Chống Duyhring I
Chương 9: Bình đẳng
Chúng ta đã nhiều lần làm quen với phương pháp của ông Đuy-rinh. Phương pháp
này phân chia mỗi nhóm đối tượng của nhận thức ra thành những yếu tố gọi là đơn
giản nhất của nó, rồi đem ứng dụng vào những yếu tố ấy những định đề cũng đơn
giản như thế, gọi là hiển nhiên, rồi sau đó lại tiếp tục vận dụng những kết luận đã
đạt được như vậy. Ngay cả một vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống xã hội.
"Cũng phải được giải quyết bằng những định đề, dựa trên những hình thức cơ bản
đơn giản, cá biệt, làm như thế đây là đang nói đến những hình thức cơ bản... đơn
giản của toán học".
Và như vậy là việc ứng dụng phương pháp toán học vào lịch sử, đạo đức và pháp
quyền, ngay cả ở đây nữa, cũng phải mang lại cho chúng ta một sự xác thực có
tính chất toán học của những kết luận đã đạt được, phải mang lại cho những kết
quả có cái tính chất những chân lý xác thực, bất biến.
Đó cũng chỉ là một hình thức khác của cái phương pháp tư tưởngkỹ được ưa
thích, mà người ta còn gọi là phương pháp tiên nghiệm, một phương pháp không
nhận thức những đặc tính của đối tượng bằng cách rút những đặc tính ấy từ bản
thân đối tượng ra mà bằng cách rút chúng một cách suy diễn từ khái niệm về đối
tượng. Trước hết, người ta xuất phát từ đối tượng để tạo ra khái niệm về đối tượng
; sau đó người ta đảo ngược tất cả lại và đo đối tượng bằng hình ảnh của đối
tượng, tức là bằng khái niệm về đối tượng. Bây giờ thì không phải là khái nim
phải phù hợp với đối tượng, mà đối tượng phải phù hợp với khái niệm. Ở ông
Đuy-rinh, những yếu tố giản đơn nhất, những trừu tượng cuối cùng mà ông đạt
được, lại giữ vai trò ki niệm, những điều đó không làm thay đổi vấn đề một chút
nào c; nhiều lắm thì những yếu tố giản đơn nhất ấy chỉ mang tính chất thuần tuý
Chống Duyhring I
khái niệm thôi. Do đó, cả ở đây nữa, triết học hiện thực cũng chỉ tiêu biểu ra là h
tư tưởng thuần tuý, là sự suy diễn hiện thực không xuất phát từ hiện thực mà xuất
phát tbiểu tượng.
Khi một nhà tư tưởng loại đó xây dựng đạo đức mà pháp quyền không phải từ
những quan hệ xã hội hiện thực của những con người xung quanh mình, mà là t
khái niệm hay từ cái gọi là những yếu tố giản đơn nhất "của xã hội", thì ông ta
dùng vật liệu gì cho công cuộc xây dựng đó ? Hiển nhiên là có hai loại vật liệu :
một là, những tàn dư nghèo nàn của nội dung hiện thực có thể còn sót li trong
những trừu tượng đã được dùng làm sở ; và hai là, cái nội dung mà nhà tư
tưởng của chúng ta rút từ trong ý thức của bản thân ra để đưa vào những cái ấy.
ông ta tìm thấy được cái gì trong ý thức của ông ta ? Phần lớn là những quan điểm
về đạo đức và pháp lý, những quan điểm này là biu hiện ít nhiều phù hợp, - khẳng
định hay phủ định, ủng hộ hay phản đối, - của những điều kiện xã hội và chính tr
trong đó ông ta sống ; ngoài ra, có thlà những quan niệm mượn từ trong những
sách báo tương ứng ; và cuối cùng, có thể là những ý kiến kỳ cục của cá nhân ông
ta. Dù cho nhà tư tưởng của chúng ta có làm gì đi nữa thì hiện thực lịch sử mà ông
ta đã nép ra khỏi cửa lớn bây giờ lại trở vào bằng cửa sổ, và trong khi ông ta tin
đã phác ra được một học thuyết về đạo đức và pháp quyền cho tất cả các thế giới
và tất cả các thời đại, thì trên thực tế ông ta chỉ tạo ra được một hình ảnh méo mó,
- vì bị rách khỏi cơ sở hiện thực của nó, - lộn ngược như trong một tấm gương
lõm, của những trào lưu bảo thủ hoặc cách mạng trong thời đại ông ta.
Vậy là ông Đuy-rinh phân chia xã hội thành những yếu tố giản đơn nhất, và làm
như vậy ông thấy rằng cái xã hội giản đơn nhất ít ra cũng gồm có hai người. Với
hai người này, ông Đuy-rinh bắt đầu vận dụng theo kiểu định đề. Thế là cái định
đề cơ bản của đạo đức xuất hiện một cách tự nhiên :
"Hai ý chí con người, với tư cách là những ý chí như vậy, đều hoàn toàn bình đẳng
với nhau, và lúc đầu, không một bên nào có thể đưa ra một yêu cầu tích cực nào
Chống Duyhring I
đối với bên kia". Điều đó nói lên "đặc điểm của hình thức cơ bản của sự công bằng
về đạo đức", cũng như của sự công bằng của pháp lý, vì "để phát triển những khái
niệm pháp lý cơ bản, chúng ta chỉ cần đến mối quan hệ hoàn toàn đơn giản và sơ
đẳng giữa hai người".
Hai người hay hai ý chí con người, với tư cách là như vậy, đều hoàn toàn bình
đẳng với nhau - đó chẳng những không phải là một định đề mà thm chí lại là một
sự cường điệu quá đáng. Trước hết, hai người, - ngay cvới tư cách là như vậy -
cũng đã có th không ngang nhau về giới tính, và sự thực đơn giản ấy lập tức sẽ
dẫn chúng ta đi đến chỗ nghĩ rằng những yếu tố giản đơn nhất của xã hội - nếu tạm
thời chúng ta tán thành cái trò trẻ con này - không phải là hai người, mà là một
người đàn ông và một người đàn bà họp thành một gia đình, hình thức đơn giản
nhất và đầu tiên của quan hệ xã hội nhằm mục đích sản xuất. Nhưng điều này
không hợp với ông Đuy-rinh chút nào. Vì một là, hai người sáng lập ra xã hội phải
được làm cho hết sức bình đẳng, và hai là, ngay công Đuy-rinh cũng không th
từ gia đình nguyên thuỷ xây dựng được sự bình đẳng về đạo đức và về pháp
giữa người đàn ông và người đàn bà. Như vậy thì trong hai điều sau đây tất phải
chọn một : hoặc là cái phân tử xã hội của ông Đuy-rinh - toàn bxã hội phải được
xây dựng bằng cách nhân cái phần tử này lên - nhất định ngay từ đầu sẽ không
tránh khỏi phải diệt vong, vì hai người đàn ông với nhau không bao giờ lại đẻ
con được : hoặc là chúng ta phải hình dung hai người ấy là hai người chủ gia đình.
Trong trường hợp này thì toàn bcái sơ đồ cơ bản giản đơn chuyển thành cái trái
ngược với nó : đáng lẽ phải chứng minh sự bình đẳng giữa nời với người thì
nhiều lắm nó chỉ chứng minh được sự bình đẳng giữa những người chủ gia đình,
và vì người ta không đếm xỉa đến người phụ nữ cho nên sơ đồ đó còn chứng minh
địa vị phụ thuộc của phụ nữ nữa.
Ở đây chúng tôi xin thông báo với độc giả một điều chẳng thú vị gì là độc giả cũng
còn lâu mới thoát khỏi được hai người đàn ông nổi tiếng này. Trong lĩnh vực
Chống Duyhring I
những quan hệ xã hội, hai người ấy đóng một vai trò tương tự như vai trò từ trước
đến nay của những người dân trên các thiên thể khác, mà chúng ta hy vọng sẽ
không phải gặp lại nữa. Hễ có một vấn đề kinh tế, vấn đề chính trị v.v.. nào cần
giải quyết thì lập tức hai nhân vật đó lại xuất hiện và giải quyết vấn đề chỉ trong
nháy mắt "bằng phương pháp định đề". Quả là một sự phát hiện tuyệt diệu, sáng
tạo, đẻ ra hệ thống, một sự phát hiện của nhà triết học hiện thực của chúng ta !
Khốn nỗi nếu chúng ta biết tôn trọng chân lý thì phải nói rằng không phải là ông ta
đã phát hiện ra hai nhân vật ấy. Hai nhân vật ấy là tài sản chung của cả thế kỷ
XVIII. Người ta đã gặp họ trong quyển "Bàn về sự bất bình đẳng" của Rousseau
năm 1754[31], trong đó - nhân tiện xin nói thêm - bằng phương pháp định đề, hai
người ấy đã chứng minh đều ngược lại với những lời khẳng định của ông Đuy-
rinh. Họ cũng đóng một vai trò chủ yếu ở những nhà kinh tế chính trị học từ Adam
Smith cho đến Ricardo ; nhưng ở đây, ít ra họ cũng không bình đẳng với nhau
chỗ là mỗi người trong bọn họ đều làm những việc khác nhau - thường thì đó
người đi săn và người đánh cá - và trao đổi sản phẩm lẫn cho nhau. Ngoài ra, trong
suốt thế kỷ XVIII, họ chỉ chủ yếu được dùng làm ví dụ để giải thích thôi, còn ch
độc đáo của ông Đuy-rinh chỉ là chỗ đã nâng phương pháp minh hoạ ấy lên
thành phương pháp cơ bản của mọi khoa học xã hội và lên ngang với tất cả mọi
kết cấu lịch sử. Dĩ nhiên, người ta không thể đơn giản hoá "quan niệm khoa học
chặt chẽ về sự vật và về con người" hơn thế được.
Để tạo ra cái định đề cơ bản cho rằng hai người và ý chí của họ là hoàn toàn bình
đẳng với nhau và không một người nào trong hai người đó lại có thể chỉ huy người
kia ; thì chúng ta hoàn toàn khổng thể dùng bất kỳ hai người đàn ông nào. Đó phải
là hai người hoàn toàn thoát ly mọi hiện thực, thoát ly tất cả mọi quan hệ dân tộc,
kinh tế, chính trị và tôn giáo tồn tại trên trái đất, thoát ly mọi đặc tính giới tính và
cá nhân, đến mức là từ hai ngời ấy chỉ còn lại có khái niệm thuần tuý là : người, và
chỉ lúc ấy họ mới thật sự "hoàn toàn bình đẳng". Do đó, đó là hai con ma thực sự
mà chính ông Đuy-rinh, một người ở đâu cũng đánh hơi thấy và tố giác những xu
Chống Duyhring I
hướng "duy linh", đã triu lên. Đương nhiên là hai con ma này buộc phải làm tất
cả mọi cái mà nời triệu chúng lên đòi chúng phải làm, và chính vì thế mà tất cả
những trò ảo thuật của chúng đều tuyệt đối khôngquan trọng gì với thế giới
còn lại.
Nhưng chúng ta hãy theo dõi phép định đề của ông Đuy-rinh xa hơn một chút nữa.
Cả hai ý chí đều không thể đưa ra một đòi hỏi nào tích cực đổi với nhau. Tuy vậy,
nếu một bên vẫn làm điều đó và đạt được mục đích của mình bằng bạo lực thì lúc
đó xảy ra tình trạng bất công ; và chính dựa trên sơ đồ cơ bản ấy mà ông Đuy-rinh
giải thích sự bất công, bạo lực, ách dịch, i tóm lại là toàn bộ lịch sử đáng lên
án từ trước tới nay. Trong khi đó, ngay Rouseau, trong tác phẩm nói trên, bằng hai
người và cũng bằng phép định đề, cũng đã chng minh điều nợc lại, cụ thể là
trong hai người thì A không thnô dịch B bằng bạo lực được mà chbằng cách đặt
B lâm vào một tình trạng không thể không cần đến A ; điều này, đối với ông Đuy-
rinh, quả thật là một quan niệm quá duy vật chủ nghĩa. Vậy chúng ta hãy xem xét
vấn đề này theo cách hơi khác một chút. Hai người bị đắm tàu rơi vào một hòn đảo
không có người ở và hợp thành một xã hội. ý chí của hai người này, về mặt hình
thức, là hoàn toàn bình đẳng và cả hai đều công nhận như vậy. Nhưng vmặt vật
chất lại có một sự bất bình đẳng lớn. A thì quả quyết và cương nghị, B thì do dự,
biếng lười và mềm yếu ; A thì tinh khôn, B thì đần độn. Phải bao nhiêu lâu thì A
mới có thể bắt được B phải tuân theo ý chí của mình một cách thuyết phục và sau
đó là do thói quen, nhưng bao giờ cũng dưới hình thức tự nguyện ? Dù cho hình
thức tự nguyện được tuân thủ, hay bị chà đạp, thì nô dịch đã diễn ra trong suốt thời
trung cổ, ở Đức thì tồn tại mãi cho ti sau Chiến tranh ba mươi năm. Ở Phổ, sau
những cuộc bại trận năm 1806 và 1807, khi người ta bãi bchế độ nông nô và
cùng với nó là nghĩa vụ của các ông chúa phong kiến giàu lòng từ bi phải chăm lo
đến thuộc hạ của mình trong lúc cùng khổ, bệnh tật, già nua, thì nông dân đã đệ
đơn thỉnh nguyện lên nhà vua, xin để họ lại trong cảnh nô dịch, vì không thế thì
lấy ai giúp đỡ trong lúc cùng khốn ? Do đó cái sơ đồ hai người là "có thể ứng