng tộc được lựa chọn” này.
Chẳng mấy chốc tôi trở nên suy tư hơn bao giờ hết nhờ ngày càng hiểu thấu hơn những
hình thức hoạt động mà bọn Do thái tiến hành trong những lĩnh vực nhất định. Có hình thức
tục tĩu hay phóng đãng nào, nhất là trong đời sống văn hóa, mà không có ít nhất một tên Do
thái tham gia vào! Kể cả khi ta mổ xẻ vào bên trong một khối áp xe như vậy, ta vẫn tìm
24
thấy, giống như lũ giòi sống trong một cơ thể đang mục rữa, và thường lóa mắt bởi thứ ánh
sáng đột ngột – một tên Do thái!
Trong mắt tôi những gì buộc phải toan tính kỹ chống lại dân Do thái đó là khi tôi trở
nên quen với các hành động của chúng qua báo chí, nghê thuật, văn học và nhà hát. Tất cả
những lời cam đoan ngọt xớt giả dối hầu như không hoặc hoàn toàn không giúp ích được gì.
Chỉ cần nhìn vào một bảng cáo thị, học những cái tên ẩn sau những ngôn từ kinh tởm mà
chúng dùng để quảng cáo là đủ để ta sôi máu. Đó là một thứ bệnh dịch hạch, dịch hạch
trong tâm hồn, tồi tệ hơn cả nạn dịch hạch thời xưa và nó đang đầu độc mọi người! Chắc
chắn rằng trình độ trí tuệ của những kẻ làm nghệ thuật này càng thấp kém thì sự sinh sản
của chúng càng trở nên không có giới hạn, và tên vô lại sẽ kết thúc giống như chiếc máy
tách rác, vũng vãi sự bẩn thỉu của mình vào mặt cả nhân loại. Hãy nhớ rằng số lượng bọn
chúng không giới hạn. Thật kinh khủng, nhưng không thể bỏ qua, khi chính bọn Do thái, với
số lượng khổng lồ, lại dường như được Tạo hóa chọn để đón nhận cái nghiệp nhục nhã này.
Liệu đó có phải là lý do mà dân Do thái được gọi là “những kẻ được chọn”?
Giờ đây tôi bắt đầu tìm hiểu kỹ lưỡng những cái tên của tất cả những kẻ tạo ra những
thứ bẩn thỉu trong đời sống nghệ thuật đại chúng. Kết quả càng khiến tôi thêm căm ghét
quân Do thái. Bất kể tình cảm kháng cự thế nào, lý trí của tôi vẫn buộc phải rút ra kết luận
của mình.
Thực tế là chín phần mười tất cả những thứ tục tĩu văn chương, rác rưởi nghệ thuật và
những lời lẽ ngu ngốc trên sân khấu kịch đều thuộc về một chủng tộc chiếm chưa đầy một
phần trăm số dân cư cả nước, cái thực tế này không đơn giản cứ đổ đi là xong; đó là một sự
thật phơi bày ngay trước mắt.
Và bây giờ tôi lại bắt đầu tìm hiểu những “tờ báo của thế giới” mà tôi yêu thích từ trên
quan điểm đó. Càng dò tìm sâu hơn, cái đối tượng khiến tôi thán phục trước đây càng rúm
ró teo tóp hơn. Văn phong của những tờ báo ấy ngày càng trở nên không thể chịu nổi; tôi
không thể không coi những thứ đó là nông cạn và sáo rỗng; tính khách quan của những bài
báo giờ đây với tôi dường như ngày càng gần với những lời dối trá hơn là sự thật chân
chính; và kẻ viết ra những thứ đó chính là dân Do thái. Bao nhiêu điều trước đây tôi không
nhìn thấy thì bây giờ đập thẳng vào nhận thức của tôi, và với những thứ trước đây từng đem
lại cho tôi những điều đáng suy nghĩ thì giờ đây tôi học được cách nắm bắt và hiểu thấu
chúng.
25
Giờ đây tôi nhìn cái tinh thần tự do của những tờ báo ấy dưới con mắt khác; cái giọng
điệu ngạo mạn dùng để đáp trả các cuộc công kích và tiêu diệt chúng bằng cách im lặng giờ
đây đã lộ ra là một trò bịp bợm vừa khôn khéo vừa xảo trá; những lời bình luận tán dương
dành cho các vở kịch luôn hướng tới các tác giả Do thái, và thái độ không tán đồng chẳng
nhắm vào ai khác mà chính là những tác giả người Đức. Cú châm trích nhẹ nhàng nhưng
bền bỉ dành cho William Đệ nhị đã phởi bày phương pháp, và cũng lộ rõ thái độ tán dương
mà chúng dành cho nền văn hóa và văn minh Pháp quốc. Những mẫu chuyện ngắn với nội
dung rác rưởi giờ đây với tôi là một sự khiếm nhã hoàn toàn, và trong ngôn ngữ của nó tôi
nhận ra cái giọng điệu của một dân tộc ngoại bang, tất cả mọi thứ đếu thể hiện sự thù địch
với những giá trị Đức rõ rệt tới mức chỉ có thể nói đó là sự chủ ý. Những ai là kẻ hứng thú
với những chuyện này? Liệu tất cả có phải chỉ là một tai nạn không cố ý? Càng ngày tôi
càng trở nên không chắc chắn.
Quá trình phát triển được thúc đẩy bởi cái nhìn thấu bản chất của một số vấn đề khác.
Tôi đang nói tới quan điểm chung về đạo đức và đạo lý, những thứ mà phần đông bọn Do
thái hay phô bày công khai và việc áp dụng thực tế những thứ ấy có thể nhìn thấy được.
Ở đây, một lần nữa đường phố lại dạy cho tôi một bài học về một thứ đôi khi là sự xấu
xa hoàn toàn.
Mối liên hệ của bọn người Do thái tới nạn mại dâm, và thậm chí hơn thế nữa, tới nạn
buôn nô lệ da trắng, có thể được nhìn thấy rõ ràng nhất ở thành Vienna, rõ hơn bất kỳ thành
phố nào khác ở Tây Âu, chỉ trừ khi cảng ở phía nam nước Pháp. Nếu bạn có dịp dạo bộ
trong đêm các con phố và ngõ hẻm của vùng Leopoldstadt, mỗi bước đi bạn sẽ chứng kiến
những sự vụ vẫn được phần đông người dân Đức dấu giếm mãi tới khi Chiến tranh khiến
những người lính ở mặt trận phía đông có cơ hội nhìn thấy những thứ tương tự, hay nói
đúng hơn, buộc họ phải nhìn thấy.
Vì thế, lần đầu tiên khi tôi nhận ra bọn Do thái là những kẻ máu lạnh, vô liêm sỉ và
tính toàn cầm đầu những vụ mua bán đồi bại đáng kinh tởm trong lớp cặn bã xã hội, tôi thấy
một cơn rùng mình ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Nhưng rồi một ngọn lửa bùng lên trong tôi.
Tôi không còn né tránh các cuộc thảo luận về vấn đề Do thái; trái lại, giờ đây tôi còn tìm
kiếm chúng. Và khi tôi học cách tìm ra bọn Do thái trên mọi ngả đường của đời sống văn
hóa và nghệ thuật, và cả trong những hình dạng khác nhau của chúng, tôi bỗng chạm trán
chúng ở một nơi tôi chưa từng nghĩ chúng sẽ xuất hiện. Khi tôi nhận ra dân Do thái là thủ
26
lĩnh của phe Dân chủ Xã hội, tôi bỗng sáng mắt ra. Cuộc đấu tranh dai dẳng trong tâm hồn
đã tới hồi kết thúc.
Ngay cả trong các mối quan hệ hàng ngày với đồng nghiệp, tôi cũng quan sát khả năng
thích nghi đáng ngạc nhiên khiến họ có những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề,
đôi khi trong vòng vài ngày, có khi chỉ vài giờ. Tôi thấy thật khó có thể hiểu được làm thế
nào mà những con người khi nói chuyện riêng với nhau cũng bộc lộ vài ý kiến hợp lý, thế
mà bỗng nhiên lại tiêu tan mọi ý tưởng dưới ảnh hưởng của số đông. Thường thì thế là đủ
để thất vọng. Và khi, sau hàng giờ tranh cãi, tôi tin tưởng rằng cuối cùng mình đã phá bỏ
được tảng băng ngăn cách, dẹp hết những suy nghĩ vớ vẩn và bắt đầu tận hưởng chiến thắng
thì ngay ngày tiếp theo, trước sự phẫn nộ, tôi buộc phải bắt đầu lại tất cả mọi chuyện; mọi
thứ đã làm chẳng đem lại kết quả gì. Giống như một con lắc vĩnh cửu, ý kiên của họ cứ lắc
qua lắc lại về điểm ngu dốt ban đầu.
Tôi có thể hiểu được tất cả những điều này: họ bất mãn với số phận của mình và
nguyền rủa số phận đã khắc nghiệt với họ; họ căm ghét giới chủ và cho đó là những kẻ chấp
pháp vô lương tâm của số phận; họ nguyền rủa các nhà cầm quyền mà trong mắt họ là lũ
người vô cảm trước số phận của họ. Nhưng điều tôi không sao hiểu nổi được là lòng thù hận
vô biên của những con người này với dân tộc của chính mình, khinh miệt sựu vĩ đại của đất
nước, bôi nhọ lịch sử, và dìm các vĩ nhân xuống bùn đen.
Cuộc đấu tranh chống lại chính giống loài của mình, thị tộc của mình, quê hương của
mình thật điên rồ và không sao hiểu nổi. Điều đó trái với tự nhiên. Ta có thể tạm thời chữa
trị cho họ khỏi căn bệnh xấu xa đó, nhưng chỉ được vài ngày hay vài tuần mà thôi. Nếu sau
đó bạn gặp lại kẻ mà bạn tưởng đã biến đổi được ấy, bạn sẽ thấy hắn vẫn y như trước. Trạng
thái quái đản trái với tự nhiên ấy đã chiếm lĩnh toàn bộ con người hắn.
Thậm chí, Hitler còn viết: Không thể bắt tôi từ bỏ quan điểm “Căm ghét” dân Do Thái.
Dần dần tôi nhận ra rằng báo chí của phe Dân chủ Xã hội chủ yếu là do bọn người Do
thái nắm giữ, nhưng tôi không gán cho điều đó một ý nghĩa đặc biệt nào, bởi lẽ các tờ báo
khác cũng ở trong hoàn cảnh y hệt. Tuy nhiên có một thực tế có vẻ đáng chú ý: không có
một tờ báo nào của người Do thái có thể được xem là mang tính dân tộc chân chính, xét
theo lối suy nghĩ của tôi và những gì tôi được học. Tôi nuốt tức giận vào lòng và cố gắng
đọc những tờ báo theo kiểu Mác-xít này, nhưng nỗi khiếp sợ điều đó đã trở nên lớn tới mức
tôi cố gắn trở nên gần gũi hơn với những kẻ tạo ra bộ sản phẩm này. Từ chủ báo trở đi, tất
cả đều là dân Do thái.
27
Hitler không ưa thích mấy dân Do Thái: "không có một tờ báo nào của người Do thái
có thể được xem là mang tính dân tộc chân chính, xét theo lối suy nghĩ của tôi và những gì
tôi được học". [1].
Tôi lấy tất cả những sách báo của phe Dân chủ Xã hội mà tôi có được và tìm kiếm tên
của các tác giả bài viết: toàn những cái tên Do thái. Tôi ghi chú những cái tên của những kẻ
cầm đầu cũng như những thành viên của “bọn người được chọn”, xem liệu chúng có phải là
đại biểu Quốc hội hay thư ký công đoàn, lãnh đạo các tổ chức hay kẻ gây bạo động đường
phố. Tôi luôn thấy những hình ảnh khủng khiếp giống nhau. Những cái tên như Austerlitzes,
Davids, Adlers, Ellenbogens,v.v…, sẽ mãi mãi ghi khắc trong trí nhớ của tôi. Có một điều
trở nên đáng quý với tôi: tôi nhận ra cái tổ chức đảng mà tôi đã có cuộc đấu tranh khốc liệt
nhất hàng tháng trời với những thành viên đê tiện của nó, hầu như hoàn toàn thuộc về một
dân tộc ngoại bang, và với sự hài lòng sâu sắc và vui sướng, cuối cùng tôi đã đi đến kết luận
rằng dân Do thái không phải là người Đức.
Chỉ tới bây giờ tôi mới biết rõ kẻ dẫn dụ dân tộc ta. Chỉ một năm ở Vienna đã đủ làm
tôi thấm nhuần niềm tin rằng không có người lao động nào lại ương ngạnh tới mức không
khuất phục trước trí tuệ thông hiểu hơn và những lời giải thích hợp lý hơn. Dần dần tôi đã
trở thành một chuyên gia về học thuyết của họ và dùng nó như một thứ vũ khí đấu tranh để
bảo vệ niềm tin sâu sắc của mình. Thành công hầu như luôn đứng về phía tôi.
Nhân dân có thể được cứu thoát, nếu như có sự hy sinh lớn lao nhất và lòng kiên trì
bền bỉ. Nhưng không thể bắt một tên Do thái từ bỏ quan điểm của mình. Khi đó tôi vẫn
ngây ngô lắm nên cứ cố làm cho chúng hiểu sự điên rồ trong những học thuyết của chúng;
trong phạm vi nhỏ bé của mình, tôi nói đến khản cả cổ, tê cả lưỡi, tưởng rằng chắc chắn sẽ
thuyết phục chúng hiểu được những ý tưởng điên rồ Mác-xít tai hại đến thế nào; nhưng
những gì tôi đạt được lại thường khác hẳn. Mọi chuyện cứ như thể càng hiểu rõ những tác
động có tính hủy diệt của những lý thuyết Dân chủ Xã hội và các kết quả của nó, chúng lại
càng thêm quyết tâm theo đuổi ý tưởng của mình.
Càng tranh cãi với chúng, tôi càng hiểu thêm về phép biện chứng của chúng. Ban đầu
chúng kể lể từng sự ngu xuẩn một mà phe đối lập mắc phải, và rồi, khi đã hết cách, chính
bản thân chúng lại giả đò ngu xuẩn. Nếu tất cả đều không ích gì, chúng lại ra vẻ không hiểu,
hoặc nếu bị thích thức, chúng lập tức vội vã thay đổi chủ đề, trích dẫn những lời vô vị, tẻ
nhạt mà nếu người ta chấp nhận, ngay lập tức chúng dẫn dắt tới những vấn đề hoàn toàn
khác, và rồi, nếu lại bị tấn công, chúng sẽ lại thoái lui và vờ như không hiểu người ta đang
28
nói về cái gì. Bất kể khi nào ai đó tìm cách tấn công chúng, họ sẽ thấy tay mình chạm vào
một thứ nhớt nhớt quánh như thạch sẽ tách ra và chay qua các kẻ tay mình, nhưng ngay sau
đó lại tụ lại với nhau. Nhưng nếu người đó giáng cho chúng một đòn đích đáng tới mức,
theo như các độc giả quan sát thấy, chúng không thể làm gì hơn là đồng ý với họ, và nếu họ
tin rằng như vậy là mình đã tiến được một bước thì họ sẽ rất đỗi ngạc nhiên với những gì
diễn ra ngày hôm sau. Tên Do thái chẳng hề nhớ chút gì về ngày trước đó, lại tiếp tục ra rả
những lời vô nghĩa như thể chưa hề xảy ra việc gì, và hắn chẳng thể nhớ một điều gì, ngoại
trừ việc hắn đã chứng minh tính đúng đắn của những lời hắn khẳng định ngày hôm trước.
Đôi khi tôi đứng đó sững sờ như bị sét đánh. Tôi không biết điều gì đáng kinh ngạc hơn:
giọng lưỡi lượn lẹo hay sự dối trá điêu luyện của chúng. Dần dần tôi bắt đầu căm ghét
chúng.
Tuy thế, tất cả những chuyện này cũng có một mặt tốt: càng nhìn thấy nhiều kẻ cầm
đầu thực sự hay ít nhất là những kẻ truyền bá của phe Dân chủ Xã hội, tôi lại càng thêm yêu
quý dân tộc mình. Bởi lẽ nếu xét tới những mánh khóe độc ác của những kẻ dẫn dụ này, ai
có thể chỉ trích những nạn nhân bất hạnh cơ chứ? Thật là khó biết bao, kể cả với tôi, khi
đánh bại cái giống dối trá biện chứng này! Và thật vô ích khi thắng những kẻ dám bóp méo
sự thật những gì ta nói ra, những kẻ đó chẳng hề đỏ mặt xấu hổ khi phủ nhận những gì mình
vừa nói để rồi ngay sau đó lại thừa nhận những điều đó.
Càng hiểu hơn về bọn Do thái tôi lại càng thêm bao dung với những người lao động.
Trong mắt tôi, lỗi lầm lớn nhất không phải là ở họ mà là ở những người cho rằng chẳng nên
bận tâm thương xót họ, với lòng chính trực quả cảm trao cho người con của dân tộc những
gì họ đáng được hưởng, và dồn những kẻ dẫn dụ và mua chuộc kia vào chân tường.
Thôi thúc bới những điều trải qua hàng ngày, giờ đây tôi bắt đầu lần tìm dấu vết nguồn
gốc của học thuyết Mác-xít. Tôi thấy rõ ảnh hưởng của nó qua các trường hợp riêng lẻ; mỗi
ngày thành công của nó lại hiện rõ rành rành trước đôi mắt chăm chú của tôi, và dùng thêm
chút đầu óc tưởng tượng, tôi có thể phác ra những hậu quả của nó. Câu hỏi duy nhất còn lại
là liệu kết quả đó đã có sẵn trong tiên liệu của người tạo ra học thuyết đó hay chỉ là nạn
nhân của một sai lầm.
Tôi cảm thấy, cả hai điều này đều có thể xảy ra. Bốn người lính của đảng công nhân xã
hội Đức hát trước một chi nhánh Berlin tại cửa hiệu Woolworth Co trong cuộc vận động tẩy
chay người Do Thái hiện đang ở Đức, vào tháng 3 năm 1933. Hitler tin rằng những người
sáng lập nên cửa hiệu Woolworth Co. là người Do Thái.
29
Nếu là trường hợp đầu tiên, đương nhiên nghĩa vụ của một người biết suy nghĩ là phải
buộc mình đứng hàng đầu trong cái phong trào chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp, nếu thế còn
có thể ngăn chặn thảm họa xảy ra; chứ trong trường hợp kia, kẻ tạo ra thảm họa hẳn phải là
những thế lực vô cùng ác độc – bởi lẽ chỉ trong đầu lũ quái vật – chứ không thể là đầu óc
con người – thì kết hoạch vè một tổ chức mới có được hình hài và ý nghĩa thực sự, và những
hành động của lũ quái vật ấy chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả cuối cùng là sự sụp đổ của nền
văn minh nhân loại và kế tiếp là sự hủy diệt thế giới. Trong trường hợp này, niềm hy vọng
còn lại duy nhất là đấu tranh, bằng tất cả những vũ khí mà tâm hồn, lý trí và ý chí con người
có thể tạo ra được, bất kể số phận sẽ ban sự may mắn cho bên nào.
Vì thế tôi bắt đầu bắt mình phải làm quen với những kẻ đã tạo ra học thuyết đó, để hiểu
hơn về những cơ sở nền tảng trong sự vận động của chúng. Nếu như tôi có đạt được mục
đích của mình nhanh hơn là trước đó tôi đã tin tưởng thì đó là những kiến thức mà tôi mới
thu nhận được, dẫu khi đó còn chưa thật sâu sắc, về vấn đề dân Do thái. Chỉ riêng điều đó
cũng đã giúp tôi phác ra một sự so sánh thực tế giữa hiện thực và những lý luận tào lao của
những kẻ đã hi sinh ra đảng Dân chủ Xã hội, bởi lẽ chính nó đã dạy tôi hiểu được ngôn ngữ
của dân Do thái, những kẻ mà lời nói là để che đậy hay chí ít cũng ngụy trang những suy
nghĩ của mình; mục tiêu thực sự của chúng vì thế không tìm thấy được ngay trong những
dòng chữ viết ra mà được giấu rất khéo đằng sau đó.
Với tôi đã là thời điểm tôi phải trải những biến động tinh thần mạnh mẽ nhất chưa từng
có.Tôi không còn là kẻ theo chủ nghĩa thế giới yếu đuối mà đã trở thành một người ủng hộ
bài Do thái. Lại một lần nữa – và đây là lần cuối cùng – những ý nghĩ đáng sợ, nặng nề đến
với tôi trong nỗi thống khổ sâu sắc cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Khi tìm hiểu kỹ lưỡng hành động của dân Do thái trong suốt lịch sử loài người, tôi
bỗng nảy ra một câu hỏi đáng sợ, liệu số phận khó lường, có thể nào vì những lý do mà
chúng ta, những sinh linh tội nghiệp, không biết được, bằng ý chí quyết tâm không bao giờ
thay đổi, lại mong muôn cái chủng tộc ti tiện này giành được chiến thắng cuối cùng. Có thể
nào trái đất này từng được hứa hẹn làm phần thưởng dành cho cái chủng tộc ấy, cái chủng
tộc sống là vì trái đất này?
Liệu chúng ta có được quyền lợi khách quan để đấu tranh tự bảo tồn, hay phải có điều
này chỉ được biện minh một cách chủ quan ở chúng ta hay không? Khi tôi đào sâu nghiên
cứu luận điệu giáo huấn của chỉ nghĩa Marx và tiếp đó đem những hành vi của bọn người
30
Do thái ra nghiền ngẫm trong sự rõ ràng điềm tĩnh, chính số phận đã trao cho tôi câu trả lời
của mình.
Học thuyết của chủ nghĩa Marx của dân Do thái bác bỏ nguyên tắc cao quý của Tạo
hóa và thay thế những sức mạnh và quyền lực đặc ân bằng số lượng lớn các con số và sức
nặng chết người của nó. Theo cách đó, nó phủ nhận các giá trị nhân cách trong con người,
không thừa nhận ý nghĩa quan trọng của dân tộc và sắc tộc, và bằng cách ấy lấy mất của con
người những tiền đề cho sự sinh tồn và văn hóa của mình. Lấy học thuyết này làm nền tảng
cho vạn vật thì ắt nó sẽ chấm dứt mọi trật tự mà trí tuệ con người có thể hiểu được. Và khi
việc áp dụng một luật lệ như vậy chỉ đem lại sự hỗn loạn, sẽ không còn gì ngoài sự diệt
vong của nhân loại trên hành tinh này.
Chỉ riêng điều đó cũng sẽ khiến những người có bản năng chính trị khác trở thành kẻ
thù của hắn; trong mỗi sự vận động hắn sẽ đánh hơi thấy một điều có thể là khởi đầu cho sự
kết thúc của hắn, và trong mỗi con người dù lớn nhỏ thế nào, hắn đều ngửi thấy cái mùi
nguy hiểm đe dọa hắn. Tôi sẽ còn nhiều điều nữa để nói về hạng người mạt rệp của nghị
viện này. [1].
Tất cả những gì Hitler suy nghĩ trong Mein Kampf không lâu sau đó đều trở thành
hành động khi Hitler lên nắm chính quyền năm 1933. Điều đặc biệt là, những gì Hitler viết
về sự căm ghét người Do Thái và những việc cần phải làm với người Do Thái trong Mein
Kampf được công khai xuất bản , được nhiều người ủng hộ tới mức cuồng tín. Điều này cho
thấy, tài hùng biện cũng như khả năng thuyết phục đám đông của Hitler là rất giỏi. Hitler có
thể điều khiển ý nghĩ, hành động của người khác theo ý nghĩ và hành động của mình.Từ đó,
Hitler có được một bộ máy trung thành đến tuyệt đối khi lên nắm chính quyền. Và cũng
chính sự tài giỏi của Hitler đã dẫn đến sự tuyệt diệt của một dân tộc- dân tộc Do Thái.
Tuy thế, Hitler không phải là người đơn độc bài Do Thái một cách mù quáng. Nhiều
nhân vật chủ chốt lúc đầu của Đảng Lao động Đức đã sẵn có tư tưởng này trong khi Hitler
còn là nhân vật vô danh. Ví dụ điển hình là Dietrich Eckart, thường được xem là nhà sáng
lập tinh thần của Quốc xã, cũng mang tư tưởng này ngay từ đầu. Tư tưởng bài Do Thái trở
nên mù quáng và hàm hồ hơn khi trung ương đảng Lao động Đức, vì muốn tranh giành
quyền lực với Hitler, năm 1921 đã kết án Hitler là người thân Do Thái!.
Vào thời kỳ này, nước Đức đã rộ lên phong trào bài Do Thái, điển hình là vào năm
1920, đảng Lao động Đức mua lại một tờ báo chuyên bài xích Do Thái và biến nó thành tờ
báo tiếng nói chính thức của đảng. Vì thế, tư tưởng có tính cộng hưởng: xu hướng bài Do
31
Thái của nhiều người Đức được Hitler lợi dụng khai thác, và đến phiên Hitler nhờ tài hùng
biện lôi kéo thêm nhiều người Đức đi theo đường lối này.
Suốt đời, Hitler vẫn là người bài xích Do Thái mù quáng và quá khích. Di chúc của
ông, viết ra vài giờ trước khi chết, chứa đựng lời công kích cuối cùng đối với người Do
Thái, cho là họ có trách nhiệm đối với cuộc chiến mà ông ta phát động.
1.3. Biểu tượng Swastika và lá cờ Đức quốc xã
Khi đã có Học thuyết Darwin- xã hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc
Đức” thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa quốc xã chỉ còn
thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó:
Swastika của người Aryan!
Cuối thế kỷ XIX, Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc
xuất bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng chính thức
của những vận động viên thể thao Đức. Đầu thế kỷ XX, Swastika của người Aryan đã trở
thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm
thấy ở nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb- một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp
chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn
vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule. Nhưng Swastika chỉ chính
thức trở thành biểu tượng của chính phủ Đức Quốc xã kể từ khi Hitler chính thức sử dụng
biểu tượng đó. Đến những năm 1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng Quốc xã, Hitler thấy
Đảng cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.
Năm 1923, sau khi trở thành lãnh tụ Đảng Quốc xã, Hitler bị phạt tù 5 năm vì một
hành động chống chính phủ. Trong tù, Hitler đã viết tác phẩm “Mein Kampf”- “Cuộc tranh
đấu của tôi”, trong đó viết: “Lá cờ mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của
chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một áp- phích tuyên truyền”. [1, tr.89].
Không những thế, vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể
của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một hình tròn
màu trắng. Hitler viết trong Mein Kampf: “Màu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng
Swastika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự
chiến thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.
[1, tr.67].
32
Hitler, một họa sĩ thất bại, nhưng là người có khả năng tuyên truyền lão luyện biết cách
lấy được sự ủng hộ của người khác. Một trong những động thái thông minh của Hitler là lấy
dấu thập tự ngoặc làm biểu tượng của Đảng Quốc xã. Dấu thập tự ngoặc là một biểu tượng
cổ xưa về điều lành thể hiện ánh sáng mặt trời tỏa khắp mọi nơi. Dấu thập tự ngoặc cũng
thường thấy trong tác phẩm nghệ thuật của nhiều người. Người Dersian khắc các dấu thập
tự ngoặc lên các vách đền; người Indian ở Mỹ thường hay tô những dấu đó lên quần áo. [33,
tr.44].
Thời Hitler, dấu thập tự ngoặc là biểu tượng chống chủ nghĩa Do Thái và là biểu tượng
của sự “thuần khiết” của tộc Aryan. [33, tr.44].
Chẳng bao lâu sau, Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng
quốc xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả những kỹ thuật
tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm
lĩnh châu Âu.
Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức
phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế vào cuối những
năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế thứ III (The Third Reich) với việc Adolf
lên nắm chính quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa
từng có trong lịch sử.
Như vậy, từ một hình tượng mang tính tôn giáo thuần túy, Hitler đã biến Swastika
thành biểu tượng của sự chết chóc đối với các dân tộc trên thế giới nói chung, và đối với
người Do Thái nói riêng.
Tiểu kết chương 1
Chủ nghĩa bài Do Thái của Hitler ra đời từ quá trình chắt lọc một cách tùy tiện học
thuyết Darwin được bổ sung bằng những ý tưởng bệnh hoạn về chủ nghĩa chủng tộc và phục
thù. Nền tảng ý thức hệ ấy được Hitler sử dụng vào mục đích biện minh cho nỗi căm thù
hướng vào cộng đồng người Do Thái ở Áo, rồi ở Đức trước cả khi quyền lực đến với Hitler
và Đảng Quốc xã. Dựa vào tài hùng biện, hoàn cảnh chính trị- xã hội đương thời, sự trợ
giúp của một số phụ tá, Hitler đã thực hiện một chính sách diệt chủng thảm khốc chưa từng
có trong lịch sử khi lên nắm chính quyền: tuyệt diệt người Do Thái.
33
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ
ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU
TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ( 1933- 1939)
2.1. Tổ chức
Sau khi lên nắm chính quyền trên cơ sở lý luận của “chủng tộc thượng đẳng”, Hitler đã
đưa những ý nghĩ của mình vào hành động. Hitler đã điều hành đất nước nhờ những tổ chức
mà tên gọi và hình thức bên ngoài của chúng đã luôn gieo rắc nỗi kinh hoàng.
2.1.1. GESTAPO
Gestapo (tên viết tắt của tổ chức Geheime Staatspolizei) là tổ chức “cảnh sát mật vụ
quốc gia” do Ger-man Goring lập năm 1933 để tiến hành các vụ bắt bớ và hỏi cung những
người bì tình nghi.
Gestapo giống như Hitler, cũng là luật. Khi Goring bổ nhiệm Heinrich Himmler làm
chỉ huy phó Gestapo Phổ, lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của SS rồi nắm
quyền sinh sát trên toàn nước Đức.
Nhiệm vụ chính của Gestapo là tình báo an ninh, nhưng cũng đảm trách thêm việc
thành lập và điều hành trại tập trung. Đặc biệt, Gestapo phụ trách những nhân vật có tiếng
tăm trong và ngoài nước như tướng lĩnh, cựu thủ tướng, cựu bộ trưởng… Gestapo thường
thi hành nhiệm vụ theo dõi, giam giữ, tra tấn và khi có hiệu lệnh của Adolf Hitler hoặc chỉ
huy trưởng SS Heinrich Himmler- thủ tiêu những người này.
Các chỉ huy trưởng Gestapo là Rudolf Diels (1933-1934), Hermann Goring (1934-
1936), Đại tướng SS Reinhard Heydrich (1936-1939) và Đại tướng SS Heinrich Muller
(1939-1945).
Hermann Wilhelm Goring (1893-1946), trong một thời gian dài, là nhân vật số 2 của
Đức Quốc xã, chỉ sau Adolf Hitler. Ông là Lãnh tụ Lực lượng SA (1923), Chủ tịch Nghị
viện (1932-1933), Chỉ huy trưởng Mật vụ Đức (1934-1936), Bộ trưởng Hàng không kiêm
Tư lệnh Không quân (1935-1945), Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Cơ quan Kế hoạch
Bốn năm (1936), được chỉ định là người kế vị Lãnh tụ khi Hitler chết (1941), người duy
nhất mang quân hàm cao nhất của Quốc xã: Thống chế Đế chế (1941).
Heinrich Luitpol Himmler (1900-1945) là một trong những nhân vật có thế lực nhất
của Đức Quốc xã, là Thống chế SS (từ năm 1933), Lãnh tụ Lực lượng SS (từ năm 1929),
34
Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đức (từ năm 1936), Bộ trưởng Nội vụ (từ năm 1943), Bộ trưởng
Đặc Mệnh Toàn quyền Hành chính (từ năm 1943), Tư lệnh Lực lượng Dân phòng (từ năm
1944). Sau chiến tranh ông tìm cách liên hệ với Đồng minh để đàm phán hòa bình nhưng bị
từ chối, chạy trốn nhưng vẫn bị quân Anh bắt, tự tử trước khi bị xét xử.
Gestapo là xương sống của Đế chế thứ III. Lực lượng này hoạt động mà không quan
tâm đến suy nghĩ và ước vọng của người dân. Gestapo sẵn sang nghiền nát những vật cản
chống lại sự độc tài của Hitler. Lực lượng “Gestapo” có thể thực hiện mọi tội phạm miễn là
việc làm đó phục vụ kế hoạch của Hitler. “Gestapo” cố gắng gieo rắc sự nghi ngờ và sự mất
tin tưởng trong người dân. Lực lượng này phong tỏa đất nước bằng hàng ngàn nhân viên và
người cung cấp thông tin. Người của “Gestapo” giả danh cha xứ và nghe các cuộc xưng tội
của con chiên. Ở mọi góc phố hay khu nhà ở, tất cả các thành phố Đức đều có một tên cung
cấp tin. Tên này có thể là bất kỳ ai: quản gia, người hầu phòng, thủ quỹ cửa hàng hoặc là
người hàng xóm. Những tên nghe tin này nghe mọi chuyện. Herr Schmidt có treo cờ chữ
thập ngoặc vào ngày sinh nhật của Quốc trưởng hay không? Fran Wolff có đóng góp hào
hững vào quĩ của Đảng Đức quốc xã không và số tiền là bao nhiêu? Ông già Herr Schmidt
có nhớ ngày chào “Heil Hitler” thay vì lời chúc một ngày tốt đẹp không? Mọi hành động lẩn
tránh nhiệm vụ, mọi dấu hiệu về sự phản bội đều được thông báo đến lực lượng “Gestapo”
để điều tra. Nhân viên của “Gestapo” thậm chí còn nghe lỏm các cuộc đối thoại ở những
khu vực công cộng như nhà ga, nhà hàng, rạp hát và góc phố. Mọi chuyện diễn ra tồi tệ đến
nỗi người ta sinh ra một “kiểu nhìn” đặc trưng của nước Đức, liếc nhìn nhanh qua vai để
đảm bảo không có ai nghe
trộm cả.
Lực lượng “Gestapo” khơi dậy những cái xấu xa nhất trong con người. Lực lượng này
khuyến khích người ta tố cáo lẫn nhau vì mục đích trả thù hay để nhận một quyền lợi nào
đó. Một người đàn ông muốn cướp công việc của đồng nghiệp của mình thì hắn đến gặp
“Gestapo” với một câu chuyện bịa đặt hoặc một câu chuyện có thật về việc đồng nghiệp của
hắn nói xấu Quốc trưởng. Một phụ nữ có thể sắp sếp các nhân viên “Gestapo” đứng bên
cạnh cửa sổ nhà để nghe chồng thóa mạ Đảng Quốc xã. Chồng cô được đưa ngay đến trại
tập trung và cô sẽ được li dị và hưởng toàn bộ tài sản. Những ai bị nghi ngờ thì thường
xuyên nhận được giấy mời yêu cầu có mặt tại trụ sở của “Gestapo” vào một thời điểm nhất
định. Đó là giấy triệu tập mà bạn không thể từ chối hay làm ngơ nếu như bạn còn quý trọng
35
cuộc sống của bạn. Thông thường bạn bi tra hỏi và được thả cùng với một lời cảnh báo là
bạn sẽ bị theo dõi từng cử chỉ vì “Gestapo” nắm mọi thứ về bạn trong lòng bàn tay.
Lực lượng của “Gestapo” không bao giờ tỏ ra nhân đạo với “những kẻ thù của quốc
gia”. Mọi hành động mà lực lượng này tiến hành nhằm khủng bố các nạn nhân và bẻ gãy sự
chống cự của họ. Nhà của những người nghi ngờ thường bị tập kích vào nửa đêm. Những
người bị nghi ngờ bị đưa đến những nhà tù bí mật và không được liên lạc với thế giới bên
ngoài. Cho dù những người này có cố gắng tìm cách liên lạc thì chẳng ai có thể biết họ đang
ở đâu và còn sống hay không.
“Gestapo” làm mọi việc có thể để bắt những người bị nghi ngờ phải thú nhận tội lỗi và
khai ra đồng bọn. Những tên tra khảo lành nghề tống những người bị tình nghi vào một địa
ngục sống. Những tên này sử dụng những đồ dùng tra tấn của thời Trung cổ để dập nát
những nạn nhân này: những đoạn gỗ xiết ngón tay, ủng xiết chân, kim châm. Những nạn
nhân bị dìm xuống nước, bị điện cao thế giật. Việc tra khảo đánh đập kéo dài hàng giờ; khi
tên này mệt thì có tên khác thay. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy những vết cào sâu lên
tường xi măng bằng tay của những nạn nhân trong các nhà tù tra tấn họ.
Nhiều người đã chết hoặc bị điên dưới những đòn tra tấn vô nhân đạo. Những người
may mắn được thả buộc phải giữ bí mật vì nếu tiết lộ về việc họ bị nhốt ở đâu và những
chuyện xảy ra với họ thì họ sẽ chết. Đó là cách mà “Gestapo” vừa giữ được bí mật của nó
vừa tăng cường gây ra nỗi sợ hãi cho người dân Đức. Hàng năm, lực lượng “Gestapo” tống
hàng ngàn người vào các trại tập trung.
[33, tr.79-83].
2.1.2. SA
SA (tên gọi tắt của tổ chức Sturmab-telilung) là những “đội quân xung kích”, tổ chức
bán quân sự của Đảng Quốc xã, được thành lập vào năm 1923 do chính Hitler tổ chức. Vì
mặc đồng phục màu nâu nên còn gọi là “Quân áo nâu”. Nhiệm vụ chính của SA ban đầu là
bảo vệ buổi họp của Quốc xã, giải tán cuộc họp của đối thủ và nói chung khủng bố người
chống lại Hitler. Lực lượng SA khởi đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Đại úy Ehrhardt, kế
tiếp là Hermann Goring năm và Hitler năm 1930. Việc chỉ đạo trực tiếp là do Tham mưu
trưởng chỉ huy hàng ngày; Tham mưu trưởng SA nổi tiếng nhất là Rohm.
2.1.3. SS
36
Sau khi lực lượng SA trở thành kiêu binh, vô kỷ luật, để được sự hỗ trợ đáng tin cậy
hơn Hitler chính thức thành lập lực lượng SS- Schutzstaffel, điều những người thân tín từ
SA qua và bổ sung bằng những người đã được đào tạo chính quy về học thuyết Quốc xã.
SS là tổ chức an ninh của Đảng quốc xã, trung thành với Hitler tới mức cuồng tín.
Thoạt đầu người ta chỉ lựa chọn để làm đội bảo vệ, nhưng sau này nó cũng biến thành một
đội quân. SS có hai phân đội: “Đội đầu tử thần” chuyên việc bảo vệ văn phòng Quốc
trưởng, còn “Quân đội SS” là một quân đoàn tinh nhuệ thiện chiến. Binh sĩ SS mặc đồng
phục màu đen tương tự như trong quân đội của Phát xít Ý, nên được gọi là “Quân áo đen”.
SS có hệ thống quân hàm tương tự như trong quân đội Đức nhưng với tên gọi khác, mang
quân phù đặc biệt. Tất cả binh sĩ khi gia nhập SS đều phải đọc lời tuyên thệ trung thành với
chính cá nhân Hitler.
Lúc đầu, lực lượng SS chỉ là những cận vệ cho Hitler. Mãi đến năm 1929, Hitler mới
tìm ra được người lãnh đạo trưởng của SS: Heinrich Himmler. Heinrich Himmler là người
phân biệt chủng tộc sâu sắc, ông tin rằng người Do Thái và người Slavơ còn hạ đẳng hơn
những con vật nhỏ nhất và cần phải bị tiêu diệt, Himmler là cánh tay phải của Hitler: cẩn
thận, cần cù và trung thành. Hitler đã thấy trong Himmler một tên cảnh sát trưởng hoàn hảo
của một nhà nước chuyên chế.
Khi Himmler nhận chức vụ chỉ huy trưởng, lực lượng SS có khoảng 280 người. Chỉ
trong một thập kỷ, Himmler đã biến “SS” thành một lực lượng cảnh sát có 250.000 quân, có
tính kỷ luật cao làm bất cứ điều gì để bảo vệ quyền lực của Quốc trưởng. Khẩu hiệu của lực
lượng cảnh sát “SS” là “Tin tưởng, tuân lệnh và chiến đấu”. Điều này có nghĩa là những tên
cảnh sát này thi hành mọi mệnh lệnh mà không cần suy nghĩ rằng mệnh lệnh đó đúng hay
sai. [33, tr.78].
Himmler muốn lực lượng “SS” thể hiện những đặc tính tốt nhất của “chủng tộc
Aryan”. Tiêu chuẩn của lực lượng cảnh sát này rất cao, và 9 trong 10 người tình nguyện sẽ
bị loại vì không thích hợp với lực lượng “SS”. Những người được tuyển phải cao ít nhất từ
1m60 trở lên và không mắc bệnh về thể chất và tinh thần. Điều quan trọng hơn cả là những
người này phải chứng minh rằng bố mẹ họ phải mang dòng máu củ chủng tộc Aryan thuần
chủng trở về từ những năm 1750. [33, tr.78].
“SS” phát triển mạnh theo thời gian, cuối cùng ngự trị nước Đức và là một cái tên gây
kinh hoàng cho mọi vùng bị Đức chiếm đóng ở châu Âu.
37
Vào năm 1930, các đội quân SS và SA gộp lại lên đến hơn 100.000 người- còn đông
hơn cả quân đội Đức lúc này còn bị Hòa ước Versailles hạn chế. Hai năm sau, lực lượng SA
đã lớn mạnh với quân số 400.000.
Ngày 26/7/1934, để tưởng thưởng công sức của họ trong vụ thanh trừng đẫm máu ngày
30/6/1934, lực lượng SS được tách ra độc lập với SA, vẫn dưới quyền chỉ huy của Himmler.
Chẳng bao lâu, với kỷ luật và lòng trung thành hơn SA, lực lượng SS trở nên hùng mạnh
hơn hẳn SA. Được như vậy một phần là do Himmler có quyền lực mạnh trên Đế chế thứ Ba,
chỉ báo cáo với Hitler mà không phải thông qua bộ trưởng hoặc tướng lĩnh nào.
Lực lượng quân sự có tính chuyên nghiệp, được trang bị hỏa lực và cơ giới hùng mạnh
là Waffen- SS. Được phát triển như đội quân thứ hai bên cạnh quân chính quy, tụ họp
những người cuồng tín đã được rèn luyện kỹ học thuyết Quốc xã, cuối cùng lực lượng này
có 38 sư đoàn tác chiến gồm 800-950.000 người. [33].
2.2. Tiến hành trục xuất
Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Đảng Quốc xã của Adolf Hitler lên nắm chính quyền, hầu
như ngay lập tức tiến hành các cuộc bách hại và trục xuất 525.000 người Do Thái đang sinh
sống tại Đức. Trong cuốn “Mein Kampf” (1925), Hitler không giấu diếm sự căm ghét đối
với người Do Thái, và hé lộ những dấu hiệu về ý định truất họ khỏi đời sống chính trị, trí
thức và văn hóa Đức.
Vào thời điểm này, có khoảng 9,5 triệu người Do Thái sống ở châu Âu, bao gồm 1,7%
tổng dân số châu Âu. Con số này chiếm hơn 60 phần trăm dân số của người Do Thái trên
thế giới tại thời điểm đó, ước tính khoảng 15,3 triệu. [73].
Đa số người Do Thái ở châu Âu trước chiến tranh cư trú ở miền đông châu Âu. Các
cộng đồng người Do Thái lớn nhất trong khu vực này là ở Ba Lan, với khoảng 3.000.000
người Do Thái (9,5%), phần châu Âu của Liên Xô, với 2.525.000 (3,4%) và Romania, với
756.000 (4,2%). Dân số Do Thái ở các bang ba Baltic đạt 255.000: 95.600 trong Latvia,
155.000 ở Lithuania, và 4560 ở Estonia. Ở đây, người Do Thái bao gồm 4,9%, 7,6%, và
0,4% dân số của mỗi nước, tương ứng, và 5% tổng dân số của khu vực.
Trước chiến tranh trong trung tâm châu Âu, cộng đồng người Do Thái lớn nhất là ở
Đức, với khoảng 500.000 thành viên (0.75% tổng dân số của Đức). Tiếp theo đó là
Hungary với 445.000 (5,1%), Tiệp Khắc với 357.000 (2,4%), và Áo với 191.000, hầu hết
trong số đó cư trú tại thủ đô Vienna (2,8%).
38
Ở Tây Âu cộng đồng người Do Thái lớn nhất là ở Anh, với 300.000 người Do Thái
(0,65%); Pháp, với 250.000 (0,6%) và Hà Lan, với 156.000 (1,8%). Ngoài ra, 60.000 người
Do Thái (0,7%) sống ở Bỉ, 4000 (0,02%) ở Tây Ban Nha, và 1200 (0,02%) ở Bồ Đào Nha.
Gần 16.000 người Do Thái sống ở Bắc Âu, bao gồm 6.700 (0,11%) ở Thụy Điển, 5700
(0,15%) ở Đan Mạch, 1800 (0,05%) ở Phần Lan, và 1400 (0,05%) ở Na Uy. Ở miền nam
châu Âu, Hy Lạp đã có số dân Do Thái lớn nhất, với khoảng 73.000 người Do Thái (1,2%).
Cũng có những cộng đồng Do Thái có ý nghĩa tại Nam Tư (68.000, tương đương
0,49%), Ý (48.000, tương đương 0,11%), và Bulgaria (48.500, tương đương 0,8%). 200
người Do Thái (0,02%) sống ở Albania. [73].
Trước khi Đức quốc xã lên nắm quyền vào năm 1933, châu Âu đã có một sự phong
phú đa dạng của các nền văn hóa của người Do Thái, nhiều trong số đó là các nhân vật năng
động và phát triển cao trong một số lĩnh vực. Tính chất đa dạng của các cộng đồng cá nhân
của người Do Thái trong nghề nghiệp, tôn giáo, sự tham gia và hội nhập trong đời sống khu
vực và quốc gia và các khu vực khác làm cho cuộc sống của người Do Thái có hiệu quả và
phong phú trên khắp châu Âu. Ở nhiều nước, người Do Thái đứng như những ngôi sao sáng
về văn hóa và chính trị, và đã đồng hành với các chính phủ trong chiến tranh thế giới thứ I.
Trong hơn một thập kỷ qua, hầu hết châu Âu bị chinh phục, chiếm đóng, hoặc sáp
nhập vào Đức Quốc xã và các đối tác trục của nó, và đa số người Do Thái châu Âu đã chết.
Tại Đức, những nhà trí thức Do Thái là những người đầu tiên rời bỏ nước Đức. Nhà
triết học Walter Benjamin đến Paris ngày 18 tháng 3 năm 1933. Nhà văn Leon
Feuchtwanger đến Thụy Sĩ. Nhà chỉ huy dàn nhạc Bruno Walter vội đào thoát khi biết tin
sảnh đường của Dàn nhạc giao hưởng Berlin sẽ làm mồi lửa nếu ông tiếp tục làm việc tại
đây. Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Albert Einstein đang ở Hoa Kỳ trong một chuyến tham
quan; sau đó ông đến Ostende ở Bỉ, nhưng không bao giờ trở lại Đức, ông lên tiếng cáo
buộc tình hình ở Đức là “một sự bệnh hoạn tinh thần của quần chúng”, Einstein bị trục xuất
khỏi Hội Kaiser Wilhelm và Hàn lâm viện Khoa học Phổ, quốc tịch của ông cũng bị tước
bỏ. Saul Friedlander thuật lại rằng khi Max Liebermann- có lẽ là họa sĩ tài danh nhất nước
Đức, cũng là chủ tịch danh dự Hàn lâm viện nghệ thuật Phổ- từ nhiệm, không ai trong số
các đồng nghiệp tìm đến bày tỏ sự đồng cảm, hai năm sau ông chết trong khi bị phát vãng.
Hệ thống giáo dục của Đức, đã từng là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế
giới, bị Đảng Đức quốc xã thay đổi và hủy hoại. Những giáo viên người Do Thái bị mất
việc ngay lập tức còn những giáo viên khác phải gia nhập Liên đoàn giáo dục xã hội chủ
39
nghĩa dân tộc. Các lớp học trở thành trung tâm chỉ huy của lính bão táp. Lá cờ có hình dấu
thập ngoặc được treo trước mỗi phòng học. Trên tường có treo ảnh Hitler. Lúc lên lớp hay
tan học mọi người đều phải chào theo kiểu nhà binh “Hiel Hitler”.
Đặc biệt, cuốn sách “Mein Kampf” là cuốn sách bắt buộc của học sinh ở mọi cấp độ và
ở mọi lớp. Các lớp học phải tổ chức đọc, thảo luận và viết nhận xét về quyển sách đó, và khi
đến hết chương cuối cùng thì phải quay lại từ trang đầu tiên.
Tất cả sách giáo khoa phải viết lại và mỗi môn học đều được dạy theo quan điểm của
Đảng Đức Quốc xã. Chủ nghĩa dân tộc và chống người Do Thái được nhồi vào đầu của học
sinh. Học sinh được học là họ, những người Aryan, thuộc dân tộc thượng đẳng sinh ra đã
thống trị thế giới. Người Do Thái là loại người đáng kinh tởm và đáng ghét. Ví dụ như học
sinh ở lớp thấp được những cuốn sách có tranh minh họa như: “Không nên tin tưởng vào bất
cứ con cáo và người Do Thái nào”. Một cuốn sách nổi tiếng khác là “Cây nấm độc” coi
những người Do Thái xấu xa như những nọc độc. [33, tr.100-101].
Suốt trong thập niên 1930, các quyền pháp lý, kinh tế, và xã hội của người Do Thái
dần dà bị hạn chế. Theo Friedlander, đối với Quốc xã, sức mạnh của nước Đức bắt nguồn từ
“sự tinh tuyền của dòng máu Đức” và “sự bắt rễ sâu trong mảnh đất Đức thiêng liêng”.
Trong lĩnh vực kinh tế, chính phủ Đức Quốc xã tiến hành tẩy chay các doanh nghiệp
của người Do Thái ở Đức diễn ra vào ngày 01 tháng 4 năm 1933, ngay sau khi Adolf Hitler
tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Tẩy chay là biện pháp đầu
tiên trong nhiều biện pháp chống lại người Do Thái của Đức, mà cuối cùng lên đến đỉnh
điểm trong các "giải pháp cuối cùng". Đó là một chiến dịch nhà nước quản lý việc quấy rối,
bắt bớ, cướp đoạt có hệ thống, chuyển giao bắt buộc quyền sở hữu cho các nhà hoạt động
đảng Quốc xã (do quản lý Phòng Thương mại) và cuối cùng là giết chủ sở hữu được định
nghĩa là "người Do Thái". Chỉ tính riêng trong Berlin, đã có 50.000 doanh nghiệp thuộc sở
hữu của người Do Thái (gần 50% doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của tất cả các doanh
nghiệp ở Berlin) khi Đức quốc xã lên nắm quyền. [73].
Trong tháng 3 năm 1933 Đức quốc xã giành được một số lượng lớn các ghế trong quốc
hội Đức. Sau chiến thắng đã có bạo lực lan rộng nhắm vào các doanh nghiệp của người Do
Thái và cá nhân. Luật sư người Do Thái và các thẩm phán đã bị ngăn cản đến các tòa án.
Trong một số trường hợp SA tạo ra trại tập trung đối với người Do Thái chống lại Đức quốc
xã.
40
Kể từ khi báo chí quốc tế được báo cáo một cách chi tiết về tội ác của lực lượng SA,
bao gồm đưa ra khỏi đời sống chính trị của người Do Thái đến trại tập trung 'hoang dã', nơi
họ đã bị lạm dụng, tra tấn và sát hại, và sự lãnh đạo của NSDAP tổ chức các nạn nhân chịu
trách nhiệm về phản ứng quốc tế với các hành động NSDAP. Họ tuyên bố chính sách
chống Do Thái của họ là phòng thủ.
Ngày 01 tháng 4 năm 1933, Đức quốc xã thực hiện trên toàn quốc, kế hoạch hành động
đầu tiên của họ chống lại người Do Thái: tẩy chay nhắm mục tiêu các doanh nghiệp của
người Do Thái. Trong lúc này, nếu bạn mua hàng của người Do Thái thì bạn phải lau sạch
một dãy phố với bàn chải trong khi hàng đoàn người đứng xung quanh cười nhạo.
Vào ngày tẩy chay, các lực lượng SA đe dọa trước các cửa hàng của người Do Thái và
các văn phòng của các chuyên gia như bác sĩ và luật sư. Ngôi sao David đã được sơn màu
vàng và đen gắn trên hàng ngàn cửa ra vào và cửa sổ, đi kèm với khẩu hiệu chống Do Thái.
Khẩu hiệu được viết: "Đừng mua từ người Do Thái!" (Kauf nicht bei Juden!), "Người Do
Thái là bất hạnh của chúng tôi!" (Die Juden sind Unser Unglück! [53].
Hoạt động tẩy chay hàng hóa của chính phủ Đức Quốc xã đối với người Do Thái còn
được sự ủng hộ của quốc tế.
Tẩy chay của Đức Quốc xã lấy từ cuộc tẩy chay tương tự ở các nước khác. Ở Ba Lan,
người đứng đầu Giáo hội Công giáo, Đức Hồng Y Hlond kêu gọi tẩy chay các doanh nghiệp
của người Do Thái trên khắp đất nước. Chính phủ dừng lại thuê người Do Thái và phát huy
việc tẩy chay các doanh nghiệp của người Do Thái từ năm 1935. Nghi lễ giết mổ của người
Do Thái đã bị cấm ở Ba Lan vào năm 1936 (trong đó Đức đã bị cấm từ năm 1930).
Ở Palestine, lãnh đạo Ả Rập tổ chức tẩy chay của các doanh nghiệp của người Do
Thái từ năm 1929 trở đi, với bạo lực thường hướng vào người Ả Rập, những người đã kinh
doanh với người Do Thái.
Ở Mỹ ủng hộ Đức Quốc xã như Cha Charles Coughlin kích động tẩy chay của các
doanh nghiệp của người Do Thái và có bạo lực lan rộng chống lại các mục tiêu của người
Do Thái. Các trường Đại học Ivy League hạn chế số lượng người Do Thái cho phép nhập
học.
Áo trong một tổ chức gọi là Antisemitenbund đã vận động chống lại quyền công dân
của người Do Thái từ năm 1919. Tổ chức lấy cảm hứng từ Karl Lueger huyền thoại thế kỷ
19, thị trưởng Do Thái Vienna, người truyền cảm hứng cho Hitler và cũng đã vận động tẩy
41
chay của các doanh nghiệp của người Do Thái. Chiến dịch tẩy chay ở Áo có xu hướng nâng
cao vào dịp Giáng sinh và có hiệu lực từ năm 1932.
Tại Hungary, chính phủ thông qua luật hạn chế hoạt động kinh tế của người Do Thái
từ năm 1938 trở đi. Kích động tẩy chay ngày trở lại vào giữa thế kỷ XIX, khi người Do
Thái nhận quyền bình đẳng.
Các hoạt động tẩy chay quốc gia đánh dấu sự khởi đầu của một chiến dịch toàn quốc
của đảng Quốc xã đối với toàn bộ dân số của người Do Thái tại Đức.
2.3. Ban hành các đạo luật.
Năm 1933, một loạt các đạo luật được thông qua nhằm trục xuất người Do Thái khỏi
những khu vực quan trọng: luật dịch vụ dân sự, luật thầy thuốc và luật nông trang cấm
người Do Thái sở hữu nông trại hay hoạt động nông nghiệp, luật sư Do Thái bị loại khỏi
luật sư đoàn. Tại Dresden, các luật sư và thẩm phán người Do Thái bị lôi ra khỏi văn phòng
và tòa án, rồi bị hành hung. Người Do Thái bị đuổi khỏi trường học và các viện đại học,
cũng như bị loại bỏ khỏi hội nhà báo.
Một tuần sau đó, vào 07 tháng 4 năm 1933, các Luật dân sự đã được thông qua, trong
đó hạn chế quyền của dân tộc không phải "người Aryan ". Điều này có nghĩa rằng người
Do Thái không được phục vụ trong các ngành như giáo viên, giáo sư, thẩm phán, hoặc các
vị trí khác của chính phủ. Nhân viên chính phủ Do Thái, kể cả giáo viên trong các trường
công lập và các trường đại học, đã bị bắn. Người Do Thái đã bị cấm không được tuyên bố
bất kỳ quyền lợi nào như cựu chiến binh chiến tranh (35.000 người Do Thái của Đức đã
chết trong chiến tranh thế giới thứ nhất). Bất kỳ người Do Thái mang quốc tịch Đức đều bị
tước quyền công dân. Chỉ 1% về số lượng người Do Thái được phép học trong các trường
đại học. Trong việc sửa đổi pháp luật, trong đó nói rằng tất cả người không phải là người
Aryan bị loại ra khỏi đời sống xã hội.
Đặc biệt, năm 1935, Hitler giới thiệu bộ luật Nurnberg tước quyền công dân và tất cả
các quyền dân sự của người Do Thái. Trong bài diễn văn của mình, Hitler nói nếu bộ luật
này không giải quyết nổi “vấn nạn Do Thái” thì cần phải làm luật giao cho Đảng Quốc xã
đưa ra giải pháp tối hậu (Endlosung). Thuật Endlosung trở thành cách nói chuẩn của chính
phủ Quốc xã khi ám chỉ biện pháp tuyệt diệt dân Do Thái.
Theo luật Nuremberg người Do Thái không được coi là công dân, thậm chí họ cũng
không được coi là con người, người Do Thái thấy cuộc sống của họ trở thành cơn ác mộng.
42
Dưới đây là danh sách tóm tắt những điều mà người Do Thái không được làm hay không có
được vào thời đế chế thứ III. [33].
*Người Do Thái không được đi trên một số con phố nhất định, không được ngồi trên
ghế ở công viên, không được sử dụng bể bơi hay phương tiện công cộng, không được đến
bảo tàng, nhà hát và rạp chiếu phim, không được lái xe hay cắt tóc mà thợ cắt tóc là người
“Aryan”.
*Người Do Thái không được phép có đồ dùng bằng điện , đài máy đánh chữ , máy
hát hay xe đạp.
*Ở nhiều nơi , người Do Thái không được mua thuốc, hoặc không được mua hoa quả
hay rau thậm chí sữa cho con họ.
*Những cửa hàng, những trang trại của người Do Thái đều bị cướp phá, kèm theo đó
là hầu hết số tiền tiết kiệm của họ trong ngân hàng.
* Để khiến cho họ dễ bị nhận diện, người Do Thái phải đeo một ngôi sao vàng trên áo
với dòng chữ: “Do Thái” mầu đen. Đàn ông Do Thái lấy “Israel” làm họ và phụ nữ thì lấy từ
“Sara”. Đến cuối năm 30, tỉ lệ tự sát của người Do Thái tăng gấp ba lần tỉ lệ khi người ta
tuyệt vọng.
Cuộc hôn nhân giữa người Do Thái và người dân ( Đức : Staatsangehörige) máu Đức
hoặc họ hàng đều bị cấm. Cuộc hôn nhân bất chấp pháp luật này sẽ bị hủy, ngay cả khi, với
mục đích trốn tránh pháp luật này, họ đã kết hôn ở nước ngoài.
Thời gian 1933-1939, đã ban hành hơn 400 đạo luật chống Do Thái. Người Do Thái
ở Đức và các vùng quân Đức chiếm đóng lúc này bị buộc phải đeo hình ngôi sao David sáu
cánh màu vàng để phân biệt với những người khác.
Như vậy, có thể nói rằng, với những đạo luật đã ban hành, việc phân biệt đối xử đối
với người Do Thái dưới thời cầm quyền của Hitler đã được nâng lên cấp chính phủ, được
thực hiện một cách công khai.
Đồng thời, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, một chiến
dịch bôi nhọ đã được dàn dựng kỹ lưỡng nhằm mô tả người Do Thái là kẻ thù của dân tộc
Đức. Hàng ngày, những luận điệu vu khống chống Do Thái đã xuất hiện trên các báo chí
Quốc xã, các áp phích chiếu bóng, phát thanh, trong các diễn văn của Hitler, của các thủ
lĩnh Quốc xã và trong cả trường học. Người Do Thái đã mất tất cả, kể cả nhà ở và cơ sở
kinh doanh, thế nhưng, người Đức không phải gốc Do Thái lại không hề phản đối hoặc công
khai la ó. Cuốn phim tuyên truyền của đảng Quốc xã nhan đề “Tên Do Thái muôn thuở” đã
43
đi xa tới mức so sánh người Do Thái như những con chuột mang bệnh dịch. Cuốn phim này
chính là điềm báo trước những hậu quả sẽ tới…
Tháng 3/1938, Hitler dùng vũ lực thôn tính nước Áo. Ngay lập tức, Hitler bắt đầu trấn
áp người Do Thái tại đó. Người Do Thái ở Áo cũng mất tất cả và bị công khai làm nhục,
như phải đi cọ rửa vỉa hè trước sự chế nhạo của những đám đông thân Quốc xã.
Nhiều nhà nghiên cứu xem vụ bạo động bài Do Thái mệnh danh Kristallnacht (Đêm
Kính vỡ), ngày 9 tháng 11 năm 1938, là thời điểm khởi phát vụ Holocaust. Trên khắp nước
Đức, người Do Thái bị tấn công và tài sản của họ bị cướp phá. Khoảng 100 người Do Thái
bị giết, và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, có hơn 7.000 cửa hiệu và 1 668
hội đường của người Do Thái bị tàn phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Những cảnh tương tự
cũng diễn ra tại Áo, đặc biệt là ở Wien.
Bắt đầu người ta đuổi ra khỏi nước Đức những người Do Thái có gốc rễ Ba Lan láng
giềng. Đêm 27 tháng 10 năm 1938, 18.000 người Do Thái công dân Ba Lan bị chở đến biên
giới và buộc phải rời khỏi lãnh thổ Đức. Nhưng giờ đây lại đến lượt các cấp chính quyền Ba
Lan từ chối tiếp nhận họ.
Được biết về những nỗi khổ của đồng bào mình bị đẩy vào giải phân cách giữa hai
nước, chàng thanh niên 17 tuổi Hershel, đã đến đại sứ quán Đức ở Pari ngày 7 tháng 11 năm
1938. Anh dự định bắn chết viên đại sứ- Nam tước Iokhaes Fon Velchek nhưng lại bắn vào
nhân viên đại sứ quán đầu tiên mà anh nhìn thấy.
Sự thật trớ trêu đó chính là bí thư sứ quán Ernst fon Rat- người mà Gestapo đã để ý
đến vì bị tình nghi là có quan điểm chống Quốc xã. Ông ta bị thương nặng và chết không
lâu sau đó. [33].
Việc ám sát Ernst fon Rat được chính phủ Quốc xã sử dụng cho hành động tổng lực
chống lại người Do Thái trên toàn nước Đức. Đêm rạng ngày 10 tháng 11 năm 1938, tư lệnh
Himler, viên chỉ huy cơ quan an ninh quốc gia của SS Reinchard Heidric và chỉ huy
Gestapo Hendric Miuler đã tổ chức các cuộc tấn công hành loạt vào những người Do Thái,
các cửa hàng và các nhà thờ Do Thái. Cuộc triệt hạ này đi vào lịch sử dưới cái tên “Đêm
pha lê”.
Trong mệnh lệnh cho các toán xung kích ngày 9 tháng 11 năm 1938 nêu: “Các thành
viên SA mặc đồng phục phải phá hủy tất cả các cửa hàng của người Do Thái. Sau đó đặt các
trại gác để những loại hàng hóa quý không bị đánh cắp. Tất cả các nhà thờ Do Thái phải bị
thiêu cháy ngay lập tức”. [34, tr.48].
44
Các cuộc tàn sát diễn ra đặc biệt ở Berlin và Vienna, nơi có cộng đồng người Do Thái
lớn nhất ở Đức. Lực lượng SA tấn công người Do Thái trong nhà của họ và buộc người Do
Thái thực hiện hành vi sỉ nhục công khai.
Nhận lệnh của Hitler, Hermann Goering và Richard Heydich đã gây ra cuộc khủng bố
với ngưới dân yếu đuối. Những giáo đường chìm ngập trong bể lửa. Những nhà kho của
người Do Thái bị cướp phá, những mảnh vỡ từ những khung cửa kính bị vứt đầy trên đường
phố. Hàng nghìn người Do Thái bị lôi đến trại tâp trung. Cộng đồng người Do Thái sau đó
buộc phải trả cho Đức quốc xã vì những thiệt hại với tài chính của họ, cộng thêm số tiền
phạt rất lớn.
Trẻ em Do Thái cũng cảm thấy cực kỳ căm hờn giống như cha mẹ các em. Chúng
được nuôi dậy để nghĩ rằng họ là người Đức với niềm tin của người Do Thái; nhiều người
cha mẹ của các em đã phục vụ cho nước Đức và đã được tặng rất nhiều huy chương trong
suốt thế chiến thứ I. Giờ đây, chúng bỗng thấy mình bị căm ghét, bị xa lánh.
Những bé trai và bé gái Do Thái phải ngồi trong lớp học, lắng nghe một cách trăm
chú, trong khi đó cô giáo của họ đang thuyết giải về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và nói
những trò đùa chống đối người Do Thái. Vào những giờ ra chơi hoặc sau giờ tan học họ lại
bị những bọn hay bắt nạt người khác - thuộc hội thanh niên Hitler – đánh đập. Phàn nàn với
cảnh sát hoặc hiệu trưởng, họ có thể bị tát hoặc bị chửi là “đồ Do Thái bẩn thỉu”. Cuối cùng
sau thế chiến “Đêm thủy tinh” tất cả học sinh Do Thái bị đuổi học.
Như sự lây lan cuộc tàn sát, các đơn vị của SS và Gestapo, theo hướng dẫn của
Heydrich, đã bắt giữ lên đến 30.000 nam giới của người Do Thái, và chuyển giao hầu hết
trong số họ khỏi các nhà tù địa phương ở Dachau, Buchenwald, Sachsenhausen, và các trại
tập trung khác. Đáng kể, Kristallnacht đánh dấu thời khắc đầu tiên mà chế độ Đức Quốc xã
giam giữ người Do Thái trên quy mô lớn. Hàng trăm người chết trong các trại như một kết
quả của việc điều trị tàn bạo và bắt đầu quá trình di cư khỏi nước Đức. Thật vậy, những tác
động của Kristallnacht đã thúc đẩy việc di cư của người Do Thái từ Đức trong những tiếp
theo sau đó.
Do hậu quả trực tiếp của cuộc tàn sát, nhiều nhà lãnh đạo Đức, như Hermann Göring,
chỉ trích các thiệt hại vật chất mở rộng sản xuất bởi các cuộc bạo loạn Do Thái, chỉ ra rằng
nếu không có gì đã được thực hiện để can thiệp, công ty, không bảo hiểm Đức Do Thái
thuộc sở hữu doanh nghiệp, sẽ phải thực hiện các chi phí thiệt hại. Tuy nhiên, các nhà lãnh
đạo Đảng quyết định sử dụng các biện pháp để loại bỏ người Do Thái và ảnh hưởng của
45
người Do Thái từ các lĩnh vực kinh tế Đức. Chính phủ Đức đã thực hiện một tuyên bố ngay
rằng "người Do Thái" chính là nguyên nhân cho các cuộc tàn sát và phạt tiền trừng phạt
một tỷ Reichsmark (khoảng 400 triệu đô la Mỹ năm 1938) trên cộng đồng Do Thái của Đức.
Chính phủ Đức quốc xã tịch thu tất cả tiền thưởng bảo hiểm của người Do Thái, các doanh
nghiệp và nhà cửa đều bị cướp hoặc bị phá hủy, để lại các chủ sở hữu cá nhân của người Do
Thái chịu trách nhiệm về chi phí của tất cả các sửa chữa.
Trong những tuần sau đó, chính phủ Đức đã ban hành hàng chục luật và nghị định để
tước đoạt tài sản của người Do Thái và các phương tiện sinh kế. Nhiều người trong số
những luật này được thực thi "Aryanization"- chính sách chuyển doanh nghiệp và tài sản
cho "người Aryan" quyền sở hữu, thường là trong một phần nhỏ của giá trị thật của người
Do Thái sở hữu. Pháp luật tiếp theo cấm người Do Thái, đã không đủ điều kiện cho việc
làm trong khu vực công, từ thực hành hầu hết các ngành nghề trong khu vực tư nhân, và có
những bước tiến xa hơn trong việc loại bỏ người Do Thái khỏi đời sống công cộng. Các
quan chức giáo dục Đức bị trục xuất nếu trẻ em Do Thái vẫn còn theo học tại trường Đức.
Tại Đức, người Do Thái bị mất quyền được giữ giấy phép lái xe hoặc sở hữu một chiếc ô tô,
pháp luật cố định hạn chế quyền truy cập vào giao thông công cộng. Người Do Thái có thể
không còn được nhận vào nhà hát, rạp chiếu phim, hoặc phòng hòa nhạc.
Các sự kiện của Kristallnacht đại diện một trong những bước ngoặt quan trọng nhất
trong chính sách xã hội quốc gia Do Thái. Nhà sử học đã lưu ý rằng sau khi cuộc tàn sát,
chính sách chống Do Thái đã được tập trung hơn và cụ thể hơn vào tay của lực lượng SS.
Chế độ Quốc xã mở rộng một cách cực đoan biện pháp nhằm loại bỏ người Do Thái hoàn
toàn từ đời sống kinh tế và xã hội Đức trong những năm tới, từ đó đi đến giải pháp cuối
cùng đối với chính sách di cư cưỡng bức, và cuối cùng đối với việc thực hiện một Đức
"miễn phí của người Do Thái" (judenrein) bằng cách trục xuất số dân Do Thái "tới Trung
Đông."
Do đó, Kristallnacht như một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đàn áp người Do
Thái, mà lên đến đỉnh điểm trong nỗ lực của Đức Quốc xã tàn sát người Do Thái ở châu Âu.
Hơn một ngàn người đã chết. Hai trăm sáu mươi nhà thờ bị phá hoại. Đây là sự khởi
đầu cho sự tiêu diệt người Do Thái.
46
Tiểu kết chương 2
Được mang ra thực hiện ngay sau khi nắm quyền, chính sách bài Do Thái của chính
quyền Quốc xã do Hitler cầm đầu đã tạo ra những nạn nhân đầu tiên của chế độ. Vốn là một
cộng đồng sinh sống đã nhiều trăm năm trên lãnh thổ Đức, người Do Thái đã đóng góp
không biết bao công sức vào tiến trình kiến tạo nước Đức và giữ một vai trò không thể thiếu
được trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước này. Do vậy, chính sách gạt bỏ người Do
Thái một cách không thương tiếc và rất đỗi tùy tiện chắc chắn đã tạo ra một khoảng trống
không thể tram đầy chỉ trong một thời gian ngắn. Hẳn đây là một trong những nguyên nhân
góp phần đẩy chế độ Quốc xã đến chỗ sụp đổ chỉ sau 12 năm tại vị.
47
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ
ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)
Đây là giai đoạn đỉnh cao của chủ nghĩa Bài Do Thái. Chính phủ Đức Quốc xã đi đến
giải pháp tối hậu cho vấn đề Do Thái bằng việc tàn sát có quy mô lớn và tàn bạo nhất trong
lịch sử nhân loại mà cả thế giới biết đến với cái tên Holocaust.
3.1. Tổng quan về Holocaust
Thuật từ Holocaust được dùng để chỉ cách Hitler đối xử với người Do Thái, dù nó
không được xem là cách dùng chuẩn mực mãi cho đến thập niên 1950. Đến cuối thập niên
1970, thuật từ này mang ý nghĩa qui ước được dùng để chỉ cuộc tàn sát diệt chủng của Quốc
Xã. Trong nghĩa hẹp, nó cũng được sử dụng để nói đến sự hủy diệt mà người Do Thái ở
châu Âu phải gánh chịu.
3.1.1. Đặc điểm
3.1.1.1. Qui mô
Cuộc tàn sát được tiến hành có hệ thống trên toàn bộ lãnh thổ bị Quốc Xã chiếm đóng.
Tại 35 quốc gia ở Âu châu có người Do Thái và những nạn nhân khác bị bắt và đưa đến các
trại lao động tại một số nước, và đến các trại hành quyết tại những nơi khác. Những vụ hành
quyết tập thể xảy ra nhiều nhất tại Đông Âu và Trung Âu, năm 1939, trong số hơn 7 triệu
người Do Thái thiệt mạng, có khoảng 5 triệu người bị giết tại đây, trong đó có 3 triệu người
chết ở Ba Lan và hơn 1 triệu người chết ở Liên Xô. Hàng trăm ngàn người khác bị giết ở Hà
Lan, Pháp, Bỉ, Nam Tư và Hi Lạp. [73].
Có những chứng cứ cho thấy Quốc Xã lập kế hoạch tiến hành “giải pháp tối hậu” tại
những vùng khác nếu chúng bị chiếm đóng như Anh và Ireland. Những vụ tàn sát vẫn tiếp
diễn trên các vùng đất khác nhau dưới sự kiểm soát của Quốc Xã cho đến khi Đệ Nhị Thế
chiến kết thúc, khi quân đội Đồng Minh tiến vào nước Đức và buộc Quốc Xã đầu hàng vào
tháng 5 năm 1945.
3.1.1.2. Tác động của Holocaust.
Một trong những đặc điểm của Holocaust là đưa con số nạn nhân bị tập trung và sát hại
đến mức cao nhất bằng cách sử dụng mọi nguồn lực và kỹ thuật hiện có trong nước. Lúc ấy,
48
Đức là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực như kỹ thuật, công
nghiệp, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu, giáo dục, tính hiệu quả của guồng máy hành chính...
Chẳng hạn như các bản danh sách những người được xem là đối tượng được thiết lập
và lưu giữ bởi guồng máy của công ty thống kê Dehomag, người ta cũng viết những bản báo
cáo chi tiết về các vụ hành quyết. Khi bị đưa vào các trại tử hình, tù nhân bị buộc phải giao
nộp toàn bộ tài sản cá nhân cho Quốc Xã, chúng được phân loại, đánh số và người tù được
nhận một biên nhận về tài sản đã giao nộp, với mục đích đánh lừa nạn nhân, tạo cho họ cảm
giác an toàn là sẽ có cơ hội nhận lại tài sản và đồ dùng cá nhân của mình.
Ngoài ra, những nỗ lực đáng kể được thực hiện suốt trong thời gian xảy ra vụ
Holocaust nhằm tìm kiếm các phương tiện hiệu quả hơn để có thể sát hại nhiều người hơn.
Những cuộc hành quyết ban đầu thực hiện bởi binh sĩ Đức dùng súng hạ sát hàng ngàn
người Do Thái ở Ba Lan, Ukraina và Belarus gây ra nhiều phản ứng về tình trạng căng
thẳng và suy sụp tinh thần trong vòng binh lính Đức. Các sĩ quan báo cáo với thượng cấp
của họ rằng phương cách giết người mặt đối mặt đã gây ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực
đối với thuộc cấp của họ. Vì muốn tận diệt dân tộc Do Thái, chính quyền Đức Quốc Xã
quyết định tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật, khởi đầu với những thử nghiệm trong sử
dụng chất nổ và độc dược.
Trong tác phẩm Russia’s War, nhà sử học người Anh Richard Overy đã miêu tả tiến
trình tìm kiếm các phương pháp hiệu quả hơn để sát hại nạn nhân của chính phủ Đức Quốc
Xã. Năm 1941, sau khi chiếm đóng Belarus, họ sử dụng các bệnh nhân tâm thần trong các
dưỡng trí viện ở Minsk làm vật thí nghiệm. Lúc đầu, những người này bị buộc đứng sát
nhau theo hàng dọc để bị giết bằng cách bắn xâu chuỗi, nhưng phương pháp này là quá
chậm. Rồi chất nổ được sử dụng, nhưng số người chết không nhiều trong khi nhiều người
khác chỉ bị mất tay và chân. Sau cùng, người Đức chọn cách dùng súng máy để giết hết số
bệnh nhân tâm thần này. Tháng 10 năm 1941, tại Mogilev, Quốc Xã thử nghiệm một loại
hình khác, Gaswagen tức “xe hơi ngạt”. Đầu tiên, họ sử dụng một xe quân sự hạng nhẹ,
nhưng phải mất 30 phút mới giết chết nạn nhân; kế đó, họ dùng một xe tải lớn hơn, nhét đầy
người vào trong và chỉ cần 8 phút để kết thúc mạng sống tất cả người trong xe.
Mùa xuân năm 1942, Chiến dịch Reinhard được khởi động. Carbon monoxide được
đưa vào sử dụng tại những phòng hơi ngạt ở các trại tập trung Belzec, Sobibór và Treblinka;
trong khi đó, Zyklon B được dùng tại trại Majdanek và trại Auschiwitz.
49
Số lượng lớn các thi thể cũng gây khó khăn trong việc tìm chỗ chứa xác. Lúc đầu giải
pháp thiêu xác được xem là bất khả thi cho đến khi họ khám phá ra rằng nếu có thể giữ các
lò thiêu xác ở nhiệt độ thích hợp thì mỡ của các thi thể sẽ giúp lò thiêu vận hành liên tục.
Khi vấn đề kỹ thuật này đã được giải quyết, Quốc Xã đẩy mạnh kế hoạch tàn sát tập thể đến
mức độ cao nhất.
3.1.2. Tiến trình thực hiện Holocaust
3.1.2.1. Khu biệt cư (1939-1942)
Vấn đề xác định biện pháp đối với người Do Thái trở nên cấp bách khi Đức Quốc xã
chiếm đóng phía tây Ba Lan vào tháng 9 năm 1939; khu vực này là nơi sinh sống của
khoảng 2 triệu người Do Thái. Liền sau khi bị Đức chiếm, dân Ba Lan đã phải đi vào lịch sử
của thống khổ triền miên, cuộc sống tủi nhục, đói rách, đầy đọa dưới gót giày của Đức Quốc
xã bắt đầu. Nếu có một dân tộc nào bất hạnh hơn, chỉ có thể là dân tộc Do Thái. Những cuộc
cưỡng chế di dân bắt đầu [38, tr.610].
Cánh tay phải của Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich, đề xuất tập trung tất cả
người Do Thái vào các khu biệt cư (ghetto) ở các thành phố lớn, và buộc họ làm việc phục
vụ cho công nghiệp chiến tranh Đức. Cần phải đặt các khu biệt cư gần các ga hỏa xa đầu
mối, theo lời của Heydrich, để “có thể dễ dàng xử lý sau này”. Trong lần thẩm vấn năm
1961, Adolf Eichmann làm chứng rằng “xử lý” nghĩa là “tàn sát”.
Hitler cố tình đổ lỗi cho người Do Thái về cuộc Chiến tranh thế giới mới do chính
Hitler sắp gây ra. Cuộc chiến tranh này được khởi sự vào tháng 9/1939, khi quân Đức đột
ngột tấn công xâm chiếm Ba Lan, nơi có trên 3 triệu người Do Thái đang sinh sống. Người
Do Thái bị vây ráp và dồn vào các khu biệt cư tại Lodz, Krakov và Varsava, để chờ những
kế hoạch sắp tới. Hàng vạn người đã chết vì đói và bệnh tật trong các khu ổ chuột này. Các
khu biệt cư này được đặt dưới quyền của Himmler, thủ lĩnh của Tổ chức SS Quốc xã, gồm
những tên lính trẻ cuồng tín được coi như thuần khiết về mặt chủng tộc.
Một người Ba Lan kể lại: Người Đức đến, toàn là cảnh sát, họ bắt đầu đập cửa từng
nhà: "Raus, raus, raus, Juden raus." … Một đứa bé kêu khóc... Những đứa khác khóc theo.
Bà mẹ vội tiểu vào tay mình rồi cho đứa bé uống để ngừng khóc... Khi cảnh sát đi rồi, tôi
bảo các bà mẹ bước ra. Một đứa bé đã chết... vì quá sợ hãi, người mẹ đã làm con mình ngạt
thở. [73].
50
Đức ra lệnh đăng ký của tất cả người Do Thái và một từ " Jude "đã được đóng dấu
trong chứng minh nhân dân. Nhiều điều hạn chế và cấm nhằm vào mục tiêu người Do Thái
đã được giới thiệu và áp dụng. Ví dụ, người Do Thái bị cấm không được đi bộ trên vỉa hè,
sử dụng giao thông công cộng, nhập địa điểm giải trí, đấu trường thể thao, nhà hát, bảo tàng
và thư viện. Trên đường phố, người Do Thái đã phải nâng chiếc mũ của mình để người Đức
đi qua. Tính đến cuối năm 1941 tất cả người Do Thái ở Ba Lan bị Đức chiếm đóng, ngoại
trừ trẻ em, phải đeo một huy hiệu với một ngôi sao màu xanh David. Đồng thời, Đức cho
phép Ba Lan xuất bản các tờ báo chống đối không cho người Do Thái cư trú và tỏ thái độ
thờ ơ đối với họ. [35].
Sau năm 1939, lúc khởi phát chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều trại tập trung được
xây dựng để giam cầm những kẻ thù phi chính trị của Quốc Xã, trong đó có người Do Thái
và tù binh chiến tranh, những người này hoặc bị giết hoặc trở thành lao động khổ sai, luôn
luôn chịu đói và bị tra tấn.
Trong thời kỳ chiến tranh, trại tập trung dành cho dân Do Thái và những “người đáng
ghét” mọc lên khắp mọi nơi ở Âu châu, lúc này những trại tân lập được xây dựng kế cận các
khu trung tâm có nhiều “người đáng ghét”, thường tập trung vào những khu vực có đông
người Do Thái. Ngay trên đất Đức cũng có các trại tập trung, nhưng đa phần đều nằm trong
lãnh thổ bị Đức chiếm đóng của Ba Lan. Việc vận chuyển tù nhân thường diễn ra trong tình
trạng khủng khiếp, tù nhân bị nhồi nhét vào những toa hàng đóng kín, nhiều người chết trên
đường đi.
Khi nhập trại, tù nhân bị buộc phải xăm trên mình số tù. Những người còn đủ sức phải
làm việc 12–14 giờ mỗi ngày. Luôn luôn có tập hợp điểm danh trước khi bắt đầu và sau khi
kết thúc những giờ lao động khổ sai. Những lần tập hợp điểm danh này kéo dài hàng tiếng
đồng hồ, ngay cả lúc trời mưa hoặc tuyết rơi, nhiều tù nhân chết vì bị cảm lạnh.
Giữa hai thời điểm nhập trại và chết, người tù chịu đựng nhiều hình thức nhục mạ và
tra tấn tinh thần. Họ thường bị đánh đập, roi vọt, trói giật tay treo trên sà ngang, rồi bị bắn
chết cách ngẫu hứng.
Các loại nhục hình đan xen lẫn nhau tạo nên một trải nghiệm kinh hoàng cho những
người bị giam cầm trong trại. Nhiều người mong đợi cái chết như một sự giải thoát.
Tại Ba Lan, Quốc Xã bắt đầu thiết lập những khu biệt cư (ghetto) dành cho người Do
Thái (một số cho người Roma và Sinti) cho đến khi họ bị đưa đến những trại tử thần. Rộng
lớn nhất trong số này là khu biệt cư Warszawa có 380.000 cư dân, đứng thứ nhì là khu biệt
51
cư Łódź, cầm giữ 160.000 người; ngoài ra còn có những khu biệt cư được thiết lập ở nhiều
thành phố khác nhau. Các khu biệt cư được thiết lập trong năm 1940 và 1941, hầu như ngay
lập tức chật cứng tù nhân; mặc dù khu biệt cư Warszawa chứa 30% dân số thành phố
Warszawa, nó chỉ chiếm 2,4% diện tích thành phố, tính trung bình mỗi phòng trong khu biệt
cư chứa 9,2 người ở. Từ năm 1940 đến 1942, trong những khu biệt cư các loại bệnh tật
(nhiều nhất là sốt thương hàn) và đói kém cướp mạng sống hàng trăm ngàn người Do Thái.
[73].
Mùa xuân 1940, Himmler ra lệnh xây dựng một trại tập trung gần thị trấn Oswiecim
của Ba Lan, người Đức gọi là Auschwitz, để giam giữ các tù binh Ba Lan và cung cấp lao
công nô dịch cho các nhà máy của Đức sẽ được xây dựng gần đấy. Cũng trong thời gian
này, Hitler đã xâm chiếm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và Pháp, khiến số người Do Thái đặt
dưới quyền kiểm soát của Hitler ngày càng tăng thêm.
Năm 1941, phát xít Đức xâm chiếm Liên Xô. Tại đây, cũng có khoảng 3 triệu người
Do Thái đang sinh sống trong các làng nhỏ hẻo lánh gọi là Shtetls. Cùng đi với các đội quân
xâm lược Đức có 4 đội quân đặc nhiệm SS mang tên “Einsatzgruppen” đã triệt để vây ráp
và bắn chết tất cả cư dân tại các Shtetls này.
Mùa hè năm 1941, thủ lĩnh Himmler triệu tập tên trưởng trại Auschwitz, Rudolf Hoess,
đến Berlin và căn dặn: “Thủ lĩnh tối cao Hitler đã ra lệnh phải giải quyết cho xong vấn đề
Do Thái, và đã chọn Auschwitz cho mục đích này”[12, tr.22]. Tại Auschwitz, một trại lớn
nữa đã được xây dựng và được gọi là Auschwitz II (tức Birkenau). Đây sẽ là nơi đặt 4
phòng hơi ngạt để tàn sát hàng loạt. Ý niệm sử dụng phòng hơi ngạt xuất phát từ “Chương
trình chết không đau” giống như cuộc “giết người nhân ái” mà bọn thầy thuốc Quốc xã
tiến hành đối với những người bệnh và người tàn tật tại Đức và Áo. [12, tr.22].
Khi Đức xâm lược Liên Xô vào năm 1941. Các nhà lãnh đạo của SS và cảnh sát và
các nhà lãnh đạo của lực lượng vũ trang Đức đã ký kết thỏa thuận trước cuộc xâm lược. Phù
hợp với các thỏa thuận này, SS và các đơn vị công an - bao gồm Einsatzgruppen của an ninh
cảnh sát Đức và SD và tiểu đoàn của cảnh sát Đức - theo sau quân đội Đức vào lãnh thổ
Liên Xô mới chiếm đóng. Đóng vai trò là đơn vị giết chết di động, họ tiến hành các hoạt
động nhằm mục đích tiêu diệt toàn bộ cộng đồng người Do Thái. Đến mùa thu năm 1941,
SS và cảnh sát giới thiệu xe tải khí di động. Những chiếc xe tải có ốp ống xả cấu hình lại để
bơm khí carbon monoxide độc hại vào không gian kín, giết chết những người bị khóa bên
trong. Chúng được thiết kế để bổ sung cho các hoạt động giết liên tục.
52
Chính quyền của Đức tại các nơi chiếm đóng thực hiện các hoạt động tiêu diệt người
Do Thái và những người khác họ coi là kẻ thù vĩnh viễn của Đức ở phía đông; các hoạt
động này kéo dài cho đến khi người Đức chiếm đóng hoàn toàn Liên Xô trong nửa đầu năm
1944. SS và cảnh sát thường không có đủ nhân lực để thực hiện các hoạt động này, vì vậy
họ đã được hỗ trợ bất cứ khi nào cần thiết của chính quyền địa phương mà họ tuyển dụng và
các đơn vị lực lượng vũ trang Đức. Đức và các cộng sự đã giết chết từ 1.0 và 1.5 triệu
người Do Thái trong các xe hơi ngạt ở Liên Xô. [73].
Bốn tuần sau khi cuộc xâm lược của Liên Xô, vào ngày 17 tháng 7 năm 1941, Hitler
giao nhiệm vụ trưởng SS cho Heinrich Himmler chịu trách nhiệm cho tất cả các vấn đề an
ninh ở đây. Hitler đã để Himmler quyền để có thể loại bỏ bất kỳ mối đe dọa cho nước Đức.
Hai tuần sau đó, vào ngày 31, Reich Marshall Hermann Göring- giám đốc của Tổng cục an
ninh quốc gia (RSHA) và cấp dưới trực tiếp của Himmler, để chuẩn bị cho thực hiện một
"giải pháp cuối cùng “cho người Do Thái." Từ đây, SS nói chung và RSHA có thẩm quyền
quyết định cuả Hitler để quản lý việc thực hiện "giải pháp cuối cùng." [Các RSHA bao gồm
lực lượng An Ninh (Gestapo và Cảnh sát hình sự) và Cơ quan An ninh (Sicherheitsdienst-
SD)]
Trong tháng 10 năm 1941, Himmler cho phép SS cùng Odilo Globocnik (SS và cảnh
sát nhà lãnh đạo cho các huyện Lublin của Generalgouvernement) để thực hiện một kế
hoạch có hệ thống giết tất cả người Do Thái cư trú tại các Generalgouvernement.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 1941, tại một cuộc họp của các quan chức của Chính phủ
chung , Hans Frank gọi bài phát biểu của Hitler như ông mô tả sự hủy diệt sắp tới của người
Do Thái.
Trước đó, các đơn vị đặc nhiệm Einsatzgruppen đã làm thí điểm bằng cách sử dụng các
xe chở hơi ngạt lưu động để giết người Do Thái tại Liên Xô. Người Do Thái bị dồn vào một
conterno khép kín ở phía sau xe rồi bị xả hơi độc. Tuy nhiên, phương cách này tỏ ra chậm
chạp bởi “năng xuất” trung bình của mỗi xe chỉ được gần 50 người. Vì vậy cách giết người
nhanh nhất lúc đó vẫn là xử bắn hàng loạt. Trên 33.000 người Do Thái đã bị bắn chết tại khe
núi Babi Yan gần Kiev, chỉ trong 2 ngày của tháng 9/1941.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II đã thay đổi mọi thứ. Cuộc càn quét của Hitler ở
Đông Âu đã giúp Hitler nắm trong tay mạng sống của những người Do Thái châu Âu. Chỉ
riêng Ba Lan và những phần nước Nga bị chiếm đóng đã có 5,5 triệu người Do Thái; ở
Rumani và Hungary có 1,2 triệu. Số còn lại sống rải rác ở Đông và Tây Âu và bán đảo Ban
53
Căng. Tháng 7/1941, khi những cỗ xe thiết giáp đang tiến vào Matxcơva thì Hitler đã quyết
định tiến hành trước “phương án cuối cùng”.
Bốn nhóm hoạt động đặc biệt với khoảng một nghìn người mỗi nhóm đã được thành
lập và gửi tới Đông Âu. Mỗi nhóm gồm có đội quân SS và những tội phạm được thả tự do
để thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”. Nhiệm vụ: theo dõi những đội quân và quét sạch những
cộng đồng người Do Thái đằng sau những đội quân đó. Những tướng quân đội phải thường
xuyên giúp đỡ họ bằng mọi cách có thể.
Một nhóm hoạt động đặc biệt sẽ vây bắt tất cả số người Do Thái ở một khu vực và
buộc họ phải đào một cái hố ở một nơi xa đường cái, giống như một cuộc đốn rừng. Sau đó
từng người một, không kể già trẻ, phải lột hết quần áo và giày dép, xếp thành những chồng
ngay ngắn. Thời tiết không hề có ảnh hưởng gì, những người này bị bắt phải đứng đợi trong
nhiệt độ dưới 0. Khi đến lượt mình, họ phải nhảy xuống cái hố đó và nằm đè lên người
trước họ. Những tên lính cận vệ với những khẩu súng máy và súng tự động sau đó đã bắn
chết họ từ sau gáy. [73].
Ở những nơi Babi Yar- Ucraina, hàng nghìn người bị tàn sát mỗi ngày. Ở đó, trong hai
ngày đã có 35.000 người chết, và cuối cùng có 100.000 xác người bị chôn ở thung lũng sâu
này. Cả bốn nhóm này đã giết hại không dưới 700.000 người Do Thái trong chưa đầy một
năm.
Có khoảng 1,6 triệu người Do Thái bị giết chết bởi Quốc Xã và những người cộng tác trong
những cuộc hành quyết ngoài trời, nhất là trong năm 1941 trước khi thiết lập những trại tập
trung. Trong thời gian xâm lăng Liên Xô, có hơn 3.000 đội hành quyết đặc biệt (được tổ
chức thành bốn lực lượng đặc nhiệm – Einsatzgruppen) theo chân quân đội Quốc Xã và tiến
hành những vụ hành quyết tập thể mà nạn nhân là người Ba Lan, các viên chức Cộng sản và
dân Do Thái sống trong lãnh thổ Liên Xô.
Theo lời của Otto Ohlendorf khi bị đem ra xét xử, “Einsatzgruppen có nhiệm vụ bọc
hậu cho quân đội bằng cách áp dụng các biện pháp như tàn sát người Do Thái, dân Di-gan,
các viên chức Cộng sản, và bất cứ ai tỏ ra nguy hiểm cho nền an ninh”. Trong thực tế, nạn
nhân của họ đa phần là dân thường người Do Thái (không có thành viên nào của
Einsatzgruppen bị giết khi thi hành nhiệm vụ). Đến tháng 12 năm 1941, bốn đội
Einsatzgruppen báo cáo số người họ sát hại lần lượt là 125.000, 45.000, 75.000, và 55.000 –
tổng cộng là 300.000 – thường thì họ nhắm bắn hoặc ném lựu đạn vào hố tập thể bên ngoài
các thị trấn.
54
Vụ tàn sát người Do Thái sinh sống ở Liên Xô diễn ra trong một khe núi gọi là Babi
Yar bên ngoài Kiev, có 33 771 người Do Thái bị sát hại chỉ trong một cuộc càn quét từ 29
đến 30 tháng 9 năm 1941. Thiếu tướng Friedrich Eberhardt, chỉ huy trưởng quân sự, SS-
Obergruppenführer Friedrich Jeckeln, chỉ huy trưởng cảnh sát, và Otto Rasch, tư lệnh
Einsatzgruppe C là những người ra lệnh tiến hành cuộc tàn sát được phối hợp bởi các lực
lượng SS, SD và an ninh, với sự hỗ trợ của cảnh sát Ukraina.
Vào thứ Hai, dân Do Thái ở Kiev bị tập trung tại một nghĩa trang, chờ đưa lên tàu hỏa. Số
người tập trung khá đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em nên không ai biết điều gì sẽ xảy ra
cho đến khi quá trễ: đến lúc họ nghe tiếng súng máy khai hỏa thì không ai còn có cơ hội
trốn thoát. Tất cả bị dẫn vào một con rãnh hẹp theo mỗi nhóm mười người, rồi bị bắn. Một
tài xế xe tải kể lại:
Lần lượt từng người một bị lột bỏ hành lý, rồi áo khoác, giày, áo trong, và cả đồ lót…
Sau khi đã trần truồng, họ bị dẫn vào hẻm núi khoảng 150 m dài, 30 m ngang, và sâu 15
m… Khi đến đáy hẻm núi, Schutzpolizei bắt họ nằm trên lớp người vừa bị hành quyết trước
đó… Xác chết xếp thành nhiều lớp. Một tay súng cầm súng máy đến bắn từng người vào
cổ… Tôi thấy những xạ thủ đứng trên các lớp thi thể nhắm bắn từng người một…Một tay
súng bước qua các xác chết để nhắm vào một người đang nằm kế đó, và bắn người ấy. [73].
Tháng 8 năm 1941, Himmler đến Minsk, đích thân chứng kiến vụ hành quyết 100
người Do Thái bên ngoài thành phố. SS-Obergruppenführer Karl Wolff ghi lại trong nhật
ký, “Mặt Himmler tái mét, móc vội khăn tay ra lau mặt khi óc của nạn nhân văng vào mặt
ông ấy, rồi nôn thốc tháo.”
Viện Bảo tàng Holocaust Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện của một nạn nhân của
Einsatzgruppen may mắn còn sống sót khi đội này sát hại 1.600 người Do Thái vào ngày 6
tháng 4 năm 1942 tại Piryatin, Ukraine, tức là ngày thứ hai của Lễ Vượt qua:
Tôi chứng kiến cuộc tàn sát. Lúc 5 giờ chiều phát ra mệnh lệnh, “Lấp đầy các hố.”
Tiếng gào thét và rên rỉ vọng lên từ đáy hố. Đột nhiên, tôi thấy người hàng xóm Ruderman
ngoi lên từ mặt đất... Đôi mắt của anh đầy máu, kêu la: “Giết tôi đi!”... Một phụ nữ gục chết
dưới chân tôi. Một bé trai năm tuổi từ dưới xác mẹ bò ra và bắt đầu kêu khóc thảm thiết.
“Mẹ ơi!”. Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy, trước khi bất tỉnh.
Đối tượng ban đầu là người Ba Lan, trong đó có 30.000 nhà trí thức và chính trị gia bị
vây bắt, 7.000 người trong số họ bị hành quyết. Đến mùa hè năm 1941, các đội hành quyết
quay sang tìm giết người Do Thái, khởi đầu với vụ hành quyết 2.000 người Do Thái tại
55
Bialystok ngày 27 tháng 6 năm 1941, sau đó con số nạn nhân gia tăng mau chóng. Ngày 26
tháng 6, các lực lượng SS Đức hạ sát 1.500 người Do Thái. Từ ngày 30 tháng 6 đến 3 tháng
7 năm 1941, 4.000 người Do Thái thiệt mạng bởi tay những người Ukraina cộng tác với
Đức. Từ tháng 9 cho đến cuối năm 1941, một chuỗi các vụ tàn sát tập thể được tiến hành
trên khắp Ba Lan, Litva, Ukraina và Latvia: hơn 33.000 người Do Thái mất mạng tại Babi
Yar, 25.000 người khác bị giết bởi Quốc Xã Latvia (Arjas Commando), hơn 36.000 người
chết tại Odessa bởi lực lượng Romania, 19.000 người tại Pháo đài số chín ở Kaunas, và
40.000 (đến năm 1944, con số này là 100.000) bị hành quyết bởi SS Đức. Trong vòng năm
tháng, tại châu Âu mỗi tháng có khoảng 100.000 người Do Thái bị hành quyết. Đến cuối
năm 1943, có thêm 900.000 người Do Thái bị giết theo cách này, nhưng tiến độ này vẫn bị
xem là chậm đối với giới lãnh đạo Quốc Xã, nên đến cuối năm 1941 đầu năm 1942 họ cho
tiến hành Giải pháp Tối hậu, nhằm tận diệt người Do Thái tại châu Âu.
3.1.2.2. Giải pháp cuối cùng (1942-1945)
Năm 1942 đã đánh dấu sự mở đầu của cuộc tàn sát với quy mô chưa từng thấy trong
lịch sử nhân loại. Tháng 1/1942, 15 tên trùm phát xít , đứng đầu là Reinhard, thủ lĩnh thứ
hai của lực lượng SS, đã dự Hội nghị Wannsee tại Berlin, để cùng phối hợp thực hiện “giải
pháp cuối cùng” đối với người Do Thái. Người Do Thái ở châu Âu sẽ bị quy tập và đẩy
sang Ba Lan, là nơi đang xây dựng các trung tâm thủ tiêu tại Belzec, Sobibor, Trebinka và
Auschwitz- Birkenau. “Giải pháp cuối cùng” này mang mật danh “Hành động Reinhard”,
được bắt đầu vào mùa xuân 1942: trên 2 triệu người Do Thái đã bị đưa vào các phòng hơi
ngạt.
Đức Quốc xã thường xuyên sử dụng ngôn ngữ hoa mỹ để che giấu bản chất thật sự
của tội ác của họ. Họ sử dụng thuật ngữ "Giải pháp cuối cùng" để tham khảo kế hoạch của
họ để tiêu diệt dân Do Thái. Người ta không biết khi các nhà lãnh đạo của Đức Quốc xã dứt
khoát quyết định thực hiện "giải pháp cuối cùng." Tội ác diệt chủng, hoặc hủy diệt hàng
loạt, của người Do Thái là đỉnh điểm của một thập kỷ của các biện pháp phân biệt đối xử
ngày càng nghiêm trọng.
Cuối năm 1941, Himmler và Heydrich tỏ ra mất kiên nhẫn với tiến độ của Giải pháp
Tối hậu. Đối thủ chính của họ là Göring, vốn thành công trong nỗ lực giữ các công nhân Do
Thái khỏi bị trục xuất đến Ba Lan, ông cũng liên kết với các tư lệnh quân đội là những
người chống đối việc trục xuất người Do Thái do những tính toán về lợi ích kinh tế, do sự
ghê tởm đối với lực lượng SS, và cũng vì lòng nhân đạo (trong một số trường hợp). Mặc dù
56
quyền lực của Göring đã suy giảm từ khi lực lượng không quân của ông thất bại trước sức
mạnh phòng không của Anh, ông vẫn được duy trì đặc quyền tiếp cận với Hitler.
Vì vậy, Heydrich phải triệu tập Hội nghị Wannsee vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 tại
biệt thự Am Großen Wannsee No. 56-58 ngoại ô Berlin để đúc kết kế hoạch tiêu diệt dân Do
Thái. [40]. Kế hoạch được biết với tên Aktion Reinhard (Chiến dịch Reinhard). Có mặt tại
hội nghị có Heydrich, Eichmann, Heinrich Müller (lãnh đạo Gestapo), đại diện của Bộ Các
Lãnh thổ Miền đông bị Chiếm đóng, Bộ Nội vụ, Văn phòng Kế hoạch Bốn năm, Bộ Tư
pháp, Chính quyền ở Ba Lan (có 2 triệu người Do Thái sống ở đây), Văn phòng Ngoại giao,
Văn phòng Chủng tộc và Tái định cư, Đảng Quốc Xã, và văn phòng phân phối tài sản người
Do Thái. Ngoài ra còn có SS-Sturmbannführer Rudolf Lange, chỉ huy SD ở Riga, người mới
vừa dọn sạch khu biệt cư Riga.
Theo Michael Berenbaum, 15 người ngồi quanh chiếc bàn hội nghị được xem là những
nhân vật tài trí nhất; hơn một nửa trong số họ đều có học vị tiến sĩ của các đại học Đức.
Rượu mạnh được dọn lên trong khi họ bàn luận.
Người ta trình lên hội nghị kế hoạch tàn sát tất cả người Do Thái ở châu Âu, kể cả
330.000 người sinh sống ở Anh và 4.000 ở Ireland.
Theo báo cáo, có 2,3 triệu người Do Thái ở Ba Lan, 85.000 ở Hungary, 1,1 triệu sống
tại các quốc gia bị chiếm đóng, và có đến 5 triệu người Do Thái ở Liên Xô (3 triệu trong số
này đang sống trong vùng bị Đức chiếm đóng) – tổng cộng có khoảng 6,5 triệu. Tất cả sẽ
được vận chuyển bằng tàu hỏa đến các trại hành quyết (Vernichtungslager) ở Ba Lan, tại đó
những người không thể làm việc sẽ bị giết bằng hơi ngạt ngay lập tức. Tại các trại khác, như
Auschwitz, những người còn có thể làm việc được cho sống một thời gian, nhưng rồi cũng
bị mất mạng. Đại diện của Göring, Tiến sĩ Erich Neumann, giành được một sự miễn trừ có
giới hạn cho một số tầng lớp công nhân Do Thái.
Các "giải pháp cuối cùng" là tên mã cho các hệ thống, có chủ ý, sự hủy diệt vật chất
của người Do Thái châu Âu. Tại một số thời điểm vẫn chưa được xác định trong năm 1941,
Hitler ủy quyền chương trình giết người hàng loạt người Do Thái ở châu Âu cho Heydrich.
Heydrich triệu tập Hội nghị Wannsee (1) để thông báo và đảm bảo sự hỗ trợ của các bộ và
các cơ quan liên quan khác có liên quan đến việc thực hiện "giải pháp cuối cùng", và (2) tiết
lộ cho những người tham gia rằng Hitler đã giao nhiệm vụ Heydrich và RSHA cùng phối
hợp hoạt động.
57
Mục đích của Hội nghị Wannsee là rõ ràng đối với người tham gia: hơn nữa sự phối
hợp của một chính sách nhắm vào sự hủy diệt người Do Thái ở châu Âu .
Đức Quốc Xã thành lập sáu trại hủy diệt khắp Ba Lan năm 1942. Tất cả các trại
Chelmno (Kulmhof), Belzec, Sobibor, Treblinka, Majdanek và Auschwitz (Oswiecim) -
được đặt trên mạng lưới đường sắt để các nạn nhân có thể dễ dàng vận chuyển cho họ. Hệ
thống các trại đã được mở rộng trong quá trình của Đức chiếm đóng Ba Lan và mục đích
của họ là đa dạng, một số từng là trại trung chuyển, một số trại lao động cưỡng bức và một
số trại như tử thần. Trong khi ở các trại tử thần, các nạn nhân thường được giết ngay sau khi
đến, trong những trại khác người Do Thái có thể thân được làm việc và bị đánh đến chết.
Trại hành quyết được thiết lập với mục đích sử dụng công nghiệp hành quyết để tận
diệt tù nhân trong trại. Đây là loại hình khác với các trại tập trung hoặc trại lao động. Hơn
ba triệu người Do Thái mất mạng trong các trại hành quyết này. Phương pháp sát hại là
dùng khí độc (Zyklon B hoặc carbon monoxide) trong những “phòng hơi ngạt”, mặc dù vẫn
có nhiều nạn nhân bị giết bằng súng hoặc bằng các phương tiện khác. Thi thể của họ bị đem
vào các lò thiêu xác (riêng ở trại Sobibór, dùng các giàn thiêu ngoài trời), tro người chết
được rải hoặc chôn.
Các trại hành quyết được điều hành bởi các sĩ quan SS, dưới quyền họ thường là các
phụ tá người Ukraina hoặc Baltic. Lính chính quy Đức không được đến gần.
Tại các trại hành quyết có phòng hơi ngạt, tất cả tù nhân được đưa đến bằng xe lửa,
vào địa điểm tiếp nhận, tại đây tất cả áo quần và tư trang đều bị tước đoạt. Họ bị dồn, thân
thể trần truồng, vào các phòng hơi ngạt. Trước đó họ được bảo cho biết được đưa đi tắm
hoặc tẩy trừ rận chấy, trên đường đi có các bảng chỉ dẫn “phòng tắm” hoặc “tắm hơi”. Mọi
chi tiết về quá trình thủ tiêu đã được hoạch định kỹ lưỡng. Những người Do Thái bị đưa đến
các trại tập trung bằng xe lửa đều bị lừa dối là họ được đưa đến các “trạm quá cảnh” để chờ
đưa đến nơi khác làm việc. Bọn SS bảo họ cởi bỏ quần áo để được đưa đến các phòng tắm
rửa cho thỏa mái. Trước tiên là đàn ông sau đó là đàn bà bị cắt hết tóc và trẻ em, tất cả đều
trần truồng và bị lùa vào một hành lang nhỏ hẹp mà bọn SS gọi là “Đường lên thiên đàng”.
Cuối con đường này là các “phòng tắm”. Khi đoàn người Do Thái đã vào chật kín, các
phòng này liền bị đóng chặt và khói monoxyt carbon gây tử vong được phun vào bởi các
máy nổ chạy bằng diesel đặt bên ngoài.
Theo Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, boong ke 1 chứa 800 người, boong ke 2
chứa 1.200. Một khi phòng hơi ngạt đầy người, cửa phòng bị khóa chặt và những viên
58
Zyklon-B, được thả vào phòng qua những lỗ thông hơi trên tường, bắt đầu tỏa khí độc.
Những người bị nhốt trong phòng sẽ chết trong vòng 20 phút; chết nhanh hay chậm phụ
thuộc vào vị trí người ấy đứng gần lỗ thông hơi hay không, theo ước tính của Rudolf Höß,
khoảng một phần ba nạn nhân chết tức khắc. Joann Kremer, một bác sĩ SS, làm chứng: “Có
thể nghe tiếng la hét kêu gào của các nạn nhân, rõ ràng là họ đang cố tìm cách cứu mạng
mình.”
Khi dọn xác nạn nhân, các tù nhân từng là nha sĩ được giao nhiệm vụ dùng kềm thu hồi
răng vàng trong miệng các xác chết, và tóc của những xác phụ nữ đều bị cắt.
Một phát kiến mới là chúng tôi cho xây dựng các phòng hơi ngạt có thể chứa 2.000
người cùng một lúc, trong khi trại Treblinka với 10 phòng hơi ngạt chỉ chứa mỗi lần 200
người. Tù nhân được phân loại như sau: tại Auschwitz chúng tôi có hai bác sĩ chuyên làm
việc này. Tù nhân xếp hàng từng người một đến trình diện bác sĩ, những người có đủ sức
khỏe để làm việc sẽ được nhập trại. Những người còn lại bị đưa đến chỗ hành quyết. Trẻ em
còn nhỏ chắc chắn bị giết vì chúng không thể làm việc. Một cải tiến khác khiến chúng tôi
qua mặt trại Treblinka, là ở Treblinka nạn nhân hầu như luôn biết là họ sẽ bị hành quyết,
trong khi ở Auschwitz chúng tôi cố làm cho họ tin là họ đang được đưa đi tẩy trừ chấy rận.
Dĩ nhiên, nhiều khi họ nhận ra ý định của chúng tôi, vì vậy đôi khi chúng tôi cũng gặp khó
khăn hoặc có khi bùng nổ bạo loạn. Thường thì các bà mẹ cố giấu con mình sau những lớp
áo, nhưng chúng tôi phát hiện ra ngay và đem chúng đi hành quyết. Chúng tôi được lệnh
tiến hành các cuộc hành quyết trong bí mật, nhưng mùi hôi thối bốc ra từ những thi thể bị
thiêu lan tỏa khắp vùng, nên mọi người dân sinh sống gần đó đều biết rằng các cuộc hành
quyết đang diễn ra trong trại Auschwitz. - Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, làm chứng
tại Nuremberg.
Trong số các trại được xây dựng, phải kể đến ba loại trại tử thần:
Trại hủy diệt: Treblinka, Sobibor, Belzec, nơi các tù nhân bị giết chết ngay khi đến
nơi. Ban đầu, các trại sử dụng carbon monoxide phòng hơi ngạt, lúc đầu, xác chết đã bị
chôn vùi, nhưng sau đó đốt trên pyres. Sau đó, khí phòng và lò hỏa táng được xây dựng ở
Treblinka và Belzec; Zyklon-B . đã được sử dụng trong Belzec.
Các trại tập trung, tiêu diệt nơi một số tù nhân đã được lựa chọn cho lao động nô lệ,
thay vì cái chết ngay lập tức, họ đã được giữ sống như tù nhân trại, sẵn sàng làm việc bất cứ
nơi nào Đức Quốc Xã. Các trại này - bao gồm cả Auschwitz, Majdanek, và Jasenovac - sau
59
đó đã được trang bị thêm với Zyklon-B khí phòng và lò hỏa táng, còn lại hoạt động cho đến
khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945.
Trại hủy diệt nhỏ như Sajmiste ở Serbia, Trostenets Maly ở Liên Xô, Janowska , ở Ba
Lan, và Gornija Rijeka , ban đầu hoạt động như trại giam, trại trung chuyển, sau đó là trại
hủy diệt vào cuối chiến tranh, sử dụng di động khí phòng và xe hơi . Xe tải khí ban đầu
được phát triển tại các trại diệt Chelmno , trước khi được sử dụng ở những nơi khác.
Xác chết bị thiêu rụi trong lò hỏa táng và tro hoặc chôn hoặc rải rác, nhưng, tại
Sobibor , Treblinka, Belzec, và Chelmno, những xác chết bị thiêu rụi trên pyres. Mỗi trại
hủy diệt hoạt động khác nhau, nhưng mỗi trại đều được thiết kế để giết hại công nghiệp hóa
nhanh chóng và hiệu quả. SS Obersturmführer Kurt Gerstein, Viện Vệ sinh của lực lượng
Waffen-SS, trong chiến tranh nói với một nhà ngoại giao Thụy Điển của cuộc sống trong
một trại chết, như thế nào, vào ngày 19 Tháng 8 năm 1942, ông đến trại tiêu diệt Belzec
(được trang bị carbon monoxide khí phòng) và được thể hiện việc dỡ 45 toa xe lửa chứa đầy
6.700 người Do Thái, nhiều người đã chết, nhưng phần còn lại được tiến hành khỏa thân để
đưa vào các phòng hơi ngạt.
Một tù nhân Sonderkommando (Biệt đội đặc biệt) thực hiện hầu hết các quá trình tiêu
diệt, họ đi kèm với dân Do Thái vào phòng hơi ngạt (một buồng phòng, thường trang bị để
xuất hiện như một phòng tắm lớn, với phun nước, tường gạch… và vẫn ở lại đó cho đến khi
ngay trước cửa phòng đóng lại. Để duy trì tâm lý "tác dụng làm dịu" của sự lừa dối, một
bảo vệ SS đứng ở cửa, như thể đang chờ các tù nhân. Các Sonderkommando vội vã họ cởi
quần áo và bước vào "phòng tắm" càng nhanh càng tốt. Để có hiệu lực đó, họ cũng hỗ trợ
người già và trẻ em bên trong cởi quần áo.
Để thuyết phục thêm các tù nhân rằng không có gì có hại đã xảy ra, các
Sonderkommando lừa dối họ nói chuyện nhỏ về cuộc sống trại. Lo sợ rằng việc "khử trùng"
có thể gây hại cho con cái của họ, nhiều bà mẹ giấu trẻ sơ sinh của họ dưới quần áo chất
đống của họ. Chỉ huy Hoss báo cáo rằng "người đàn ông của Biệt đội đặc biệt là đặc biệt
trên nhìn ra cho việc này", và khuyến khích các phụ nữ để đưa con vào "tắm phòng". Tương
tự như vậy, các Sonderkommando an ủi con- những người có thể khóc "vì sự kì lạ của bị
cởi quần áo trong thời gian này".
Tuy nhiên, không phải tất cả tù nhân đã bị lừa dối bởi như chiến tranh tâm lý chiến
thuật; chỉ huy Hoss báo cáo của người Do Thái "người hoặc đoán, hoặc biết, những gì đang
chờ đợi họ, tuy nhiên ... họ có đủ can đảm để nói đùa với các em, để khuyến khích họ, bất
60
chấp sự khủng bố chết có thể nhìn thấy trong đôi mắt của mình ". Một số phụ nữ sẽ bất ngờ
"cho những tiếng kêu la khủng khiếp nhất trong khi cởi quần áo, hoặc cắt tóc của họ, hoặc la
hét như điên". Các Sonderkommando ngay lập tức đưa họ đi xử bắn.
Một khi cánh cửa của căn phòng chứa đầy khí ga đã được niêm phong, bột viên của
Zyklon B đã được thả xuống thông qua các lỗ đặc biệt trên mái nhà. Quy định của Đức
Quốc xã đòi hỏi chỉ huy trại, giám sát công tác chuẩn bị, các thoát khí và cướp bóc tài sản
của xác chết. Chỉ huy trại báo cáo rằng các nạn nhân hơi ngạt "cho thấy không có dấu hiệu
co giật". Các bác sĩ trại Auschwitz do đó để "làm tê liệt ảnh hưởng đến phổi" của khí
Zyklon-B, giết chết trước khi nạn nhân bắt đầu co giật đau khổ.
Sau khi loại bỏ các xác chết từ các phòng hơi ngạt, họ bắt đầu chiết xuất bất kỳ răng
vàng, và để giảm thiểu mùi riêng biệt của việc đốt cháy tóc con người, họ đã cạo tóc của
những xác chết, trước khi phân phối chúng đến lò hỏa táng hoặc các hố lửa, do đó duy trì bí
mật về sự tồn tại của các trại hủy diệt. Các Sonderkommando chịu trách nhiệm về đốt xác
chết, và việc tăng thêm các vụ cháy, thoát mỡ trong cơ thể, và việc lật lại cái "núi của xác
chết cháy" cho cả quá trình đốt cháy và ngọn lửa nhiệt độ cao nhất. Chỉ huy trại rất ấn tượng
với sự tích cực của các tù nhân Sonderkommando, mặc dù là của họ "cũng nhận thức được
rằng ... họ cũng có cùng số phận", nhưng luôn luôn làm công việc của rất tích cực. Chỉ huy
trại tiếp tục báo cáo rằng những người đàn ông ăn và hút thuốc "ngay cả khi tham gia vào
công việc ghê rợn của xác chết cháy", trong quá trình đó họ thỉnh thoảng gặp phải những
xác chết của một người thân, nhưng mặc dù họ "đã rõ ràng bị ảnh hưởng bởi điều này ... nó
không bao giờ dẫn đến bất kỳ sự cố "của cuộc nổi dậy, như trong trường hợp của một
Sonderkommando người nên gặp xác chết của người vợ, nhưng cư xử" như không có gì xảy
ra".
Như một vấn đề đào tạo chính trị, một lãnh đạo cao cấp Đảng Quốc xã và lãnh đạo các
sĩ quan SS đã được gửi đến Auschwitz-Birkenau để chứng kiến; các chỉ huy trại báo cáo
rằng "tất cả đã được ấn tượng sâu sắc bởi những gì họ nhìn thấy ... nhưng một số ... người
trước đó đã nói lớn tiếng nhất, về sự cần thiết phải tiêu diệt này, im lặng một khi họ đã thực
sự nhìn thấy "giải pháp cuối cùng của vấn đề Do Thái". Như chỉ huy trại Auschwitz là
Rudolf Hoss lý giải việc tiêu diệt trên bằng cách giải thích sự cần thiết phải "quyết tâm sắt
mà chúng ta phải thực hiện mệnh lệnh của Hitler", nhưng thấy rằng ngay cả "Adolf
Eichmann, người chắc chắn là đủ cứng rắn, không có mong muốn thay đổi địa điểm với tôi
". Cuộc sống trong các trại tập trung trong giai đoạn này là vô cùng khắc khiệt. [41].
61
* Trại tập trung Auschwitz
Năm 1942, Quốc Xã cho khởi động giai đoạn tàn sát cao nhất trong vụ Holocaust, theo đề
án Aktion Reinhard, mở cửa các trại hành quyết Belzec, Sobibór, và Treblinka. Tháng 9
năm 1943, hơn 1,7 triệu người Do Thái bị giết trong ba trại này. Trại tử thần lớn nhất được
xây dựng tại Auschwitz-Birkenau, gồm có một trại lao động (Auschwitz) và một trại hành
quyết (Birkenau); trong trại Birkenau có bốn phòng hơi ngạt và một lò thiêu xác. Trại
Birkenau là nơi kết thúc mạng sống của khoảng 1,6 triệu người Do Thái (trong đó có
438.000 người Do Thái bị đem đến từ Hungary chỉ trong vòng vài tháng), 75.000 người Ba
Lan và đồng tính nam, cùng khoảng 19.000 người Roma. Vào lúc cao điểm, mỗi ngày có
đến 8.000 người bị đưa vào phòng hơi ngạt. [73].
Auschwitz II-Birkenau được chỉ định bởi Heinrich Himmler , Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Đệ Tam Quốc Xã, như vị trí của các " giải pháp cuối cùng của vấn đề Do Thái ". Từ đầu
năm 1942 cho đến cuối năm 1944, xe lửa vận chuyển người Do Thái đến phòng hơi ngạt
của trại từ khắp nơi mà Đức chiếm đóng.
Sự phức tạp của trại Auschwitz được đặt tại Landkreis Bielitz , khoảng 30 km về phía
nam Katowice và 50 km về phía tây của Kraków, như một phần của khu vực Ba Lan sáp
nhập vào Đức Quốc Xã, bao gồm một công nghiệp lớn khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên.
Có 48 trại trong tất cả. Ba trại chính là Auschwitz I, II Auschwitz-Birkenau, và một trại lao
động gọi là Auschwitz III-Monowitz hoặc Buna.
Các SS-Totenkopfverbände (SS-TV) là tổ chức SS trách nhiệm quản lý các trại tập
trung của Đức Quốc xã cho Đệ Tam Quốc Xã. SS-TV là một đơn vị độc lập trong SS với
cấp bậc của mình và cấu trúc lệnh. Obersturmbannführer Rudolf Hoss là chỉ huy tổng thể
của Auschwitz từ tháng năm 1940 đến tháng 11 1943; Obersturmbannführer Arthur
Liebehenschel từ tháng mười năm 1943 đến tháng 5 năm 1944; và Sturmbannführer
Richard Baer từ tháng 5 năm 1944 đến tháng giêng năm 1945.
Yisrael Gutman viết rằng nó là trong các trại tập trung mà Adolf Hitler khái niệm của
quyền lực tuyệt đối đã thành hiện thực. Primo Levi, người đã mô tả năm của mình trong trại
tập trung Auschwitz trong này Nếu là một người đàn ông , đã viết:
Đã bao giờ có tồn tại một trạng thái thực sự "độc tài toàn trị." ... Không bao giờ có
một số hình thức phản ứng, một sự điều chỉnh tổng thể chuyên chế, còn thiếu, không ngay
cả trong Đế chế thứ ba hoặc Liên Xô của Stalin: trong cả hai trường hợp, dư luận, báo chí
nước ngoài, các nhà thờ, cảm giác cho công lý và nhân loại mười hay hai mươi năm của chế
62
độ độc tài là không đủ để xóa, có đến một mức độ nhiều hay ít hoạt động. Chỉ trong Lager-
trại là sự kiềm chế từ dưới đây không tồn tại, và sức mạnh của các quan trấn thủ nhỏ tuyệt
đối. [41].
Khi nhập trại, mọi vật dụng có giá trị đều bị tịch thu, phụ nữ bị buộc cắt tóc ngắn. Theo
những tài liệu của Quốc Xã, tóc của tù nhân được dùng để sản xuất vớ dài. Tù nhân bị chia
thành hai nhóm: những người yếu sức bị đưa ngay vào phòng hơi ngạt (đôi khi ngụy trang
thành phòng tắm), những người khác bị sử dụng như những lao động khổ sai trong nhà máy
hoặc tại các cơ sở công nghiệp được xây dựng bên trong hoặc kế cận trại. Giầy, vớ dài và
các vật dụng khác của người tù được tái chế thành các sản phẩm phục vụ chiến tranh. Một
số tù nhân bị buộc làm công việc gom xác và thu hồi răng vàng từ các thi thể.
Người dân địa phương bị đuổi, trong đó có 1.200 người sống trong các lều xung quanh doanh trại, tạo ra một vùng trống trên 40 km 2, trong đó người Đức gọi là "khu vực quan tâm
của trại". 300 cư dân Do Thái Oświęcim được đưa vào để đặt nền móng. Từ 1940-1941
17.000 cư dân Ba Lan và người Do Thái của các huyện phía Tây của Oświęcim thị trấn, từ
những nơi tiếp giáp với Trại tập trung Auschwitz, đã bị trục xuất. Đức cũng đã ra lệnh trục
xuất từ các làng của Broszkowice, Babice, Brzezinka, Rajsko, Pławy, Harmęże và Budy.
Việc trục xuất người Ba Lan thường dân là một bước tiến tới thiết lập trại lãi Zone, được
thành lập để cô lập các trại từ thế giới bên ngoài và thực hiện các hoạt động kinh doanh để
đáp ứng nhu cầu của SS. Đức và Volksdeutsche định cư di chuyển vào một số tòa nhà có
dân số Do Thái đã bị trục xuất về các khu ổ chuột.
SS lựa chọn một số tù nhân, bọn tội phạm thường của Đức, như giám sát đặc biệt đặc
quyền của các tù nhân khác (được gọi là kapos ). Mặc dù tham gia vào nhiều tội ác, chỉ có
hai Kapos đã từng bị khởi tố về hành vi cá nhân của họ. Nhiều người coi là đã có nhiều lựa
chọn nhưng phải hành động như họ đã làm. Các lớp khác nhau của tù nhân đã phân biệt bởi
các dấu đặc biệt trên quần áo của họ, người Do Thái và các tù nhân chiến tranh của Liên Xô
đã được thường bị đối xử tồi tệ nhất. Tất cả các tù nhân phải làm việc trong các nhà máy vũ
khí liên quan, trừ chủ nhật. Yêu cầu công việc khắc nghiệt, kết hợp với dinh dưỡng và vệ
sinh, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao trong số các tù nhân.
Auschwitz là "nhà tù trong nhà tù", nơi người vi phạm nhiều quy định bị trừng phạt. Các tù nhân chỉ có diện tích khoảng 1,5 m 2, và bốn người đàn ông sẽ được đặt trong đó, họ
không thể làm gì, hoặc đứng hoặc bị buộc để làm việc với các tù nhân khác. Trong tầng hầm
là tù nhân; các tù nhân này chỉ có một cửa sổ rất nhỏ, và một cánh cửa vững chắc. Tù nhân
63
được đặt trong các tầng hầm này sẽ dần dần chết ngạt khi họ sử dụng hết tất cả lượng oxy
trong tầng hầm. Đôi khi các SS sẽ thắp một ngọn nến trong các tầng hầm để sử dụng hết ôxy
nhanh chóng hơn. Nhiều người đã bị treo với tay ra sau lưng nhiều giờ, thậm chí cả ngày, do
đó khớp vai của họ có thể bị tê liệt.
Xây dựng trên Auschwitz II-Birkenau, các trại diệt chủng, bắt đầu vào tháng 10 năm
1941 để giảm bớt tình trạng tắc nghẽn tại các trại chính. Nó lớn hơn những trại tập trung
Auschwitz I, và nhiều người đi qua cửa của mình hơn thông qua Auschwitz I. Nó được thiết
kế để giữ một số hạng mục của tù nhân, và hoạt động như một trại hủy diệt trong bối cảnh
chuẩn bị của Heinrich Himmler cho giải pháp cuối cùng của người Do Thái. Buồng khí đầu
tiên tại Birkenau là "The Little Red House", một ngôi nhà gạch chuyển đổi thành một cơ sở
thoát khí bằng cách đặt bên trong và lên các bức tường. Nó đã hoạt động vào tháng ba năm
1942. Một ngôi nhà gạch thứ hai, "The Little Nhà Trắng", được chuyển đổi tương tự như
một vài tuần sau đó.
Đầu năm 1943, Đức quốc xã đã quyết định tăng đáng kể khả năng thoát khí của
Birkenau. Hoả táng II, ban đầu được thiết kế như một nhà xác, với nhà xác trong tầng hầm
và trong lòng đất được chuyển đổi thành một nhà máy giết chết bằng cách đặt một cánh cửa
khí hướng về nhà xác và thêm lỗ thông hơi cho khí Zyklon-B vào. Nó đã đi vào hoạt động
vào tháng Ba. Hoả táng III được xây dựng bằng cách sử dụng thiết kế tương tự. Lò hỏa
táng IV và V, được thiết kế từ đầu như các trung tâm thoát khí, cũng được xây dựng sao cho
mùa xuân. Tháng 6 năm 1943 tất cả bốn lò hỏa táng được hoạt động. Hầu hết các nạn nhân
bị giết trong khoảng thời gian sau đó.
Tiếp đó Monowitz (còn gọi là Monowitz-Buna hoặc Auschwitz III), ban đầu được
thành lập như một phần của trại tập trung Auschwitz, đã trở thành một trong ba trại chính
trong hệ thống trại tập trung Auschwitz, với thêm 45 trại trong khu vực xung quanh. Nó
được đặt theo tên thị trấn Monowice (Đức, Monowitz) mà nó được xây dựng đã được nằm ở
phần phụ lục của Ba Lan . Trại được thành lập vào tháng 10 năm 1942 của SS theo lệnh của
IG Farben giám đốc điều hành để cung cấp lao động nô lệ cho họ Buna Werke (Buna trình)
cụm công nghiệp. Tên Buna bắt nguồn từ butadien cao su tổng hợp và dựa trên các ký hiệu
hóa học của natri, Na, sử dụng trong quá trình sản xuất cao su tổng hợp được phát triển ở
Đức. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp khác của Đức xây dựng nhà máy với subcamps riêng
của họ, chẳng hạn như Siemens-Schuckert 's Bobrek subcamp, gần Monowitz để trục lợi từ
64
việc sử dụng lao động nô lệ. Các nhà sản xuất vũ khí Đức Krupp , đứng đầu là thành viên
SS Alfried Krupp , cũng được xây dựng cơ sở sản xuất của họ gần Monowitz.
Monowitz được xây dựng như một Arbeitslager (trại lao động), nó cũng chứa một
"ArbeitsausbildungLager" ("Trại Lao động Giáo dục") cho các tù nhân không phải Do Thái
nhận thức không lên đến ngang bằng với tiêu chuẩn làm việc của Đức. Nó nắm giữ khoảng
12.000 tù nhân, phần lớn trong số họ là người Do Thái, nhưng cũng có bọn tội phạm không
phải Do Thái và tù nhân chính trị. Monowitz tù nhân đã được cho thuê bởi SS để IG Farben
lao động tại Buna Werke, một bộ sưu tập của nhà máy hóa chất bao gồm cả những người sử
dụng để sản xuất Buna ( cao su tổng hợp ) và dầu tổng hợp . SS tính IG Farben ba
reichsmarks (RM) mỗi giờ cho người lao động không có tay nghề, RM4 mỗi giờ cho công
nhân lành nghề và RM1 ½ cho trẻ em. Elie Wiesel , tác giả đoạt giải Pulitzer cuốn sách đêm
, một tù nhân vị thành niên tại Monowitz cùng với cha mình . Tuổi thọ trung bình của người
lao động của người Do Thái tại Buna Werke là 3-4 tháng, đối với những người làm việc
trong các mỏ xa trung tâm, chỉ có một tháng. Những người không thích hợp cho công việc
được coi là cung cấp nhiên liệu ở Birkenau hoặc gửi "đến Birkenau" (nach Birkenau), theo
một uyển ngữ được sử dụng trong IG Farben sách kỷ lục.
Fritz Lohner-Beda (tù nhân số 68.561) là một ca khúc viết lời nổi tiếng, người đã bị
sát hại trong Monowitz-Buna theo lệnh của một IG Farben điều hành, như người bạn của
ông Raymond van den Straaten làm chứng tại phiên tòa Nuremberg của 24 giám đốc điều
hành IG Farben:
Một ngày, hai Buna tù nhân, Tiến sĩ Raymond van den Straaten và Tiến sĩ Fritz
Lohner-Beda, đã đi về công việc của mình khi một bên của quý khách đến thăm IG Farben
chức sắc thông qua. Một trong những đạo chỉ tiến sĩ Lohner-Beda và nói với đồng SS của
mình, "Đây lợn của người Do Thái có thể làm việc nhanh hơn một chút." Giám đốc khác
thì tình cờ nhận xét: "Nếu họ không thể làm việc, cho họ chết trong phòng hơi ngạt". Sau
khi kiểm tra kết thúc, Tiến sĩ Lohner-Beda đã được kéo ra khỏi đảng làm việc và bị đánh
đập và đá cho đến khi, một người đàn ông chết, ông bị bỏ lại trong vòng tay của người bạn
tù của mình, kết thúc cuộc sống của mình trong IG Auschwitz. [73].
Có 45 trại vệ tinh nhỏ hơn, một số người trong số họ hàng chục cây số từ trại chính,
với dân số tù nhân khác nhau, từ vài chục đến vài ngàn, lớn nhất được xây dựng tại
Trzebinia , Blechhammer và Althammer. Subcamps của phụ nữ đã được xây dựng tại
Budy, Pławy , Zabrze , Gleiwitz I, II, III, Rajsko , và Lichtenwerden (nay Svetla). Các trại
65
vệ tinh được đặt tên là Aussenlager (trại bên ngoài), Nebenlager (mở rộng hoặc subcamp),
và Arbeitslager (trại lao động).
Do kích thước lớn và vai trò quan trọng trong các chương trình diệt chủng của Đức
Quốc xã, Trại tập trung Auschwitz bao phủ nhân viên từ các chi nhánh khác nhau của SS,
một số trong đó đã tổ chức chồng chéo và các khu vực chia sẻ trách nhiệm. Trong tất cả, đã
có hơn 7000 thành viên của SS được gán cho Auschwitz trong toàn bộ sự tồn tại của trại.
Cơ quan chỉ huy chung cho toàn bộ trại là văn phòng SS-Kinh tế chính, được gọi là
SS-Wirtschafts-Verwaltungshauptamt hoặc SS-WVHA. Trong WVHA, đó là Bộ D (các trại
tập trung thanh tra ) mà chỉ huy trực tiếp các hoạt động tại trại tập trung Auschwitz.
Các nhân viên chỉ huy của trại tập trung Auschwitz đều là thành viên của SS-
Totenkopfverbände , hoặc SS-TV. Do một nhân viên chỉ thị từ năm 1941 SS
Personalhauptamt , các thành viên của SS-TV cũng được coi là thành viên đầy đủ của lực
lượng Waffen-SS . Nhân viên như vậy đã được ủy quyền tiếp tục để hiển thị trưởng cổ áo vá
của cái chết, cho thấy thành viên đầy đủ trong cả SS-TV và Waffen-SS.
Các Gestapo cũng duy trì một văn phòng lớn ở Auschwitz, nhân viên của nhân viên
Gestapo mặc đồng phục và nhân viên. Auschwitz cũng duy trì một đội ngũ y tế, dẫn đầu
bởi Eduard Wirths , mà các bác sĩ và nhân viên y tế đến từ nguồn gốc khác nhau trong SS.
Khét tiếng Joseph Mengele, ví dụ, là một bác sĩ lĩnh vực chiến đấu trong lực lượng Waffen-
SS trước khi chuyển đến Auschwitz sau khi bị thương trong chiến đấu.
Để trại nội bộ là thuộc thẩm quyền của một nhóm SS, trả lời trực tiếp đến chỉ huy trại
thông qua cán bộ được biết đến với danh hiệu Lagerführer . Mỗi phòng trong số ba trại
chính ở Auschwitz đã được chỉ định một Lagerführer mà trả lời một số SS-hạ sĩ quan được
gọi là Rapportführers. Các Rapportführer chỉ huy nhiều người giám sát trật tự trong doanh
trại tù cá nhân. Giúp SS với nhiệm vụ này là một bộ sưu tập lớn của Kapos, những người tù
nhân được ủy thác. Nhân viên SS giao cho các phòng hơi ngạt là kỹ thuật thuộc cùng một
chuỗi các lệnh như trại nhân viên SS nội bộ khác, nhưng trong thực tế đã được tách riêng và
làm việc và sống tại địa phương trên trang web tại lò thiêu. Trong tất cả, thường là có bốn
nhân viên SS mỗi phòng hơi ngạt, do một hạ sĩ quan, người giám sát xung quanh một trăm
tù nhân Do Thái (được gọi là Sonderkommando) buộc phải hỗ trợ trong quá trình tiêu diệt.
Việc cung cấp thực tế của khí cho các nạn nhân đã được luôn luôn xử lý bởi các SS, điều
này đã được thực hiện bởi một đơn vị SS đặc biệt được gọi là "Phòng vệ sinh" mà sẽ lái xe
Zyklon B đến lò thiêu trong xe cứu thương và sau đó trống rỗng ống đựng vào khí buồng.
66
Ban vệ sinh được đặt dưới sự kiểm soát của các trại tập trung Auschwitz Quân đoàn y tế,
với Zyklon B đặt hàng và phân phối thông qua hệ thống cung cấp trại.
An ninh trại bên ngoài là thuộc thẩm quyền của một đơn vị SS được gọi là "Bộ đội
Tiểu đoàn", hoặc Wachbattalion. Những tháp canh bảo vệ người lái và tuần tra hàng rào
chu vi của trại. Trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như một cuộc nổi dậy của tù nhân,
Tiểu Đoàn Guard có thể được triển khai trong trại như nhu cầu phát sinh, một cảnh trong bộ
phim Khu xám mô tả Tiểu đoàn Guard vào và máy săn nhà hoả táng sau khi
Sonderkommando Do Thái nổi dậy chống lại các đội ngũ bình thường của các lính gác SS.
Khác nhau hành chính và cung cấp nhân viên SS cũng đã được giao cho Auschwitz,
thường là "ra khỏi con đường" của các hoạt động khủng khiếp hơn của trại, dựa ra khỏi cơ
quan hành chính lệnh trong trại chính của Auschwitz I. Oskar Gröning là một trong những
nổi tiếng Auschwitz nhân viên bán hàng, người đã xuất hiện trên một số tài liệu nói về cuộc
sống trong trại tập trung Auschwitz cho SS, và làm thế nào sống trong trại là trong thực tế,
một trải nghiệm thú vị. Auschwitz cũng duy trì một hồ bơi động cơ cũng như một kho vũ
khí mà từ đó tất cả các nhân viên SS sẽ rút vũ khí và đạn dược, mặc dù một số của SS đã
được biết đến để mua khẩu súng ngắn và súng lục của mình.
Ngoài các chỉ huy và kiểm soát thích hợp của Trại tập trung Auschwitz, trại tiếp tục
thường xuyên nhận được đơn đặt hàng, chỉ thị từ các cơ quan khác của SS và nhà nước Đức
Quốc xã. Hơn nữa, trại giảm dưới sự chỉ huy trực thuộc SS và cảnh sát trưởng của khu vực
và thường ban hành lệnh của SS-Reichssicherheitshauptamt hoặc RSHA, mà là một tổ chức
SS chính tham gia trong các chương trình diệt chủng. Reichsführer-SS Heinrich Himmler đã
được biết đến để ra lệnh cho các chỉ huy trại, bỏ qua tất cả các dây chuyền khác của lệnh, để
đáp ứng với chỉ thị của chính mình. Himmler cũng thỉnh thoảng nhận được hướng dẫn rộng
rãi của Adolf Hitler hoặc Hermann Göring , mà ông sẽ giải thích khi thấy phù hợp và
chuyển cho chỉ huy trại Auschwitz.
Tháng Bảy năm 1942, SS đã được tiến hành "lựa chọn," nổi tiếng trong đó người Do
Thái đến được chia thành những người coi là có thể làm việc, người được gửi sang bên phải
và được nhận vào trại, và những người đã được gửi đến bên trái và ngay lập tức cung cấp
nhiên liệu . Các tù nhân đã được vận chuyển từ khắp nơi trên Đức chiếm đóng châu Âu
bằng đường sắt, đến đoàn xe hàng ngày. SS buộc một dàn nhạc để chơi như các tù nhân
mới đi về phía "lựa chọn" của họ và có thể tiêu diệt, các nhạc sĩ có tỷ lệ tự tử cao nhất của
bất cứ ai trong các trại tập trung, bên cạnh Sonderkommandos . Các nhóm được lựa chọn để
67
chết, khoảng ba phần tư tổng số, bao gồm gần như tất cả trẻ em, phụ nữ có con, tất cả tất cả
người già, và những người xuất hiện trên kiểm tra ngắn gọn và hời hợt bởi một bác sĩ SS
không phải là hoàn toàn phù hợp. Auschwitz II-Birkenau tuyên bố nạn nhân nhiều hơn bất
kỳ trại hủy diệt khác của Đức, mặc dù đi vào sử dụng sau khi tất cả những người khác.
Sĩ quan SS nói với các nạn nhân họ đi tắm. Các nạn nhân sẽ cởi quần áo trong một căn
phòng bên ngoài và đi bộ vào phòng hơi ngạt, được ngụy trang như một cơ sở tắm, hoàn
thành với vòi hoa sen giả. Sau khi các cửa đều đóng kín, những người đàn ông SS sẽ đổ ở
dạng bột viên xyanua thông qua lỗ hổng trên mái nhà hoặc cửa sổ bên cạnh. Ở Auschwitz
II-Birkenau, hơn 20.000 người có thể được cung cấp nhiên liệu và hỏa táng mỗi ngày. Đức
quốc xã sử dụng xyanua khí sản xuất từ Zyklon B bột viên, sản xuất bởi hai công ty đã mua
lại quyền cấp phép cho các sáng chế của IG Farben . Mặc dù các bức tường bê tông dày của
các phòng hơi ngạt, la hét và rên rỉ từ bên trong có thể nghe thấy bên ngoài trong vòng 15
đến 20 phút. Trong một không nỗ lực để bóp nghẹt tiếng ồn, hai động cơ xe máy đã rồ ga
đến ga đầy đủ gần, nhưng những âm thanh la hét có thể nghe thấy trên các công cụ.
Sonderkommandos loại bỏ răng vàng từ xác chết của nạn nhân phòng hơi ngạt, vàng
đã được nấu chảy và thu SS. Các đồ dùng của các khách đã bị thu giữ bởi các SS và được
sắp xếp trong một khu vực của trại được gọi là "Canada," cái gọi là vì Canada được xem là
một vùng đất rất nhiều. Nhiều của SS tại trại phong phú mình bằng cách sự ăn că p vặt tài
sản bị tịch thu. ́
Khí phòng làm việc để phát huy tối đa khả năng của họ từ tháng Tư-tháng Bảy năm
1944, trong vụ thảm sát người Do Thái của Hungary . Hungary là một đồng minh của Đức
trong chiến tranh, nhưng nó đã chống lại người Do Thái của mình cho người Đức cho đến
khi Đức xâm lược tháng 3 năm 1944. Từ tháng tư đến 09 tháng 7 năm 1944, 475.000 người
Do Thái Hungary, một nửa dân số trước chiến tranh, bị trục xuất đến Auschwitz, với tốc độ
12.000 một ngày cho một phần đáng kể của thời kỳ đó. Khối lượng lớn đến nỗi SS viện đến
xác chết cháy trong hầm lò ngoài trời cũng như trong các lò hỏa táng.
Đối với hầu hết các tù nhân, một ngày trước khi bình minh bắt đầu (lúc 04:30 theo một
báo cáo; cách khác, vào lúc 3:00 sáng theo tiến sĩ Miklos Nyiszli , người vào trại Tháng
Năm, 1944) với tiếng trống đánh thức vào mỗi buổi sáng hoặc cuộc gọi, với 30 phút cho
phép vệ sinh cá nhân buổi sáng. [41].
Tiến sĩ Nyiszli mô tả điểm danh như kéo dài bốn tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 3:00, vào
thời điểm đó các tù nhân sau đó được lệnh phải xếp hàng bên ngoài trong hàng năm, và "sau
68
đó bắt đầu phần điểm danh", trong đó các nhân viên và lãnh đạo doanh trại gậy đánh các tù
nhân bằng nắm đấm khép kín, bố trí và sắp xếp lại chúng mà không có một lời giải thích
hợp lý , và phát minh ra lý do để làm những việc như vậy, trật tự toàn bộ doanh trại vẫn
ngồi xổm trong một giờ, tay giơ cao lên đầu, chân run rẩy với sự mệt mỏi và lạnh. Đối với
ngay cả trong mùa hè Auschwitz là lạnh, và ánh sáng của những người tù vải bố từng làm
bảo vệ rất ít chống lại mưa và lạnh ". Nyiszli tiếp tục: "Môn thể thao này tiếp tục trong vài
giờ", cho đến khi 7:00, khi các sĩ quan SS đến. Các sĩ quan SS tái kiểm tra và tính lại hàng
ngũ, ghi những con số trong máy tính xách tay của họ, và "Nếu có bất kỳ người chết trong
các doanh trại - và có chung năm hoặc sáu ngày, đôi khi như nhiều như mười - họ cũng có
phải có mặt để kiểm tra. Và không chỉ xuất hiện trong tên, nhưng chất hiện nay, đứng, trần
như nhộng, được hỗ trợ bởi hai tù nhân sống cho đến khi xứng đáng hơn. Đối với sống hay
đã chết, số lượng quy định của tù nhân phải có mặt và điểm danh".
Các tù nhân được lựa chọn để làm việc như Tiến sĩ Josef Mengele nhân viên y tế cấp
cao, tuy nhiên, đã được đưa ra quần áo dân sự, ngủ trong phòng y tế của mười hai "bệnh
viện" doanh trại, và tăng lên hiệu ke n đa nh thư c môi buổi sa ng lúc 7 giờ sáng cho một cuộc
́ ̀ ́
gọi mất "hai hoặc ba phút". Các tù nhân liệt giường cũng được tính”, cũng như các đêm ́ trước đó đã chết. Ở đây cũng vậy người chết được kéo dài ra bên cạnh cuộc sống." Những
tù nhân mất bữa ăn sáng trong phòng của họ.
Sau khi điểm danh, các Kommando , hoặc làm việc chi tiết, có thể đi bộ đến nơi làm
việc của họ, năm ngang nhau, mặc mệt mỏi sọc trại, không có đồ lót và giày gỗ mà không
vớ, hầu hết thời gian không vừa, gây đau đớn. Dàn nhạc của một tù nhân (chẳng hạn như
dàn nhạc nữ của Auschwitz ) đã buộc phải chơi âm nhạc vui vẻ kỳ quặc như các công nhân
đã tuần hành qua các cửa trong bước. Kapos -tù nhân đã được lên chức thợ cả, chịu trách
nhiệm về hành vi của những người tù trong khi họ làm việc, như là một hộ tống SS. Ngày
làm việc kéo dài 12 giờ trong mùa hè, và một chút ít trong mùa đông. Không có thời gian
nghỉ ngơi được phép.
Sau khi làm việc, đã có một buổi tối điểm danh bắt buộc. Nếu một tù nhân bị mất
tích, những người khác phải tiếp tục đứng ở vị trí cho đến khi ông đã tìm thấy một trong hai
hoặc lý do vắng mặt của mình phát hiện ra, ngay cả khi mất tới hàng giờ, không phụ thuộc
vào điều kiện thời tiết. Sau khi điểm danh, có những hình phạt cá nhân và tập thể, tùy thuộc
vào những gì đã xảy ra trong ngày, và sau đó, các tù nhân được phép lui về khối của họ vào
ban đêm để nhận khẩu phần bánh mì và nước. Lệnh giới nghiêm là hai hoặc ba giờ sau đó.
69
Các tù nhân ngủ trong hàng dài những chiếc giường bằng gỗ, nằm trong và trên quần áo và
giày của họ để ngăn chặn chúng không bị đánh cắp.
Theo Nyiszli, "Tám trăm đến một ngàn người bị nhồi nhét vào ngăn chồng của mỗi
doanh trại. Không thể căng ra hoàn toàn, họ phải ngủ có cả chiều dọc và chiều ngang, với
bàn chân của một người trên đầu, cổ, ngực của người khác. Tất cả phẩm giá con người, họ
xô đẩy và cắn và đá nhau trong một nỗ lực để có được không gian rộng hơn "trên đó để ngủ
nhiều hơn một chút thoải mái. Đối với họ không có thời gian để ngủ".
Bác sĩ người Đức thực hiện một loạt các thí nghiệm trên tù nhân tại trại tập trung
Auschwitz. Bác sĩ SS kiểm tra hiệu quả của X-quang như một khử trùng thiết bị bằng cách
quản lý liều lượng lớn cho các tù nhân nữ. Giáo sư Tiến sĩ Carl Clauberg tiêm hóa chất vào
tử cungphụ nữ. Bayer , sau đó là một công ty con của IG Farben , mua tù nhân để sử dụng
như chuột lang để thử nghiệm các loại thuốc mới.
Các bác sĩ nổi tiếng nhất ở Auschwitz là Josef Mengele , được gọi là "Angel of
Death". Đặc biệt quan tâm nghiên cứu về cặp song sinh giống hệt nhau , Mengele đã thực
hiện thí nghiệm tàn ác trên họ, chẳng hạn như gây bệnh trong một đôi và giết chết khác khi
lần đầu tiên đã chết để thực hiện so sánh khám nghiệm tử thi . Ông cũng có mối quan tâm
đặc biệt trong sao lùn, và ông cố tình gây ra hoại tử trong cặp sinh đôi, sao lùn và các tù
nhân khác để nghiên cứu ảnh hưởng. [33, tr.220].
Mặc dù bọn Quốc xã cố tình bưng bít sự tồn tại của các trại thủ tiêu người, nhưng tin
đồn và những báo cáo của một số nhân chứng mục kích được tội ác đã dần dần lọt ra ngoài,
nhất là khi những cuộc xử bắn hàng loạt diễn ra tại các vùng của Liên Xô bị bọn Đức chiếm
đóng.
Nhưng cả Bộ Ngoại giao Mỹ lẫn Anh đều không có hành động nào chống lại sự hủy
diệt người Do Thái. Mãi đến tháng 11/1943, Quốc hội Mỹ mới tổ chức các cuộc điều trần về
tình trạng hoàn toàn thiếu hoạt động của Bộ Ngoại giao Mỹ trước cảnh ngộ bi thảm của
người Do Thái.
Trước sức ép chính trị ngày một tăng, tháng 1/1944, Tổng thống F. Roosevelt đã cho
thành lập Ban Di tản chiến tranh (WRB) nhằm giúp những nước trung lập cứu thoát người
Do Thái. WRB đã giúp cứu sống được 20 vạn người Do Thái nhờ hành động dũng cảm của
một nhà ngoại giao Thụy Sĩ, tên là Raoul Wallenberg, làm việc tại các vùng bị chiếm đóng.
70
Tháng 4/1944, hai tù nhân Do Thái đã trốn khỏi trại Auschwitz và tháng 6/1944 đã
được chuyển đến Vantican để báo cáo tình hình với Giáo hoàng Pius XII, nhưng Giáo hoàng
vẫn im lặng và không hề công khai lên án tội ác của bọn phát xít.
Tháng 7/1944, để lừa bịp dư luận, bọn Quốc xã đã mời một phái đoàn Hồng thập tự
quốc tế đến thăm trại giam giữ người Do Thái tại Theresienstadr, Tiệp Khắc. Phái đoàn này
đã thấy tại đó các ngân hàng, cửa hàng, cửa tiệm café, các lớp học được vội vã dựng lên
hoặc được tân trang, sửa chữa thậm chí còn có cả một chương trình âm nhạc do trẻ em trình
diễn. Nhưng sau khi đoàn Hồng thập tự ra về, phần lớn người dân ở đây, kể cả trẻ em, đã bị
bọn chúng thủ tiêu bằng hơi ngạt.
Tại các trại tập trung, một số cuộc nổi dậy đập phá các lò thiêu người , giết chết bọn
SS do chính người Do Thái và các tù binh Liên Xô thực hiện, tuy đã gây được tiếng vang,
nhưng đã không thành công trọn vẹn.
Nhìn chung, ở khắp châu Âu, dân chúng có thái độ thụ động trước cảnh tượng các gia
đình Do Thái bị đưa lên các đoàn tàu tới các trại tập trung. Chỉ có tại Đan Mạch là đã cứu
thoát được toàn bộ 7.000 cư dân Do Thái tại nước này bằng cách đưa họ lên tàu biển tới nơi
an toàn. [12, tr.23]
Năm 1944, quân đội Hitler liên tiếp bại trận, nhưng việc giết hại vẫn được tiếp tục. Từ
tháng 5 đến tháng 7/1944, dưới sự chỉ đạo của Adolf Eichman, trung tá SS, 430.000 người
Do Thái ở Hunggari đã bị đày ải tới Auschwitz. Trong thời gian này, tại Auschwitz, số
người bị giết và bị thiêu đốt mỗi ngày vẫn lên tới trên 900.
Ngày 24/7/1944, quân đội Xô viết giải phóng trại tập trung đầu tiên tại Majdanek ở
miền Đông Ba Lan, nơi trên 360.000 người đã bị giết hại. Khi Hồng quân tiến gần tới
Auschwitz, Himmler ra lệnh phá hủy toàn bộ các phòng hơi ngạt và buộc 60.000 người
đang bị giam rời khỏi nơi này. Trên đường đi, họ bị bỏ chết dọc đường vì kiệt sức hoặc bị
bọn SS bắn chết vì không theo kịp đoàn tù. Khi Hồng quân đến Auschwitz vào ngày
27/1/1945, ước tính đã có 1.500.000 người Do Thái, 500.000 tù binh Ba Lan, Liên Xô và
người Digân đã bị chết ở đây.
Mùa xuân năm 1945, quân đồng minh phương Tây cũng tiến vào nước Đức, giải phóng
các trại Buchenwald, Bergen-Belsen và Dachau.
Ngày 30/4/1945, bị Hồng quân bao vây tại Berlin, Hitler đã tự sát và nước Đức Quốc
xã đã nhanh chóng sụp đổ. Đến thời điểm ấy, phần lớn người Do Thái ở châu Âu đã bị giết
hại, trong đó 4 triệu người đã bị chết vì hơi độc, 2 triệu bị bắn chết hoặc chết vì đói khổ
71
trong các khu biệt cư. 7 tháng sau, vụ xử tội phạm chiến tranh đã được khởi sự tại
Nuremberg, Đức, với 22 tên đầu sỏ Quốc xã còn sống đã bị kết tội chống lại nhân loại.
Hans Frank, cựu toàn quyền Quốc xã tại Ba Lan, đã tuyên bố tại phiên tòa, với thái độ
ăn năn, rằng:“Hàng ngàn năm sẽ qua đi, nhưng tội lỗi của nước Đức sẽ không thể xóa bỏ”.
[12, tr.23].
3.2. Nỗ lực giải cứu và phong trào kháng chiến
Nếu trận bão lửa Holocaust khiến cho người ta bộc lộ bản chất xấu xa nhất thì nó cũng
làm cho người ta bộc lộ những điều tốt đẹp nhất. Không phải tất cả người Đức đều là những
kẻ phân biệt chủng tộc và những kẻ sát nhân. Một số người, giống như Hoa Hồng trắng,
không chịu nghe theo những lời dối trá của Hitler và liều mạng để giúp đỡ những nạn nhân
của hắn.
Trong số đó có Oskar Schindler, một chủ nhà máy giàu có, người đã không đương đầu
với mọi thứ để giúp đỡ những người không nơi nương tựa. Sau khi Ba Lan bị xâm chiếm,
Schindler đã xây dựng một nhà máy cơ khí tại thành phố Cracow, trong đó có những nô lệ
người Do Thái làm việc. Trong nhà máy của ông, không ai bị đánh đập, bị giết mà được đối
xử bằng sự tôn trọng và sự nhã nhặn. Trong suốt những cuộc vây bắt của quân SS, “người
Do Thái của Schindler” vẫn an toàn.
Oskar Schindler đã làm nên những điều kì diệu. Nhã nhặn và hào phóng, ông rất dễ kết
bạn. Những người “bạn” tốt nhất của ông là những sĩ quan quân đội cấp cao và những tướng
của cơ quan mật vụ, những người luôn được ông đón chào tại nhà và được trao những món
quà có giá trị. Họ thích “Oskar của chúng ta” và giúp đỡ ông rất nhiều. Oskar đã dùng tình
bạn đó để cứu được hơn 1.000 người Do Thái. Họ ẩn náu trong nhà máy của ông trong suốt
những cuộc vây bắt. Nhà máy của ông không bao giờ bị lục soát là nhờ vào những người
“bạn” có thế lực của ông.
Oskar Schindler thậm chí đã cứu những người Do Thái thoát khỏi những chuyến tàu
chết người. Biết rằng có một số công nhân của mình bị bắt trên đường, ông đã tới ga xe lửa.
Khi những người Do Thái bị lùa vào những toa hàng, ông đã hỏi một trung úy SS về những
công nhân của mình. Tên trung úy đã không chịu
thả họ.
Oskar Schindler đã giải thích một cách lịch sự ông là ai và nói tên những người bạn
của mình. Tên trung úy lắc đầu và nói rằng hắn phải thi hành mệnh lệnh và những người Do
72
Thái đó phải đi. “Tôi có thể biết tên anh không?” Oskar Schindler vừa nói vẻ dọa nạt vừa
rút một quyển sổ từ túi ra. Sau đó, hạ thấp giọng, ông nói chuyện như một người đàn ông
với một người đàn ông, rằng: “Tôi tin là tôi có thể đảm bảo với anh rằng anh sẽ được ở Nga
trong vòng một tuần nữa”. Vào năm 1942, Nga có nghĩa là Stalingrad. Những công nhân Do
Thái của Oskar Schindler đã được thả ngay tại chỗ. [33, tr.221-222].
Đã xảy ra tình huống mà toàn thể một quốc gia đứng lên chống lại lệnh trục xuất dân
Do Thái. Trong tháng 10 năm 1943, Vua Christian X của Đan Mạch và thần dân đã cứu
mạng gần 7.500 người Do Thái sinh sống ở Đan Mạch bằng cách lén lút đưa họ đến Thụy
Điển bằng những thuyền đánh cá. Hơn nữa, chính quyền Đan Mạch tiếp tục hành động để
bảo vệ những người Do Thái tại Đan Mạch bị Chính phủ Đức Quốc Xã giam giữ. Khi
những người tù Do Thái trở về sau chiến tranh, họ thấy nhà cửa và tài sản còn nguyên vẹn
như lúc họ bị bắt.
Tại Bulgaria, chính quyền đồng minh với chính phủ Đức Quốc Xã dưới quyền lãnh
đạo của Bogdan Filov, sau khi nhượng bộ trước áp lực của phó chủ tịch quốc hội Dimitar
Peshev và Giáo hội Chính Thống Bulgaria, đã cứu mạng 50.000 công dân gốc Do Thái vì
không chịu trục xuất họ. Chính quyền Phần Lan nhiều lần từ chối các yêu cầu của Đức trục
xuất người Do Thái tại Phần Lan đến Đức. Tương tự, phần lớn những yêu cầu trục xuất
người Do Thái khỏi Na Uy cũng bị khước từ. Tại Roma, khoảng 4.000 người Do Thái và tù
binh tránh khỏi bị trục xuất. Nhiều người được giấu trong những căn nhà an toàn và được
đưa ra khỏi nước Ý bởi một nhóm kháng chiến của một linh mục người Ireland, Monsignor
Hugh O’Flaherty thuộc Tòa Thánh. Một lần, một đại sứ của Vatican tại Ai Cập đã sử dụng
những mối quan hệ chính trị để bảo đảm chỗ trú ẩn cho những người Do Thái bị tước đoạt
tài sản.
Aristides de Sousa Mendes, một nhà ngoại giao Bồ Đào Nha, đã cấp hộ chiếu cho
khoảng 30.000 người Do Thái và các nhóm thiểu số khác tại Âu châu. Ông cứu nhiều mạng
người nhưng phải hi sinh sự nghiệp chính trị của mình. Năm 1941, nhà độc tài Salazar buộc
ông từ chức. Năm 1954, Sousa Mendes chết trong nghèo đói.
Tháng 4 năm 1943, một vài kháng chiến quân Bỉ chặn một đoàn tàu đang đến
Auschwitz và giải thoát 231 người (115 người trong số này thoát khỏi cuộc thảm sát).
Một số thị trấn và nhà thờ đã giúp che giấu người Do Thái và bảo vệ những người khác
khỏi cuộc thảm sát, như trường hợp nhà thờ của Mục sư Andre Trocmé tại thị trấn Le
Chambon-sur-Lignon, Pháp, đã che giấu 3.000 đến 5.000 người Do Thái. Trong thời kỳ La
73
Mã bị chiếm đóng, Giáo hoàng Pius XII đã giúp che giấu nhiều người Ý gốc Do Thái trong
các tu viện; có đến 1.000 người Do Thái ẩn náu tại Lâu đài Mùa hè Castel Gandolfo của
giáo hoàng. Nhiều cá nhân và gia đình trên khắp châu Âu cũng tìm cách cứu giúp các nạn
nhân, như trong trường hợp của Anne Frank, thường họ phải bị liên lụy và chịu nguy hiểm
vì hành động này.
Có những nhà ngoại giao và những người có nhiều ảnh hưởng, như Oskar Schindler
hoặc Nicholas Winton, đã bảo vệ được nhiều người Do Thái. Nhà ngoại giao Thụy Điển
Raoul Wallenberg, Giorgio Perlasca người Ý, nhà ngoại giao Trung Hoa Hà Phượng San và
những người khác đã cứu mạng hàng ngàn người Do Thái bằng những hộ chiếu ngoại giao
giả mạo. Tương tự, Sugihara Chiune đã cấp hộ chiếu Nhật Bản cho hàng ngàn người Do
Thái bất kể lập trường đồng minh với Quốc Xã của chính quyền Nhật.
Có những nhóm như tổ chức Żegota của Ba Lan đã tiến hành những hoạt động táo bạo
và ngoạn mục nhằm giải cứu người Do Thái và các nạn nhân khác khỏi tay Quốc Xã.
Witold Pilecki, thành viên của Armia Krajowa, từ năm 1940 đã tổ chức một phong trào
kháng chiến bên trong trại tập trung Auschwitz.
Từ năm 1963, một ủy ban, đứng đầu là một thẩm phán Tối cao Pháp viện Israel, được
giao nhiệm vụ ban tặng những người này danh hiệu Righteous Among the Nations.
Tuy nhiên, người Do Thái phải dựa vào chính bản thân mình là chính. Những người có
thể làm như vậy tiếp tục trốn thoát khỏi những cuộc truy lung đẫm máu của Hitler. Điều đó
không dễ. Một số người có thể đút lót cho những người nông dân để cho họ ở trong những
căn hầm đào dưới kho lúa hoặc chuồng gia súc. Cuộc sống với những người bị truy bắt này
trở thành cơn ác mộng của nỗi sợ hãi. Chấy rận và bùn nhơ trong một cái lỗ tối đầy mùi hôi
hám.
Ở các thị trấn, người Do Thái trở thành “tàu ngầm” họ có thể ẩn náu ở bất cứ nơi đâu
họ thấy an toàn. Một trong số đó là Anne Frank, một cô bé 13 tuổi., cô đã ẩn náu trong một
căn phòng bí mật trên một nhà kho ở Amsterdam, Hà Lan. Anne cùng với cha mẹ và một số
người bạn của cô đã sống ở những nơi chật hẹp này trong hai năm với đầy nỗi sợ hãi.
Là một cô bé nhạy cảm, Anne đã viết một cuốn nhật ký, ghi lại những suy nghĩ và tình
cảm của mình. Mặc dù gặp khó khăn, cô bé vẫn không dám mất niềm tin vào lòng tốt của
con người và vào cuộc sống. Cuối cùng, cô viết: “Bất chấp mọi thứ, tôi vẫn tin rằng con
người vẫn có trái tim nhân hậu. Tôi chỉ đơn giản không tạo dựng được niềm hi vọng vào
74
một nền tảng đầy sự hỗn độn, đau khổ và cái chết…chắc chắn một ngày nào đó chúng ta lại
trở lại là người, mà không chỉ là người Do Thái”.
Ngày đó đã đến với Anne Frank. Gia đình cô bị giết hại và cô bị đưa đến trại tập trung
và đã chết ở đó. [33, tr.222-223].
Phần lớn người Do Thái không chống lại mà đi đến cái chết không hề kháng cự.
Nguyên nhân của điều này không phải là sự hèn nhát hay ngu dốt. Khác xa với những điều
đó. Như bất kỳ ai, người Do Thái rất yêu cuộc sống, cuộc sống trong tín ngưỡng của họ là
rất thiêng liêng. Thời gian duy nhất mà người Do Thái nghĩ là vào ngày chủ nhật là để giữ
gìn cho cuộc sống.
Nhưng họ cũng yêu gia đình họ. Mối quan hệ gia đình của người Do Thái rất chặt chẽ.
Một người trẻ và khỏe mạnh không thể bỏ rơi vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ hay ông bà để
cứu chính mình. Vì vậy, họ thường chết với cả gia đình.
Còn một số nguyên nhân khác nữa. Âm mưu của Hitler xấu xa đến nỗi mà người Do
Thái không thể tưởng tượng được một tội ác như thế có thể xảy ra. Từ trước tới giờ chưa có
điều nào như thế xảy ra. Là những con người trong sáng, họ nghĩ rằng người Đức sẽ hành
động theo ý họ muốn. Trong nỗ lực chiến tranh của Đức, người Do Thái là những công
nhân thậm chí là những nô lệ. Việc giết hại nhiều người hữu ích như thế không có nghĩa gì
trong việc làm giảm đi nỗ lực đó. Chỉ sau này, khi đã quá muộn, họ mới hiểu ra rằng Hitler
muốn họ phải chết bằng bất kỳ giá nào.
Tuy nhiên, một số người Do Thái đã chiến đấu lại một cách riêng lẻ hoặc như những
thành viên của phong trào kháng chiến. Họ chiến đấu để trả thù và cho lòng tự trọng hơn là
để giữ gìn tính mạng.
Những tên lính mật vụ hỏi một người Do Thái trước khi bị treo cổ: “Tại sao mày lại
giết một người Đức?” Anh ta trả lời: “Tao căm thù bọn mày. Tao tiếc rằng tao mới chỉ giết
được một tên người Đức. Tao đã chứng kiến tận mắt cảnh bố mẹ tao bị giết. Tao đã chứng
kiến tận mắt cảnh chúng mày giết hại hàng nghìn người Do Thái”. Sau đó anh ta hét lên:
“Đả đảo Hitler!” và nhổ vào mặt tên treo cổ.
Người Do Thái đã trốn thoát khỏi những trại giam người đó và gia nhập đội quân du
kích ở trong rừng của Ba Lan và Nga. Phong trào kháng chiến đã lan rộng đến cả những trại
giết người. Ở Treblinkar và Seberia, những nô lệ Do Thái đã tấn công những tên lính gác
bằng công cụ và tay không. Một số người đã trốn vào rừng, một số khác bị giết. Ở
Auschwitz, người Do Thái với những khẩu súng và những quả lựu đạn cướp được, đã giết
75
một số tên lính gác và làm nổ tung một trong số những lò thiêu cuộc bạo loạn đã bị dìm
trong bể máu.
Cuộc nổi dậy nổi tiếng nhất xảy ra ở trại người Do Thái ở Vacsava. Khi tên treo người
Heydrich vây khu người Do Thái vào năm 1940 thì nửa triệu người Do Thái bị dồn đến đó
từ khắp nơi trên đất nước Ba Lan; chính những người Do Thái này đã phải trả tiền cho việc
xây dựng những bức tường vây kín họ.
Trong suốt những năm sau, hàng nghìn người bị bắt mỗi tháng và bị đưa đến
Treblinkar. Bệnh tật và đói rét đã cướp đi sinh mạng hàng trăm người khác mỗi ngày. Trẻ
em đã quen với việc nhìn thấy xác người chết trên đường phố đến nỗi mà chúng còn cù
những xác chết đó để xem họ còn cử động không. Một bé gái tên là Marth đã viết một bài
thơ về cuộc sống của em ở trại Vacsava:
“Em phải giữ gìn những ngày này
(Em không có tiền để giữ gìn)
Em phải giữ gìn sức khỏe và sức lực,
Đủ để cho em sống lâu hơn…
Em phải ngăn dòng nước mắt
Em sẽ phải cần nước mắt trong một thời gian dài nữa.
Em phải chịu đựng qua những ngày going bão này.
Có quá nhiều điều em cần trong cuộc sống:
Cảm giác ấm áp và một trái tim nhân hậu-
Em thiếu những thứ đó trong những thứ mà em phải giữ gìn?
Tất cả những thứ này, những món quà của Chúa,
Em ước ao có được
Em sẽ buồn biết bao
Nếu em đánh mất chung”. [33, tr.225-226].
Tháng 7-1942, khi những cỗ xe thiết giáp tiến vào Stalingrad, khoảng 1.000 người đã
thành lập tổ chức chiến đấu vì người Do Thái. Họ trốn khỏi những khu trại bằng đường ống
cống nước để mua vũ khí từ những người buôn lậu Ba Lan. Họ đã có được một số súng
ngắn, súng trường và lựu đạn. Với số người còn lại, vũ khí của họ và những câu lạc bộ,
những li cốc- tai Môlotôp, những chai axit và tay không.
Những người Do Thái ở những khu trại này biết rằng họ sẽ chết. Không gì có thể cứu
được họ. Nhưng những chiến binh Do Thái kiên quyết giết càng nhiều bọn Đức Quốc xã
76
càng tốt trước khi chết. Cho đến mùa xuân năm 1943, quân Đức đã tiêu diệt gần hết số trại
này, khi chỉ còn 56.000 người Do Thái, vẫn ở bên trong. Ngay sau đó, bọn Đức Quốc xã đã
tự hào mà “khoe” rằng: Vacsava sẽ “không còn bọn Do Thái nữa”.
Ngày 19/4/1943, là ngày đầu tiên của lễ “Quá hải” ngày lễ tưởng nhớ đến sự thoát khỏi
cảnh nô lệ ở Ai Cập trong thời kỳ Kinh thánh. Đó là một ngày lễ tự do và trong ngày đó, tổ
chức chiến đấu vì người Do Thái đã bất ngờ tấn công. Những tên lính tuần tra của Đức đã
trúng hàng loạt viên đạn và bom dầu. Một số tên bị chết và một số khác đã bỏ chạy để giữ
mạng sống.
Chúng đã chạy! Lần đầu tiên người Do Thái nhìn thấy bọn lính SS phải bỏ chạy trước
họ.
Phong trào kháng chiến này kéo dài 28 ngày. Người ta ít khi đánh nhau trong thế
không cân bằng như thế. Những người Do Thái, những chiến binh không được huấn luyện
quân sự và sức khỏe yếu vì đói, đã chiến đấu với bọn SS. Tướng Juergen Stroop của quân
SS đã đưa lực lượng của mình vào trận chiến. Những đội quân được trang bị thuốc nổ và
súng phun lửa đã đốt cháy từng nhà một. Máy bay, xe tăng và pháo đã nã vào khu trại người
Do Thái. Hàng đội thanh niên Hitler được đưa đến đặc biệt từ Đức rất thích thú với việc truy
lùng người Do Thái. Họ đi lang thang trên những con phố bị cháy, sẵn sang bắn chết bất cứ
người Do Thái nào.
Thỉnh thoảng họ cũng gặp một số trường hợp vượt quá sự mong đợi của họ. Tướng
Stroop đã báo cáo công việc tiến hành của mình về Béclin mỗi ngày và đã bất ngờ khi người
Do Thái thà bị thiêu sống còn hơn bắt họ chờ cho lính Đức khám xét họ, họ mở hết lựu đạn
lấy ra từ bên trong người và làm nổ tung họ và tên lính đó.
Ngày 16/5, Stroop đã gửi bản báo cáo cuối cùng: “Trại người Do Thái ở Vacsava
không còn nữa”. Những người trong đó hoặc là đã chết hoặc là sẽ bị giết ở Treblinka.
Những tòa nhà ở đó đã bị san bằng.
Nhưng họ vẫn sống mãi trong trí nhớ mọi người. Người Do Thái chưa bao giờ quên
cuộc nổi dậy ở Vacsava. Hàng năm, trong suốt những ngày lễ Quá hải, họ tưởng nhớ về nó
trong những lời cầu nguyện, cùng với việc rời khỏi Ai Cập.
Cho đến năm 1945, có khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết trong những cuộc tàn
sát, là nạn nhân của sự ngu dốt và lòng hận thù sắc tộc. Adolf Hitler đã thực hiện được lời
đe dọa của mình. Chỉ có một điều khiến hắn phải nuối tiếc là hắn đã không thể hoàn thành
nhiệm vụ của mình trước khi thời của hắn chấm dứt.
77
[33, tr.226-228].
Sự đàn áp và giết người hàng loạt của chính phủ Đức Quốc xã thúc đẩy sức đề kháng
của những người bị đàn áp ở Đức trong Đế chế thứ ba và trên khắp các nước ở châu Âu bị
chiếm đóng. Mặc dù người Do Thái là nạn nhân chính của Đức quốc xã, họ cũng chống lại
sự đàn áp của Đức Quốc xã trong nhiều cách khác nhau, cả tập thể và cá nhân.
Tổ chức kháng chiến vũ trang là hình thức mạnh mẽ nhất của người Do Thái phản đối
các chính sách của Đức Quốc xã những nơi Đức chiếm đóng ở châu Âu. Thường dân Do
Thái được cung cấp kháng chiến vũ trang trong hơn 100 khu nhà ổ chuột trong chiếm đóng
Ba Lan và Liên Xô. Vào tháng Tư-tháng năm 1943, người Do Thái ở khu ổ chuột Warsaw
tăng trong cuộc nổi dậy vũ trang sau khi tin đồn rằng Đức sẽ trục xuất các cư dân khu ổ
chuột còn lại cho trung tâm giết Treblinka. Khi các lực lượng SS và các đơn vị cảnh sát
bước vào khu ổ chuột, các thành viên của Tổ chức chiến đấu của người Do Thái (Zydowska
Organizacja Bojowa; ZOB) và các nhóm Do Thái khác tấn công xe tăng Đức với chai xăng,
lựu đạn, và một số vũ khí hạng nhẹ. Mặc dù người Đức, bị sốc bởi sự tàn khốc của kháng
chiến, đã có thể kết thúc chiến tranh lớn trong vòng vài ngày, nó đã cho các lực lượng cấp
trên của Đức gần một tháng trước khi họ có thể hoàn toàn bình định các khu ổ chuột và trục
xuất hầu như tất cả các cư dân còn lại . Trong nhiều tháng sau khi kết thúc các khu ổ chuột
nổi dậy Warsaw, đối kháng cá nhân của người Do Thái tiếp tục ẩn trong đống đổ nát của các
khu ổ chuột, trong đó SS và các đơn vị cảnh sát tuần tra ngăn chặn cuộc tấn công vào nhân
viên của Đức.
Trong cùng năm đó, cư dân khu ổ chuột tăng so với Đức ở Vilna (Vilnius), Bialystok ,
và một số khu nhà ổ chuột khác. Khi phần lớn các cư dân khu ổ chuột đã bị trục xuất đến
các trung tâm giết chết, và cũng trong sự hiểu biết rằng sức đề kháng của họ ngay cả bây giờ
không thể cứu khỏi sự hủy diệt người Do Thái còn lại người không thể chiến đấu. Nhưng
họ đã chiến đấu vì lợi ích của danh dự của người Do Thái và để trả thù cho việc giết hại rất
nhiều người Do Thái.
Hàng ngàn người Do Thái chống lại bằng cách thoát khỏi khu nhà ổ chuột vào rừng.
Ở đó, họ gia nhập các đơn vị du kích của Liên Xô hoặc hình thành các đơn vị đảng phái
riêng biệt để quấy rối những kẻ chiếm đóng của Đức. Mặc dù nhiều hội đồng Do Thái
(Judenrat) thành viên hợp tác dưới sức ép với người Đức cho đến khi bản thân họ bị trục
xuất, một số, chẳng hạn như người Do Thái đồng chủ tịch Moshe Jaffe ở Minsk, chống lại
78
bằng cách từ chối thực hiện khi Đức ra lệnh cho ông để bàn giao cho người Do Thái bị trục
xuất trong tháng Bảy năm 1942.
Tù nhân Do Thái tăng lên so với nhân viên của họ tại ba trung tâm trại. Ở Treblinka
trong tháng 8 năm 1943 và Sobibor trong tháng 10 năm 1943, các tù nhân được trang bị vũ
khí bị đánh cắp tấn công các nhân viên SS và bảo vệ phụ trợ Trawniki được đào tạo. Đức
và phụ trợ của họ đã giết chết hầu hết các phiến quân, hoặc trong cuộc nổi dậy hoặc sau đó,
sau khi săn lùng những người trốn thoát. Vài chục tù nhân lảng tránh sự đeo bám của họ và
sống sót chiến tranh, tuy nhiên. Trong tháng 10 năm 1944, tại trại tập trung Auschwitz-
Birkenau, các thành viên của Biệt đội đặc biệt của người Do Thái (Sonderkommando) nổi
loạn chống lại lính SS. Gần 250 người chết trong chiến đấu; lính SS bắn 200 khác sau khi
cuộc binh biến đã bị đàn áp. Vài ngày sau đó, SS xác định năm người phụ nữ, bốn người Do
Thái, người đã tham gia trong việc cung cấp các thành viên của Sonderkommando thuốc nổ
để nổ tung một lò hoả thiêu. Tất cả năm người phụ nữ đã bị giết.
Ở nhiều quốc gia bị chiếm đóng bởi Đức hoặc liên minh với Đức, sức đề kháng của
người Do Thái thường lấy hình thức viện trợ và cứu hộ. Chính quyền Do Thái ở Palestine
gửi bí mật nhảy dù như Hannah Szenes vào Hungary và Slovakia vào năm 1944 để cung cấp
cho bất cứ điều gì giúp họ có thể cho người Do Thái lẩn trốn. Tại Pháp, các yếu tố khác
nhau của người Do Thái dưới lòng đất hợp nhất để hình thành các nhóm kháng chiến khác
nhau, bao gồm cả Armée Juive (Do Thái quân đội) mà hoạt động ở miền Nam nước Pháp.
Nhiều người Do Thái đã chiến đấu như các thành viên của phong trào kháng chiến quốc gia
Bỉ, Pháp, Ý, Ba Lan, Nam Tư, Hy Lạp, và Slovakia.
Người Do Thái trong các khu nhà ổ chuột và các trại cũng phản ứng lại sự áp bức của
Đức Quốc xã với các hình thức kháng chiến tinh thần . Họ đã cố gắng có ý thức để bảo tồn
lịch sử và đời sống cộng đồng của người Do Thái bất chấp nỗ lực của Đức Quốc xã để tiêu
diệt người Do Thái từ bộ nhớ của con người. Những nỗ lực này bao gồm: lập các tổ chức
văn hóa của người Do Thái, tiếp tục quan sát ngày lễ tôn giáo và nghi thức, cung cấp giáo
dục bí mật, xuất bản báo chí chui, và thu thập và cất giấu tài liệu, như trong trường hợp của
Oneg Shabbat lưu trữ ở Warsaw rằng sẽ kể lại câu chuyện của người Do Thái trong các khu
ổ chuột Warsaw, mặc dù nó bị phá hủy vào năm 1943.
Giữa năm 1941 và năm 1943, phong trào kháng chiến bí mật phát triển trong khoảng
100 khu nhà ổ chuột trong Đức Quốc xã chiếm đóng Đông Âu (khoảng một phần tư của tất
cả các khu nhà ổ chuột), đặc biệt là ở Ba Lan, Lithuania, Belarus và Ukraine. Mục tiêu
79
chính của họ là để tổ chức các cuộc nổi dậy, thoát ra khỏi các khu nhà ổ chuột, và tham gia
các đơn vị đảng phái trong cuộc chiến chống lại Đức.
Người Do Thái biết rằng cuộc nổi dậy sẽ không ngăn chặn người Đức và chỉ có một
số ít các máy bay chiến đấu sẽ thành công trong việc thoát khỏi tham gia du kích. Tuy
nhiên, một số người Do Thái đã quyết định chống lại. Vũ khí được buôn lậu vào khu nhà ổ
chuột. Cư dân trong các khu nhà ổ chuột của Vilna, Mir, Lachva ( Lachwa ), Kremenets,
Czestochowa, Nesvizh, Sosnowiec, và Tarnow, trong số những người khác, chống lại với
lực lượng khi người Đức bắt đầu trục xuất người dân khu ổ chuột. Trong Bialystok, công
trình ngầm tổ chức một cuộc nổi dậy ngay trước khi hủy diệt cuối cùng của các khu ổ chuột
trong tháng 9 năm 1943. Hầu hết các máy bay chiến đấu khu ổ chuột, chủ yếu là thanh niên
và phụ nữ, đã chết trong cuộc chiến.
Cuộc nổi dậy của các khu ổ chuột ở Warsaw vào mùa xuân năm 1943 là cuộc nổi dậy
lớn nhất của người Do Thái. Hàng trăm người Do Thái chiến đấu với Đức và phụ trợ của họ
trong các đường phố của khu ổ chuột. Hàng ngàn người Do Thái từ chối chấp hành mệnh
lệnh của Đức để báo cáo đến một điểm lắp ráp cho trục xuất. Cuối cùng Đức quốc xã đốt
cháy khu ổ chuột xuống dưới cả lòng đất để buộc người Do Thái ra. Mặc dù họ biết thất bại
chắc chắn, người Do Thái trong các khu ổ chuột đã chiến đấu một cách tuyệt vọng và dũng
cảm.
Theo các điều kiện bất lợi nhất, tù nhân Do Thái đã thành công trong việc khởi xướng
sức đề kháng và cuộc nổi dậy ở một số trại Nazi. Số công nhân Do Thái còn sống sót phát
động cuộc nổi dậy ngay cả trong các trại hủy diệt của Treblinka, Sobibor, và Auschwitz-
Birkenau. Khoảng 1.000 tù nhân Do Thái tham gia trong các cuộc nổi dậy ở Treblinka. Vào
ngày 02 Tháng Tám năm 1943, người Do Thái bắt giữ những thứ vũ khí mà họ có thể tìm
thấy như rìu và một số vũ khí bị đánh cắp từ các kho vũ khí trại - và đốt trại. Khoảng 200
người trốn thoát. Đức chiếm lại và giết chết khoảng một nửa trong số họ.
Trên 14 tháng mười năm 1943, các tù nhân trong Sobibor giết chết 11 lính gác SS và
phụ trợ cảnh sát và thiết lập trại trên lửa. Khoảng 300 tù nhân trốn thoát, phá vỡ thông qua
hàng rào kẽm gai và mạo hiểm cuộc sống của họ trong các bãi mìn xung quanh trại. Hơn
100 bị bắt lại và sau đó bị bắn.
Trên 07 Tháng Mười 1944, các tù nhân được giao hỏa táng IV tại Auschwitz-Birkenau
nổi loạn sau khi biết rằng họ sẽ bị giết. Đức đè bẹp cuộc nổi dậy và giết chết gần như tất cả
hàng trăm tù nhân tham gia vào cuộc nổi loạn.
80
Cuộc nổi dậy của trại khác đã diễn ra ở Kruszyna (1942), Minsk-Mazowiecki (năm
1943), và (1943) trại Janowska. Trong hàng chục trại tù tổ chức thoát để tham gia các đơn vị
du kích. Trốn thoát thành công đã được thực hiện, ví dụ, từ đường trại lao động Lipowa tại
Lublin.
Mặc dù bị bao vây và bị đánh bại và một số người Do Thái trong khu nhà ổ chuột và
các trại đã chống lại người Đức với lực lượng chênh lệch. Tinh thần của những nỗ lực vượt
qua thất bại của họ để ngăn chặn các chính sách diệt chủng của Đức quốc xã.
Sự thiếu thốn của cuộc sống ở khu ổ chuột và sợ hãi khủng bố của Đức Quốc xã đã
làm cho sự kháng cự khó khăn và nguy hiểm nhưng không phải không thể. Ngoài kháng
chiến vũ trang, người Do Thái tham gia vào các hình thức khác nhau của sự thách thức
không mang vũ khí. Chúng bao gồm những nỗ lực tổ chức thoát khỏi khu nhà ổ chuột vào
khu rừng gần đó, không phù hợp với nhu cầu phát xít trên một phần của một số nhà lãnh đạo
cộng đồng Do Thái, buôn lậu thực phẩm vào các khu nhà ổ chuột, và sức đề kháng chiến
tinh thần.
Kháng chiến tinh thần đề cập đến những nỗ lực của các cá nhân để duy trì nhân loại
của họ, toàn vẹn cá nhân, nhân phẩm, và ý thức của nền văn minh khi đối mặt với những nỗ
lực của Đức Quốc xã để mâ t ti nh ca ch nhân đạo và làm suy giảm chúng. Thông thường, sức
đề kháng tinh thần là thứ có thể làm cho con người ta thoát khỏi sự sợ hãi. Hoạt động văn ́ ́ ́
hóa và giáo dục, bảo trì các tài liệu cộng đồng, và lễ tôn giáo bí mật là ba lĩnh vực kháng
chiến tinh thần dễ dàng nhất.
Toàn bộ Ba Lan khi bị chiếm đóng, hàng trăm trường học và các lớp học bí mật được
tổ chức bên trong các khu nhà ổ chuột. Sẽ đến và đi từ lớp học trong căn hộ khác nhau và
tầng hầm, sinh viên giấu cuốn sách của mình theo quần áo của họ. Người Do Thái nhập lậu
sách và bản thảo thành nhiều khu nhà ổ chuột cho an toàn, và mở thư viện dưới lòng đất
trong nhiều khu nhà ổ chuột. Các thư viện dưới lòng đất bao gồm các thư viện bí mật ở
Czestochowa, Ba Lan, đã phục vụ hơn 1.000 độc giả. Hoạt động thành lập một thư viện
60.000 lượng trong khu ổ chuột Theresienstadt , gần Prague.
Trong các khu nhà ổ chuột, người Do Thái cũng tham gia - trong chừng mực có thể -
trong một loạt các hoạt động văn hóa. Không giống như các trường học, những điều này
không luôn luôn bị cấm bởi chính quyền Đức. Buổi hòa nhạc, các bài giảng, tác phẩm sân
khấu, cabarets và các cuộc thi nghệ thuật đã diễn ra trong nhiều khu nhà ổ chuột, bất chấp
những khó khăn của cuộc sống hàng ngày.
81
Trong nhiều nhóm của khu nhà ổ chuột thành lập kho lưu trữ bí mật và có phương
pháp viết, thu thập và lưu trữ các báo cáo, sổ nhật ký và các tài liệu về cuộc sống hàng ngày
trong các khu nhà ổ chuột. Những nỗ lực phục vụ để thu thập chứng cứ trên tình hình của
người Do Thái ở châu Âu và chiếm đóng cũng tìm cách tái khẳng định ý thức của cộng
đồng Do Thái, lịch sử và nền văn minh khi đối mặt với sự hủy diệt cả thể chất và tinh thần.
Được biết đến trong các tài liệu lưu trữ tốt nhất là của các khu ổ chuột Warsaw , có tên
mã là Oneg Shabbat ("Niềm vui của ngày Sa-bát") và được thành lập bởi nhà sử học
Emanuel Ringelblum (1900-1944). Một số các đồ đựng tài liệu lưu trữ đã được đào lên từ
đống đổ nát của các khu ổ chuột Warsaw sau chiến tranh. Các giấy tờ tìm thấy bên trong đã
cung cấp tài liệu có giá trị của cuộc sống và cái chết trong các khu ổ chuột. Trong các khu ổ
chuột Bialystok , nhà hoạt động Mordechai Tenenbaum, người đã đến Bialystok từ Warsaw
trong tháng 11 năm 1942 để tổ chức các phong trào kháng chiến, được thành lập theo mô
hình lưu trữ ổ chuột Oneg Shabbat. Một kho lưu trữ cũng được giữ trong các khu ổ chuột
Lodz , nhưng không giống như Warsaw và Bialystok lưu trữ, nó không hoàn toàn bí mật và
do đó hoạt động theo những hạn chế nhất định.
Đức cấm các dịch vụ tôn giáo ở hầu hết các khu nhà ổ chuột, vì vậy nhiều người Do
Thái cầu nguyện và tổ chức các nghi lễ trong bí mật - trong hầm, gác xép, và trở lại phòng -
như những người khác đứng bảo vệ. Chỉ tính riêng trong Warsaw, vào năm 1940, 600
nhóm cầu nguyện của người Do Thái tồn tại. Các cơ quan giáo sĩ Do Thái xét xử các tranh
chấp tôn giáo trên cơ sở luật pháp tôn giáo và cố gắng thích nghi với luật này với những
hoàn cảnh đã thay đổi và khó khăn, trong đó cộng đồng tìm thấy chính nó. Cầu nguyện đã
giúp duy trì tinh thần, khẳng định bản sắc văn hóa và tôn giáo, và cung cấp sự thoải mái tinh
thần. Nhiều người Do Thái Chính thống giáo người phản đối việc sử dụng vũ lực xem lời
cầu nguyện và lễ tôn giáo như là hình thức xác thực nhất của kháng chiến.
Tiểu kết chương 3
Được mang ra thi hành khắp lục địa châu Âu, chính sách diệt chủng nhắm vào người
Do Thái đã tạo ra một thảm họa kinh hoàng ăn sâu mãi mãi vào kí ức của không chỉ người
Do Thái còn sống sót, mà toàn nhân loại dưới tên gọi Holocaust. Không gì có thể biện minh
cho chính sách diệt chủng của cá nhân Hitler, và Đảng Quốc xã. Không để cho thảm họa
82
Holocaust tái sinh sẽ là một trong những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại thời
hậu chiến của các nước châu Âu.
83
KẾT LUẬN
1. Hitler đã chắt lọc một cách tùy tiện ý tưởng “tiến hóa bằng con đường đấu tranh sinh
tồn” của nhà bác học Cherles Darwin, rồi pha trộn ý tưởng này theo định hướng đã vạch sẵn
với chủ nghĩa phục thù và chủ nghĩa bài Do Thái để tạo ra một học thuyết được gọi là chủ
nghĩa Quốc xã. Một trong các nội dung chính của chủ nghĩa này là tiêu diệt cộng đồng
người Do Thái trước tiên ở Đức, rồi sau đó trên toàn châu Âu.
2. Được mang ra thực hiện ngay sau khi Đảng Quốc xã cầm quyền, chủ nghĩa Quốc xã
trở thành nền tảng lí luận cho chính sách bài Do Thái bằng những biện pháp cực đoan nhất.
Không vấp phải một sự phản đối đáng được coi là kiên quyết nào, chính sách bài Do Thái
không chỉ tạo ra những nạn nhân đầu tiên của chế độ Quốc xã, mà còn dọn đường cho một
thảm họa kinh khủng hơn có tên gọi là Holocaust trên toàn lục địa châu Âu.
3. Đi vào lịch sử nhân loại bằng những hồi ức kinh khủng nhất, chính sách diệt chủng
của chế độ Quốc xã được xếp vào loại tội ác chống nhân loại, nấc tột cùng của bậc thầy các
tội ác. Ngăn chặn nguy cơ hồi sinh của thứ tội ác tột cùng này được xem là một trong các
nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của các nước châu Âu sau chiến tranh. Đây là
nguyên nhân lí giải cho phản ứng nhanh nhạy của các nước châu Âu trong cuộc chiến sắc
tộc bùng nổ ở Balkans trong những năm đầu thập niên 1990.
4. Dù đã được tổ chức Liên Hợp Quốc chính thức xếp vào loại tội ác không thể được
biện minh bằng bất kỳ lý do nào, với thời hiệu truy tố không giới hạn, phạm vi truy bắt được
mở rộng khắp toàn cầu, nhưng chính sách diệt chủng vẫn chưa thực sự lùi hẳn vào quá khứ.
Đôi lúc, ở nơi này, nơi nọ, nó vẫn được mang ra thi hành ở quy mô cả quốc gia.
“Đừng để ai bị lãng quên. Đừng lãng quên điều gì cả” [33, tr.266] là bài học được rút ra
từ quá trình nghiên cứu chính sách của chính phủ Đức quốc xã đối với cộng đồng người Do
Thái ở châu Âu (1933-1945).
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Adolf Hitler (1971), Meinkampf, Nxb Boston, Houghton Mifflin.
2. Aly, Götz (1999), Chính sách dân số của Đức Quốc xã và Giết người Do Thái châu Âu,
Nxb London.
3. Alfred A. Knopf Inc (1991), Himmler và Giải pháp cuối cùng, Nxb New York.
4. Bergen, Doris (2003 ), Chiến tranh và diệt chủng- một lịch sử ngắn gọn của Holocaust,
Nxb Rowman & Littlefield.
5. Breitman, Richard (1991), Kiến trúc sư diệt chủng: Himmler và giải pháp cuối cùng,
Nxb New York.
6. Bartov, Omer (2000), The Holocaust:. Nguồn gốc, thực hiện, hậu quả, Nxb London,
Anh.
7. Chu Hảo (2010), 150 năm thuyết tiến hóa và Charles Darwin, Nxb Tri thức.
8. Christopher (2004), Nguồn gốc của các giải pháp cuối cùng:. Diễn biến của chính sách
của người Do Thái của Đức Quốc xã, tháng 9 năm 1939-tháng 3 năm 1942, Nxb
Lincol.
9. Chambers (1994), Từ điển Lịch sử thế giới, Nxb Oxford.
10. Cesarani, David (1994), Giải pháp cuối cùng: Nguồn gốc và thực hiện, Nxb London.
11. Crane Brinton, John B.Christopher, Robert Lee Wolff (1998), Chủ nghĩa phát xít (1918-
1939), Nxb Văn minh phương Tây.
12. Chân trời Unesco, (2005), “Lịch sử cuộc tàn sát 6 triệu người Do Thái của Đức Quốc
xã”, Tr.21-23.
13. Dawidowicz Lucy S (1975), Chiến tranh chống người Do Thái 1933-1945, Nxb New
York.
14. David Vital (2001), Một lịch sử chính trị của người Do Thái ở châu Âu 1789-1939,
Nxb Oxford University Press.
15. Evans, Richard J (2001), Lịch sử, Holocaust và David , Nxb New York.
16. Gilbert Martin (1986) Holocaust- Một lịch sử của người Do Thái ở châu Âu trong cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb New York.
17. Gutman, Israel (1990), Bách khoa toàn thư của Holocaust, Nxb New York.
18. Gutman, Israel (1982), Người Do Thái của Warsaw, 1939-1943, Nxb Bloomington.
85
19. Gerald Fleming (1984), Hitler và các giải pháp cuối cùng, Nxb University of California
Press.
20. Gilbert, Martin (1997), Holocaust Hành trình, Nxb Phoenix.
21. Green, Gerald (1990), Hỏa ngục trần gian Tập 1 (Tô Giang- An Giang dịch), Nxb An
Giang.
22. Green, Gerald (1990), Hỏa ngục trần gian Tập 2 (Tô Giang- An Giang dịch), Nxb An
Giang.
23. Lê Phụng Hoàng (2007), Adolf Hitler- tiểu sử chính trị, Nxb ĐHSP TPHCM, TP. Hồ
Chí Minh.
24. Heydecker, Joe J (1973), Hitler : tội phạm chiến tranh (Võ Lang dịch), Nxb Sống mới.
25. Hilberg, Raul (2003), Sự phá hủy của người Do Thái châu Âu, Nxb New Haven.
26. Hilberg, Raul (2003), Sự phá hủy của người Do Thái châu Âu, Nxb New Haven.
27. Jacques Droz (1962), Lịch sử nước Đức, Viện Đại học Huế.
28. John Toland (2012), Adolf Hitler chân dung một trùm phát xít (Nguyễn Hiền Thu,
Nguyễn Hồng Hải dịch), Nxb Công an Nhân dân.
29. James M (2004), Kháng cự của người Do Thái trong Holocaust, Nxb Macmillan.
30. Krakowski, Shmuel (1984), Kháng chiến vũ trang Do Thái ở Ba Lan 1942-1944, Nxb
New York.
31. Longerich, Peter (2010), Holocaust: Cuộc bức hại của Đức Quốc xã và giết người
người Do Thái, Nxb Oxford.
32. Longerich, Peter (2003), Vai trò của Hitler trong Giải pháp cuối cùng, Nxb Tempus
Limited, Stroud.
33. Marrin Albert (2004), Truøm phaùt xít Hitler - cuoäc ñôøi vaø toäi aùc ( Caûnh Döông, Anh
Ñöùc dịch ), Nxb Coâng an Nhaân daân.
34. Mc Govern, James (1973), Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler (Người Sông Kiên, Lê
Thị Duyên dịch), Nxb Sông Kiên.
35. Mlechin, Leonid (2009), Bí mật về Adolf Hitler và các chiến hữu (Đỗ Hương Lan, Đặng
Quốc dịch), Nxb Công an Nhân dân.
36. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 1: 1350-1881, Nxb Thư
viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.
37. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 2: 1881-1914, Nxb Thư
viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.
86
38. Polonsky, Antony (2009), Người Do Thái ở Ba Lan và Nga, tập 3: 1914-1939, Nxb Thư
viện Littman của nền văn minh của người Do Thái.
39. R- H Tenbrock (1972), Lịch sử Đức Quốc (bản dịch Sài Gòn- Phủ quốc vụ Khanh), Nxb
Sài Gòn.
40. Roseman (2002), Hội nghị Wannsee và các giải pháp cuối cùng, Nxb
41. New York.
42. Serge Miller, Hitler và Lò thiêu sống dân Do Thái (Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên
dịch), Nxb Sông Kiên.
43. Thông tấn xã Việt Nam (2009), “Hitler với kế hoạch xâm lăng Nam Cực”, Thời báo
kinh tế Việt Nam, tr.14.
44. Thông tấn xã Việt Nam (2009), “Bí mật về suy đoàn nhí phát xít Đức”, Tin
45. tức, tr.14.
46. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Chiến dịch ám sát tên trùm an ninh phát xít Đức”, Tin
Tức, tr.14.
47. Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Truy lùng những tên phát xít cuối cùng”, Thanh niên,
tr.19.
48. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Phải chăng Hitler đã trốn thoát”, Văn nghệ trẻ, tr.11.
49. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Những khoảnh khắc cuối cùng của Adolf Hitler”,
Thanh niên, tr.5.
50. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Số phận của những người phụ nữ của Hitler”, Sức khỏe
đời sống, tr.16.
51. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Ngôi làng phát xít mới ở Đức”, Thanh niên, tr.13.
52. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Hầm ngầm của Hitler có gì?”, Sức khỏe đời sống,
tr.13.
53. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Truy bắt Bác sĩ tử thần Đức Quốc xã”, Thanh niên,
tr.19.
54. Thông tấn xã Việt Nam (2010), “Hồ sơ Hitler con nghiện và con bệnh”, Sức khỏe đời
sống, tr.14.
55. Thông tấn xã Việt Nam (2010), “Bí ẩn xung quanh số phận những tên trùm phát xít
Đức”, Pháp luật Việt Nam, tr.13.
56. Wiliam L. Shirer (2007), Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế ba, Nxb Tri Thức.
87
57. 55.Yahil, Leni (1990), Holocaust: Số phận của người Do Thái châu Âu, 1932-1945,
Nxb New York.
Tiếng Anh
58. Bullock, Alan (1958), Hitler : A study in tyranny, Nxb Bantam.
59. Clendinnen, Inga (1999), Reading the Holocaust, Nxb Cambridge University.
60. Dawidowicz, Lucy S (1981), The Holocaust and the historians, Nxb Lond.
61. Dehio, Ludwig (1967), Germany and world politics in the twentieth century, Nxb
W.Norton.
62. Franz Bertsch (2000), National socialism and the Holocaust, Nxb Bonn.
63. Goldsmith, Martin (2000), The inextinguishable symphony, Nxb John Wiley
64. & Sons.
65. Halperin, S. William (1965), Germany tried democracy : A political history of the Reich
from 1918 to 1933, Nxb The Norton Library.
66. Havas, Laslo (1967), Hitler's plot to kill the big three, Nxb A National General.
67. Israel Pocket Library (1974), Holocaust, Nxb Keter books.
68. Kettenacker, Lothar (1997), Germany since 1945, Nxb Opus.
69. Levy, Daniel (2006), The Holocaust and memory in the global age, Nxb Assenka
Oksiloff.
70. Levi, Primo (1959), Survival in Auschwitz, Nxb Colliers.
71. Mankowitz, Zeev W (2002), Life between memory and hope, Nxb Cambridge
University.
72. Meyerhoff, Marianne (2007), Four girls from Berlin: A true story of a friendship that
defied the Holocaust, Nxb John Wiley & Sons.
73. Pinson, Roppel S (1966), Modern Germany: Its history and civilization, Nxb The
Macmillan.
74. Payne, Robert (1973), The life and death of Adolf Hitler, Nxb Popular Library.
75. Wardi, Dina (1992), Memorial candles : children of the Holocaust, Nxb Naomi
Goldblum, Nxb Lond.
Tài liệu Internet
76. vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.
77. Wikimedia Commons.
88
89
PHỤ LỤC
Hình 1. Bản đồ vị trí các trại tập trung do nước Đức Quốc xã dựng lên trong Chiến tranh thế giới thứ hai. (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.)
Hình 2. Tẩy chay hàng hóa của người Do Thái Hình 3. Hành quyết người Do Thái ở Ba Lan (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust.)
90
Hình 4. Hố chôn tập thể. Hình 5. Tù nhân trại tập trung Mauthausen ở Ebensee Áo.
Hình 6. Phòng ăn tại biệt thự Wannsee, nơi triệu tập Hội nghị Wannsee. (Nguồn:Wikimedia Commons.)
91
Hình 8: Trại tập trung Auschwitz Hình 7. Tù binh Liên Xô trần truồng trong trại tập trung Mauthausen.
Nguồn: Wikimedia Commons. Hình 9. Di tích các phòng hơi ngạt tại Auschwitz II (Nguồn: Wikimedia Commons.)
92
Christian X của Đan Mạch. Aristides de Sousa Mendes.
Raoul Wallenberg Chiune Sugihara
Hình 10. Những người giải cứu cho người Do Thái. (Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/Holocaust)
93