Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

haMục lục

Danh mục hình và biểu đồ ................................................................................... 5

Danh mục các từ viết tắt ...................................................................................... 6

Lời mở đầu ........................................................................................................... 7

Chương 1: Những lý luận cơ bản về thị trường quyền chọn và điều kiện áp

dụng quyền chọn vào thị trường chứng khoán ........................................................ 9

1.1 Giới thiệu về quyền chọn: ............................................................................ 10

1.1.1 Định nghĩa: ............................................................................................. 10

1.1.1.1 Quyền chọn là gì?.............................................................................. 10

1.1.1.2 Quyền chọn mua: .............................................................................. 10

1.1.1.3 Quyền chọn bán: ............................................................................... 10

1.1.2 Phân loại hợp đồng quyền chọn: ............................................................. 11

1.1.2.1 Theo quyền của người mua: .............................................................. 11

1.1.2.2 Theo thời gian thực hiện: ................................................................... 12

1.1.2.3 Theo thị trường giao dịch: ................................................................. 12

1.1.3 Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn: .......................................... 13

1.1.4 Cơ chế hoạt động của quyền chọn:.......................................................... 14

1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn:............................................................. 17

1.1.5.1 Ưu điểm: .......................................................................................... 17

1.1.5.2 Nhược điểm: ..................................................................................... 18

1.1.6 Sự phát triển của thị trường quyền chọn:................................................. 18

1.2 Chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn: .......................................... 21

1.2.1 Phương trình lợi nhuận: .......................................................................... 21

1.2.2 Giao dịch quyền chọn mua: .................................................................... 22

1.2.2.1 Mua quyền chọn mua: ....................................................................... 22

1.2.2.2 Bán quyền chọn mua: ........................................................................ 23

1.2.3 Giao dịch quyền chọn bán: ..................................................................... 24

1.2.3.1 Mua quyền chọn bán: ........................................................................ 24

1

1.2.3.2 Bán quyền chọn bán: ......................................................................... 26

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

1.2.4 Quyền chọn mua và cổ phiếu – Quyền chọn mua được phòng ngừa:....... 26

1.2.5 Quyền chọn bán và cổ phiếu – Quyền chọn bán bảo vệ:.......................... 28

1.2.6 Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp: ........................................... 30

1.3 Điều kiện áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán: ... 31

1.3.1 Điều kiện về sự phát triển thị trường chứng khoán: ................................. 31

1.3.2 Điều kiện về pháp lý: .............................................................................. 31

1.3.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường: .................................................... 33

1.3.4 Điều kiện về kỹ thuật: ............................................................................. 34

1.3.5 Điều kiện về con người: .......................................................................... 34

1.4 Những tác động không mong muốn của quyền chọn chứng khoán: .............. 35

Chương 2: Một vài ví dụ về áp dụng quyền chọn chứng khoán trên thế giới . 36

2.1 Mô hình Mỹ: ................................................................................................ 36

2.1.1 TTCK Mỹ: .............................................................................................. 36

2.1.2 Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (CBOE): .................... 37

2.1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển: ....................................................... 37

2.1.2.2 Tổ chức sàn giao dịch: ....................................................................... 39

2.1.2.3 Giao dịch và thanh toán: .................................................................... 41

2.1.2.4 Cơ chế giám sát: ............................................................................... 44

2.2 Mô hình Châu Âu: ....................................................................................... 45

2.2.1 Sàn giao dịch quyền chọn Châu Âu (“Euronext N.V.”): ......................... 45

2.2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển: ...................................................... 45

2.2.1.2 Hoạt động của Euronext N.V:........................................................... 47

2.2.1.3 Tổ chức và quản lý: .......................................................................... 47

2.2.2 Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London (LIFFE):48

2.2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển: ...................................................... 48

2.2.2.2 Nguyên tắc giao dịch: ....................................................................... 49

2.2.2.3 Quy trình giao dịch: ......................................................................... 50

2.3 Mô hình Nhật: .............................................................................................. 53

2.3.1 Thị trường chứng khoán Nhật: ................................................................ 53

2

2.3.2 Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE):............................................... 54

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

2.3.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển: ....................................................... 54

2.3.2.2 Cơ chế giao dịch:............................................................................... 55

2.3.2.3 Cơ chế giám sát: ................................................................................ 57

2.4 Nghiên cứu về khủng hoảng tài chính 2008: ................................................. 57

2.4.1 Mức độ sử dụng công cụ phái sinh cho mục đích phòng ngừa và đầu cơ: 57

2.4.2 Trường phái cho rằng công ty không nên sử dụng công cụ phái sinh: .... 60

2.4.2.1 Công cụ phái sinh-Tác nhân của cuộc khủng hoảng TC toàn cầu:...... 60

2.4.2.2 Phòng ngừa rủi ro không những không làm giảm thiểu rủi ro mà còn

làm gia tăng rủi ro: .................................................................................................... 63

2.4.3 Trường phái cho rằng công ty nên sử dụng công cụ phái sinh: ................ 64

2.5 Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam khi ứng dụng quyền chọn chứng

khoán vào TTCK Việt Nam: ...................................................................................... 70

Chương 3: Áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào Việt Nam .......... 73

3.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam: .............................................................. 73

3.1.1 Giai đoạn 2000-2005 .............................................................................. 73

3.1.2 Giai đoạn 2006-2010 .............................................................................. 74

3.2 Sự cần thiết của ứng dụng giao dịch quyền chọn trong TTCK Việt Nam:..... 80

3.2.1 Tạo công cụ bảo vệ lợi nhuận cho nhà đầu tư.......................................... 80

3.2.2 Thúc đẩy phát triển chứng khoán Việt Nam ............................................ 81

3.2.3 Tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết trên TTCK ......................... 81

3.3 Ứng dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường Việt Nam: ..................... 82

3.3.1 Những điều kiện khi áp dụng quyền chọn chứng khoán trong thị trường

chứng khoán Việt Nam .............................................................................................. 82

3.3.1.1 Các điều kiện thuận lợi: ..................................................................... 81

3.3.1.2 Các khó khăn còn tồn tại: .................................................................. 84

3.3.2 Giải pháp để sử dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào thị trường

chứng khoán Việt Nam .............................................................................................. 85

3.3.2.1 Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý: ......................... 85

3.3.2.2 Giải pháp về tổ chức quản lý của các cơ quan chức năng:.................. 90

3

3.3.2.3 Nhóm giải pháp phát triển thị trường: ................................................ 92

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

3.3.2.4 Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: ............ 98

3.3.2.5 Các nhóm giải pháp khác: ................................................................100

3.4 Mô hình giao dịch đề xuất cho Việt Nam: ...................................................101

Kết luận .............................................................................................................103

4

Tài liệu tham khảo ............................................................................................104

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Danh mục hình và biểu đồ

Chương 1:

Hình 1.1: Mua quyền chọn mua ........................................................................... 23

Hình 1.2: Bán quyền chọn mua ............................................................................ 24

Hình 1.3: Mua quyền chọn bán ............................................................................ 25

Hình 1.4: Bán quyền chọn bán ............................................................................. 26

Hình 1.5: Quyền chọn mua được phòng ngừa....................................................... 27

Hình 1.6: Quyền chọn bán bảo vệ......................................................................... 29

Chương 2:

Hình 2.1: Mô hình của sàn giao dịch CBOE ......................................................... 41

Hình 2.2: Quy trình giao dịch của LIFFE ............................................................. 50

Hình 2.3: Giao dịch trên thị trường quyền chọn TSE ............................................ 56

Hình 2.4: Tổng giá trị danh nghĩa chứng khoán phái sinh của hệ thống ngân hàng

Mỹ ............................................................................................................................. 58

Hình 2.5: Tỷ trọng các giao dịch phái sinh ........................................................... 59

Hình 2.6: Mức độ sử dụng công cụ phái sinh trong phòng ngừa và đầu cơ ........... 59

Hình 2.7: Lãi suất ở Mỹ giai đoạn 2001-2005 ...................................................... 61

Hình 2.8: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 ............................................... 62

Hình 2.9: Chênh lệch lãi suất ở Mỹ ...................................................................... 65

Hình 2.10: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 ..................................... 66

Hình 2.11: Đòn bẩy tài chính của ngân hàng Mỹ ở quý I năm 2008 ..................... 68

Chương 3:

Hình 3.1: Số lượng CTCK giai đoạn 2000 ............................................................ 78

Hình 3.2: Thống kê mã số chứng khoán niêm yết 2000-2010 ............................... 79

Hình 3.3: Mô hình giao dịch quyền chọn chứng khoán đề xuất cho thị trường chứng

5

khoán Việt Nam. ......................................................................................................101

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Danh mục các từ viết tắt

Tên viết tắt Tên tiếng anh Tên tiếng việt

AMEX The American Stock Thị trường chứng khoán Mỹ

Exchange

ATM At the money Ngang giá quyền chọn

BVLP Bolsa de Valores de Lisboa Sàn giao dịch quyền chọn Lisbon

e Porto và Porto

CBOE Chicago Board Options Sở giao dịch quyền chọn Chicago

Exchange

CDS Credit Default Swap Hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi

CORES-FOP Computerized Order Hệ thống đặt lệnh và thực hiện

Routing and Execution lệnh tự động cho hợp đồng giao sau

System for Futures and và hợp đồng quyền chọn

Options

Công ty chứng khoán CTCK

Doanh nghiệp DN

Sàn giao dịch quyền chọn Châu EURONEXT

N.V Âu

FANNIE MAE Federal National Mortgage Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động

Association sản của Mỹ

FED Cục dự trữ liên bang Mỹ

FREDDIE MAC Federal Home Loan Tập đoàn cho vay quốc gia Mỹ

Mortgage Corporation

HNX Sàn giao dịch chứng khoán Hà

Nội

6

HOSE Sàn giao dịch chứng khoán

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

TP.HCM

IPO Chào bán chứng khoán lần đầu ra

công chúng

ITM In the money Cao giá quyền chọn

LCE London Commodity Sàn giao dịch hàng hóa

Exchange

LIFFE London International Sàn giao dịch giao sau và quyền

Financial Futures and chọn tài chính quốc tế

Options Exchange

LIFFE London International Sàn giao dịch điện tử về giao sau

CONCERT Financial Futures and và quyền chọn tài chính quốc tế

Options Exchange Connect

LTOM London Commodity Sàn giao dịch quyền chọn London

Exchange

MBS Mortgage Backed Hợp đồng cho vay bất động sản

Securities có thế chấp

NĐT Nhà đầu tư

NHTM Ngân hàng thương mại

NYSE New York Stock Exchang Sàn giao dịch chứng khoán New

York

OTM Out the money Kiệt giá quyền chọn

OCC Option Clearing Công ty thanh toán hợp đồng

Corporation quyền chọn

PHLX Philadelphia Exchange Sở giao dịch chứng khoán

Philadenphia

PSE Pacific Stock Exchange Sở giao dịch chứng khoán Pacific

SEC Securities Exchange Ủy ban giao dịch chứng khoán

Commission Hoa Kỳ

7

SGDCK Sở giao dịch chứng khoán

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Tokyo Stock Exchange Sở giao dịch chứng khoán Tokyo TSE

TTCK Thị trường chứng khoán

TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán

UBCK Ủy ban chứng khoán

8

WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Ngày này, hội nhập là xu hướng chung của cả thế giới chứ không chỉ ở Việt Nam.

Sự hội nhập toàn cầu mang lại nhiều điều thuận lợi nhưng đồng thời cũng mang đến

nhiều khó khăn. Những khó khăn đó chính là các rủi ro có thể nhận thấy hoặc các rủi

ro tiềm ẩn. Các rủi ro này tồn tại một cách ngẫu nhiên trong tất cả các lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh, tài chính, tín dụng,... Các rủi ro có thể làm nhà đầu tư tổn thất, công

ty bị phá sản, và nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Để hạn chế điều này thì công

cụ phái sinh là một trong những lựa chọn tối ưu nhất, và nó ngày càng được sử dụng

rộng rãi trên toàn thế giới như là công cụ chủ yếu và không thể thiếu trong việc quản trị

rủi ro.

Trong thời gian qua, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, được xem là thị

trường chứng khoán hấp dẫn nhất năm 2006. Nhưng vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Việc

chỉ số VN-Index tăng giảm hết sức thất thường dẫn đến một số nhà đầu tư thua lỗ

nặng, không thể nào trụ vững trên thị trường nên ồ ạt bán tháo để bảo toàn vốn và sớm

rút ra khỏi thị trường, làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng hơn, dễ dẫn đến

khủng hoảng, sụp đổ.

Một thị trường rủi ro như vậy thì việc áp dụng công cụ phái sinh trong thị trường

chứng khoán là rất cần thiết. Một trong số những công cụ phái sinh có thể phòng ngừa

rủi ro cho nhà đầu tư trong tương lai đó là quyền chọn chứng khoán. Trên thế giới thì

nó đã trở thành một công cụ phòng ngừa không thể thiếu của các nhà đầu tư, công

ty,.... Để áp dụng được nó vào thị trường ở Việt Nam thì cần phải tìm hiểu và nghiên

cứu trên cả lý thuyết và thực tiễn. Đó cũng chính là lý do tôi chọn chuyên đề về Quyền

chọn chứng khoán, nhằm đưa ra một hướng phát triển mới cho nền chứng khoán Việt

Nam.

9

2. Nội dung đề tài:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, thị trường quyền chọn,

nghiên cứu một số mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng khoán tiêu biểu trên

thế giới.

Nghiên cứu các điều kiện để áp dụng quyền chọn trên TTCK.

Nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của TTCK Việt Nam, thực trạng TTCK

Việt Nam hiện nay từ đó đánh giá các điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn

chứng khoán tại Việt Nam.

Đề xuất một số giải pháp để áp dụng giao dịch quyền chọn và đề xuất mô hình giao

dịch hợp đồng quyền chọn cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:

Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là nghiên cứu các lý luận cơ bản về quyền

chọn chứng khoán, các điều kiện để áp dụng quyền chọn chứng khoán và khả năng áp

dụng quền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu: các lý luận về quyền chọn chứng khoán, TTCK Việt Nam, thị

trường quyền chọn Mỹ, thị trường quyền chọn Châu Âu.

4. Phương pháp nghiên cứu của chuyên đề:

Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích-tổng hợp, thống kê-mô

tả, so sánh-đối chiếu, phương pháp quan sát thực tế để khái quát vấn đề cần nghiên

cứu.

5. Kết cấu của chuyên đề:

Chuyên đề tốt nghiệp: “Quyền chọn chứng khoán”, được kết cấu thành 3 chương :

 Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền chọn và điều kiện để áp dụng

quyền chọn chứng khoán vào TTCK

 Chương 2: Một vài ví dụ về áp dụng quyền chọn chứng khoán trên thế giới.

10

 Chương 3: Áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào Việt Nam

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Chương 1: Những lý luận cơ bản về thị trường quyền chọn và điều

kiện áp dụng quyền chọn vào thị trường chứng khoán

1.1 Giới thiệu về quyền chọn:

1.1.1 Định nghĩa:

1.1.1.1 Quyền chọn là gì?

Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán – trong đó

cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào

đó vào một ngày trong tương lai với giá trị đã đồng ý vào ngày hôm nay.

Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người

bán quyền chọn sẵn sang bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo các khoản của hợp

đồng nếu được người mua muốn thế.. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là quyền

chọn mua (call). Một quyền chọn bán tài sản gọi là quyền chọn bán (put).

Mặc dù thị trường quyền chọn được giao dịch trên thị trường có tổ chức, nhưng

phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng giữa hai bên, những người này

tự tìm đến với nhau và họ cho rằng họ thích như vậy hơn là giao dịch tài sàn. Loại thị

trường này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện

đầu tiên.

Khi phân tích các quyền chọn, chúng ta thương tập trung vào các sàn giao dịch có

tổ chức nhưng các nguyên tắc định giá và việc sử dụng chúng trên thị trường OTC

cũng tương tự như thế.Hầu hết các quyền chọn mà chúng ta quan tâm là mua hoặc bán

1.1.1.2 Quyền chọn mua:

Quyền chọn mua là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn

quyền mua một số lượng chứng khoán trong tương lai với giá đã được thỏa thuận trước

trong hợp đồng hiện tại.

Thời gian có hiệu lực của hợp đồng quyền chọn được xác định đến ngày đáo hạn.

Giá thực thi quyền chọn được gọi là giá thực hiện.

11

1.1.1.3 Quyền chọn bán:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua quyền

chọn bán lựa chọn quyền bán một số lượng chứng khoán trong tương lai với giá đã

được thỏa thuận trước trong hợp đồng hiện tại.

1.1.2 Phân loại hợp đồng quyền chọn:

1.1.2.1 Theo quyền của người mua:

Hợp đồng quyền chọn mua (Call options): Là một thỏa thuận giao dịch một lượng

tài sản cơ sở nhất định, trong đó người mua call options (A) sẽ trả cho người bán call

options (B) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn (options

premium) và A sẽ có quyền được mua nhưng không bắt buộc phải mua một lượng tài

sản cơ sở đó theo một mức giá đã được thoả thuận trước vào một ngày hoặc một

khoảng thời gian xác định trong tương lai. B nhận được tiền từ A nên B có trách nhiệm

phải bán lượng tài sản cơ sở đó với giá thực hiện đã thỏa thuận vào ngày đáo hạn (nếu

là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký

hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ), khi A muốn thực hiện quyền

mua của mình. Vào ngày thực hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng),

sau khi xem xét với mức giá giao ngay của tài sản cơ sở ở ngày này, nếu thấy có lợi

cho mình, tức giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện, A có thể thực hiện quyền của

mình để được mua lượng tài sản cơ sở đó ở mức giá thực hiện, rồi ra thị trường bán lại

với giá cao hơn để thu một khoản lợi nhuận. Nếu thấy giá của tài sản cơ sở dưới giá

thực hiện, A có thể không cần phải thực hiện quyền mua của mình, và chịu lỗ tiền phí

quyền chọn.

Hợp đồng quyền chọn bán (Put options): Là một thỏa thuận giao dịch một lượng tài

sản cơ sở nhất định, theo đó người mua Put options (C) sẽ trả cho người bán Put

options (D) một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn bán hay phí Put options và C sẽ

có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ phải bán lượng tài sản cơ sở đó theo một mức

giá đã thỏa thuận trước (giá thực hiện) vào một ngày hoặc một khoảng thời gian xác

định trong tương lai. D nhận được tiền từ C, nên có nghĩa vụ phải mua lượng tài sản cơ

sở đó ở mức giá thực hiện vào ngày đáo hạn (nếu là quyền chọn kiểu Châu Âu) hoặc

bất kì ngày nào trong khoảng thời gian từ ngày ký hợp đồng đến ngày đáo hạn (nếu là

12

quyền chọn kiểu Mỹ), khi C muốn thực hiện quyền được bán của mình. Vào ngày thực

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

hiện quyền (thường cũng là ngày kết thúc hợp đồng), sau khi xem xét giá giao ngay

của tài sản cơ sở trên thị trường, nếu thấy có lợi cho mình, tức mức giá này nhỏ hơn giá

thực hiện, C có thể thực hiện quyền của mình để được bán lượng tài sản cơ sở đó với

giá thực hiện sau khi đã mua được ở ngoài thị trường với giá thấp hơn để thu một

khoảng lợi nhuận. Nếu thấy giá giao ngay cao hơn giá thực hiện, C có thể không cần

phải thực hiện quyền chọn bán của mình, và chịu lỗ tiền phí quyền chọn.

1.1.2.2 Theo thời gian thực hiện:

Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option) Là quyền chọn cho phép người nắm

giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong thời gian

hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến hết ngày đáo hạn của hợp

đồng. Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực

hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận (trong thời gian hiệu lực của hợp

đồng).

Quyền chọn kiểu châu Âu (European style option) là quyền chọn chỉ cho phép

người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào ngày đáo hạn của hợp

đồng. Việc thanh toán thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực

hiện quyền chọn được người nắm giữ xác nhận vào ngày đáo hạn.

Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ không

liên quan đến vị trí địa lý. Ða số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chính yếu trên thị

trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân tích hơn quyền

chọn kiểu Mỹ và một số thuộc tính trong quyền chọn kiểu Mỹ thường được suy ra từ

quyền chọn kiểu châu Âu.

1.1.2.3 Theo thị trường giao dịch:

Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: Là quyền chọn được tiêu

chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao dịch trên các

thị trường tập trung như Chicago Board of Trade, TTCK New York…Do đó, tính minh

bạch của thị trường rất cao, thể hiện ở chỗ giá cả, số lượng của hợp đồng giao dịch

được công bố chi tiết vào cuối ngày giao dịch, làm dữ liệu tham khảo cho các ngày

giao dịch tiếp theo hoặc cho nhiều mục đích khác. Đặc biệt, các hợp đồng quyền chọn

13

này có thể được dễ dàng chuyển nhượng giữa các NĐT, điều này cho thấy tính thanh

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

khoản cao của các hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên các thị trường tập trung

kiểu này. Trên thế giới, thị trường giao dịch quyền chọn theo kiểu này chiếm tỉ trọng

rất lớn, khoảng 98% tổng giá trị giao dịch quyền chọn của thế giới.

Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung : Là thỏa thuận mua

bán giữa hai bên, theo đó quyền chọn được người bán đưa ra theo thỏa thuận với người

mua nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một người mua, chúng không được giao dịch

trên các sở giao dịch tập trung. Hợp đồng thường được giao dịch giữa các đối tác liên

ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp(DN). Do

các hợp đồng quyền chọn không được chuẩn hóa, chi tiết của hợp đồng là thỏa thuận

giữa các bên, nên tính linh hoạt đối với các hợp đồng này là rất cao, đáp ứng được các

nhu cầu cá biệt của các khách hàng. Dù vậy, các giao dịch quyền chọn phi tập trung

kiểu này chỉ chiếm khoảng 2% giá trị giao dịch quyền chọn trên thế giới.

1.1.3 Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn:

Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm các

DN, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương mại (NHTM),

ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán (CTCK)…Dựa vào các mục đích tham gia thị

trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:

 Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính hay

những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại tài sản

cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất…và có những lo ngại về sự biến động

của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất…làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh,

lợi ích của họ. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách là những người mua

các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biến động của giá cả, tỉ giá, lãi suất…Họ

sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để đổi lấy một mức tỉ giá, giá

cả, lãi suất cố định.

 Các NĐT, đầu cơ: Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính, tham

gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá, giá cả, lãi suất… Họ

thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán về xu hướng tỉ

giá, giá cả, lãi suất…Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn thích hợp để thu lợi

14

nhuận.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các NHTM, ngân hàng đầu tư,

CTCK…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với tư cách là các NĐT hoặc

những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các nước phát triển, nơi mà các giao

dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn giao dịch tập trung, với tư cách là các

thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ đóng vai trò như một nhà môi giới các giao

dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ một số ít các tổ chức tài chính lớn như các tập

đoàn tài chính khổng lồ mới có khả năng tự đứng ra phát hành quyền chọn cho thị

trường.

 Những người giao dịch quyền chọn: Trên thị trường OTC, một số định chế nhất

định, có thể là ngân hàng hoặc công ty môi giới, sẵn sàng đứng ra tạo lập thị trường

quyền chọn. Các quyền chọn này được niêm yết trên sàn giao dịch dĩ nhiên được tạo ra

bởi sàn giao dịch. Sàn giao dịch này là một pháp nhân mà các thành viên là cá nhân

hoặc công ty. Mỗi quyền thành viên được gọi là một seat. Những người giao dịch

quyền chọn bao gồm: người tạo lập thị trường, người môi giới, người giữ sổ lệnh…

1.1.4 Cơ chế hoạt động của quyền chọn:

Đối với quyền chọn cổ phiếu được giao dịch trên Sở giao dịch, các chi tiết của hợp

đồng – thời gian đáo hạn, giá thực hiện, ảnh hưởng của việc thanh toán cổ tức, quy mô

nắm giữ của NĐT – sẽ do Sở giao dịch quy đinh.

 Về thời gian đáo hạn: mỗi Sở giao dịch tại mỗi quốc gia có thể có quy định

riêng. Tại Hoa Kỳ, một khoản mục được xác định trong quyền chọn cổ phiếu là tháng

mà có ngày đáo hạn. Ngày đáo hạn chính xác là vào thứ 7 kế tiếp sau ngày thứ sáu tuần

thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng giao dịch quyền chọn là ngày thứ 6 tuần thứ 3 của

tháng. NĐT có vị thế mua quyền chọn chỉ dẫn nhà môi giới thực thi quyền chọn với

thời hạn cuối cùng là 4h 30 ngày thứ sáu. Nhà môi giới sẽ có cả ngày hôm sau để hoàn

tất thủ tục thực thi quyền chọn.

 Quyền chọn có thể được xem xét một trong ba trạng thái: đang có lời (in the

money), hoà vốn (at the money), và đang lỗ (out of the money). Nếu K là giá thực hiện

, S là giá của chứng khoán cơ sở. Một quyền chọn mua trong trạng thái đang có lời khi

S>K, trong trạng thái hoà vốn khi S=K, trong trạng thái đang lỗ khi S

15

ràng rằng một quyền chọn được thực hiện chỉ khi trong trạng thái đang có lãi.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Giá trị nội tại của quyền chọn (intrinsic value): được xác định là giá trị lớn nào

lớn hơn khi so sánh với 0 và giá trị của quyền chọn nếu nó được thực hiện ngay. Chẳng

hạn, với quyền chọn mua giá trị nội tại sẽ là max(S-K, 0). Đối với quyền chọn bán, giá

trị nội tại sẽ là max(K-S, 0).

Đối với quyền chọn giao dịch trên thị trường OTC, nếu một công ty công bố chi trả

cổ tức, giá thực hiện quyền chọn sẽ bị giảm trong ngày giao dịch không có cổ tức đúng

bằng giá trị cổ tức chi trả. Nếu quyền chọn giao dịch trên thị trường giao dịch tập

trung, việc thanh toán cổ tức thường chỉ bị điều chỉnh giá thực thì giá trị chi trả cổ tức

lớn.

 Đối với việc chia tách cổ phiếu: sẽ có một số điều chỉnh trong giao dịch quyền

chọn. Khi cổ phiếu được chia tách n từ m sẽ làm giá cổ phiếu giảm xuống m/n giá trị

trước đó. Sau khi chia tách n từ m, giá thực hiện sẽ giảm xuống m/n giá trị trước đó và

số lượng cổ phiếu giao dịch trong một hợp đồng sẽ tăng n/m số lượng trước đó.

Nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của một hoặc một nhóm NĐT tới thị trường, các sở

giao dịch quyền chọn thường có quy định giới hạn số lượng tối đa một NĐT có thể

nắm giữ và có thể thực thi quyền trong một đơn vị thời gian. Sở giao dịch quyền chọn

Chicago quy định mức giới hạn đối với một NĐT cho quyền chọn của cổ phiếu lớn

nhất có mức giao dịch nhiều nhất là 75.000 hợp đồng.

Một NĐT mua một quyền chọn có thể kết thúc vị thế của mình bằng một lệnh bán

một quyền chọn có nội dung tương tự. Một NĐT bán quyền chọn có thể kết thúc vị thế

của mình bằng việc mua một quyền chọn tương tự.

Trong giao dịch quyền chọn, NĐT mua quyền chọn có thể trả bằng tiền mặt hoặc sử

dụng tài khoản ký quỹ. Mức ký quỹ ban đầu thường là 50% giá trị của chứng khoán và

phải duy trì mức ký quỹ tối thiểu là 25% giá trị của chứng khoán. Thông thường,

quyền mua có thời gian đáo hạn dưới 9 tháng sẽ phải trả bằng tiền mặt mà không được

sử dụng tài khoản ký quỹ.

Đối với NĐT bán quyền chọn, yêu cầu phải duy trì một tài khoản ký quỹ để đảm

16

bảo thực hiện hợp đồng. Mức ký quỹ cụ thể có quy định trong từng trường hợp.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Trường hợp quyền chọn không có đảm bảo (naked options): mức ký quỹ thông

thường của quyền chọn mua (theo quy định của Sở giao dịch quyền chọn Chicago) sẽ

là một trong 2 giá trị sau tuỳ theo giá trị nào cao hơn.

 Một trăm phần trăm giá trị phí mua quyền chọn đã nhận được cộng với 20% giá

trị thị trường của chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ hiện có trong hợp đồng (nếu

có).

 Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thị trường của

chứng khoán cơ sở.

Mức ký quỹ thông thường của quyền chọn bán sẽ là giá trị nào lớn hơn trong hai

giá trị tính toán sau:

+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 20% giá trị thị trường của

chứng khoán cơ sở trừ đi phần thua lỗ (nếu có).

+ Một trăm phần trăm giá phí quyền chọn cộng với 10% giá trị thực hiện quyền

chọn.

 Trường hợp quyền chọn có đảm bảo (covered options): đối với quyền chọn mua

đó là toàn bộ chứng khoán cơ sở của quyền chọn, biên bản thỏa thuận để bên thứ ba

nắm giữu chứng khoán cơ sở, hoặc chứng khoán có thể hoán đổi ra chứng khoán cơ sở,

hoặc một hợp đồng quyền chọn mua cùng loại chứng khoán cơ sở có thời gian đáo hạn

dài hơn, giá thực hiện thấp hơn, hoặc quyền mua cổ phiếu cơ sở có giá thực hiện ngang

bằng hoặc thấp hơn giá thực hiện quyền chọn.

Đối với quyền chọn bán, người bán quyền chọn phải đảm bảo: số tiền mặt tương

đương với giá trị thực thi hợp đồng hoặc thư đảm bảo của ngân hàng, hoặc số bán

khống chứng khoán cơ sở, hoặc đã mua quyền chọn bán khác cùng loại chứng khoán

có giá thực hiện cao hơn có cùng thời gian đáo hạn (hoặc thời gian đáo hạn dài hơn).

Quyền chọn có thể sử dụng riêng biệt, độc lập hoặc có thể kết hợp theo nhiều cách

khác nhau để tạo ra các sách lược làm biến đổi tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận. Một phương thức

rất thông dụng là mua bán song hành cùng lúc các hợp đồng quyền chọn của cùng một

loại chứng khoán cơ sở. Có nhiều kiểu mua bán song hành nhưng có 2 loại thông dụng

là mua bán song hành chiều dọc và mua bán song hành theo lịch. Mua bán song hành

17

theo chiều dọc là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn có cùng chứng

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

khoán cơ sở, cùng thời gian đáo hạn nhưng khác giá thực hiện. Mua bán song hành

theo lịch là hình thức mua và bán đồng thời các quyền chọn có cùng giá thực hiện

nhưng khác thời gian đáo hạn.

1.1.5 Ưu nhược điểm của quyền chọn:

1.1.5.1 Ưu điểm:

Thứ nhất, có nhiều thời gian hơn để quyết định: Thông qua quyền chọn, mức giá

mua hoặc bán đã được xác định. Tuy nhiên, từ thời điểm hiện tại đến thời điểm thực

hiện NĐT vẫn còn khoảng thời gian đáng kể để cân nhắc kỹ lưỡng việc có mua hoặc có

bán chứng khoán đó hay không. Việc đầu tư một khoản tiền khiêm tốn ban đầu để có

thời gian cân nhắc kỹ lưỡng cho một khoản mục đầu tư lớn trong nhiều trường hợp

cũng đánh giá là đáng giá.

Thứ hai, Cho phép NĐT thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất. Do NĐT

chỉ bỏ ra chi phí nhỏ là giá quyền chọn và một số chi phí liên quan trong quá trình giao

dịch và thanh toán như chi phí môi giới, phí thanh toán... tuy nhiên nếu giá tài sản cơ

sở (cổ phiếu, trái phiếu....) biến động đúng như kỳ vọng của NĐT, lúc này khoản lợi

nhuận là rất lớn.

Thứ ba, Linh hoạt phòng ngừa rủi ro: đây là một trong những đặc điểm nổi bật của

quyền chọn so với công cụ khác như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Dùng quyền chọn, NĐT

có thể hạn chế mức tổn thất tối đa trong phạm vi giá phí quyền chọn. Đối với quyền

chọn bán còn có thể dùng để tự bảo hiểm cho trường hợp giảm giá chứng khoán mà

NĐT đang nắm giữ. Quyền chọn cho phép NĐT xây dựng một danh mục chứng khoán

đa dạng với chi phí ban đầu thấp hơn việc mua thẳng chứng khoán đó.

Thứ tư, quyền chọn là công cụ để tìm kiếm lợi nhuận: Thông qua quyền chọn NĐT

có thể có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận gia tăng từ chi phí đầu tư khiêm tốn ban đầu.

Thông qua việc bán quyền chọn, một số nhà đầu tư cũng sẽ được hưởng giá phí quyền

chọn từ một số NĐT khác.

Thứ năm, tận dụng đòn bẩy tài chính: Thông qua công cụ quyền chọn NĐT có thể

tận dụng đòn bẩy tài chính để kiếm lợi nhuận cao hơn. Giao dịch quyền chọn giúp

NĐT hưởng lợi từ sự biến động của giá chứng khoán mà không cần thanh toán toàn bộ

18

giá trị chứng khoán đó. Thông qua việc tận dụng phối hợp các quyền chọn khác nhau,

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

NĐT có thể thực hiện các chiến lược đầu tư phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh cụ thể

của mình.

1.1.5.2 Nhược điểm:

Giao dich quyền chọn phụ thuộc vào giá trị tài sản cơ sở, mức giá thực thi quyền,

thời gian, độ biến thiên của tài sản cơ sở... Mặt trái cơ bản nhất của quyền chọn là khi

TTCK diễn biến không như kỳ vọng của NĐT, NĐT sẽ mất toàn bộ số tiền bỏ ra để có

được quyền chọn.

Quyền chọn là công cụ phái sinh khá phức tạp. Do đó, khi sử dụng giao dịch quyền

chọn, NĐT cần phải hiểu rõ và biết cách vận dụng các công cụ quyền chọn một cách

linh hoạt. Do đó, rủi ro lớn nhất của quyền chọn là khi chính NĐT không hiểu rõ về

quyền chọn và không biết cách kết hợp các vị thế để giới hạn tổn thất nếu có và gia

tăng lợi nhuận.

Mặt trái của giao dịch quyền chọn là hiện tượng đầu cơ. Các nhà đầu cơ có thể đầu

cơ giá lên hoặc giá xuống bằng các quyền chọn mua và quyền chọn bán. Việc đầu cơ

giá trên các hợp đồng quyền chọn có thể làm giá cả chứng khoán biến động vượt ra

khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các NĐT.

1.1.6 Sự phát triển của thị trường quyền chọn:

Những giao dịch quyền chọn bán và quyền chọn mua đầu tiên được ghi nhận là ở

các quốc gia châu Âu và Mỹ đầu thế kỷ XVIII. Vào đầu những năm 1900, hiệp hội

những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn ra đời. Mục đích của hiệp hội này là

cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau. NĐT muốn

mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ tìm nguời bán

quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các công ty thành viên khác. Nếu

không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị

trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC (Over-The-

Counter).

Tuy nhiên, thị trường quyền chọn phi tập trung này bộc lộ rõ nhiều khiếm khuyết:

 Thứ nhất, do không có thị trường thứ cấp, thị trường này không cung cấp cho

người nắm giữ quyền chọn có hội bán quyền chọn cho một người khác trước khi quyền

19

chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để nắm giữ cho đến khi đáo hạn, và rồi

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng quyền chọn có rất

ít, thậm chí không có tính thanh khoản.

 Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty

môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các

nhà kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền

chọn coi như tổn thất hoàn toàn.

 Thứ ba, phí giao dịch tương đối cao, một phần cũng do hai nguyên nhân kể trên.

Năm 1973 đã có một sự thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền chọn.

Tháng 4 năm 1973, Ủy ban thương mại Chicago (Chicago Board of Trade – CBO)

thành lập Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board Options

Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. CBOE đã tạo

ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách tiêu chuẩn hóa

các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng tính thanh khoản cho

thị trường. Nói cách khác, một NĐT đã mua hoặc bán quyền chọn trước đó có thể quay

trở lại thị trường trước khi hợp đồng đáo hạn và bán hoặc mua quyền chọn, và như vậy

đã bù trừ vị thế ban đầu. Tuy nhiên, quan trọng nhất CBOE đã bổ sung một trung tâm

thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người bán sẽ thực hiện nghĩa vụ theo Hợp

đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường phi tập trung, người mua quyền chọn

không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Ðiều này khiến quyền chọn

trở nên hấp dẫn đối với công chúng. Từ đó thị trường quyền chọn trở nên phổ biến với

NĐT. TTCK Philadelphia (Philadelphia Exchange – PHLX) bắt đầu thực hiện giao

dịch quyền chọn vào năm 1975, TTCK Pacific (Pacific Stock Exchange – PSE) thực

hiện vào năm 1976 và TTCK New York (New York Stock Exchange – NYSE) thực

hiện vào năm 1985.

Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng giao sau với trái phiếu

chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường đấu giá

mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng hộ giá

cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền chọn đã mở lối cho

việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng, như ngô, đậu nành và các

20

sản phẩm khác.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ biến

hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Ðức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và

Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và

thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo ra

những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn giao

dịch diện tử.

Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và Project A

(được CBOT) phát triển. Ở Ðức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ kiểu giao dịch

đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống GLOBEX, các

NĐT cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500, SP500 mini và NASDAQ 100 và

các hợp đồng con. Các NĐT cá thể cũng có thể mua bán ngoại hối trên GLOBEX.

Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT xây

dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)), các

NĐT cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn, và tất cả các

sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc đấu giá

mở ngoài giờ giao dịch chính thức.

Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn phòng

TTCK (Chicago board option Exchange–CBOE, Philadelphia Exchange–PHLX, The

American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE, The New York

Stock Exchange–NYSE...). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng chọn tại các văn

phòng TTCK có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng tương lai. Văn phòng

TTCK phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo hạn và ấn định giá của

hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của họ.Và để giảm rủi ro của việc

thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu chẳng hạn), người đầu tư mở tài

khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ tuỳ thuộc vào loại

hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể. Ðồng thời, cũng có những

quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như những qui định kiểm soát

21

ứng xử của thương nhân, của những người tạo lập thị trường.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

1.2 Chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn:

1.2.1 Phương trình lợi nhuận:

Ký hiệu:

C: giá quyền chọn mua hiện tại

giá quyền chọn bán hiện tại P:

giá cổ phiếu hiện tại S0:

X: giá thực hiện

giá cổ phiếu khi đáo hạn St:

t: thời gian đến khi đáo hạn, dưới dạng phân số theo năm

π: lợi nhuận chiến lược

số quyền chọn mua Nc:

số quyền chọn bán Np:

số lượng cổ phiếu Ns:

Với: Nc, Np, Ns > 0: nhà đầu tư đang mua quyền hay mua cổ phiếu;

Nc, Np, Ns < 0: nhà đầu tư đang bán quyền hay bán cổ phiếu.

Giả sử số quyền chọn mua, quyền chọn bán, cổ phiếu tiêu chuẩn là 100. Để xác

định lợi nhuận từ một chiến lược đặc biệt; chúng ta chỉ cần biết có bao nhiêu quyền

chọn mua, quyền chọn bán và cổ phiếu đang sử dụng, vị thế là dài hạn hay ngắn hạn,

giá mà quyền chọn hay cổ phiếu được mua hoặc bán, và các mức giá khi vị thế được

đống lại.

 Với quyền chọn mua được nắm giữ cho đến khi đáo hạn, chúng ta đã biết rằng

quyền chọn mua sẽ có giá trị bằng giá trị nội tại khi đáo hạn. Vì vậy, lợi nhuận sẽ là:

π = Nc[Max(0, St – X) – C]

 Giả sử có một người mua quyền chọn mua, Nc = 1, có lợi nhuận là:

π = Max(0, St – X) – C

 Đối với người bán một quyền chọn mua, Nc = -1, lợi nhuận sẽ là:

π = - Max(0, St – X) – C

 Đối với quyền chọn bán, lợi nhuận được biểu diễn như sau:

22

π = Np[Max(0, X – St) – P]

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Đối với người mua quyền chọn bán, Np = 1

π = Max(0, X – St) – P

 Đối với người bán một quyền chọn bán, Np = -1

π = - Max(0, X – St) – P

 Đối với giao dịch chỉ bao gồm cổ phiếu, phương trình lợi nhuận là:

π = Ns(St – S0)

 Đối với người mua một cổ phiếu, Ns = 1, lợi nhuận là:

π = St – S0

 Đối với người mua một cổ phiếu, Ns = -1, lợi nhuận là:

π = - (St – S0)

 Đối với việc bán khống cổ phiếu là hình ảnh tương phản của mua cổ phiếu,

Ns<0 lợi nhuận là:

π = Ns(St – S0)

Các phương trình lợi nhuận này khiến cho việc xác định lợi nhuận của bất kỳ giao

dịch nào trở nên dễ dàng hơn.

1.2.2 Giao dịch quyền chọn mua:

1.2.2.1 Mua quyền chọn mua:

Mua quyền chọn mua là chiến lược tăng giá có mức lỗ có giới hạn (phí quyền chọn)

và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn.

Mua quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn có mức lỗ tối đa cao hơn nhưng

lợi nhuận khi giá tăng cũng cao hơn.

Với giá cổ phiếu trước, quyền chọn mua được sở hữu càng lâu, giá trị thời gian mất

đi càng nhiều và lợi nhuận càng thấp.

Lợi nhuận từ việc mua quyền chọn mua là:

π = Nc[Max(0, St – X) – C] với Nc > 0

Xét trường hợp mà số quyền chọn mua được chỉ là 1 (Nc = 1). Giả định rằng giá cổ

phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện vì vậy tại thời điểm đáo hạn ta có

quyền chọn kiệt giá OTM hoặc ngang giá ATM. Vì quyền chịn mua đáo hạn mà không

được thực hiện, lợi nhuận chính là – C. Người mua quyền chọn bán gánh chịu một

23

khoản lỗ bằng phí quyền chọn mua.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Giả định rằng tại thời điểm đáo hạn quyền chọn rơi vào trạng thái cao giá ITM. Khi

đó, người mua quyền chọn sẽ thực hiện quyền chọn mua, mua cổ phiếu với giá X và

giá bán nó với giá St, sẽ có lợi nhuận ròng là St – X – C.

Các kết quả này được tổng kết như sau:

π = St – X – C Nếu St > X

π = – C Nếu St ≤ X

Chúng ta có thể tính giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng cách cho lợi nhuận

*. Ta có:

bằng 0 ứng với trường hợp giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện. Sau đó chúng ta giải

phương trình tìm giá cổ phiếu hòa vốn, St

* – X – C = 0 * = X – C

π = St

= > St

Như vậy, giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng giá thực hiện cộng giá quyền chọn

mua. Giá quyền chọn mua. Giá quyền chọn mua – C là khoản tiền đã được chi trả để

mua quyền chọn mua. Để hòa vốn, người mua quyền chọn mua phải thực hiện quyền

chọn ở một mức giá đủ cao để bù đắp chi phí quyền chọn.

1.2.2.2 Bán quyền chọn mua:

Bán quyền chọn mua là một chiến lược kinh doanh giá xuống và mang lại lợi nhuận

có giới hạn chính là phí quyền chọn, nhưng mức lỗ thì vô hạn.

Bán quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn có mức lợi nhuận tối đa cao hơn

24

nhưng mức lỗ do giá tăng cũng cao hơn.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Với giá cổ phiếu cho trước, vị thế bán quyền chọn mua được duy trì càng lâu, giá trị

thời gian càng mất dần và lợi nhuận càng lớn.

Vì lợi nhuận của người mua và người bán là các hình ảnh trái ngược nhau, phương

trình lợi nhuận của chiến lược này cũng khá quen thuộc. Lợi nhuận của người bán là:

π = Nc[Max(0,St – X) – C] với Nc < 0

Giả định với một quyền chọn mua, Nc = -1. Khi đó lợi nhuận là:

π = C Nếu St ≤ X

π = - St + X + C Nếu St > X

1.2.3 Giao dịch quyền chọn bán:

1.2.3.1 Mua quyền chọn bán:

Mua quyền chọn bán là chiến lược giảm giá có mức lỗ có giới hạn (phí quyền chọn

bán) và có mức lợi nhuận tiềm năng, nhưng có giới hạn.

Mua quyền chọn bán với giá thực hiện cao hơn có mức lỗ tối đa lớn hơn nhưng lợi

nhuận khi giá giảm cũng cao hơn.

Với giá cổ phiếu trước, quyền chọn bán được sở hữu càng lâu, giá trị thời gian mất

đi càng nhiều và lợi nhuận càng thấp. Đối vớ quyền chọn bán kiểu châu Âu, tác động

này ngược lại khi giá cổ phiếu khá thấp.

Lợi nhuận từ việc mua quyền chọn bán được thể hiện qua phương trình là:

25

π = Np[Max(0,X – St) – P] với Np > 0

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Xét việc mua quyền chọn bán duy nhất, Np = 1. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn thấp

hơn giá thực hiện, quyền chọn bán là cao giá ITM và sẽ được thực hiện nếu giá cổ

phiếu kh đáo hạn lớn hơn hoặc bằng giá thực hiện, quyền chọn bán là kiệt giá OTM

hoặc ngang giá ATM. Lợi nhuận là:

π = X – St – P Nếu St < X

π = – P Nếu St ≥ X

Hòa vốn khi đáo hạn xảy ra khi giá cổ phiếu nhỏ hơn giá thực hiện. Cho phương

* – P

trình lợi nhuận bằng 0 ta được:

* khi đáo hạn, kết quả là:

π = X – St

* = X – P

Giải phương trình tìm giá cổ phiếu hòa vốn, St

St

Người mua quyền chọn bán phải bù đắp đủ chi phí quyền chọn đã trả trước nhờ

quyền chọn bán phải bù đắp đủ chi phí quyền chọn đã trả trước nhờ giá thực hiện

quyền chọn. Trong bất kỳ trường hợp nào, mua một quyền chọn bán là một chiến lược

phù hợp nếu dự đoán giá thị trường sẽ giảm. Mức lỗ được giới hạn ở mức phí quyền

chọn, và lợi nhuận tiềm năng cũng khá cao.

Hơn nữa, thực hiện một giao dịch quyền chọn bán sẽ dễ dàng hơn bán khống.

Quyền chọn bán không cần phải được mua khi gá cổ phiếu trong trạng thái tăng lên và

26

số tiền trả cho quyền chọn bán thấp hơn nhiều so với khoản ký quỹ bán khống. Quan

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

trọng hơn, quyền chọn bán giới hạn mức lỗ trong khi bán khống có mức lỗ không giới

hạn.

1.2.3.2 Bán quyền chọn bán:

Bán quyền chọn bán là một chiến lược kinh doanh giá lên và mang lại lợi nhuận có

giới hạn chính là phí quyền chọn và mức lỗ tiềm năng lớn nhưng cũng có giới hạn.

Bán quyền chọn bán với giá thực hiện cao hơn có mức lợi nhuận tối đa cao hơn

nhưng mức lỗ do giá giảm cũng cao hơn.

Với giá cổ phiếu cho trước, vị thế bán quyền chọn bán được duy trì càng lâu, giá trị

thời gian càng mất đi càng nhiều và lợi nhuận càng cao. Đối với quyền chọn bán kiểu

châu Âu, tác động này ngược lại khi giá cổ phiếu thấp.

Phương trình lợi nhuận của người bán quyền chọn bán là:

π = Np[Max(0,X – St) – P] với Np < 0

Xét trường hợp đơn giản của một quyền chọn bán duy nhất, Np = -1. Lợi nhuận của

người bán là hình ảnh tương phản của lợi nhuận ngườ mua

π = P Nếu St ≥ X

π = – X + St + P Nếu St < X

1.2.4 Quyền chọn mua và cổ phiếu – Quyền chọn mua được phòng ngừa:

Nếu nhà kinh doanh quyền chọn sở hữu cổ phiếu, sẽ không còn rủi ro phải mua nó

trên thị trường với mức giá có thể khá cao. Nếu quyền chọn mua đươc thực hiện nhà

27

đầu tư chỉ phải chuyển giao cổ phiếu.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Đứng trên một góc nhìn khác, ngườ sở hữu cổ phiếu mà không bán quyền chọn bán

quyền chọn mua gặp phải rủi ro đáng kể của việc giá cổ phiếu giảm xuống. Bằng cách

bán một quyền chọn mua đối với cổ phiếu đó, nhà đầu tư đã làm giảm rủi ro giảm giá.

Nếu giá cổ phiếu giảm đáng kể, khoản lỗ sẽ được giảm bớt bởi phí quyền chọn nhận

được từ việc bán quyền chọn mua. Mặc dù trong thị trường giá lên quyền chọn có thể

được thực hiện và người sở hữu cổ phiếu phải chuyển giao cổ phiếu.

Khi xác định lợi nhuận của chiến lược quyền chọn mua được phòng ngừa chúng ta

chỉ cần cộng hai phương trình lợi nhuận của hai chiến lược mua cổ phiếu và bán quyền

chọn mua với nhau. Vì vậy:

π = Ns(St – S0) + Nc[max(0,St – X) – C] với Ns > 0, Nc < 0 và Ns = - Nc

Điều kiện cuối cùng, Ns = -Nc, quy định cụ thể rằng số quyền chọn được bán phải

bằng với số cổ phiếu được mua. Xét trường hợp của cổ phiếu và một quyền chọn, Ns =

1, Nc = -1. Khi đó phương trình lợi nhuận là:

π = St – S0 – max(0,St – X) + C

Nếu quyền chọn kết thúc ở trang thái kiệt giá OTM; khoản lỗ của cổ phiếu sẽ được

28

giảm đi nhờ phí quyền chọn. Nếu quyền chọn kết thúc ở trạng thái cao giá ITM, nó sẽ

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

được thực hiện và cổ phiếu sẽ được chuyển giao. Điều này sẽ làm giảm mức lợi nhuận

của cổ phiếu. Các kết quqr này được tóm tắt như sau:

π = St – Sc + C Nếu St ≤ X

π = St – S0 – St + X + C = X – S0 + C Nếu St > X

Trong trường hợp quyền chọn mua kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM, lợi nhuận sẽ

tăng theo mỗi đơn vị tiền tệ khi mà giá cổ phiếu khi đáo hạn cao hơn giá mua cổ phiếu

ban đầu. Trong trường hợp quyền chọn kết thúc ở trạng thái cao giá ITM, lợi nhuận

không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn.

Giá cổ phiếu hòa vốn xảy ra khi lợi nhuậ bằng 0. Điều này xảy ra khi quyền chọn

mua kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM. Cho lợi nhuận bằng 0 đối với trường hợp

quyền chọn mua kiệt giá OTM.

* – S0 + C = 0

* ta được giá hòa vốn:

π = St

Giải phương trình tìm St

* = S0 – C

St

1.2.5 Quyền chọn bán và cổ phiếu – Quyền chọn bán bảo vệ:

Quyền chọn bán bảo vệ ấn định mức lỗ tối đa do giá giảm nhưng lại chịu một loại

phí là lợi nhuận ít hơn khi giá tăng. Nó tương đương với một hợp đồng bảo hiểm tài

sản.

Như đã trình bày ở mục 1.2.4, người sở hữu cổ phiếu muốn được bảo vệ đối với

việc giá cổ phiếu giảm có thể chọn cách bán một quyền chọn mua. Trong một thị

trường giá lên, cổ phiếu gần như sẽ được mua lại bằng cách thực hiện quyền chọn. Một

cách để nhận được sự bảo vệ trước thị trường giá xuống và vẫn có thể chia phần lợi

nhuận trong một thị trường giá lên là mua một quyền chọn bán bảo vệ; nghĩa là nhà

đầu tư đơn giản mua một cổ phiếu và mua một quyền chọn bán.

Phương trình lợi nhuận của quyền chọn bán bảo vệ được thiết lập bằng cách cộng

hai phương trình của chiến lược mua cổ phiếu và chiến lược mua quyền chọn bán. Từ

đó chúng ta được:

π = Ns(St – S0) + Np[max(0,X – St) – P] với Ns > 0, Np >0 và Ns = Np

Giả định rằng có một cổ phiếu và một quyền chọn bán, Ns = Np = 1.Nếu giá cổ

29

phiếu cuối cùng vẫn thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán sẽ được thực hiện.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Kết quả như sau:

π = St – S0 – P Nếu St ≥ X

π = St – S0 + X – St – P= X – S0 – P Nếu St < X

Quyền chọn bán bảo vệ hoạt động như một hợp đồng bảo hiểm. Khi chúng ta mua

bảo hiểm cho một tài sản ví dụ như nhà, chúng ta sẽ trả phí và chắc chắn rằng trong

trường hợp có tổn thất, hợp đồng bảo hiểm sẽ đền bù ít nhất một phần tổn thất. Nếu

như tổn thất không diễn ra trong suốt thời hạn của hợp đồng bảo hiểm, đơn giản chỉ

phải bỏ đi phí bảo hiểm. Tương tự, quyền chọn bán bảo vệ đối với cổ phiếu.

 Trong thị trường giá xuống, lợi nhuận không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi

đáo hạn. Những tổn thất của cổ phiếu được bù đắp bởi lợi nhuận của quyền chọn bán.

Điều này giống như nộp hồ sơ thông báo tổn thất cần đền bù trong hợp đồng bảo hiểm.

 Trong thị trường giá lên, bảo hiểm là không cần thiết và mức lợi nhuận do tăng

giá bị giảm đi do phí quyền chọn trả trước. Lợi nhuận biến động cùng chiều giá cổ

phiếu đáo hạn. St càng cao, lợi nhuận π càng cao.

Giá cổ phiếu hòa vốn vào thời điểm đáo hạn xảy ra khi giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn

*:

hơn giá thực hiện. Đặt mức lợi nhuận này bằng 0 và giải phương trình tìm giá cổ phiếu

hòa vốn St

π = St

* – S0 – P = 0 * = P + S0

30

= > St

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Điểm hòa vốn xảy ra khi giá cổ phiếu vào lúc đáo hạn bằng với giá cổ phiếu ban

đầu cộng với phí quyền chọn. Điều này là hiển nhiên vì giá cổ phiếu phải tăng so với

mức giá cổ phiếu ban đầu một mức đủ để bù đắp phí quyền chọn bán.

1.2.6 Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp:

Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp có thể xây dựng từ các cổ phiếu và

quyền chọn.

 Quyền chọn bán lai tạp: bao gồm một vị thế dài hạn đối với các quyền chọn mua

và vị thế bán khống đối với một số tương đương các cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận:

π = Nc[max(0,St – X) – C] + Ns(St – S0) với Nc > 0, Ns < 0 và Nc = -Ns

Cho số cổ phiếu và số quyền chọn mua đều là 1, lợi nhuận ứng với hai phạm vi giá

cổ phiếu khi đáo hạn là:

π = – C – St + S0 Nếu St ≤ X

π = St – X – C – St + S0 = S0 – X – C Nếu St > X

Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến

động ngược chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn giá thực

hiện, lợi nhuận sẽ không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây là một kết

quả lợi nhuận giống như kết quả của một quyền chọn bán, vì vậy tên của chiến lược

này là quyền chọn bán lai tạp.

 Quyền chọn mua lai tạp: bao gồm một vị thế dài hạn đối với các quyền chọn bán

và vị thế mua một số tương đương các cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận:

π = Nc[max(0,St – X) – C] + Ns(St – S0) với Nc < 0, Ns > 0 và Nc = -Ns

Cho số cổ phiếu và số quyền chọn bán đều là 1, lợi nhuận ứng với hai phạm vi giá

cổ phiếu khi đáo hạn là:

π = C + St – S0 Nếu St ≤ X

π = – St + X + C + St – S0 = X + C S0 Nếu St > X

Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến

động cùng chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn

giá thực hiện, lợi nhuận sẽ không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây cũng

là một kết quả của một quyền chọn mua, do đó tên của chiến lược này là quyền chọn

31

mua lai tạp.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

1.3 Điều kiện áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán:

1.3.1 Điều kiện về sự phát triển thị trường chứng khoán:

Một trong những điều kiện quan trọng để có thể áp dụng quyền chọn trên TTCK là

TTCK phải phát triển đến một mức độ nhất định thể hiện ở:

 Số lượng công ty niêm yết nhiều và có nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn.

 Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại.

 Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán cao, cung cấp nhiều dịch vụ

tiện ích cho khách hàng.

 Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhiều.

 Tính thanh khoản trên TTCK cao.

 Mức vốn hóa thị trường lớn.

Qua thời gian phát triển của TTCK các NĐT cũng sẽ trải qua nhiều rủi ro trước

những biến động khó lường của TTCK. Khi đó các NĐT sẽ phát sinh nhu cầu bảo hiểm

rủi ro và nhu cầu sử dụng quyền chọn chứng khoán để giảm thiểu rủi ro trong kinh

doanh là tất yếu. Hơn nữa khi TTCK đã phát triển thì nhu cầu về chứng khoán phái

sinh nói chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng là cần thiết để NĐT đa dạng hóa

các kênh đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận.

Muốn có một TTCK sôi động thì điều quan trọng là phải làm sao đưa thật nhiều

hàng hóa đa dạng về chủng loại, đảm bảo về chất lượng vào thị trường nhằm thu hút,

kích thích các NĐT sử dụng năng lực của mình để kinh doanh kiếm lời dựa trên các

sản phẩm mà thị trường cung cấp.

Quyền chọn là công cụ chứng khoan phái sinh, sự tồn tại của quyền chọn phụ thuộc

tương đối vào các chứng khoán trên thị trường. Để ứng dụng giao dịch quyền chọn,

trước tiên phải có các chứng khoán trên thị trường, những loại chứng khoán đó là cổ

phiếu, trái phiếu, chỉ số,… Càng nhiều loại chứng khoán trên thị trường, quyền chọn

càng có cơ hội phát triển.

1.3.2 Điều kiện về pháp lý:

Quyền chọn chứng khoán là một sản phẩm chứng khoán phái sinh khá phức tạp. Vì

32

vậy, để có thể áp dụng quyền chọn vào TTCK cần có một cơ sở pháp lý chặt chẽ và

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

hợp lý để có thể kiểm soát được tình hình trước khi đưa quyền chọn chứng khoán ra thị

trường.

Trên TTCK nhiều rủi ro, quyền chọn có phương thức giao dịch khá đặc biệt đó là

có sự tham gia của nhiều bên như: người mua, người bán, CTCK, công ty niêm yết,

công ty thanh toán, công ty lưu ký,… Do đó, luật pháp phải điều chỉnh mọi hành vi của

các đối tượng này để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham gia. Cụ

thể để triển khai quyền chọn chứng khoán cần có luật chứng khoán hoàn chỉnh, bên

cạnh đó cần có luật chứng khoán phái sinh và thị trường phái sinh trong đó quy định rõ

các khái niệm, qui định về quyền chọn và các giao dịch quyền chọn; quy định rõ trách

nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham

gia thị trường.

Do tính chất phức tạp của giao dịch quyền chọn, khiến hoạt động của công cụ

quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên thị

trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…Mỗi

người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết khác

nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu lợi trên

hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ xảy ra

các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, mua bán

tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung gian trong

các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng khoán phát

huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành vi tiêu cực từ

mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch thông tin, thao

túng TTCK thì cần có các các quy định ràng buộc, các yêu cầu về: Nội dung của Hợp

đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở; Quy định về giới hạn giá

và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch để tránh tình trạng thao túng thị trường;

Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh bạch trên thị

trường… Cũng cần phải có những chuẩn mực kế toán phù hợp để điều chỉnh thực hiện

những nghiệp vụ kế toán có liên quan và thể hiện đúng trên báo cáo tài chính.

Ngoài ra cũng cần có những quy tắc, và điều lệ chuẩn mực của các Sàn Giao dịch.

33

Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, cơ

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Từ đó, các sở giao dịch

chứng khoán (SGDCK), trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ có các quy định cụ thể

cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy định trong hợp

đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ, và thanh toán

hợp đồng…. Có các quy định các điều kiện cụ thể cho các loại cổ phiếu được phép

giao dịch trên thị trường quyền chọn (như cổ phiếu của các công ty có tỷ suất sinh lợi

cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính thanh khoản theo yêu cầu để duy trì

việc niêm yết quyền chọn) để đảm bảo quyền lợi cho NĐT. Cũng cần có các điều kiện,

quy định những CTCK nào được phép tham gia vào thị trường quyền chọn này dựa

theo năng lực và uy tín của công ty đó.

Như vậy, để quyền chọn được ứng dụng có hiệu quả cần phải xây dựng được khung

pháp lý mang tính thực tiễn và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật phải điều chỉnh

hoạt động TTCK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường.

1.3.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường:

Đối với TTCK thì thông tin là một yếu tố rất nhạy cảm có tác động trực tiếp đến giá

chứng khoán. Muốn TTCK hoạt động hiệu quả thì việc cung cấp minh bạch, đầy đủ và

kịp thời các thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các thông tin này bao gồm:

thông tin vĩ mô, thông tin DN và thông tin thị trường.

Các thông tin không minh bạch có hậu quả khôn lường. Hậu quả xấu không những

chỉ có thể ảnh hưởng đến các NĐT (cả cá nhân và tổ chức) mà còn có thể ảnh hưởng

đến DN niêm yết nói riêng và TTCK nói chung. Sự thiếu minh bạch và bình đẳng trong

tiếp cận thông tin sẽ hỗ trợ cho các kiểu làm ăn chụp giật và như thế có thể nhanh

chóng hủy hoại lòng tin của NĐT và gây ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới sự phát triển

bền vững của thị trường.

Để đáp ứng được vấn đề minh bạch hóa thông tin thì cần phải có các quy định cụ

thể về việc công bố thông tin như: đối tượng được công bố thông tin, yêu cầu về tính

chính xác của nội dung thông tin được công bố, phương tiện và hình thức công bố

thông tin, quy định cụ thể về việc công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính của

các công ty đại chúng (CTĐC) và tổ chức niêm yết, quy định cụ thể về xử lý vi phạm

34

trong vấn đề công bố thông tin.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Ngoài ra các thông tin cũng phải được cung cấp một các rộng rãi đưa trên các

phương tiện công bố thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố thông tin của trung

tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) hoặc SGDCK để các NĐT có thể tiếp cận một

cách đầy đủ và dễ dàng.

Các giao dịch quyền chọn đều dựa trên sự biến động giá chứng khoán cơ sở, mà sự

biến động giá chứng khoán cơ sở lại dựa vào phản ứng của NĐT trên thị trường thông

qua những thông tin nhận được. Do đó, thông tin minh bạch, đầy đủ và kịp thời là một

điều kiện để NĐT có cơ sở rõ ràng và chính xác để thực hiện các quyết định đầu tư của

mình và là điều kiện cần thiết để thị trường quyền chọn chứng khoán phát triển.

1.3.4 Điều kiện về kỹ thuật:

Hoạt động của TTCK phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào hệ thống máy tính. Đặc

điểm hoạt động của ngành chứng khoán là khối lượng giao dịch rất lớn với yêu cầu

thời gian đặc biệt cấp bách nên bắt buộc phải có sự hỗ trợ của máy tính, vì vậy yêu cầu

về mặt kỹ thuật là rất cao.

Điều kiện về mặt kỹ thuật cho hoạt động của TTCK nói chung và thị trường quyền

chọn nói riêng bao gồm một số yêu cầu cơ bản về kỹ thuật như: hệ thống cơ sở hạ tầng

công nghệ thông tin; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh mua và lệnh bán; kỹ thuật hạch toán và

chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng khoán; kỹ thuật lưu trữ lệnh,…

Việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường đóng

vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường quyền chọn.

1.3.5 Điều kiện về con người:

Nhân tố con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoat động và tất nhiên nó

quyết định sự thành công hay thất bại của việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán ở

TTCK. Tất cả các điều kiện nói trên có thực hiện được hay không là đều do con người.

Con người để điều hành, quản lý, thực hiện nghiệp vụ, đầu tư,… Do đó, để đáp ứng

được giao dịch quyền chọn thì trước tiên phải có con người am hiểu về TTCK cũng

như các lĩnh vực liên quan đến kinh tế. Những con người am hiểu về TTCK không chỉ

là những nhà quản lý TTCK hay đội ngũ thực hiện các giao dịch quyền chọn ở các

CTCK mà cả đại đa số công chúng đầu tư. Chính công chúng đầu tư mới là nhân tố tác

35

động vào nguồn cầu làm cho thị trường này phát triển.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

1.4 Những tác động không mong muốn của quyền chọn chứng khoán:

Qua cơ sở lý luận trên thì ta cũng có thể thấy được một số tác động không muốn

của quyền chọn chứng khoán đến các NĐT, các nhà môi giới cũng như TTCK như sau:

 Đối với nhà đầu tư, người môi giới:

Do sự bất cân xứng thông tin mà những hoạt động kiếm lời không chính đáng thông

qua các hoạt động gian lận, mua bán tay trong, gây thiệt hại cho các NĐT, thậm chí

cho các nhà môi giới – làm trung gian trong các hợp đồng quyền chọn.

Việc sử dụng rộng rãi hợp đồng quyền chọn chứng khoán trên thị trường làm tăng

số lượng giao dịch trên hệ thống của sàn giao dịch chứng khoán nên có thể làm quá tải

mạng giao dịch chứng khoán, và gây ra những lỗi kỷ thuật ảnh hưởng đến giao dịch

của NĐT. Những nhầm lẫn này khó có thể tránh được.

Thông thường một bất lợi cho hầu hết mọi người mới sử dụng quyền chọn, vì họ

thường sẽ bắt đầu mua. Nhưng quyền chọn chứng khoán mất đi giá trị theo thời gian

do đó bạn có được quyền chọn chứng khoán nhưng cũng với thời gian của bạn mất đi.

Quyền chọn chứng khoán thường không phải là khó để dự đoán, nhưng thời gian là

một câu chuyện hoàn toàn khác nhau

Quyền chọn chỉ là một công cụ phòng ngừa giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro chứ

không phải là phương tiện để nhà đầu tư kiếm lời. Nó có lợi nhuận giảm tương đương

với rủi ro giảm khi phòng ngừa băng quyền chọn chứng khoán.

 Đối với thị trường chứng khoán: thị trường vẫn bị kiểm soát bởi các nhà đầu tư

số đông. Quyền chọn chứng khoán đơn thuần chỉ là một công cụ giúp nhà đầu tư phòng

ngừa rủi ro. Vì vậy nếu các nhà đầu tư sử dụng công cụ quyền chọn như là một công cụ

để tạo ra lợi nhuận mà không phải là để phòng ngừa rủi ro ví dụ như bán không chứng

khoán một số lượng lớn thì thị trường lúc những hợp đồng quyền chọn đó kết thúc có

36

thể xảy ra tình trạng xấu, làm thị trường tụt dốc một cách nhanh chóng.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Chương 2: Một vài ví dụ về áp dụng quyền chọn chứng khoán trên

thế giới

2.1 Mô hình Mỹ:

2.1.1 TTCK Mỹ:

TTCK Mỹ hình thành từ năm 1790 có lịch sử phát triển hơn 200 năm. Nét quan

trọng trong cơ cấu thị trường tài chính Mỹ là việc tách rời hoạt động của ngành ngân

hàng và ngành chứng khoán. Rất ít nước trên thế giới theo mô hình của Mỹ. Trên thực

tế, việc tách rời hoạt động của hai ngành chứng khoán và ngân hàng là sự khác biệt nổi

bật trong các quy định về hoạt động của ngành chứng khoán tại Mỹ và các nước khác.

Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế

giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó

đối với các TTCK khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao dịch chứng khoán ở Mỹ

được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối với các hàng hoá là trái

phiếu chính phủ.

SGDCK NewYork (NYSE) là Sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ.

TTCK này của Mỹ còn được gọi là thị trường phố Wall - nơi phôi thai những giao dịch

đầu tiên của nước Mỹ kể từ năm 1864 và hiện là TTGDCK lớn nhất thế giới, quản lý

tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành TTCK

quốc gia.

SGDCK Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là TTCK tập trung lớn thứ 2 ở

Mỹ và hiện nay có khoảng 1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị trường

này. Cũng tương tự như SGDCK NewYork, AMEX hoạt động theo hệ thống đấu giá

mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò quan trọng.

Bên cạnh các TTCK tập trung là các Sở giao dịch (hiện có khoảng 14 Sở GDCK

khác nhau), tại Mỹ còn có OTC rất phát triển đó là Nasdaq.

Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm các ngân

37

hàng đầu tư và các công ty môi giới:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Các ngân hàng đầu tư: khi một công ty muốn vay vốn, công ty thường thuê các

dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp việc chào bán chứng khoán. Mặc dù tên gọi

là ngân hàng đầu tư, nhưng các ngân hàng đầu tư không phải là một ngân hàng theo

nghĩa thông thường, nó cũng không phải là một tổ chức tài chính trung gian đứng ra

nhận tiền gửi và cho vay. Những ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ gồm có Morgan

Stanley, Merrill Lynch, Saiomon Brothes, First Boston Corporation và Goldman Sachs

đã rất thành công trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành không những tại Mỹ mà cả ở các

thị trường ngoài Mỹ.

 Các công ty môi giới: ở Mỹ, các công ty môi giới có thể thành lập dưới bất kỳ

hình thức nào: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc hình thức công ty

hợp danh.

 Có rất nhiều loại môi giới và tự doanh chứng khoán nhỏ chuyên cung cấp một

loại dịch vụ, cũng có những công ty môi giới và nhà tự doanh lớn cung cấp nhiều loại

dịch vụ tài chính đa dạng. Các công ty này tham gia vào mọi hoạt động kinh doanh trên

TTCK như môi giới chứng khoán, cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, cung

cấp các dịch vụ liên quan tới bảo lãnh phát hành, quản lý tiền cho khách hàng, nghiên

cứu và cung cấp các dịch vụ liên quan tới chứng khoán.

Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (Securities Exchange Commission- SEC) là một cơ quan

chính phủ quản lý việc phát hành, mua bán chứng khoán. SEC là cơ quan quản lý chính

của thị trường quyền chọn Mỹ. Nhiệm vụ của SEC là nhằm bảo vệ NĐT, duy trì thị

trường bảo đảm công bằng, kỷ luật, và hiệu quả, tạo điều kiện huy động vốn.

2.1.2 Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (CBOE):

2.1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển:

CBOE là một trong những sàn giao dịch quyền chọn lớn nhất thế giới với lịch

sử hình thành và phát triển được tóm lược như sau: (Nguồn http://www.cboe.com)

Thời gian Sự kiện

1973  CBOE được thành lập.

 Ngày giao dịch đầu tiên (26/04/1973) có 911 hợp đồng mua bán ký kết.

38

1975  Hệ thống báo giá tự động được giới thiệu.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Trung tâm thanh toán các giao dịch quyền chọn được thành lập.

 Mô hình Black-Scholes được áp dụng trong việc định giá quyền chọn.

1977  Bắt đầu giao dịch quyền chọn bán.

 SEC đình chỉ việc mở rộng các giao dịch quyền chọn trong thời gian cơ

quan này xem xét lại việc phát triển quá nhanh của TTCK phái sinh.

1980  CBOE củng cố lại công việc kinh doanh quyền chọn.

1981  CBOE xây dựng trụ sở mới với tổng diện tích 350.000 m2 thay cho quy

mô trước đây là 45.000 m2.

1983  CBOE tiến hành thực hiện cuộc cách mạng trong ngành giao dịch

quyền chọn bằng loại hình giao dịch chỉ số chứng khoán.

 CBOE đưa vào giao dịch quyền chọn chỉ số S&P 100 và giao dịch

quyền chọn chỉ số S&P 5.

1984  Khối lượng giao dịch thường niên qua sàn lần đầu tiên đạt đến con số

100 triệu hợp đồng.

 CBOE khai trương hệ thống tự động thực hiện việc bán lẻ (Retail

Automatic Execution System (RAES)).

1985  CBOE thành lập Viện nghiên cứu về Quyền chọn.

 Đưa vào giao dịch chỉ số NASDAQ.

 Quyền chọn được niêm yết trên NYSE.

1987  TTCK rơi vào khủng hoảng kéo theo sự sụp đổ của TTCK phái sinh.

1989  CBOE bắt đầu chuyển hướng phát triển loại hình giao dịch quyền chọn

lãi suất.

1992  Hội đồng công nghệ quyền chọn (Options Industry Council) được

thành lập với nhiệm vụ mở rộng việc đào tạo cho những NĐT.

1993  CBOE giới thiệu quyền chọn FLEX - tạo ra những điều khoản cơ bản

trong hợp đồng quyền chọn.

 CBOE khai trương chỉ số VIX - một chỉ số đo lường tính không ổn

39

định của thị trường.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

1997  Đưa vào giao dịch chỉ số công nghiệp Down Jones.

 CBOE mua lại bộ phận kinh doanh quyền chọn của NYSE.

1998  CBOE và ngành công nghiệp quyền chọn kỷ niệm 15 năm ngày thành

lập.

 Khối lượng hợp đồng quyền chọn thường niên qua CBOE vượt ngưỡng

200 triệu hợp đồng.

2000  SEC chấp thuận kế hoạch liên kết thị trường quyền chọn Mỹ của

CBOE.

 Số lượng các hợp đồng giao dịch lần đầu tiên vượt ngưỡng 1 triệu hợp

đồng/ngày.

 Khối lượng hợp đồng quyền chọn thường niên qua CBOE đạt 300 triệu

hợp đồng.

2002  CBOE tiếp tục mở rộng hệ thống giao dịch điện tử.

 CBOE bắt đầu phát triển hệ thống giao dịch kép, kết hợp giữa việc mua

bán thủ công trên sàn với giao dịch tự động hóa qua hệ thống điện tử.

2003  CBOE và các sàn giao dịch khác thành công trong kế hoạch kết nối liên

thị trường.

 CBOE kỷ niệm 20 năm ngày giao dịch quyền chọn đầu tiên được thực

hiện.

2005  CBOE đạt khối lượng giao dịch mức 468.249.301 hợp đồng (tăng 30%

so với năm 2004) với tổng giá trị ước tính lên đến 12.000 tỷ đô la Mỹ.

2007  CBOE đạt khối lượng giao dịch mức 944.471.924 hợp đồng (tăng 40%

so với năm 2006).

06/2010  Việc phát hành lần đầu ra công chúng của cổ phiếu CBOE đã đem lại

339 triệu USD và giá trị thị trường của CBOE nâng lên mức 2,97 tỷ USD.

2.1.2.2 Tổ chức sàn giao dịch:

Cơ cấu tổ chức và quản lý của Sàn giao dịch chọn chứng khoán Chicago bao gồm:

Ủy ban giám sát, Ủy ban phân xử, Ủy ban kiểm tra, Ủy ban phụ trách thành viên và Ủy

40

ban phát triển sản phẩm. Các Ủy ban này chịu sự điều hành trực tiếp của Chủ tịch Ủy

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

ban phụ trách lĩnh vực mà mình quản lý. Các Ủy ban có trách nhiệm đảm bảo việc tuân

thủ các luật lệ và nguyên tắc của sàn giao dịch.

 Nhà tạo lập thị trường (Market Makers): là một cá nhân hay người được ủy

nhiệm của một tổ chức mua một seat – là vị trí giao dịch trên sàn. Nhà tạo lập thị

trường chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của người giao dịch đối với quyền chọn. Khi

một nhà giao dịch nào đó muốn mua (bán) một quyền chọn và nếu không có một nhà

giao dịch khác muốn bán (mua) quyền chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ phải thực hiện

vụ giao dịch đó. Để tồn tại, nhà tạo lập thị trường phải tạo ra lợi nhuận bằng cách mua

vào ở một mức giá và bán ra ở một mức giá cao hơn. Nếu một cá nhân muốn trở thành

nhà tạo lập thị trường, cá nhân đó phải tiến hành thủ tục đăng ký, trải qua kỳ thi sát

hạch và cuối cùng nếu vượt qua kỳ thi sát hạch người này được Ủy ban phụ trách thành

viên xác nhận là Nhà tạo lập thị trường.

 Môi giới trên sàn giao dịch (Floor Broker): Đây là một dạng kinh doanh khác

của sàn giao dịch. Nhà môi giới trên sàn thực hiện các giao dịch cho các nhà giao dịch.

Nhà môi giới trên sàn có trách nhiệm giao dịch các lệnh mà anh ta nhận được ở các

mức giá tốt nhất có thể. Để trở thành nhà môi giới trên sàn, một cá nhân phải hoàn tất

thủ tục đăng ký, trải qua kỳ thi sát hạch năng lực và nếu vượt qua kỳ thi sát hạch người

này được Ủy ban phụ trách thành viên xác nhận là Nhà môi giới. CBOE cũng có một

số nhà tạo lập thị trường chính được chỉ định, đó là những người được phép vừa là nhà

tạo lập thị trường vừa là nhà môi giới.

 Nhân viên giữ sổ lệnh (Order Book Officials): Đây là dạng kinh doanh thứ ba

của CBOE. Nhân viên giữ sổ lệnh là một nhân viên của sàn giao dịch, có chức năng

nhận và cập nhật các lệnh giới hạn (là lệnh quy định cụ thể mức giá tối đa có thể trả để

mua hoặc mức giá tối thiểu chấp nhận được để bán) của tất cả khách hàng. Nếu các

điều kiện thay đổi đến mức có ít các mức giá tốt nhất, lúc này, bằng lệnh giới hạn, nhân

viên giữ sổ lệnh sẽ thực hiện giao dịch thay cho các nhà môi giới, khi tiếp thu các lệnh

giới hạn, các nhân viên giữ sổ lệnh này sẽ thông báo giá mua thấp nhất và giá bán cao

nhất đến các nhà tạo lập thị trường. Lệnh sẽ được thực hiện khi các điều kiện thay đổi

41

đến mức có ít nhất một nhà tạo lập thị trường sẵn sàng chấp nhận ở những mức giá đó.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Nhân viên giao dịch (Floor Officials): là các thành viên hoạt động trực thuộc

các Ủy ban giám sát, có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt động giao dịch đảm

bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách thành viên, kiểm tra và

thông báo đến Ủy ban kiểm tra những giao dịch có dấu hiệu bất thường.

 Thư ký thành viên (Member Clerks): là những thư ký của nhà tạo lập thị trường

hay nhà môi giới trên sàn, họ có nhiệm vụ hỗ trợ và giúp đỡ việc nhận lệnh, kiểm tra,

chuyển lệnh giao dịch trên sàn.

2.1.2.3 Giao dịch và thanh toán:

Mô hình của sàn giao dịch CBOE có thể khái quát như sau:

Hình 2.1: Mô hình của sàn giao dịch CBOE

(1a) & (1b) – Người mua và Người bán chỉ thị cho người môi giới của riêng mình

tiến hành một giao dịch quyền chọn.

(2a) & (2b) – Người môi giới của người mua và người bán yêu cầu nhà môi giới

trên sàn của công ty mình thực hiện giao dịch.

(3) – Các nhà môi giới trên sàn gặp gỡ trên sàn giao dịch quyền chọn và thống

42

nhất giá cả.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

(4) – Thông tin về giao dịch được báo cáo cho trung tâm thanh toán bù trừ.

(5a) & (5b) – Nhà môi giới trên sàn thông báo giá cho người môi giới của người

mua và người bán.

(6a) & (6b) – Người môi giới của người bán và người mua thông báo giá về cho

người bán và người mua.

(7a) & (7b) – Người mua hoặc người bán ký gửi phí quyền chọn cho người môi

giới.

(8a) & (8b) – Người môi giới của người mua và người bán ký gửi phí quyền chọn

và tiền ký quỹ cho công ty thanh toán của mình.

(9a) & (9b) – Công ty thanh toán của người môi giới của bên mua và bên bán ký

gửi phí quyền chọn và tiền ký quỹ cho công ty thanh toán bù trừ.

Hàng ngày, các phiên giao dịch sẽ được thực hiện thông qua các hệ thống sàn giao

dịch điện tử tự động (Exchange’s Rapid Opening System) và sàn giao dịch lai ghép

(Exchange’ Hybrid Opening System). Thời hạn giao dịch phải được đảm bảo song

song với TTCK cơ sở. Trình tự giao dịch được sắp xếp thứ tự theo nguyên tắc ưu tiên

theo thời gian đáo hạn gần nhất của các hợp đồng quyền chọn. Nguyên tắc khớp lệnh

được ưu tiên cho giá tốt nhất, nếu các lệnh cùng giá thì ưu tiên cho lệnh giới hạn được

đăng ký trong sổ của nhân viên giữ sổ lệnh, sau đó là thời gian đặt lệnh. Thời gian

khớp lệnh trễ nhất là 3 giờ chiều đối với hợp đồng quyền chọn chứng khoán và 3:15”

chiều đối với các hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán. Việc giao dịch và khớp

lệnh luôn được sự giám sát và xác nhận của các nhân viên điều hành sàn giao dịch.

Một cá nhân muốn giao dịch quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở công ty

môi giới. Sau đó cá nhân này sẽ chỉ thị cho người môi giới mua hoặc bán một quyền

chọn cụ thể. Người môi giới gửi lệnh đến người môi giới sàn giao dịch của công ty trên

sàn giao dịch quyền chọn.

Một NĐT có thể đồng thời đặt nhiều dạng lệnh khác nhau nhằm ứng phó với các

tình huống khác nhau:

 Lệnh thị trường là dạng lệnh chỉ thị các nhà môi giới trên sàn giao dịch nhận

43

mức giá tốt nhất.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Lệnh giới hạn là dạng lệnh quy định cụ thể mức giá cao nhất có thể trả để mua

hoặc mức giá thấp nhất chấp nhận bán. Các lệnh giới hạn có thể có giá trị cho đến khi

bị hủy hoặc có giá trị trong ngày.

 Lệnh có giá trị cho đến khi bị hủy (good-till canceled) là dạng lệnh có hiệu lực

cho đến khi bị hủy bỏ.

 Lệnh có giá trị trong ngày (day order) là dạng lệnh có hiệu lực cho đến hết thời

gian còn lại trong ngày.

 Lệnh dừng (stop order) là dạng lệnh cho phép NĐT nắm giữ một quyền chọn

riêng biệt ở mức giá thấp hơn mức giá hiện tại. Nếu giá thị trường giảm xuống đến

mức giá đã quy định, người môi giới được chỉ thị bán quyền chọn ở mức giá tốt nhất

hiện có.

 Lệnh tất cả hoặc không (all or none order) là dạng lệnh cho phép người môi giới

thực hiện một phần lệnh với giá này và phần còn lại với giá khác.

 Lệnh tất cả hoặc không, cùng giá (all or none, same price order) là dạng lệnh

yêu cầu người môi giới hoặc là thực hiện toàn bộ lệnh với cùng một mức giá hoặc là

không thực hiện lệnh. Các lệnh mua bán phải xác định nhà tạo lập thị trường, nhà môi

giới, mã chứng khoán cơ sở, loại hợp đồng quyền chọn, thời gian đáo hạn, giá thực

hiện, giá chuyển nhượng, khối lượng giao dịch, tên công ty thanh toán thành viên và

được cung cấp đến các thành viên giao dịch có liên quan trên sàn.

Mọi giao dịch thành công trên sàn đều được thông báo đến Công ty thanh toán bù

trừ trên quyền chọn (Option Clearing Corporation - OCC). Các thông tin bao gồm: xác

nhận thành viên Công ty thanh toán có liên quan, loại hình hợp đồng, loại hình chứng

khoán cơ sở, giá thực hiện, thời gian đáo hạn, số lượng hợp đồng, phí giao dịch, nhà

môi giới, tài khoản giao dịch, thời gian mua bán và một số thông tin khác.

Việc thanh toán và thực hiện hợp đồng quyền chọn cũng phải thông qua Công ty

thanh toán bù trừ trên các tài khoản giao dịch của khách hàng. Công tác giao nhận

chứng khoán cơ sở và thanh toán hợp đồng được điều chỉnh bởi các nguyên tắc giao

dịch của Công ty thanh toán bù trừ. Khi đến ngày đáo hạn hay người sở hữu hợp đồng

yêu cầu thực hiện, Công ty đề nghị khách hàng bên mua nộp số tiền tương ứng giá trị

44

hợp đồng đối với quyền chọn mua cổ phiếu, hoặc chứng khoán cơ sở đối với hợp đồng

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

quyền chọn bán, sau đó yêu cầu khách hàng bán quyền chọn nộp cổ phiếu cơ sở hay

tiền mặt tương ứng để tiến hành chuyển giao. Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện

chuyển giao hoặc thanh toán thì sẽ bị Công ty xử lý theo Luật Chứng khoán và các quy

định của Cục dự trữ liên bang.

2.1.2.4 Cơ chế giám sát:

Ở Mỹ, ngành kinh doanh quyền chọn giao dịch trên sàn được quản lý theo nhiều

cấp độ. Mặc dù các quy định của liên bang và từng bang giữ vai trò lớn nhất, ngành

kinh doanh này cũng tự quản lý thông qua các quy tắc và chuẩn mực được thiết lập bởi

các sàn giao dịch và OCC. SEC là cơ quan quản lý chính của thị trường quyền chọn ở

Mỹ. SEC là một tổ chức quản lý liên bang được thiết lập và năm 1934 để giám sát lĩnh

vực kinh doanh chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, quyền chọn và quỹ đầu tư.

Mục tiêu chung của SEC là đảm bảo công khai, đầy đủ các thông tin thích đáng về các

khoản đầu tư được chào bán rộng rãi ra công chúng. SEC có quyền thiết lập một số quy

định, quy trình và điều tra các vụ vi phạm luật chứng khoán liên bang. Nếu SEC tìm

thấy các vi phạm, tổ chức này có thể tìm kiếm sự hỗ trợ bắt buộc, đề nghị Bộ Tư pháp

thụ lý vụ việc hoặc tự áp đặt một số hình phạt.

Quyền quản lý của mỗi bang có thể mở rộng đến từng giao dịch chứng khoán hoặc

quyền chọn diễn ra trong phạm vi của bang đó. Các bang có giao dịch quyền chọn quan

trọng như Illinois và New York đã chủ động thực thi luật riêng của mình về quy tắc

của các giao dịch được tiến hành trong bang.

Với mục tiêu là bảo vệ các nhà giao dịch và đảm bảo việc tuân thủ các quy định của

luật pháp, Sàn giao dịch CBOE cũng thiết lập các bộ phận để giám sát hoạt động trên

sàn giao dịch bao gồm:

 Bộ phận giám sát thị trường: có chức năng đảm bảo tính tuân thủ luật pháp và

các nguyên tắc của việc giao dịch.

 Bộ phận kiểm tra: có chức năng kiểm tra, thanh tra, theo dõi các hiện tượng vi

phạm về tư cách hoạt động, các giao dịch bất thường của các thành viên theo quy định

của Ủy ban chứng khoán và Cục dự trữ liên bang. Các nhân viên giám sát có thể mở

các cuộc thanh tra những thành viên hoặc cá nhân vi phạm căn cứ vào những nguồn

45

thông tin đáng tin cậy. Kết luận của ban thanh tra sẽ được đệ trình đến Ủy ban quản lý

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

kinh doanh chứng khoán để cơ quan này ra quyết định xử lý theo các hình thức: cảnh

cáo, phạt, giới hạn chức năng hoạt động hoặc thậm chí đình chỉ hoạt động của các

thành viên trên sàn.

2.2 Mô hình Châu Âu:

2.2.1 Sàn giao dịch quyền chọn Châu Âu (“Euronext N.V.”):

2.2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển:

Euronext là sàn giao dịch chứng khoán của nhiều nước Châu Âu, đặt trụ sở ở Paris

và có chi nhánh tại Bỉ, Pháp, Hà Lan, Bồ Ðào Nha và Anh.

Euronext được thành lập ngày 22/9/2000 sau vụ sáp nhập của Amsterdam Stock

Exchange, Brussels Stock Exchange, và Paris Bourse, để tận dụng lợi thế từ sự nhất

quán của TTTC Châu Âu. Tháng 12/2001 Euronext mua lại cổ phiếu của Sàn giao dịch

hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai London (LIFFE), sàn giao dịch hiện nay

vẫn hoạt động dưới sự điều hành của bản thân nó. Năm 2002 tập đoàn này tiếp tục sáp

nhập thêm sàn giao dịch chứng khoán Bồ Ðào Nha, Bolsa de Valores de Lisboa e Porto

(BVLP) sau đó đổi tên sàn này thành Euronext Lisbon.

Ngày 22/6/2006 Euronext đã ký hợp đồng sáp nhập vào NYSE với giá 10,2 tỷ

USD. Và vào 28/3/2007 NYSE chính thức thâu tóm thành công Euronext để trở thành

sàn giao dịch chứng khoán toàn cầu đầu tiên trên thế giới dưới cái tên mới NYSE

Euronext, cho phép giao dịch các loại chứng khoán và công cụ phái sinh trong suốt

khoảng thời gian 21 giờ mỗi ngày.

Niêm yết trên Euronext có nhiều công ty thuộc vào nhóm những công ty hàng đầu

thế giới như Total, Royal Dutch Shell Amsterdam, France Telecom...

Hiện nay EURONEXT là TTCK xuyên quốc gia trên thế giới, cung cấp mọi dịch

vụ về giao dịch chứng khoán nhằm hỗ trợ đắc lực cho thị trường tiền mặt và chứng

khoán phái sinh ở Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Ðào Nha. EURONEXT luôn hoạt

động vì mục tiêu củng cố TTTC Châu Âu bằng cách hòa nhập các thị trường quốc gia

tạo thành một thị trường chung với tính thanh khoản và hiệu quả đạt mức cao tối đa.

Mô hình thống nhất của EURONEXT là sự kết hợp sức mạnh và tài chính của mỗi thị

trường địa phương và EURONEXT cũng minh chứng cho cách thành công nhất để sáp

46

nhập các TTCK đơn lẻ đó là tầm nhìn toàn cầu với các thị trường địa phương. Mô hình

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

này đòi hỏi phải có sự kết hợp về công nghệ, tái cơ cấu các hoạt động trong phạm vi

rộng lớn vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, hài hòa hóa các quy tắc thị trường và

kiện toàn khung pháp luật.

Trong suốt giai đoạn đầu củng cố thị trường và nâng cấp công nghệ, EURONEXT

đã không ngừng đa dạng hóa nguồn doanh thu, từ đó tạo một thế đứng vững chắc cho

Sàn châu Âu trước sự biến động mạnh mẽ của TTTC thế giới. EURONEXT cung cấp

một loạt các dịch vụ cao cấp cho khách hàng, bao gồm việc phát hành chứng khoán ra

công chúng, phương tiện giao dịch bằng tiền mặt, tài sản phái sinh cho đến các thủ tục

giao dịch như bù trừ chứng khoán thông qua LCH.Clearnet và thanh toán chứng khoán

tại các Trung tâm lưu ký địa phương. Khách hàng của Sàn EURONEXT cũng rất đa

dạng, gồm các thành viên và thể chế tài chính trực tiếp tham gia giao dịch trên TTCK,

các công ty phát hành chứng khoán được niêm yết trên Sàn, các NĐT tổ chức và cá

nhân tham gia mua bán trên thị trường, các tổ chức khác có sử dụng công nghệ, dịch vụ

và thông tin tài chính của EURONEXT.

2.2.1.2 Hoạt động của Euronext N.V:

Euronext N.V. là sàn giao dịch xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới, nó cung cấp

dịch vụ liên quan đến thị trường các sản phẩm giao sau, thị trường quyền chọn và thị

trường tiền tệ tại Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha.

Kể từ khi thành lập, Euronext N.V. đã củng cố TTTC bằng cách thống nhất những

thị trường trong từng nước trong Châu Âu. Bằng cách thực hiện việc kết hợp này Sàn

giao dịch chứng khoán Châu Âu đã phát huy được thế mạnh của từng thành viên của

nó. Điều này đã chứng minh được rằng: cách tốt nhất để hợp nhất Sàn giao dịch chứng

khoán Châu Âu là cách áp dụng tầm nhìn mang tính chất toàn cầu cho cấp độ địa

phương.

Euronext N.V. có thể đáp ứng cho khách hàng của nó những dịch vụ đa dạng và

rộng lớn. Những khách hàng của sàn giao dịch này bao gồm những tổ chức tài chính,

các công ty có chứng khoán niêm yết trên thị trường, các NĐT, các tổ chức khác có sử

dụng công nghệ, dịch vụ và thông tin của sàn giao dịch này.

Các dịch vụ của Euronext N.V. bao gồm từ môi giới chứng khoán và cung cấp

47

những tiện ích cho việc mua bán các chứng khoán phái sinh đến việc cung cấp các dữ

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

liệu trên thị trường. Sàn giao dịch này được lợi từ việc cung cấp dịch vụ thông qua các

thành viên của nó ở Châu Âu. Thêm vào đó, Sàn giao dịch này còn cung cấp các phần

mềm và các giải pháp về công nghệ thông tin cho khách hàng.

2.2.1.3 Tổ chức và quản lý:

Cơ cấu tổ chức và quản lý của Euronext N.V. về cơ bản bao gồm:

 Ủy ban giám sát:

Ủy ban giám sát đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và quản lý của

Sàn giao dịch. Chức năng của Ủy ban giám sát là việc kiểm tra và giám sát nhằm đảm

bảo việc thực hiện những thủ tục theo đúng quy tắc, quản lý rủi ro, giải trình cho

những NĐT,... Ủy ban giám sát đảm bảo việc tuân thủ những luật lệ được quy định bởi

pháp luật Hà Lan và của những Chính phủ thành viên.

Theo luật Hà Lan, một công ty có hai cấp: Ủy ban giám sát và Ủy ban điều hành.

Ủy ban giám sát là một hội đồng độc lập bao gồm những thành viên độc lập. Ủy ban

giám sát kiểm tra việc thực hiện và đường lối hành động của Ủy ban điều hành, tư vấn

cho Ủy ban điều hành thực hiện nhiệm vụ của nó.

Ủy ban giám sát thông qua những quy tắc và điều lệ Sàn giao dịch. Những quy tắc

và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức,

việc bổ nhiệm, các ủy ban thành viên, tiền công và các cuộc họp.

Ủy ban giám sát ban hành bản giới thiệu sơ lược của Sàn giao dịch, bản giới thiệu

sơ lược này được thay đổi hằng năm nếu cần thiết. Theo bản giới thiệu sơ lược, ít nhất

một thành viên của Ủy ban giám sát phải thành thạo về tài chính và ít nhất một thành

viên phải có kiến thức chuyên môn về nhân sự.

 Ủy ban quản lý:

Ủy ban quản lý là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý Sàn giao dịch và được giám

sát bởi Ủy ban giám sát. Ủy ban quản lý đáp ứng những chiến lược được đề ra của Sàn

giao dịch, đồng thời đặt ra những những tiêu chuẩn và thi hành những quyết định liên

quan đến quản lý. Chủ tịch Ủy ban quản lý báo cáo cho Chủ tịch Ủy ban giám sát theo

định kỳ.

48

 Ủy ban điều hành:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Ủy ban điều hành là một tập thể chịu trách nhiệm điều hành sàn giao dịch chịu sự

giám sát và quản lý bởi Ủy ban giám sát và Ủy ban quản lý. Ủy ban điều hành bao gồm

Chủ tịch Ủy ban điều hành, các thành viên của Ủy ban điều hành, các phòng ban có

liên quan đến tài chính, pháp luật, nhân sự và thông tin.

2.2.2 Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London

(LIFFE):

2.2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển:

Lịch sử hình thành và phát triển của Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài

chính quốc tế London được tóm lược như sau:(Nguồn: http://www.liffe.com)

Thời gian Sự kiện

1982  Sàn giao dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London

(London International Financial Futures and Options Exchange –

LIFFE) được thành lập. Ban đầu LIFFE được thành lập như là một sàn

giao dịch hợp đồng mua bán hàng hóa giao sau và quyền chọn tài

chính.

1992  LIFFE cung cấp những hợp đồng giao dịch về lãi suất đối với

những loại tiền tệ chính trên thế giới.

1993  LIFFE sát nhập với Sàn giao dịch quyền chọn London (Traded

Options Market – LTOM) để làm tăng thêm các giao dịch về quyền

chọn và phạm vi hoạt động.

1996  LIFFE sát nhập với Sàn giao dịch hàng hóa (London Commodity

Exchange – LCE) để trở thành sàn giao dịch với 3 chức năng: Giao

dịch hợp đồng mua bán hàng hóa giao sau, quyền chọn tài chính và

chứng khoán.

1998  LIFFE thiết lập một chương trình nhằm chuyển tất cả các giao

dịch của nó từ hình thức mua bán truyền thống sang sàn giao dịch điện

tử (LIFFE CONNECT).

2000  LIFFE thông báo ý định trở thành Sàn giao dịch dẫn đầu trong

49

lĩnh vực kinh doanh phụ trợ.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

2002  Euronext N.V. và LIFFE được kết hợp để tạo thành Sàn giao

dịch giao sau và quyền chọn tài chính quốc tế London trực thuộc Sàn

giao dịch quyền chọn Châu Âu (Euronext.liffe).

Ngày nay  LIFFE trở thành một trong những sàn giao dịch các sản phẩm

chứng khoán phái sinh xuyên biên giới tinh vi nhất thế giới.

2.2.2.2 Nguyên tắc giao dịch:

Ngày giao dịch: LIFFE mở cửa giao dịch từ thứ 2 đến thứ 6, đóng cửa vào thứ 7,

Chủ nhật, các ngày nghỉ lễ của Vương quốc liên hiệp Anh và vào bất kỳ ngày nào mà

các giao dịch bị đình chỉ theo đạo luật năm 1971 về quan hệ tài chính và ngân hàng.

Tuy nhiên, Ủy ban giám sát có thể quyết định việc mở hay đóng cửa Sàn giao dịch

trong từng thời điểm và quyết định này phải được thông báo trên phương tiện thông tin

đại chúng.

Những hành vi bị cấm: Những người có liên quan đến bất kỳ một hoạt động kinh

doanh nào của LIFFE sẽ không được tham gia vào những giao dịch được cho là có hại

cho thị trường hoặc dẫn đến sự bất công cho các khách hàng hay những người tham gia

trên thị trường.

Tranh chấp: Nếu một hợp đồng đã được ký hay coi như đã được ký thì nó có thể là

đối tượng của việc tranh chấp. Nếu một bên bất đồng ý kiến thì bên đó sẽ phải thông

báo sự bất đồng ý kiến của mình đến nhân viên của Sàn giao dịch. Khi đó nhân viên

của Sàn giao dịch sẽ yêu cầu hai bên tham gia hợp đồng thực hiện những công việc cần

thiết để hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất.

Tư cách pháp lý để tạo nên 1 hợp đồng: Tất cả các hợp đồng phải được thực hiện

trên cở sở hợp đồng mẫu của Sàn giao dịch. Một hợp đồng sẽ không có hiệu lực trong

trường hợp một bên tham gia hợp đồng không có giấy phép giao dịch hợp lệ.

Quyền hạn chế hay đình chỉ một giao dịch:

 Ủy ban giám sát bổ nhiệm một số thành viên có quyền hạn chế hay đình chỉ các

giao dịch. Phải có ít nhất hai thành viên được bổ nhiệm mới có quyền hạn chế hay đình

chỉ một giao dịch nhất định. Các thành viên hạn chế hay đình chỉ một giao dịch nếu

cho rằng giao dịch đó có ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của Sàn giao dịch hoặc để duy

50

trì tính công bằng và minh bạch của thị trường.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Ủy ban giám sát đề ra những thủ tục nhằm hướng dẫn các thành viên thực hiện

quyền hạn chế hay đình chỉ giao dịch. Những thủ tục này cũng hướng dẫn việc khởi

động lại các giao dịch bị hạn chế hay đình chỉ này nếu chúng khả thi và các bên tham

gia giao dịch mong muốn tiếp tục thực hiện chúng.

 Những điều khoản quy định áp dụng trong trường hợp khẩn cấp:

 Trong trường hợp khẩn cấp, Ủy ban giám sát có thể thực hiện tất cả các biện

pháp nhằm kiểm tra và hiệu chỉnh các giao dịch. Các biện pháp kiểm tra và hiệu chỉnh

các giao dịch bao gồm việc đình chỉ hay hạn chế các giao dịch trong một khoản thời

gian nhất định nào đó.

 Ủy ban giám sát bổ nhiệm một số thành viên vào Ủy ban tư vấn thị trường

(Market Advisory Committee) với mục đích giúp Ủy ban giám sát thực hiện những

biện pháp kiểm tra hiệu chỉnh các giao dịch trong trường hợp khẩn cấp.

2.2.2.3 Quy trình giao dịch:

Quy trình giao dịch của LIFFE có thể khái quát như sau:

Hình 2.2: Quy trình giao dịch của LIFFE

 Lệnh giao dịch: Các lệnh giao dịch có thể gửi đến Sàn giao dịch từ khi bắt đầu

mở cửa đến lúc đóng cửa giao dịch. Trên LIFFE CONNECT:

51

Bỏ giá sẽ được xem là một lệnh đặt mua;

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Chào giá sẽ được xem là một lệnh bán;

Chấp thuận được định nghĩa là việc khớp lệnh mua và bán tại hệ thống đặt lệnh

trung tâm.

Các lệnh giao dịch bao gồm các loại lệnh giao dịch sau đây:

 Đơn lệnh giới hạn: Đơn lệnh giới hạn được nhập vào sổ khớp lệnh trung tâm và

sẽ được xử lý ở mức giá được nêu rõ hoặc ở một mức giá tốt hơn. Phần còn lại của đơn

lệnh giới hạn (nếu có) vẫn có thể lưu lại tại sổ khớp lệnh trung tâm cho đến khi nó

được giao dịch hoặc bị rút lại. Tất cả đơn lệnh giao dịch sẽ tự động bị rút lại khi Sàn

giao dịch đóng cửa. Nói cách khác các đơn lệnh giới hạn có giá trị cho đến khi bị hủy

hoặc có giá trị trong ngày.

 Đơn lệnh giao dịch: Đơn lệnh giao dịch được nhập vào sổ khớp lệnh trung tâm

và sẽ được thực hiện ở các mức giá tốt nhất có tại thị trường. Số lượng chứng khoán

còn lại trong đơn lệnh giao dịch sẽ tự động bị hủy bởi Sàn giao dịch.

 Đơn lệnh giao dịch mở: Đơn lệnh giao dịch mở có thể gửi cho Sàn giao dịch

trước khi mở cửa, đơn lệnh giao dịch này sẽ được thực hiện ở mức khớp lệnh tại thời

điểm mở cửa. Trong trường hợp chỉ một phần đơn lệnh giao dịch mở được thực hiện

tại thời điểm mở cửa, thì số lượng còn lại sẽ được chuyển thành đơn lệnh giới hạn ở

mức giá khớp lệnh mở cửa của giao dịch đó.

 Thực hiện giao dịch:

Các tiêu chuẩn về lệnh giao dịch sau sẽ được xác định ưu tiên giao dịch: ưu tiên về

giá, ưu tiên về thời gian đặt lệnh, ưu tiên về tỷ lệ giao dịch và Đơn lệnh giao dịch mở

được ưu tiên hơn Đơn lệnh giới hạn.

Khi xảy ra hiện tượng giá đấu thầu cao hơn giá chào (backwardation) hoặc giá đấu

thầu bằng giá chào (choice prices) tại thời điểm mở cửa giao dịch, Sàn giao dịch sẽ tự

động tính toán giá mà tại đó khối lượng giao dịch được thực hiện nhiều nhất. Các lệnh

thực hiện theo cách này sẽ được giao dịch tại giá bằng hoặc tốt hơn giá nhập và các

lệnh chưa được thực hiện sẽ lưu lại cho đến khi nó được giao dịch hoặc bị rút lại.

Chi tiết các giao dịch trên Sàn giao dịch sẽ được chuyển đến nơi đăng ký giao dịch

và đến tất cả những người tham gia đã đăng nhập vào thị trường. Tất cả chi tiết của các

52

giao dịch sẽ được công bố dạng vô danh.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Riêng Hợp đồng giao sau và Hợp đồng quyền chọn, trong suốt thời gian trước khi

hoàn tất việc giao dịch, chi tiết về giá và khối lượng mở sẽ được công bố đến tất cả

thành viên đã đăng nhập vào thị trường.

 Mất hiệu lực giao dịch:

Sàn giao dịch có thể xóa các đơn lệnh ra khỏi sổ khớp lệnh trung tâm theo yêu cầu

của nhà giao dịch.

Khi Sàn giao dịch xác định là một giao dịch được thực hiện với giá không phù hợp

thì Sàn giao dịch có thể tuyên bố mất hiệu lực giao dịch. Các tiêu chuẩn để xem xét

đưa ra quyết định là:

 Mức giá mở cửa;

 Giá của các hợp đồng tương tự;

 Biểu đồ giá trong tháng;

 Điều kiện thị trường hiện tại, trong đó có mức hoạt động và dao động;

 Tốc độ thực hiện giao dịch;

 Thông tin liên quan đến thay đổi giá trong thị trường có liên quan, công bố dữ

liệu kinh tế hoặc các tin liên quan ngay trước hoặc trong thời điểm giao dịch;

 Lỗi kê khai;

 Giao dịch gần thời hạn đóng cửa thị trường.

Khi một giao dịch bị tuyên bố mất hiệu lực các bên có liên quan sẽ được thông báo

bằng điện thoại hoặc tin nhắn từ Sàn giao dịch.

 Hiệu chỉnh sai sót:

Nếu có một sai sót trong việc thi hành hợp đồng, Sàn giao dịch sẽ đề nghị biện pháp

khắc phục đến các bên có liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Để có giấy chứng nhận hiệu chỉnh sai sót, các bên phải cung cấp cho Sàn giao dịch:

 Các bằng chứng về việc giao dịch;

 Các Hợp đồng có liên quan;

 Các thủ tục khai báo hiệu chỉnh sai sót được ký bởi hai bên.

Sàn giao dịch cũng có thể yêu cầu các bên cung cấp thêm các thông tin khác trong

53

trường hợp cần thiết.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

2.3 Mô hình Nhật:

2.3.1 Thị trường chứng khoán Nhật:

Trước đây, mô hình công ty chứng khoán tại Nhật Bản cũng tương tự như mô hình

của Mỹ, tức là mô hình công ty chuyên doanh. Ngân hàng không được phép tham gia

vào hoạt động chứng khoán.

Theo luật cải cách các định chế ban hành tháng 04/1993, các tổ chức ngân hàng

được phép tham gia vào TTCK thông qua các công ty chứng khoán còn nhằm tăng sự

cạnh tranh trên TTCK. Đồng thời, các công ty chứng khoán lại được phép thành lập

công ty con làm dịch vụ ngân hàng.

Sau khi luật trên được ban hành, công ty chứng khoán con thuộc năm tổ chức ngân

hàng đã nhận giấy phép kinh doanh chứng khoán và đã bắt đầu cung cấp các dịch vụ về

chứng khoán vào năm 1993. Sau đó, năm 1994 có 8 ngân hàng, 1995 có them 4 ngân

hàng và 1996 có them 2 tổ chức ngân hàng được cấp giấy phép thành lập công ty

chứng khoán con.

Kinh doanh chứng khoán ở Nhật được chia làm 4 loại hình, mỗi loại hình phải có

giấy phép riêng biệt:

 Tự doanh hoặc kinh doanh chứng khoán do các công ty chứng khoán tiến hành

cho chính bản than họ.

 Môi giới chứng khoán hay kinh doanh chứng khoán trên cơ sở lệnh của khách

hàng.

 Bảo lãnh phát hành chứng khoán: bảo lãnh chứng khoán mới phát hành hoặc

chào bán các chứng khoán đang lưu hành.

 Chào bán chứng khoán hay tham gia vào hệ thống bán lẻ các chứng khoán phát

hành ra công chúng.

Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của Luật Cải Cách các định chế nêu trên, các

công ty chứng khoán con thuộc các ngân hàng không được tham gia vào môi giới cổ

phiếu, bảo lãnh phát hành và giao dịch cổ phiếu, kinh doanh các loại chứng khoán có

liên quan tới cổ phiếu, kinh doanh các hợp đồng quyền chọn tương lai, quyền chọn.

54

Đồng thời các luật liên quan và các quy chế đều có điều khoản buộc phải thi hành các

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

biện pháp nhằm ngăn chặn có hiệu quả các giao dịch dễ dàng giữa công ty chứng

khoán mẹ và các công ty khác có liên quan đến nó.

Từ những năm 1940, Nhật áp dụng chế độ đăng ký hoạt động như tại Mỹ. Tới cuối

năm 1949, ở Nhật có 1.127 công ty chứng khoán đăng ký hoạt động. Mãi tới những

năm 1960, Nhật mới chuyển từ chế độ đăng ký sang chế độ cấp phép. Sauk hi áp dụng

chế độ cấp phép, số công ty chứng khoán giảm xuống còn 277. Đến năm 1996, số công

ty chứng khoán đã giảm xuống còn 230 do các công ty sáp nhập, chuyển loại hình kinh

doanh.

Theo luật chứng khoán của Nhật, chỉ có các công ty cổ phần được Bộ tài chính

Nhật cấp phép mới được tham gia vào kinh doanh chứng khoán.

Về sự tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Nhật: trong một thời gian dài kể từ

khi thành lập cho đến năm 1972, Nhật mới cho phép công ty chứng khoán nước ngoài

mở chi nhánh tại Nhật. Quy định càng được nới lỏng theo sự phát triển của thị trường.

Theo luật hiện hành của Nhật, các công ty chứng khoán nước ngoài khi mở chi nhánh

tại Nhật phải được phép của Bộ Tài chính Nhật.

2.3.2 Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE):

2.3.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển:

Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo (Tokyo Stock Exchange – TSE) là sàn giao dịch

chứng khoán và các hợp đồng phái sinh lớn thứ hai thế giới tính về lượng tiền tệ chỉ

xếp sau Sàn giao dịch chứng khoán New York. Hiện tại Sàn giao dịch này niêm yết

khoảng 2.355 công ty nội địa và 22 công ty nước ngoài với tổng khối lượng vốn hóa thị

trường 3.600 tỷ đô la Mỹ.

Sau đây là bảng tóm tắt lịch sử hình thành phát triển TSE:

Thời gian Sự kiện

15/05/1878  Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo được thành lập. Thực hiện giao

dịch bắt đầu từ ngày 01/06/1878.

30/06/1943  TSE hợp nhất với 11 sàn giao dịch của các thành phố lớn khác ở

Nhật tạo thành Sở giao dịch chứng khoán Nhật Bản.

55

16.04/1947  Sở giao dịch chứng khoán Nhật Bản đã giải tán.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

3/1947  Luật giao dịch chứng khoán va Sở giao dịch chứng khoán được ban

hành, và chính thức sửa lại vào tháng 4/1948.

01/04/1949  Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo được khô phục lại (đi vào hoạt

động ngày 16/05/1949).

1983–1990  Đây là thời kỳ phát triển được gọi là thần kỳ trong lịch sử của STE.

03/09/1988  TSE bắt đầu tiến hành giao dịch các hợp đồng tương lai.

20/10/1989  TSE bắt đầu giao dịch các hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng

khoán.

1990  Lượng tiền tệ giao dịch qua STE chiếm hơn 60% lượng tiền tệ giao

dịch trên TTCK thế giới.

18/07/1997  TSE đưa vào hệ giao dịch các hợp đồng quyền chọn chứng khoán.

09/05/2000  Hệ thống giao dịch điện tử mới được đưa vào sử dụng.(TSE

Arrows)

09/04/2001  TSE phố hợp với Công ty Standard & Poor, chọn ra 150 chứng

khoán cơ sở có độ thanh khoản cao nhất thời bấy giờ làm danh mục đầu

tư chứng khoán và tiến hành giao dịch các hợp đồng quyền chọn chỉ số

chứng khoán S&P và TOPIX 150.

Hiện nay Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo là một công ty dạng chuyên doanh với

11 Giám đốc (Ban Giám đốc), 4 kiểm toán vên và 6 giám đốc điều hành. TSE thực

hiện hai phiên giao dịch: phiên giao dịch sáng (9h – 11h) và phiên giao dịch chiều

(12h30 – 15h) vào các ngày từ thứ 2 đến thứ 6 trong tuần. Bên cạnh các loại hàng hóa

được giao dịch thông thường trên sàn là cổ phếu, trái phiếu Chính phủ, TSE còn giao

dịch các loại hợp đồng tương lai, quyền chọn tài sản, chứng khoán và chỉ số chứng

khoán.

2.3.2.2 Cơ chế giao dịch:

Hợp đồng quyền chọn được thực hiện trên sàn giao dịch TSE thông qua các thành

viên giao dịch tổng hợp (General Trading Participant). Tất cả các lệnh và tiến trình

56

giao dịch đều được thực hiện trên hệ thống tự động (Computerized Order Routing and

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Execution System for Futures and Options – CORES-FOP), tất cả các lệnh giao dịch sẽ

được nhập vào hệ thống vi tính nối mạng với Sở giao dịch.

Quy trình giao dịch quyền chọn trên TSE có thể được khái quát như sau:

Hợp đồng quyền chọn trên STE là dạng hợp đồng quyền chọn theo kiểu Châu Âu.

Nó chỉ cho phép người nắm giữ thực hiện hợp đồng hợp đồng quyền chọn vào ngày

đến hạn. Khách hàng muốn mua (bán) một quyền chọn phải báo cho nhân viên môi

giới trước 12h sáng hoặc 4h chiều của ngày giao dịch. Nhân viên môi giới sẽ phải gửi

thông báo giao dịch đến TSE thông qua hệ thống CORES-FOP trước 12h45 sáng hoặc

4h45 chiều.

Khách hàng muốn giao dịch hợp đồng quyền chọn (chứng chỉ hay chỉ số chứng

khoán) trên TSE phải mở một tài khoản tại các thành viên trên sàn để thực hiện việc

thanh toán. Trước khi đặt lệnh, khách hàng phải ký quỹ vào tài khoản và ủy quyền cho

các thành viên giao dịch thông qua các tài khoản này.

Trong trường hợp số tiền ký quỹ không đáp ứng được giá trị giao dịch hoặc nghĩa

57

vụ thanh toán, khách hàng phải ký quỹ bổ sung ngay sau ngày hôm sau.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Sau khi nhân viên môi giới gửi thông báo giao dịch, TSE sẽ chỉ định một nhân viên

môi giới một cách ngẫu nhiên để thực hiện giao dịch quyền chọn. Nhân viên môi giới

được chỉ định này sẽ tìm kiếm các khách hàng muốn mua (bán) quyền chọn đó để thực

hiện việc giao dịch. Nếu không có khách hàng nào muốn mua (bán) quyền chọn đó thì

TSE sẽ phải thực hiện nhiệm vụ giao dịch đó.

Tất cả các cao giá quyền chọn (ITM) đều được tự động thực hiện vào ngày đáo hạn

trừ những trường hợp khác được chỉ định. Tất cả các quyền chọn không được thực hiện

đều tự động hết hiệu lực vào ngày tiếp theo của ngày đáo hạn.

Đến thời điểm đáo hạn, nếu khách hàng muốn thực hiện hợp đồng thì phải chỉ thị

cho các thành viên giao dịch trên sàn trước 16h của ngày giao dịch, các thành viên có

trách nhiệm thông báo việc thực hiện cho TSE thông qua hệ thống CORES-FOP trước

16h15. Khi đó, TSE sẽ chỉ định các thành viên có liên quan trên sàn giao dịch thực

hiện chuyển giao thông qua hệ thống thanh toán vào ngay ngày hôm sau với lượng tiền

hay chứng khoán tương ứng được thể hiện trong hợp đồng.

2.3.2.3 Cơ chế giám sát:

Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo tự xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ để

giám sát các hoạt động và tư cách của các thành viên điều hành lẫn các thành viên giao

dịch trên sàn trên cơ sở tuân theo quy định, điều lệ giao dịch của sàn giao dịch và Luật

chứng khoán Nhật Bản. Theo đó, hệ thống quy định rõ phạm vi quyền hạn, trách nhiệm

và nghĩa vụ của từng bộ phận và thành viên trên sàn giao dịch.

Bằng hệ thống này, các hoạt động giao dịch được điều chỉnh một cách kịp thời và

đảm bảo tính an toàn cho thị trường, phòng ngừa những hành vi gian lận theo quy định

của pháp luật và giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư.

Hệ thống quản lý giám sát TSE được tổ chức trên sự phối hợp hoạt động các bộ

phận chức năng:

 Bộ phận quản lý công ty thành viên.

 Bộ phận thị trường.iii

 Bộ phận niêm yết.

58

 Bộ phận giám sát và tuân thủ.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

2.4 Nghiên cứu về khủng hoảng tài chính 2008:

2.4.1 Mức độ sử dụng công cụ phái sinh cho mục đích phòng ngừa và đầu

cơ:

Các công cụ phái sinh lần đầu xuất hiện không ngoài mục đích giảm thiểu hay loại

bỏ rủi ro cho nhà đầu tư. Theo thời gian, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển

mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi tại các thị trường lớn trên thế giới.

Theo thống kê của ngân hàng thanh toán quốc tế cho thấy, đến hết năm 2006, số dư

hợp đồng giao dịch phái sinh trên thị trường tài chính quốc tế tương đương 417 tỷ

USD. Tính đến cuối tháng 9/2008, tổng giá trị chứng khoán phái sinh trên thế giới vào

khoảng gần 600 nghìn tỷ USD, với tổng giá trị danh nghĩa lên tới trên 1,28 triệu nghìn

tỷ USD.

Hình 2.4: Tổng giá trị danh nghĩa chứng khoán phái sinh

của hệ thống ngân hàng Mỹ

Các công cụ tài chính phái sinh được xem như là phương thức duy nhất cho các

chủ thể trên thị trường phòng chống rủi ro. Trong đó, các doanh nghiệp sử dụng nhiều

nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracs), hợp đồng tương lai (future contracts). Các

công cụ tài chính được các nhà đầu tư sử dụng để thực hiện các giao dịch phái sinh tiền

59

tệ, lãi suất và chỉ số chứng khoán.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Theo số liệu về doanh số của các công cụ tài chính phái sinh toàn cầu tháng 6/2007,

các giao dịch phái sinh tiền tệ chiếm tỷ lệ khoản 9%, giao dịch phái sinh lãi suất chiếm

khoảng 68% và giao dịch phái sinh trên chỉ số chứng khoán là 23%.

Hình 2.5 : Tỷ trọng các giao dịch phái sinh

Ngoài ra, chúng còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hay những

chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo. Tuy nhiên, cũng chính vì

những biến đổi hình thái như vậy cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của của thị trường

tài chính làm cho công cụ tài chính phái sinh có thêm một chức năng mới ngoài phòng

ngừa rủi ro, là sử dụng nhiều hơn để tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các hoạt động

đầu cơ. Như giáo sư Stanley R.Pliska trường đại học Illinois, Chicago Mỹ cho biết:

“Bên cạnh việc giúp các nhà đầu tư quản lý rủi ro, thị trường chứng khoán phái sinh

cũng được dùng để đầu cơ khi nhà đầu cơ hướng về sự giao động giá trong tương lai”.

Hình 2.6: Mức độ sử dụng công cụ phái sinh trong phòng ngừa và đầu cơ.

Theo điều tra đối với 500 công ty lớn nhất trên thế giới tại 26 quốc gia khác nhau

60

thì có tới 92% các công ty trả lời rằng họ sử dụng thường xuyên công cụ tài chính phái

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

sinh để phòng ngừa và quản lý rủi ro và còn lại là sử dụng nhằm mục đích kinh doanh

kiếm lời.

Các công cụ tài chính ngày càng tinh vi và mang theo một số rủi ro gây gián đoạn

lớn hơn độ rủi ro thông thường. Một ví dụ đó là vào ngày 19/10/1987 - ngày thứ hai

đen tối - đã xảy ra một cuộc “di cư tập thể” ra khỏi thị trường cổ phiếu dẫn tới sự sụp

đổ của thị trường cổ phiếu Mỹ do việc sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta.

Những người bảo hiểm này đã đầu tư mạnh hơn vào thị trường mà nếu như không có

kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như vậy.

Xét cụ thể trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, Thành viên Hội

đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ Nguyễn Thị Mùi nhận định:

“Công cụ phái sinh như “con dao hai lưỡi”. Một mặt, nó là công cụ phòng chống rủi ro

để kiếm lời nhưng đồng thời nó cũng lại làm nảy sinh rủi ro. Cuộc khủng hoảng tài

chính lần này của Mỹ chính là do sự phát triển quá nóng của của các công cụ phái sinh

và trong đó có công cụ của thị trường bất động sản là chứng khoán hoá bất động sản”.

2.4.2 Trường phái cho rằng công ty không nên sử dụng công cụ phái sinh:

2.4.2.1 Công cụ phái sinh – Tác nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu:

Một thực tế mà ta có thể thấy rõ rằng, nền kinh tế toàn cầu đã tăng trưởng như một

quả cầu lửa trong những năm gần đây bị chi phối bởi sự tiếp cận quá dễ dàng những

nguồn tín dụng với chi phí cực kỳ rẻ. Một phần của vấn đề này là do việc cắt giảm lãi

suất của FED, với việc cắt giảm lãi suất liên tục từ năm 2000 đến giữa năm 2004. Đặc

biệt, FED đã cắt giảm còn 1% vào tháng 7/2003 - mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ

qua.

Điều này đã làm cho nền kinh tế Mỹ giống như một chiếc lò xo bị đè nén mạnh bây

giờ được thả bật tung ra trở nên tăng trưởng nhanh chóng thông qua việc kích cầu để

sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Khi nền kinh tế đã ổn định, lãi suất thấp vẫn được duy trì cộng với sự phát triển

mạnh mẽ của thị trường bất động sản làm cho nhu cầu đi vay mua nhà, mua đất gia

tăng chóng mặt. Không chỉ có lãi suất thấp mà việc cho vay quá dễ dàng đã tạo ra một

61

làn sóng ồ ạt các nhà đầu cơ tham gia đầu cơ bất động sản - một thị trường đầy mật

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

ngọt. Rồi điều gì đến đã đến, khi FED tăng lãi suất lên 5,25% vào cuối 2006, quả bóng

nổ tung, thị trường bất động sản tuột dốc và hoàn toàn đóng băng trong năm 2007 kéo

theo sự tuột dốc của giá hàng loạt các loại chứng khoán.

Hình 2.7 :Lãi suất ở Mỹ giai đoạn 2001-2005

Trong cơn bão tài chính, khi giá trị tài sản tài chính, ở đây là các chứng khoán bất

động sản, sụt giảm mạnh mẽ thì số phận của các tổ chức tín dụng cũng lung lay theo.

Và giờ đây hầu hết các ngân hàng đầu tư đã sụp đổ hoặc bị sáp nhập, những tên tuổi

lẫy lừng chỉ còn là huyền thoại.

Một điều đáng quan tâm là sự ra đời và góp mặt của các công cụ tài chính phái sinh

- công cụ đã và đang đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển của thị trường

tài chính. Đồng thời, cuộc khủng hoảng hiện nay xảy ra như một hậu quả tất yếu từ sự

phát triển quá nóng của chính các công cụ tài chính này. Cũng có ý kiến cho rằng sự ra

đời của công cụ phái sinh đã như một quả bom nổ chậm và tới thời điểm hiện nay quả

bom đã được khai hoả, nổ tung với tầm ảnh hưởng toàn cầu.

Như đã đề cập, thị trường nhà đất phát triển mạnh mẽ trong 10 năm trở lại đây. Lúc

này các định chế tài chính đổ xô nhau “sản xuất” ra những hợp đồng cho vay dưới

chuẩn thậm chí còn tiếp thị rồi khuyến khích cả những người không đủ khả năng về tài

chính đi vay tiền mua nhà góp phần tham gia vào thị trường béo bở này. Điều tệ hại

hơn khi các tổ chức tài chính phố Wall đã tập hợp các hợp đồng cho vay bất động sản

này lại thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế.

62

Đó là một dạng của “phát kiến tài chính” được mang tên “Mortgage backed

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

securities” - một sản phẩm tài chính phái sinh được đảm bảo bằng những hợp đồng

cho vay bất động sản có thế chấp. Các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư

cùng các quỹ hưu trí đã tranh nhau mua các hợp đồng này do họ đã bị che đi bởi một

bức màn vô hình do các tổ chức giám định hệ số tín nhiệm (Credit rating agencies ) tạo

ra khi các tổ chức này đã đánh giá cao cho các loại sản phẩm phái sinh này. Họ mua

mà không hề hay biết rủi ro thực sự của các hợp đồng cho vay này - những hợp đồng

cho vay bất động sản dùng để đảm bảo không đủ tiêu chuẩn. Việc mua bán các khoản

nợ trong đó có rất nhiều nợ dưới chuẩn tiếp tục thực hiện từ tổ chức này sang tổ chức

khác, từ cá nhân này sang cá nhân khác. Các hợp đồng nợ dưới chuẩn đã được “bôi

trơn và đánh bóng” bởi những nhà đầu tư lớn ở phố Wall thông qua các “phát kiến tài

chính”. Từ đây, nghiệp vụ chứng khoán hoá được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, tức khi thời tiết trở nên ngày càng nóng bức,

đến một mức độ nào đó trời bắt đầu mưa làm nhiệt độ hạ xuống. Cũng theo quy luật

đó, khi thị trường bất động sản đã phát triển quá nóng, đi đến đỉnh điểm nó bắt đầu hạ

nhiệt.

Hình 2.8: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995 - 2007

Rồi khi thị trường bất động sản đóng băng, người đi vay không trả được nợ do bán

bất động sản với giá cực kỳ thấp không đủ để thanh toán các khoản nợ thậm chí là

không bán được, bất động sản rớt giá trầm trọng. Từ đó nảy sinh hậu quả là các hợp

63

đồng cho vay bất động sản dùng để đảm bảo cho trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

phiếu MBS cũng như bất động sản trở nên mất giá trên thị trường thứ cấp thậm chí

còn không mua bán được trên thị trường. Các ngân hàng rơi vào tình trạng khốn đốn,

gánh chịu các khoản lỗ khổng lồ dẫn tới mất khả năng thanh toán.

Khi cuộc khủng hoảng bùng nổ, các chuyên gia đã ước tính rằng trong 22000 tỷ

USD giá trị bất động sản tại Mỹ - tâm chấn của cuộc khủng hoảng – có tới hơn 12000

tỷ USD là tiền đi vay và trong đó khoảng 4000 tỷ USD là nợ xấu. Thực hiện theo Mỹ,

các nước trên thế giới cũng bán ra thị trường tài chính các loại trái phiếu phái sinh

MBS. Điều này khiến cho việc tính toán và đo lường tổng số nợ bất động sản khó đòi

và tổng số MBS đã phát hành đang “gieo mầm bệnh” toàn cầu là một nghiệp vụ bất

khả thi. Một sản phẩm “mang mầm bệnh” nữa đó là những “Credit Default Swap” –

CDS – “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi”. Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và

các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra. Các tổ chức này cam kết sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ

cho vay cho bên mua CDS nếu bên đi vay không trả được nợ. Thống kê của hiệp hội

“International Swap and Derivatives Association” về sản phẩm này cho thấy tại Mỹ

tổng số CDS ước tính khoảng 35000 tỷ USD và trên toàn thế giới khoảng 54600 tỷ

USD.

Một ví dụ điển hình là: sự chao đảo của tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu

thế giới AIG khi tập đoàn này đầu tư vào cả MBS và CDS. Không chỉ riêng gì AIG mà

hàng loạt các tổ chức tín dụng từ các đại gia cho đến các tổ chức tài chính không tên

tuổi cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Mọi nỗ lực đang dồn vào giải cứu thị

trường tài chính Mỹ. Nếu tình hình trở nên tồi tệ nhất, thị trường tài chính Mỹ không

được giải cứu kịp thời theo đó thị trường tài chính thế giới bị đóng băng, lúc này các

công cụ phái sinh phát huy mặt trái của nó, một sự tàn phá khủng khiếp các định chế

tài chính trên toàn cầu mà hậu quả ta không thể nào đo lường hết được. Điều này cho

thấy điểm khác biệt giữa cuộc khủng hoảng lần này so với cuộc đại suy thoái 1930 đó

chính là các “phát kiến tài chính” - những công cụ phái sinh góp phần tăng thêm mức

độ trầm trọng cho cuộc khủng hoảng hiện nay.

2.4.2.2 Phòng ngừa rủi ro không những không làm giảm thiểu rủi ro mà

64

còn làm gia tăng rủi ro:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Khi điều kiện thị trường có những chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi, nếu một

doanh nghiệp thực hiện việc phòng ngừa thì có thể sẽ bỏ qua những cơ hội thực hiện

các ưu thế mà thị trường đang có. Trên thực tế, thực hiện phòng ngừa rủi ro, doanh

nghiệp sẽ giảm đi được các khoản lỗ nhưng đồng thời cũng làm giảm đi các khoản lãi

tiềm năng. Ngoài ra, người đi thực hiện phòng ngừa rủi ro phải gánh chịu thêm rủi ro

basic ngoài rủi ro trên tài sản do tính không chắc chắn trong basic (vì basic = giá giao

ngay – giá giao sau). Phòng ngừa rủi ro chính là ta không thực sự tin vào điều gì cả.

Tức là nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro vì nghĩ là sẽ có những sự kiện không mong muốn

xảy ra trong thị trường và điều này trở thành hành vi đầu cơ khi mà tất cả tiền của một

người đều tập trung vào thị trường cổ phiếu. Trong một giới hạn nào đó nếu các cổ

đông có thể dự báo chính xác tất cả các rủi ro có thể phòng ngừa đi chăng nữa nhưng

nếu như xuất hiện độ nhạy cảm do những bất ổn trong giá cả, nguyên vật liệu thì họ

khó có khả năng tính toán chính xác mức độ của những rủi ro này cũng như xác định

được thời điểm mà lúc các rủi ro này gây ra những tổn thất lớn nhất, hay xác định

chính xác số lượng hợp đồng giao sau để phòng ngừa rủi ro. Một điều đáng lưu tâm

nữa là phòng ngừa rủi ro có thể làm cho nhà đầu tư cảm nhận sai lệch về số lượng rủi

ro giảm đi. Bởi một mặt phòng ngừa rủi ro không thể cũng như không hoàn toàn có thể

loại trừ hết rủi ro. Điều này cho thấy phòng ngừa rủi ro chỉ mang lại lợi ích cho doanh

nghiệp trong một khía cạnh nào đó thôi, nếu không có sự am hiểu kỹ càng về phòng

ngừa rủi ro thì sẽ làm gia tăng rủi ro công ty.

2.4.3 Trường phái cho rằng công ty nên sử dụng công cụ phái sinh:

Trường phái này lại cho rằng nguyên nhân thực sự của cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu là:

 Lãi suất được cắt giảm liên tục:

Năm 2000, lãi suất cơ bản của FED là trên 6%. Lãi suất này liên tục được cắt giảm,

thậm chí như đã nói ở trên, đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Chính sách cắt giảm lãi

suất được thực hiện nhằm kích thích tiêu dùng trong dân cư, kích thích đầu tư trong

khối doanh nghiệp, giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ sau sự kiện bong bóng dotcom

65

bùng nổ và sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố vào năm 2001. Với bối cảnh hiện

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

thời, chính phủ Mỹ cho rằng chính sách kích cầu là thích hợp nhất và mục tiêu chính là

thị trường nhà ở.

Hình 2.9: Chênh lệch lãi suất ở Mỹ

 Chính sách ưu đãi của chính phủ:

Từ những năm 1999 đến 2006, hệ thống ngân hàng luôn đạt được mức lợi nhuận

tăng trưởng đầy ấn tượng. Một phần nguyên nhân là do các ngân hàng đã đẩy mạnh

hoạt động cho vay bất động sản dưới sự khuyến khích của chính phủ Mỹ. Tiêu biểu

cho vấn đề này là sự kiện trong những năm cuối cùng của nhiệm kỳ chính quyền Bill

Clinton đã ban hành đạo luật tái phát triển cộng đồng, tập trung vào mục tiêu xã hội là

giải quyết nhà ở cho người dân có thu nhập thấp. Thêm vào đó năm 1980, chính phủ

Mỹ đã ban hành Luật Giao dịch thế chấp tương đương (Alternative Mortgage

Transaction Parity Act), nới lỏng những quy tắc cho vay và khuyến khích những kênh

tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo luật này góp phần ra đời nhiều công ty cho vay thế

chấp và không chịu sự ràng buộc bởi các luật lệ của ngân hàng. Ngay cả những ngân

hàng cũng thành lập hoặc liên kết với các công ty cho vay thế chấp làm bùng nổ các

kênh cung cấp vốn cho thị trường bất động sản. Chính sách lãi suất thấp cùng với sự ưu

đãi của chính phủ, hai yếu tố này như hai liều thuốc tăng lực đã thúc đẩy ngân hàng

cho vay và đi vay, còn người dân thì đua nhau đi vay tiền ngân hàng mua nhà.

66

 Chính phủ buông lỏng giám sát – Ngân hàng nới lỏng tín dụng:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Một sai lầm của Chính phủ Mỹ trong cuộc khủng hoảng lần này là đã buông lỏng

việc giám sát hoạt động cho vay địa ốc dưới chuẩn. Một nguyên tắc truyền thống “bất

di bất dịch” của ngành ngân hàng là không được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay đối

với những khách hàng không có khả năng thanh toán các khoản vay khi đến hạn. Tuy

nhiên, quy định này bị “làm ngơ” trong hoạt động cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Thậm

chí, vào năm 1994, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Quyền sở hữu nhà và Bảo vệ

tài sản nhằm cho phép FED buộc các tổ chức cho vay địa ốc phải tuân thủ các tiêu

chuẩn cho vay truyền thống. Nhưng ông Alan Greenspan – Chủ tịch FED lúc bấy giờ,

đã từ chối quyền lực được giao này vì ông cho rằng thị trường tài chính sẽ tự điều

chỉnh. Cũng do sự cạnh tranh gay gắt trong ngành, các ngân hàng cho vay sẵn lòng cho

người dân vay, nới lỏng tín dụng, thậm chí đối với những khách hàng có hạng mức tín

dụng dưới chuẩn - những đối tượng không có thu nhập ổn định, có tiền sử tài chính

xấu, không có được các tài sản đảm bảo cho các khoản vay của mình.

So với trước đây, ở Mỹ để có thể vay tiền ngân hàng mua nhà ở trả góp thì người

vay gọi là “đủ tiêu chuẩn” phải có được ba tiêu chuẩn cơ bản là: tiền cọc ít nhất bằng

10% tiền mua nhà , thu nhập phải ổn định để cho số tiền trả góp hàng tháng không quá

28% thu nhập và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng. Bên cạnh đó ngân hàng chỉ

được phép cho vay tuỳ thuộc vào lượng tiền gửi hiện đang có tại ngân hàng cũng như

tỷ lệ dự trữ bắt buộc của chính phủ đối với ngân hàng.

67

Hình 2.10: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995 - 2007

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Một điều tất yếu, rủi ro cao thì lãi suất cao. Tuy nhiên, nếu lãi suất cao thì đại bộ

phận những người dân nghèo sẽ không dám đi vay tiền. Do đó, các ngân hàng cho vay

bất động sản để tạo ra các sản phẩm cho vay “hấp dẫn” như Alt-a tức cho vay với lãi

suất rất thấp trong năm đầu sau đó lãi suất sẽ tính theo lãi suất thị trường. Do đó bất cứ

cá nhân, tổ chức nào cũng có thể vay tiền mua nhà một cách dễ dàng. Điều này làm cho

doanh số nhà ở tại Mỹ tăng lên nhanh chóng.

Các ngân hàng dám mạnh tay thực hiện những nghiệp vụ cho vay này với một tâm

lý ỷ lại do đã có sự bảo đảm ngấm ngầm từ chính phủ mà hiện thân lúc bấy giờ là hai

công ty Fannie Mae và Freddie Mac. Sở dĩ tồn tại hai công ty này vì để hỗ trợ cho vay

tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ cho lập Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal

National Mortgage Association - gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay quốc gia

(Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính

của hai công ty này là mua lại những món vay nợ thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt

là các khoản vay thế chấp “dưới chuẩn” (subprime mortgage) của các ngân hàng rồi

dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed

Securities) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng.

Lúc này các món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông

dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.

 Vấn đề lương, thưởng cho các CEO ngành tài chính:

Một nguyên nhân nữa cho sự “mạnh tay” này còn xuất phát từ triết lý và cung cách

kinh doanh của các nhà lãnh đạo phố Wall, liên quan tới vấn đề chi phí đại diện. Kết

quả đạt được từ hoạt động kinh doanh sẽ quyết định cho mức lương và tiền thưởng.

Điều này khiến cho các nhà quản lý như con thiêu thân lao vào các hoạt động kinh

doanh đầy rủi ro. Đối với họ lúc bấy giờ, lợi nhuận trước mắt mới quan trọng, họ sẵn

sàng bỏ qua sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Các khoản lợi nhuận và các

khoản thu được kếch sù từ các khoản cho vay thứ cấp có sức hấp dẫn cực kỳ ghê gớm.

Với mức lãi suất được tính toán một cách công phu và khéo léo thậm chí có thể các nhà

đầu tư cũng không thể hiểu hết được. Cũng bởi sự hấp dẫn quá lớn từ cho vay dưới

chuẩn đã dấy lên lòng tham của các ngân hàng và chính lòng tham đó đã giết chết họ.

68

Trong khi đó những người có đủ quyền hạn và trách nhiệm trong thị trường tài chính

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Mỹ thì “giả câm, giả điếc” hay suy nghĩ lạc quan hơn là họ không kiểm soát nổi. Hệ

thống ngân hàng ở Mỹ chịu sự giám sát của FED nhưng hoạt động mua bán chứng

khoán chịu sự giám sát của SEC, hoạt động này hầu như hoàn toàn tự do. Thêm một kẻ

hở nữa cho hoạt động kiếm lời của các tổ chức tài chính. Các ngân hàng thì thả sức gia

tăng nguồn vốn tài trợ cho các tổ chức cá nhân mua bán nhà ở thông qua kỹ thuật

“chứng khoán hoá bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống kiểm soát thì không theo

kịp.

Các ngân hàng đua nhau cho vay dưới chuẩn với những điều kiện cho vay quá dễ

dãi. Họ không xét đến khả năng chi trả và điểm tín dụng theo quy định nhưng lúc này

người đi vay phải trả lãi suất cao hơn 1 đến 2%. Ngoài ra, việc cho vay dưới chuẩn còn

thể hiện ở chỗ ngân hàng thực hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất động sản thế

chấp. Người mua chỉ cần đóng góp 15% là đủ điều kiện cho vay. Các tổ chức tín dụng

tranh nhau phát hành những gói tín dụng hấp dẫn.

Hình 2.11 Đòn bẩy tài chính của các ngân hàng Mỹ Q1 năm 2008

Một thời cơ có thể nói là hiếm hoi cho các nhà đầu cơ bất động sản. Khi thị trường

bất động sản đang lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt cọc mua nhà và thực hiện

việc bán lại khi giá nhà lên cao, lợi nhuận thu được là khó tưởng tượng nổi. Giá bất

69

động sản tại Mỹ liên tục tăng đã lôi kéo các nhà đầu tư và cả người dân đổ xô vào kinh

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

doanh bất động sản tạo một lực đẩy “bong bóng” bất động sản lên cao, làm cho cung

vượt quá cầu. Rồi khi thị trường địa ốc Mỹ tuột dốc, bong bóng tài sản vỡ tung, như

một cơn sóng thần ập lên khắp nước Mỹ. Cuộc khủng hoảng bắt đầu. Những hợp đồng

trước đây được các chuyên gia phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh,

được đảm bảo bằng những hợp đồng cho vay thế chấp, bây giờ mất giá thảm hại, thị

trường không có người mua. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tài chính

nắm giữ hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được.

Người đi vay “không đủ tiêu chuẩn” thì không có khả năng trả được nợ. Các khoản

nợ xấu thì gia tăng. Khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá giới hạn chịu đựng thì các tổ chức tài

chính lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán rồi đi đến gục ngã hoặc phá sản. Mở

màn cho sự kiện này là sự đổ vỡ của ngân hàng đầu tư Bear Stearns. Từ đó dẫn tới hiệu

ứng domino trong toàn hệ thống tài chính. Sự đổ vỡ hàng loạt của các công ty cho vay

kinh doanh bất động sản, ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết

kiệm, công ty bảo hiểm…như Fannie Mae và Freddie Mac, Lehman Brother, AIG…

 Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm:

Cuộc khủng hoảng diễn ra do nhiều nguyên nhân như đã phân tích ở trên. Tuy

nhiên, một vấn đề cần phải xem xét thêm đó chính là vai trò của các tổ chức xếp hạng

tín nhiệm - một thành viên cũng đã góp mặt gây nên cuộc khủng hoảng. Trong một báo

cáo gần đây của SEC – Uỷ ban chứng khoán và giao dịch Hoa Kỳ - đã chỉ thẳng ra

rằng nhiều tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn như Fitch, Moody’s và Standard & Poor’s

đã coi thường các quy tắc về xung đột lợi ích. Các tổ chức này chỉ chú ý đến lợi nhuận

khi xếp hạng các loại chứng khoán. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đã cầm trong tay

một khối lượng rất lớn các chứng khoán cùng với mức độ phức tạp tăng cao của chúng

mà họ được yêu cầu đánh giá. Thời gian hạn hẹp do thị trường nhà đất ngày càng nóng

bỏng cộng thêm thiếu nguồn nhân lực khiến cho họ có ít thời gian hơn để thực hiện

công việc và đánh giá mức độ an toàn cho các khoản đầu tư một cách chính xác và

khách quan. Thêm vào đó, nỗi lo bị mất hợp đồng, ảnh hưởng tới doanh thu. Điều này

đã khiến cho họ đánh giá không dựa theo chuẩn mực đạo đức mà theo lợi nhuận. Sợ

thua lỗ, mất đi khả năng cạnh tranh, không đạt được doanh thu kỳ vọng đã làm cho các

70

nhà phân tích méo mó đánh giá của mình. Cuối cùng, mức phí mà các tổ chức này

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

nhận được để xếp hạng các khoản cho vay có thế chấp - một khâu bắt buộc trong quy

trình chứng khoán hóa - lại do chính các ngân hàng chi trả chứ không phải các nhà đầu

tư. Vấn đề rủi ro đạo đức nảy sinh. Liệu rằng việc trả phí như vậy có phải là động cơ

thúc đẩy các tổ chức này xếp hạng các khoản vay có thế chấp quá cao, khiến cho các

nhà đầu tư không thể có được những thông tin minh bạch và không đánh giá được

chính xác mức độ an toàn và rủi ro của những trái phiếu mà họ đầu tư hay không? Mặc

dù có nói ra thì các tổ chức này vẫn sẽ một mực khẳng định mình đã tuân thủ đúng các

quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

Tuy nhiên thực tế là một bằng chứng không thể chối cãi. Hàng loạt các khoản vay

được định giá AAA để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa là những khoản vay thứ

cấp. Do đó, khi thị trường địa ốc tụt dốc, các chứng khoán này mới bộc lộ rõ những rủi

ro tiềm ẩn bên trong, khi trước đó những rủi ro này được định rất thấp thông qua các

tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Các tổ chức này bị nghi ngờ là có những hành vi sai trái

còn nghiêm trọng hơn nhiều. Vấn đề này còn trong vòng điều tra nhưng một điều có

thể khẳng định rằng họ đã bỏ mặc niềm tin của nhà đầu tư - những người luôn tin

tưởng vào sự đánh giá tín nhiệm một cách khách quan và hiệu quả của những công ty

này. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đã không lường hết được những hậu quả do mình

gây ra. Họ đã quá tin tưởng vào giá bất động sản sẽ theo đà tăng mãi và khó mà có thể

giảm quá mức. Niềm tin của họ xuôi theo niềm tin của nhà đầu tư - một điều không

nên thấy ở các công ty xếp hạng tín nhiệm.

Cùng với những nguyên nhân trên, đây cũng có thể xem là một minh chứng cho

thấy rằng mọi chuyện đều bắt đầu từ bản thân con người, ý thức con người, lòng tham

con người và một trong các lý do là vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể là trong cuộc

khủng hoảng lần này là các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Còn đối với công cụ phái sinh

đúng theo tên gọi của nó, bản thân nó chỉ là một “công cụ” cho con người sử dụng

nhằm phục vụ con người. Còn sử dụng nó như thế nào, vào mục đích gì thì đó lại là

một vấn đề cần xem xét từ chính bản thân và hành vi con người.

2.5 Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam khi ứng dụng quyền chọn

chứng khoán vào TTCK Việt Nam:

71

 Xây dựng hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ: Hệ thống khung pháp lý là cơ sở

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

quan trọng nhất quy định nguyên tắc tổ chức và hoat động của thị trường phái sinh và

tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính, đồng thời các

văn bản pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch vụ mới ra đời. Tại các nước trên

thế giới khi triển khai ứng dụng quyền chọn chứng khoán đều phải xây dựng được hệ

thống pháp lý hoàn chỉnh. Vì vậy Việt Nam nếu muốn triển khai ứng dùng quyền chọn

chứng khoán cần phải xây dựng được khung pháp lý mang tính thực tiễn và thống nhất,

hệ thống văn bản pháp luật phải điều chỉnh hoạt động TTCK theo hướng bao quát, toàn

diện và phù hợp với thực tiễn thị trường.

 Xây dựng sàn giao dịch quyền chọn từng bước từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn:

khi một sàn giao dịch quyền chọn mới bắt đầu đi vào hoạt động thì nên có những quy

định điều kiện cụ thể cho những cổ phiếu được phép giao dịch quyền chọn. Ban đầu

nên chọn cổ phiếu của những công ty lớn, tình hình tài chính ổn định, hoạt động kinh

doanh phát triển tốt, khối lượng giao dịch nhiều và tính thanh khoản cao. Khi sàn giao

dịch quyền chọn đã đi vào hoạt động ổn định thì tiếp tục mở rộng và phát triển quy mô

của sàn giao dịch quyền chọn.

 Xây dựng hệ thống giám sát quản lý: Qua thực tế ứng dụng quyền chọn chứng

khoán tại một số nước trên thế giới, các sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán trên

thế giới đều có ủy ban giám sát thực hiện quyền chọn cũng như các hoạt động liên

quan đến giao dịch quyền chọn. Ðặc biệt, với tình hình thực tế hiện nay, việc ứng dụng

quyền chọn chứng khoán cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Do vậy, khi ứng dụng

quyền chọn chứng khoán trên TTCK Việt Nam, Việt Nam cần xây dựng Ủy ban giám

sát với chức năng và nhiệm vụ phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

 Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tương thích với hoạt động của Sàn giao

dịch quyền chọn: Quyền chọn chứng khoán có phương thức giao dịch khá đặc biệt và

phức tạp với sự tham gia của nhiều bên do đó cần xây dựng hệ thống công nghệ thông

tin tương thích với sự phát triển hoạt động của Sàn giao dịch quyền chọn. Việc chuyên

môn hóa các chức năng của thành phần tham gia Sàn giao dịch quyền chọn chứng

khoán và ứng dụng công nghệ thông tin là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của

thị truờng quyền chọn.

72

 Nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin: Các giao dịch quyền chọn đều dựa trên

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

sự biến động giá chứng khoán cơ sở, mà sự biến động giá chứng khoán cơ sở dựa vào

phản ứng của các NĐT trên thị trường thông qua những thông tin nhận được. Do đó,

thông tin minh bạch là một điều kiện để NĐT có cơ sở rõ ràng và chính xác để thực

hiện các quyết định đầu tư của mình. Thiết lập các tiêu chuẩn đối với yêu cầu công bố

thông tin; bảo đảm tính minh bạch, công bằng, mở, và đáng tin cậy của các thông tin

được công bố nhằm gia tăng thêm niềm tin cho NĐT. Cũng cần có chế tài xử lý đối với

những hành vi cố tình công bố thông tin sai lệch và thiếu trung thực nhằm trục lợi để

 Hoàn thiện quy trình và trang bị hệ thống kỹ thuật giao dịch: Hoạt động của

bảo vệ lợi ích của NĐT.

TTCK nói chung và quyền chọn nói riêng phải đòi hỏi một số yêu cầu về kỹ thuật: kỹ

thuật định giá; kỹ thuật chọn phương án đầu tư; kỹ thuật đặt, chuyển lệnh mua và lệnh

bán; kỹ thuật hạch toán và chuyển quyền sở hữu; kỹ thuật lưu ký chứng khoán; kỹ

thuật lưu trữ lệnh;… Tất cả các kỹ thuật này đòi hỏi phải có quy trình và hệ thống quản

lý hiện đại,.. Chính vì vậy mà cần phải có hệ thống kỹ thuật hoàn thiện trước khi đưa

73

vào áp dụng các giao dịch này.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Chương 3: Áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán

vào Việt Nam

3.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam:

3.1.1 Giai đoạn 2000 – 2005:

Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành

TTGDCK TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào

ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 DN niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE

và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao

dịch.

Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào

năm 2001(chỉ số VN-Index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ

trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá

tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn

khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều

NĐT tháo chạy khỏi thị trường lại thì một số NĐT khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm

thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao

nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá,

các DN niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn NĐT trong nước, trong khi

"room" cũng hết.

Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ

dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của NĐT nước ngoài được nâng từ 30%

lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).

Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan

tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác

động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới

74

cuộc sống của mỗi người dân.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá

trị TTCK việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng. TTCK Việt Nam có 4.500 tỷ đồng cổ

phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ,

trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch .Trong năm

2005, tốc độ tăng trưởng của TTCK gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ

đồng, giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt hơn 1%.

3.1.2 Giai đoạn 2006 – 2010:

Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”,

tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi

động tại cả 3 “sàn”: SGDCK Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị

trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 TTCK Việt

Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự bừng dậy của

thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các NĐT trong và ngoài nước. Năm

2006, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP.

Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng

152,4% .TTCK Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tổng giá

trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các

NĐT nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của

toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là

những cổ phiếu được phát hành theo Luật DN là chính. Trên thị trường phi tập trung,

tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số

công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài

khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước.

Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005

lên 800 điểm cuối 2006. Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư

vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả

những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện

tượng “bong bóng” là có thật.

Năm 2007 – năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

75

và là năm chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Luật

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát

triển và tăng cường khả năng hội nhập vào TTTC quốc tế. Tính công khai, minh bạch

của các tổ chức niêm yết được tăng cường. TTGDCK TPHCM chính thức được chuyển

đổi thành SGDCK TPHCM vào giữa năm 2007, đồng thời SGDCK đã thực hiện giao

dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh

từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Tính đến thời điểm

31/12/2007, có tổng cộng 80 CTCK được ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN)

cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động (59

công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và 10 công ty trách nhiệm hữu hạn

trực thuộc các NHTM cổ phần và quốc doanh). Thu hút được một số lượng lớn các

NĐT cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có

tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các CTCK (tăng 279% so

với cuối năm 2006). Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm,

HASTC-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt

được mức tăng trưởng là 23,3%; HASTC-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập

vào cuối năm 2006. Năm 2007, lượng vốn hóa thị trường đạt 492.900 tỷ đồng, tương

đương khoảng 43,7% GDP

Sang năm 2008 với sự ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, TTCK Việt

Nam đã có một năm gặp rất nhiều khó khăn. Các thông tin tác động xấu tới tâm lý

NĐT chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát,

chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN), sự leo dốc của giá xăng

dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Trong

năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng

khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các

chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu

thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện

cho các DN niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ.... Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục

được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc

biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước

76

trong các DN đã cổ phần hóa (CPH), chưa kể hàng loạt ngân hàng, CTCK, DN... phát

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ

thừa "hàng". Thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ phiếu rơi xuống

dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của

các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT. Tính đến thời điểm

31/12/2008 chỉ số Vnindex đã giảm 605,4 điểm tương đương 65% so với thời điểm

cuối năm 2007, giá trị vốn hóa thị trường của các cổ phiếu đang niêm yết đạt hơn

225,300 tỷ đồng.

Đến năm đầu năm 2009 Cuộc khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu

đã tác động mạnh tới Việt Nam, khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào suy giảm xuống

mức đáy 235,5 điểm trong quý I. Kể từ đó cho đến cuối năm thị trường đi lên cùng sự

hồi phục của nền kinh tế. VN-Index đóng cửa năm 2009 ở mức 494 điểm, so với đáy

235 điểm VN-Index đã tăng trưởng 110,21% kể từ đáy. Còn nếu tính theo mức điểm

thấp nhất 235 điểm và mức điểm cao nhất 633 điểm thì VN-Index đã tăng gần 170%.

Đây là mức tăng mạnh nhất trong số các TTCK thế giới. Như vậy có thể nói rằng

TTCK Việt nam đã tạo đáy đi lên trong năm 2009. Năm 2009 lần đầu tiên TTCK Việt

Nam bắt đầu có sự liên hệ chặt chẽ với TTCK thế giới. Sự gắn kết biểu hiện rõ nét nhất

trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 8. Sự gắn kết này là một tín hiệu tích cực vì nó

cho thấy TTCK Việt Nam và kinh tế Việt Nam phát triển hơn và đã trở thành một bộ

phận của nền kinh tế thế giới chứ không còn là thị trường nhỏ và biệt lập. Trong năm

2009, thị trường mang nặng tâm lý bầy đàn. Biểu hiện rõ nhất là khi tăng thì gần như

toàn bộ các mã tăng và ngược lại. Khi thị trường tăng mạnh thì người mua nhất là NĐT

nhỏ lẻ tranh mua giá trần. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để cổ phiếu dễ dàng bị thao

túng làm giá lên hoặc đẩy giá xuống tuy theo mục đích. Tuy nhiên hiện nay NĐT trong

nước trên thị trường đã tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm sau quá trình

đầu tư trong những năm qua. Kinh nghiệm cũng như kiến thức đầu tư được nâng lên sẽ

giúp cho thị trường phát triển lành mạnh và giảm rủi ro cho NĐT. NĐT nước ngoài

ngày càng giảm bớt vai trò chi phối thị trường của mình. NĐT trong nước đang trở nên

chủ động và ngày càng độc lập hơn với NĐT nước ngoài trong các quyết định đầu tư.

Nếu như trước đây các NĐT trong nước thường coi động thái mua vào bán ra của NĐT

77

nước ngoài là một trong những “kim chỉ nam” cho việc mua bán của mình thì năm nay

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

điều này đã trở nên tương đối độc lập. Sự độc lập này trước hết do NĐT trong nước đã

tích lũy được nhiều kinh nghiệm và kiến thức hơn nên có thể tự ra được quyết định đầu

tư độc lập.

Đầu năm 2009, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có diễn biến xấu khiến VN-

Index kéo dài xu hướng giảm, đến ngày 24/2 chỉ còn 235,5 điểm, mức thấp nhất kể từ

tháng 3/2005. Sự thua lỗ, hoảng loạn của NĐT sau đó đã được bù đắp khi VN-Index

phục hồi, đạt 624,1 điểm vào ngày 22/10. So với ngày 24/2, VN-Index cao gấp 2,65

lần, đồng nghĩa với mức tăng 265%. Tính cả năm, VN-Index tăng 57%, kết thúc năm ở

494,77 điểm. Sự góp mặt của các “đại gia” mới niêm yết trên sàn chứng khoán năm

2009 đã giúp mức vốn hóa thị trường tăng lên đáng kể.

Quy mô giao dịch chứng khoán 2006 – 2009

Năm 2010, trong 9 tháng đầu năm thị trường xuất hiện 3 đợt sóng mạnh.

 Đợt sóng thứ nhất kết thúc vào ngày 07/01/2010 với mức đỉnh của VN-Index

đạt được là 543.46 điểm, sau đó lùi sâu về mức 477.59 điểm vào ngày 22/01.

 Đợt sóng thứ 2, thị trường phục hồi lên 531.86 điểm vào ngày 15/03, sau đó lùi

về 499.21 điểm vào ngày 31/03.

 Đợt sóng thứ 3 đưa VN-Index lên mức điểm cao nhất trong 9 tháng năm 2010

với số điểm là 549.12 điểm vào ngày 04/05.

Kể từ mức điểm cao nhất của đợt sóng thứ 3 thị trường giảm mạnh về 423.89, mức

thấp nhất kể từ ngày 22/07/2009. Sau đó, thị trường đã có một đợt phục hồi nhẹ và hiện

78

VN-Index giảm còn 445.21 điểm (ngày 22/10/2010).

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Điểm đáng lưu ý là các đợt sóng của thị trường thường gắn liền với cácthông tin vĩ

mô và chính sách quan trọng của Chính phủ. Điển hình như đợt suy giảm mạnh của thị

trường từ tháng 5 đến nay được xem có nguyên nhân chính là do chính sách tăng

cường an toàn cho hệ thống tài chính với bằng cách ban thành Thông tư 13 của NHNN.

Ngoài ra, biến động của tỷ giá và lạm phát cũng ảnh hưởng mạnh đến tâm lý nhà đầu

tư trên thị trường chứng khoán. Một vài đợt sóng của thị trường gắn liền với sự biến

động mạnh của những cổ phiếu có mức vốn hoá vừa và nhỏ. Các bluechips và cổ phiếu

ngân hàng hầu như không tạo ra một đợt sóng nào trên thị trường.

Hình 3.1: Số lượng CTCK giai đoạn 2000-2010

Tính từ đầu năm đến ngày 08/10/2010 đã có 153 công ty đăng ký niêm yết, trong

đó 66 trên HoSE và 87 trên HNX. Tổng số lượng cổ phiếu niêm yết của các công ty

mới lên sàn là 3.38 tỷ đơn vị và đạt giá trị thường 77 nghìn tỷ đồng vào ngày

08/10/210, bằng 13% giá trị cả thị trường.

Khối ngoại tăng cường mua ròng khá mạnh những cổ phiếu niêm yết trên sàn, đặc

biệt là cổ phiếu bluchips trên HoSE. Tổng giá trị mua ròng của khối ngoại tính từ đầu

79

năm 2010 đến ngày 11/10/2010 đã lên tới 10,229 tỷ đồng trên HoSE và 609 tỷ đồng

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

trên HNX. Giá trị mua ròng này lớn gần gấp đôi so với năm 2009. Điều này cho thấy

dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vẫn không ngừng đổ vào Việt Nam.

Khối ngoại mua ròng khá mạnh nhưng chỉ tập trung vào một số mã cổ phiếu chủ

chốt trên sàn. Trên HoSE, HAG của Hoàng Anh Gia Lai được khối ngoại mua ròng

đến 1,521 tỷ đồng, tiếp theo là BVH 893 tỷ đồng, KBC 793 tỷ đồng. Các mã cổ phiếu

được khối ngoại ưa thích khác là VNM, DIG, SJS, HPG. Trong khi đó khối ngoại bán

ròng các mã cổ phiếu VSH (247 tỷ đồng), ITC (193 tỷ đồng), REE (145 tỷ đồng). Trên

sàn HNX, trong 9 tháng mã cổ phiếu được khối ngoại mua nhiều nhất là PVS (145 tỷ

đồng), KLS (130 tỷ đồng), PVX (112 tỷ đồng), trong khi đó mã cổ phiếu bị bán ròng

nhiều nhất là AAA (45 tỷ đồng).

Hình 3.2: Thống kê số mã chứng khoán niêm yết (2000 – 2010)

Chỉ số sàn TP HCM chốt tuần cuối của năm 2010 bằng kết quả lạc quan. Vn-Index

lấy lại gần hết số điểm đã mất ở tuần trước (11,9 điểm), vượt lên trên ngưỡng kháng cự

480, đạt 484,66 điểm. Kết quả này cho thấy, Vn-Index chỉ mất 3% giá trị so với phiên

cuối cùng của năm 2009 và so với phiên đầu tiên năm 2010 giảm khoảng 6%.

HNX-Index ghi nhận tuần giao dịch thành công, tiến 2,93 điểm, thay vì giảm đến

8,51 điểm như tuần trước. Chỉ số của sàn Hà Nội kết thúc năm tại 114,24, giảm khoảng

30% so với phiên cuối cùng của năm ngoái. Bình quân trong tuần có 41,44 triệu chứng

80

khoán sang tay, tương đương 867,96 tỷ đồng.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

UPCoM-Index kết thúc phiên cuối năm ở 45,19 điểm, giảm 18% so với phiên đầu

tiên năm 2010. Thị trường giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết ghi

nhận mức trung bình 362.000 cổ phiếu trao tay, trị giá 4 tỷ đồng, ở tuần này.

3.2 Sự cần thiết của ứng dụng giao dịch quyền chọn trong TTCK Việt Nam:

3.2.1 Tạo công cụ bảo vệ lợi nhuận cho nhà đầu tư:

Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá mua

chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ

thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ được lợi

nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao

dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới.

Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm nhiều mục tiêu

khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các quyền chọn

chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu tư hoặc để đảm bảo

rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các công cụ phái sinh vẫn

sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng giây từng phút thì việc nắm

trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.

Bên cạnh việc giúp NĐT quản lý rủi ro, quyền chọn chứng khoán cũng được dùng

để đầu cơ khi NĐT hướng về sự dao động giá trong tương lai. Ở thời điểm hiện tại,

quyền chọn chứng khoán nếu được thực hiện sẽ giúp NĐT giảm thiểu được rủi ro. Hơn

nữa, nhà đâu tư cũng chưa cần nguồn vốn lớn để thực hiện mà chỉ trả một phần nhỏ

cũng như số tiền ký quỹ nhỏ hơn giá trị hợp đồng.

Trong bối cảnh thị trường có sự biến động mạnh như hiện nay thì việc thực hiện

quyền chọn chứng khoán là rất cần thiết và có khả năng góp phần ổn định thị trường

hơn. Hiện NĐT chỉ có thể mua chứng khoán và chờ giá lên để bán kiếm lời. Liệu có

NĐT nào dám bỏ nhiều tiền để đầu tư vào một loại chứng khoán mà họ và thị trường

cho rằng nhiều khả năng chứng khoán đó sẽ giảm giá. Chính vì vậy trong giai đoạn thị

trường giảm giá, khi có yếu tố bất lợi NĐT sẽ ào ạt bán chứng khoán ra trong khi

lượng cầu rất yếu, đẩy thị trường giảm giá mạnh hơn mức cần thiết, gây hoảng loạn và

bất ổn tâm lý đầu tư trên thị trường. Tình trạng này đã từng xảy ra tại Việt Nam trong

81

thời gian qua. Nếu có quyền chọn bán NĐT sẽ không vội vã bán ồ ạt tức thì vì gần như

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

họ đã mua bảo hiểm về giá. Nếu chứng khoán tăng trở lại, họ có thể không bán mà chỉ

chịu mất phí (thường thấp hơn rất nhiều so với việc thực hiện quyền). Trường hợp giá

giảm hơn so với giá trong quyền chọn bán, họ sẽ bán với giá đã ghi trong hợp đồng.

Thực tế các nước cho thấy, quyền chọn rất được các NĐT ưa chuộng bởi NĐT ít vốn

cũng có thể mua quyền chọn, thay vì phải bỏ ra khoản tiền lớn để mua chứng khoán

chờ tăng giá và bán ra hưởng chênh lệch, nếu không họ chỉ mất một khoản phí nhỏ.

3.2.2 Thúc đẩy phát triển chứng khoán Việt Nam:

Quyền chọn chứng khoán vừa là công cụ bảo vệ lợi nhuận vừa là công cụ giảm

thiểu rủi ro hữu hiệu và đồng thời là một loại hàng hóa có thể mua bán trên TTCK; nên

khi ứng dụng giao dịch quyền chọn sẽ làm cho TTCK rất sôi động. Với vai trò là công

cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro quyền chọn tạo tâm lý an toàn hơn trong đầu

tư vào cổ phiếu, do đó thu hút được thêm nhiều NĐT còn e ngại về mức độ mạo hiểm,

rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Với vai trò là một hàng hóa trên

TTCK, quyền chọn chứng khoán mang đến khát khao kiếm lợi nhuận nên khi quyền

chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều NĐT sẽ tham gia thị trường để kinh doanh quyền

chọn. Khi nhiều NĐT tham gia thị trường sẽ làm cầu hàng hóa chứng khoán tăng. Điều

này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội phát triển, mở rộng thị trường là rất

cao. Hiện nay, TTCK Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường nhỏ bé

nhất trên thế giới. Việc ứng dụng quyền chọn sẽ giúp hoàn thiện dần cơ cấu hàng hóa

và mang lại một vị thế mới cho TTCK Việt Nam.

3.2.3 Tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết trên TTCK:

Để quyền chọn chứng khoán một công ty được niêm yết thì công ty đó phải đáp

ứng được những điều kiện của UBCKNN đề ra. Hơn nữa, các công ty niêm yết không

muốn thấy quyền chọn bán cổ phiếu công ty mình được mua bán liên tục bởi vì đó là

dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá cổ phiếu công ty mình sẽ đi xuống và điều

này cũng cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm đần. Như vậy, công ty

có thể nhìn vào xu hướng giao dịch quyền chọn trên thị trường mà nhận biết được sự

đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công ty có những điều

chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín của công ty trên thị trường.

82

Như vậy, quyền chọn giúp NĐT giám sát gián tiếp hoạt động của các công ty niêm yết.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Khi có thêm người giám sát, đòi hỏi công ty niêm yết phải nổ lực hơn trong hoạt động

kinh doanh

3.3 Ứng dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường Việt Nam:

3.3.1 Những điều kiện khi áp dụng quyền chọn chứng khoán trong TTCK

Việt Nam:

3.3.1.1 Các điều kiện thuận lợi:

 Tiềm năng phát triển của TTCK Việt Nam lớn:

TTCK Việt Nam đã phát triển tương đối đủ lớn và đáp ứng những yêu cầu cơ bản

cho việc áp dụng quyền chọn chứng khoán. Đó là tính thanh khoản trên TTCK ngày

càng cao, hàng hóa tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, đã xuất hiện nhiều công

ty cổ phần đại chúng lớn, sắp tới đây sẽ tiến hành cổ phần hóa gắn kết niêm yết trên

TTCK các công ty hàng đầu, các tổng công ty lớn. Khi cổ phiếu của các công ty này

được niêm yết trên sàn sẽ là nguồn hàng chất lượng thu hút nhiều NĐT trong cũng như

ngoài nước tham gia vào thị trường, đây là nguồn cung về hàng cho TTCK phát triển.

Sức cầu về đầu tư chứng khoán tại Việt Nam đang cao được đánh giá là có triển

vọng lớn, điều đó được thể hiện qua khả năng có thể tham gia thị trường của các NĐT

trong nước, NĐT nước ngoài, và các tổ chứng đầu tư. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc

ra đời quyền chọn.

 Các yêu cầu ngày càng cao về công khai và minh bạch hóa thông tin:

Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao, vấn

đề công khai hóa, minh bạch hóa thông tin thị trường, nền kinh tế ngày càng được đòi

hỏi, yêu cầu cao hơn. Việc thành lập thị trường quyền chọn nói chung và thị trường

quyền chọn chứng khoán nói riêng ở Việt Nam sẽ giúp các hoạt động này diễn ra

nhanh và mạnh mẽ hơn. Khi đó, các NĐT sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường một cách

công bằng hơn so với trước đây, chúng ta sẽ giảm được độc quyền, sự phân biệt và các

giao dịch bí mật trong thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động quảng

bá sản phẩm của các ngân hàng, CTCK…

Ở Việt Nam, do chưa từng phải chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ. Do chính sách quản lý các giao dịch vốn những năm trước đây còn chủ yếu dựa

83

vào cơ chế hành chính, tự phong toả là chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế..., nên việc

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

áp dụng các công cụ quyền chọn còn chưa trở thành nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, hiện

nay nền kinh tế Việt Nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ,

đang có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách.

Mở cửa thị trường vào không gian WTO, áp dụng các luật chơi chung với quốc tế,

lãi suất đã được tự do hoá; lộ trình tự do hoá tài chính đã đi qua rất nhiều bước và trên

thực tế, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt Nam cả trực

tiếp và gián tiếp với qui mô, tần suất ngày càng lớn; chính sách tỷ giá cũng từng bước

linh hoạt theo tín hiệu thị trường... Những bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố

khách quan thúc đẩy các bên tham gia TTTCViệt Nam phải đổi mới tư duy, nhận thức

về vai trò của thị trường phái sinh nói chung và thị trường quyền chọn chứng khoán nói

riêng trong công tác phòng ngừa rủi ro của mình.

 Có định hướng của cơ quan quản lý nhà nước:

Trong thời gian qua TTCK Việt Nam đã trải qua thời gian khủng hoàng dài, thị

trường sụt giảm nghiêm trọng. Vì vậy UBCKNN và các cơ quan chính phủ đang có xu

hướng quan tâm đến việc xây dựng đề án giải pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý khủng

hoảng trên TTCK, và phương án thành lập thị trường phái sinh chứng khoán. Đặc biệt,

việc thành lập thị trường quyền chọn chứng khoán trong giai đoạn hiện nay đang là

một giải pháp khả thi. Hiện nay, các thị trường toàn cầu nói chung và thị trường Việt

Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và đây cũng là thời

điểm tốt để một TTCK non trẻ, với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt

Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình thức giao dịch quyền chọn này. Việc

triển khai quyền chọn chứng khoán sẽ tạo cơ hội cho TTCK vực dậy trong những giai

đoạn khó khăn như thời gian vừa qua.

 Kinh nghiệm của các nước đi trước:

Với lợi thế của nước đi sau Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong việc xây

dựng sàn giao dịch quyền chọn ở các nước trên thế giới. Giao dịch quyền chọn trên thế

giới đã ra đời từ lâu và đang rất phát triển. Do đó, Việt Nam có thể rút ra những bài học

kinh nghiệp từ các nước đi trước để vận dụng vào Việt Nam một cách phù hợp với tình

84

hình và điều kiện của mình. Hơn nữa hiện nay tại Việt Nam cũng đẫ triển khai giao

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

dịch quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng vì vậy chúng ta cũng có thể rút được kinh

nghiệm từ chính việc triển khai các nghiệp vụ này.

 Ý thức về quản lý rủi ro của các NĐT đã tăng qua biến động của thị trường

trong thời gian qua

Trong thời gian qua TTCK Việt Nam đã sụt giảm nghiêm trọng khiến nhiều NĐT

thua lỗ nặng, vì vậy các chủ thể tham gia TTCK đã ngày càng nhận thức rõ về việc

phải nâng cao vấn đề quản lý rủi ro, về lợi ích của các công cụ phái sinh nói chung,

quyền chọn nói riêng và sẵn sàng đón nhận đón nhận sự ra đời của một thị trường

quyền chọn hỗ trợ cho việc kinh doanh cũng như đầu tư của riêng mình. Thêm vào đó

là sự quan tâm, hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước ngày càng cao đối với thị trường quyền

chọn. Đây có thể xem như là thuận lợi lớn nhất cho sự phát triển của thị trường quyền

chọn trong tương lai.

3.3.1.2 Các khó khăn còn tồn tại:

Cho đến nay đã có một số tiền đề cho việc ra đời cho việc ra đời quyền chọn trên

TTCK Việt Nam. Song bên cạnh đó còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết trước khi cho

ứng dụng quyền chọn vào TTCK.

 Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh: Luật chứng khoán mới ra đời có nhiều điểm

nổi bật nhưng vẫn còn nhiều thiết sót, chưa chặt chẽ để có thể đảm bảo cho một thị

trường chứa định nhiều rủi ro biến động như TTCK Việt Nam thời gian qua. Kinh

nghiệm của các nước cho thấy việc áp dụng giao dịch quyền chọn vào một thị trường

mới cần nghiên cứu kỹ lưỡng và xây dựng những khuôn khổ pháp lý chuẩn mực cho

các hoạt động này. Đến nay thì Việt Nam vẫn chưa có quy định, khuôn khổ pháp lý

nào cho giao dịch quyền chọn chứng khoán.

 Hạ tầng kỹ thuật chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của giao dịch quyền chọn:

Trong thời gian qua, vấn đề công nghệ áp dụng tại các CTCK rất khác nhau, chúng ta

chưa có sự đồng bộ về công nghệ. Ví dụ như việc UBCKNN quy định các CTCK phải

liên kết với các ngân hàng để quản lý tiền của NĐT, việc thực hiện này cũng tương đối

chậm, vì việc trang bị hệ thống công nghệ rất tốn kém và qui định mới cũng gây ra một

số khó khăn trong công tác quản lý tài khoản khách hàng. Đối với nghiệp vụ quyền

85

chọn, việc trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ càng phức tạp và tốn kém hơn, đặc biệt

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

là khi muốn kết nối với sàn giao dịch quyền chọn tập trung sau này, nếu DN không tính

toán kỹ, có thể gây ra thua lỗ lớn.

 Thông tin trên thị trường chưa thật sự minh bạch: Thông tin trên thị trường chưa

thực sự minh bạch cũng là rủi ro rất lớn cho các NĐT. Trong thời gian qua đã có hiện

tượng công bố thông tin không đầy đủ, không đúng với thực tế làm tổn thất cho các

NĐT, phần nào gây tâm lý hoang mang đối với các NĐT.

 Khó khăn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực và trình độ của NĐT còn hạn

chế:

Thị trường quyền chọn Việt Nam hiện nay chưa phát triển, chúng ta chỉ đang cho

phép áp dụng một số công cụ tài chính phái sinh như các hợp đồng quyền chọn ngoại

tệ tại ACB, Vietcombank, Sacombank…và quyền chọn vàng tại ACB. Vì vậy, nguồn

nhân lực Việt Nam chưa được chuẩn bị kỹ về kiến thức và khả năng chuyên môn. Hầu

hết các ngân hàng, CTCK… chưa có đội ngũ nhân lực vững chuyên môn và kiến thức

để phổ biến công cụ quyền chọn đến các NĐT, DN. Họ hầu như chỉ được thuyên

chuyển qua từ các bộ phận khác.

Hiện nay, số người biết, hiểu và sử dụng thành thạo các công cụ phái sinh cũng rất

ít. Chúng ta chỉ tổ chức các buổi hội thảo khuyến khích các NĐT chứng khoán áp dụng

các công cụ quyền chọn để tự bảo vệ mình, nhưng hầu như chưa tổ chức các khóa đào

tạo chuyên sâu về quyền chọn và phòng ngừa rủi ro đến các DN và NĐT.

Trình độ của các NĐT cũng còn nhiều hạn chế, việc thiếu hiểu biết về quyền chọn

và khả năng phân tích sẽ gây ra rất nhiều khó khăn và rủi ro khi sử dụng của các NĐT,

khi nhiều nhà đẩu tư gặp rủi ro thì có thể gây ra những bất ổn cho thị trường. Đây cũng

là một trong những trở ngại lớn làm hạn chế sự phát triển của thị trường quyền chọn ở

Việt Nam, khi trình độ cũng như khả năng phân tích của các NĐT và DN còn nhiều

yếu kém.

3.3.2 Giải pháp để sử dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK

Việt Nam:

3.3.2.1 Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý:

86

a) Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán ra đời đã

tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường,

đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ

lợi ích hợp pháp của các NĐT.

TTCK muốn thu hút được nhiều NĐT, trước hết phải tạo cho NĐT tâm lý được

kinh doanh một cách công bằng trên thị trường. TTCK ổn định và phát triển là thị

trường ít xảy ra gian lận, phạm pháp; mọi hành vi sai phạm phải bị xử lý nghiêm minh,

chính xác. Thị trường đó chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở có một hệ thống pháp

luật hoàn thiện. Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý nhằm tăng

cường tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn đề này

không cho phép kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn như:

 Đẩy mạnh việc triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành

và triển khai các văn bản dưới luật hướng dẫn; hoàn thiện cơ chế đấu giá theo hướng

ngày càng công khai và minh bạch hơn.

Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9, thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006. Đây là

văn bản pháp luật cao nhất về chứng khoán và TTCK.

Ngày 19/01/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán về chào bán chứng khoán ra công

chúng, niêm yết chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và công ty

đầu tư chứng khoán.

 Ban hành quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết, CTCK và

công ty quản lý quỹ đầu tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế trên cơ sở hệ thống kế

toán và kiểm toán tốt.

 Cải cách thủ tục hành chánh, minh bạch hoạt động quản lý, giám sát thị trường

của các cơ quan quản lý.

Ngày 18/04/2007, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC hướng dẫn

về việc công bố thông tin trên TTCK. Theo đó, đối tượng công bố thông tin bao gồm:

87

Công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

chức niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,

Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán và các cá nhân liên quan.

 Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu theo lô lớn, tăng cường hình thức phát

hành thông qua đấu thầu, bảo lãnh để niêm yết trên TTCK.

 Tiêu chuẩn hóa hoạt động của Trung tâm lưu ký chứng khoán và các thành viên

lưu ký. Từng bước phát triển và hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của Trung tâm lưu

ký chứng khoán theo các chuẩn mực quốc tế.

 Để hạn chế tình trạng giao dịch nội gián, lạm dụng thông tin từ việc cổ phần hoá

DN do khép kín quá trình cổ phần hoá, từ định giá đến xác định NĐT, cần xem xét

chuyển Uỷ ban chứng khoán thành một cơ quan nhà nước độc lập, tách các sàn giao

dịch chứng khoán khỏi Uỷ ban chứng khoán. Trong trường hợp các trung tâm giao

dịch tách khỏi Uỷ ban chứng khoán nhưng vẫn là DN nhà nước thì các vấn đề tổ chức,

cán bộ vẫn do bộ chủ quản quyết định. Khi đó tác dụng không như mong đợi.

b) Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động quyền chọn chứng khoán:

Điều quan trọng nhất để phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán là hệ thống

pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Bởi giao dịch công cụ tài chính phái sinh này không thể là

việc hình thành cung - cầu một cách bản năng tự nhiên của các chủ thể trong nền kinh

tế. Thị trường dịch vụ tài chính là một trong những bộ phận quan trọng bật nhất trong

nền kinh tế, cần phải được phát triển lành mạnh, hoạt động có hiệu quả và trong khuôn

khổ pháp luật cho phép vì lợi ích vĩ mô và toàn cục. Như vậy, môi trường pháp lý đầy

đủ, đồng bộ, hiệu lực pháp lý cao là điều kiện cần cho sự hình thành và phát triển của

thị trường quyền chọn chứng khoán.

Hệ thống khung pháp lý là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc tổ chức và

hoat động của thị trường phái sinh và tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của

thị trường tài chính, đồng thời các văn bản pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch

vụ mới ra đời. Xây dựng được khung pháp lý mang tính thực tiễn, thống nhất và khoa

học. Hệ thống văn bản pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở thực tế, căn cứ vào

hoạt động của TTCK và có thể điều chỉnh được thị trường theo hướng bao quát, toàn

88

diện và kịp thời.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Cần phải xây dựng những nền tảng cốt lõi và cần thiết về bộ máy điều hành TTCK

và thị trường quyền chọn tương lai nhằm có thể kiểm soát và dự báo dược các tình thế

trước khi đưa quyền chọn chứng khoán ra thị trường. Cần phải có các văn bản pháp

luật, các quy định cho các đối tượng tham gia vào thị trường này điển hình như: người

mua, người bán, người môi giới, các chứng khoán cơ sở, các công ty thanh toán bù

trừ… nhằm giúp cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn.

Hơn nữa, do tính chất phức tạp của giao dịch, khiến hoạt động của công cụ quyền

chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên thị trường

này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…Mỗi người

tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết khác nhau, thậm

chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu lợi trên hợp đồng

quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ xảy ra các hoạt

động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, mua bán tay trong,

gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung gian trong các hợp

đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng khoán phát huy vai trò

là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành vi tiêu cực từ mặt trái

của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch thông tin, thao túng

TTCK… trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động giao dịch này, Chính

phủ, Bộ Tài chính, UBCKNN cần xây dựng cho được các quy định ràng buộc, các yêu

cầu về: Nội dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở;

Quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch để tránh tình

trạng thao túng thị trường; Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và

minh bạch trên thị trường…Qua đó, nhằm mở cửa thị trường cho tất cả các NĐT, các

định chế trung gian triển khai các hợp đồng quyền chọn chứng khoán nhằm đãm bảo sự

phát triển lành mạnh của thị trường.

c) Xây dựng việc tổ chức và quản lý sàn giao dịch quyền chọn:

Nhằm phát triển, áp dụng được công cụ quyền chọn vào TTCK ở Việt Nam hiện

nay, chúng ta cần phải xây dựng hình thức tổ chức và quản lý của sàn giao dịch. Cơ

cấu tổ chức này bao gồm SGDCK; Các công ty môi giới (CTCK); Các cơ quan quản lý

89

và giám sát; trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ và các đối tượng tham gia thị trường.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Bên cạnh đó cũng phải xây dựng cho được các nguyên tắc hoạt động ; quy trình thực

hiện giao dịch; và các quy định cho từng đối tượng tham gia thị trường một cách rõ

ràng.

 Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thông qua những quy tắc, và điều lệ Sàn Giao

dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm

vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Đồng thời,

UBCKNN có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị trường quyền

chọn, từ đó, các SGDCK, trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ sẽ ban hành các quy

định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy định trong

hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ, và thanh

toán hợp đồng….

 SGDCK là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý và điều hành Sàn giao dịch và

được giám sát bởi UBCKNN. Nó đáp ứng được chiến lược được đề ra của sàn giao

dịch, đồng thời đặt ra được những tiêu chuẩn và thi hành những quyết định liên quan

đến phát triển thị trường. Bên cạnh đó, Sở giao dịch sẽ quy định các điều kiện cho các

loại cổ phiếu mà giao dịch quyền chọn được phép, trước tiên là những cổ phiếu của các

công ty lớn, có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính

thanh khoản theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn. Ngoài ra Sở giao dịch

cũng quyết định CTCK nào được phép tham gia vào thị trường quyền chọn này dựa

theo năng lực và uy tín của công ty đó.

 Các CTCK đóng vai trò là các công ty môi giới làm nhiệm vụ thực hiện các yêu

cầu của NĐT. Công ty môi giới có trách nhiệm giao dịch các lệnh nhận được ở mức

giá tốt nhất có thể và đặt lệnh trực tiếp hay chuyển lệnh về cho các nhân viên nhập lệnh

tại Sở giao dịch để thực hiện giao dịch. Doanh thu của các CTCK là phần hoa hồng

nhận được cho mỗi giao dịch thành công.

 Cơ quan quản lý và giám sát có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt động

giao dịch đảm bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách thành viên

của các CTCK thành viên, có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các sai phạm liên quan

đến các CTCK thành viên, kiểm tra và thông báo đến Sở giao dịch những giao dịch có

90

dấu hiệu bất thường. Đồng thời, cơ quan quản lý và giám sát sẽ kiểm tra tính chính xác

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

của những thông tin được đưa lên thị trường thông qua các CTCK nhằm đảm bảo tính

trung thực, minh bạch của thông tin cho thị trường. Cơ cấu tổ chức của cơ quan này

bao gồm có các bộ phận như bộ phận điều hành thị trường; bộ phận giám sát giao dịch;

bộ phận giám sát thành viên; bộ phận giám sát thông tin…với mục đích chính là quản

lý và giám sát các giao dịch trên sàn nhằm bảo vệ các NĐT, đảm bảo cho thị trường

phát triển đúng theo định hướng mà Nhà nước và Chính phủ đã đề ra.

 Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ là nơi nhận lưu giữ các chứng khoán, nhận

ký quỹ và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch quyền chọn. Các

NHTM đáp ứng đủ các điều kiện của UBCKNN sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh

toán bù trừ chứng khoán và quyền chọn. Mọi giao dịch thành công trên sàn đều được

thông báo đến Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ, sau đó trung tâm sẽ tiến hành thanh

toán và thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc giao dịch của Sở giao dịch đề ra cùng với

các CTCK thành viên.

Vì lợi ích của các đối tác trong giao dịch, lợi ích chung của nền kinh tế những giao

dịch phức tạp của thị trường phải đi đôi với khả năng quản lý của bộ máy điều hành,

giám sát thị trường và hệ thống pháp luật điều chỉnh tương xứng với sự phát triển của

thị trường qua từng giai đoạn.

3.3.2.2 Giải pháp về tổ chức quản lý của các cơ quan chức năng:

a) Nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng có liên

quan:

Để nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng trong việc điều

hành và quản lý TTCK tại thị trường Việt Nam, về cơ bản chúng ta cần thực hiện một

số điểm sau đây:

 Nâng cao vai trò của UBCKNN để đủ sức vận hành, quản lý và giải quyết các

vấn đề phát sinh trong thực tiễn đồng thời thực hiện các ý tưởng về xây dựng và phát

triển TTCK Việt Nam trong thời gian sắp tới. Chúng ta cần phải cử các cán bộ có trình

độ sang các nước đã triển khai thành công nghiệp vụ quyền chọn chứng khoán để học

hỏi kinh nghiệm từ đó đưa ra lộ trình cũng như mô hình phát triển cho quyền chọn

91

chứng khoán tại Việt Nam.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Củng cố cơ cấu tổ chức của SGDCK. SGDCK phải đủ sức kiểm soát các rủi ro,

giám sát các giao dịch nội gián và các giao dịch bất thường bằng những công cụ hiện

đại và công nghệ tiên tiến nhằm củng cố lòng tin cho các NĐT.

 Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng bộ phận, từng cá nhân trong

công tác quản lý hoạt động TTCK, tránh tình trạng chốn tránh đùn đẩy trách nhiệm khi

xẩy ra các vấn đề phát sinh

 Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của các hiệp hội trong việc hỗ trợ cơ

quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuôn khổ pháp lý, đào tạo

nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành viên tham gia TTCK.

b) Nâng cao hiệu quả quản lý giảm sát của cơ quan quản lý nhà nước:

TTCK Việt Nam là một thị trường còn non trẻ, các nhà quản lý còn chưa có nhiều

kinh nghiệm trong việc quản lý và điều hành. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã hội nhập vào

nền kinh tế quốc tế thì năng lực quản lý của nhà nước đối với TTCK cần được nâng

cao. Để có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý của mình nhà nước cần:

 Nâng cao năng lực và trình độ nguồn nhân lực của nhà nước. Quan tâm nhiều

hơn nữa đến vấn đề tuyển dụng nhân sự. Có chính sách tiền lương thỏa đáng để chiêu

mộ và gìn giữ nhân tài. Có chương trình, kế hoạch đào tạo dài hạn cả trong và ngoài

nước cho cán bộ, công nhân viên,…

 Tăng cường năng lực quản lý của nhà nước, đảm bảo sự quản lý linh hoạt, nhạy

bén đối với TTCK. Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua

các chính sách, công cụ kinh tế – tài chính tiền tệ như các chính sách về thuế, lãi suất,

đầu tư và các công cụ tài chính khác.

 Chính phủ, Bộ Tài chính và UBCKNN cần phối hợp chặt chẽ trong việc hoàn

thiện khung pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của

công tác quản lý TTCK.

 Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của TTCK; phát triển kỹ

năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng

92

điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng thị trường.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

 Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ

pháp luật của các thành viên thị trường; áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối

với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK.

c) Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thị trường tài chính:

Hoạt động giao dịch phải thật sự có ý nghĩa trong điều kiện tình hình biến động của

thị trường hoàn toàn khách quan. Các NĐT, DN, những người kinh doanh chứng

khoán, ngoại tệ,… dựa vào những phán đoán về diễn biến của thị trường, họ sẽ lựa

chọn các phái sinh, quyền chọn thích hợp để thực hiện những mục tiêu cụ thể của mình

là kinh doanh hay hạn chế rủi ro.

Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước ta đã

cam kết với WTO, nhà nước cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thị

trường. Đối với TTCK tập trung, biên độ giao động của chứng khoán cũng cần được

nâng dần theo mức độ phát triển của thị trường từ mức +/-5% ở HOSE và +/-7% ở

HASTC hiện nay. Điều này sẽ đảm bảo giá cả chứng khoán phản ảnh đúng cung cầu

trên thị trường. Khi đó, rủi ro đối với giao dịch chứng khoán sẽ dần hiện rõ, gây ra

những thiệt hại lớn hơn, buộc các DN, cá nhân, NĐT phải quan tâm đến các hợp đồng

quyền chọn để bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro cho chính mình.

d) Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán:

Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói chung

hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn thiện các

vấn đề pháp lý về hạch toán, xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền

chọn, phái sinh là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi

ro của các DN không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên

cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý,

hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ góp phần

khuyến khích các DN sử dụng công cụ quyền chọn nhiều hơn, trong đó có quyền chọn

ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu.

3.3.2.3 Nhóm giải pháp phát triển thị trường:

a) Tăng cung- cầu hàng hóa cho TTCK:

93

 Về cung hàng hóa:

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Việc tăng cung hàng hóa cho TTCK tập trung trong thời gian tới, cả trước mắt và

lâu dài, chắc chắn phụ thuộc vào nguồn cung hàng cổ phiếu của các DN nhà nước cổ

phần hóa. Trong công tác cổ phần hóa DN nhà nước, gắn cổ phần hóa DN nhà nước

với việc niêm yết đồng thời trên TTCK.

Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tác động cũng như lựa chọn một số DN có

quy mô lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để cổ phần hóa và

niêm yết ngay trên TTCK. Chính phủ cần có chỉ đạo sát sao cũng như các ngành các

cấp có liên quan cần phải quyết liệt thực hiện kế hoạc cổ phần hóa DN nhà nước theo

đúng tiến độ và gắn kết với TTCK một cách công khai, minh bạch. Tập trung cổ phần

hóa các DN và các tổng công ty lớn, các NHTM, mở rộng việc chuyển đổi các DN có

vốn đầu tư nước ngoài thành các công ty cổ phần kết hợp với việc chào bán ra công

chúng. Việc IPO những DN lớn là tạo thêm hàng hóa chất lượng cho thị trường. Điều

quan trọng là nên có cách thức mới trong việc IPO để vừa bảo đảm cam kết với giới

đầu tư, vừa để các đợt IPO lớn ổn định hơn và không tạo ra sức ép về cung cầu hàng

hóa cho thị trường trong từng thời điểm.

Ngoài ra nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình

DN tham gia vào TTCK, đặc biệt là tạo điều kiện để các DN vừa và nhỏ làm ăn hiệu

quả tham gia niêm yết. Áp dụng các ưu đãi cho cho các đối tượng sắp tham gia vào thị

trường bằng công cụ về thuế, về các chính sách ưu đãi khác nhằm tạo sự thuận lợi cho

các DN này tham gia thị trường. Tiếp tục khuyến khích các DN tư nhân nói riêng và

các DN niêm yết nói chung bằng cách gia hạn ưu đãi thuế thu nhập DN khi niêm yết

Nhà nước muốn có nguồn thu ngân sách lớn thì phải kích thích cho TTCK phát triển vì

đây là nơi tạo ra nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng

tạo môi trường thông thoáng cho các DN sắp niêm yết trên sàn, hạn chế tối đa các thủ

tục rườm rà, không cần thiết nhằm giúp các DN tham vào thị trường một cách dễ dàng

hơn.

Chúng ta cũng cần quan tâm đến vấn đề xác định giá trị DN. Cho phép các DN

đánh giá lại tài sản và thương hiệu đúng giá trị đích thực thông qua các công ty định

giá với những quy định cụ thể và chặt chẽ, nên tổ chức đấu giá công khai trên thị

94

trường theo tình thần nghị định 109/2007/NĐ-CP. Có thể mời các công ty định giá

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

nước ngoài tham gia, điều này góp phần làm gia tăng uy tín cổ phiếu công ty trên thị

trường.

Phát triển hàng hóa cho TTCK không chỉ là gia tăng số lượng mà còn phải nâng cao

chất lượng các công ty niêm yết. Các công ty niêm yết phải là các công ty lành mạnh

về tài chính, công khai minh bạch đối với cổ đông và kinh doanh ổn định có hiệu quả.

Đây là những nhân tố vô cùng quan trọng để tạo lòng tin cho các NĐT.

 Về cầu hàng hóa:

Sự tham gia của các NĐT ngày càng tăng sẽ góp phần tăng tính thanh khoản và

hiệu quả của TTCK, từ đó khuyến khích các DN tăng cường sử dụng kênh TTCK để

huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. TTCK muốn thành công phải dựa

trên sự cân bằng cung cầu. Lực lượng các NĐT tham gia trên TTCK còn quá nhỏ so

với quy mô dân số 86 triệu người, đa số tham gia theo phương thức ngắn hạn và nhỏ lẻ.

Cần mở rộng phạm vi các định chế trong nước tham gia vào thị trường như các công ty

bảo hiểm, bảo hiểm xã hội đồng thời khuyến khích các NĐT nước ngoài tham gia thị

trường như mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các NĐT nước ngoài trên TTCK

Việt Nam, tiến tới xóa bỏ giới hạn về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông nước

ngoài đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm quyền kiểm soát.

b) Cải tiến các phương thức phát hành trái phiếu, tạo sức hấp dẫn cho trái

phiếu:

Thị trường cổ phiếu phát triển đến đâu thì Chính phủ cũng nên quan tâm đến sự

phát triển của thị trường trái phiếu. Điều này đáp ứng phần lớn nhu cầu của các NĐT

muốn tham gia thị trường nhưng ngại rủi ro, xem mức độ an toàn của chứng khoán là

yếu tố quyết định sự lựa chọn của chính mình. Do đó, cần cải tiến phương pháp phát

hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương pháp đấu thầu, đa dạng

hóa các kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ, triển khai phát hành trái phiếu Quỹ hỗ trợ

phát triển, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, đô thị lên niêm yết và giao dịch

trên TTCK. Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu nhằm cung cấp

95

đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

c) Chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin về các sản phẩm, dịch vụ quyền

chọn đến khách hàng:

Ngày nay, TTTC cạnh tranh ngày một gay gắt. Các định chế tài chính chuyên

nghiệp như NHTM, CTCK xuất hiện ngày càng nhiều. Việc tuyên truyền, quảng bá,

giới thiệu sản phẩm, dịch vụ cơ bản của mỗi tổ chức tài chính là cần thiết để có thể thu

hút các đối tượng khách hàng. Đối với công cụ quyền chọn, một trong những loại hình

dịch vụ mới, khá phức tạp đối với khách hàng, việc làm này càng trở nên cần thiết,

thiết thực hơn, nhằm tạo ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và

nhà hoạch định chính sách về công dụng, lợi ích và cách thức sử dụng các công cụ

quyền chọn, từ đó phát triển nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ này.

Để thực hiện điều đó CTCK cần rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán

các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng, theo hướng là lựa chọn và

huấn luyện kiến thức tiếp thị, bán hàng cho những nhân viên thật sự am hiểu về sản

phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng. Ngoài ra, về lâu dài, các

CTCK cần lập ra bộ phận chuyên phân tích, tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm

thông tin, cách thức sử dụng các công cụ quyền chọn cho cả hai mục tiêu kinh doanh

và hạn chế rủi ro.

Phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài Chính, Giáo Dục, Truyền Thông, NHNN,

UBCK…để tăng cường hơn nữa công tác quảng bá và giới thiệu sản phẩm quyền chọn

đến các khách hàng DN và NĐT, trong đó chú trọng đầu tư cho hình thức quảng bá

trên internet…

Tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn thực hành tham gia vào giao dịch quyền chọn

chứng khoán cho các DN, NĐT. Trong đó đưa ra cho các tình huống mẫu để khách

hàng thử ứng dụng. Từ đó, phân tích cho các khách hàng thấy lợi ích của việc sử dụng

công cụ quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận trong các hoạt động

96

đầu tư của mình.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

d) Cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch, hệ thống đăng

ký-lưu ký-thanh toán bừ trừ chứng khoán:

Đây là giải pháp tạo ra động lực cho việc ứng dụng giao dịch quyền chọn chứng

khoán ở Việt Nam. Việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch bao

gồm những công việc cụ thể như sau:

 Cần có những thay đổi căn bản để đáp ứng yêu cầu của giới đầu tư như: giảm

thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị

trường, rút ngắn thời hạn thanh toán từ T+3 xuống T+2 và T+1.

 Tăng biên độ giá: việc tăng biên độ giá chứng khoán là một trong những bước đi

cần thiết trong tiến trình hoàn thiện hóa TTCK Việt Nam. Trên thị trường các nước

trong khu vực, biên dộng dao động giá được áp dụng thường là 10% hoặc thậm chí

không có biên độ dao động. Khi TTCK Việt Nam đã hội tụ đủ những điều kiện phát

triển ,biên độ dao động có thể cũng được áp dụng ở mức 10%. Đối với NĐT việc tăng

biên độ dao động cũng cho phép đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau trong quá trình đặt

lệnh và do đó nâng cao tính tự chủ và bản lĩnh kinh doanh của họ.

 Tăng cường củng cố sơ sở hạ tầng, phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông

tin ngành chứng khoán, đẩy mạnh giao dịch qua internet. Hệ thống giao dịch và công

bố thông tin của cả SGDCK HCM và Hà Nội còn nhiều hạn chế. Do đó, chúng ta cần

xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin một cách hiệu quả bằng các biện pháp

cụ thể như sau:

 Ứng dụng và hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động hiện đại vận hành tại

SGDCK TP HCM và Hà Nội. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của các

Sở, Sàn giao dịch với các CTCK thành viên. Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết

nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán,…

 Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập

dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các NĐT. Mở rộng phạm vi

thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cở sở dữ liệu thông tin đầy đủ.

 Tự động hóa hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch

vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch

97

chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

các thành viên lưu ký và các Sở, Sàn giao dịch để cung cấp chính xác, kịp thời những

thông tin có liên quan.

 Hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán là một trong số cấu thành nên cơ sở hạ

tầng của TTCK, nó đóng vai trò trọng yếu trong việc hoàn tất các giao dịch chứng

khoán, theo đó các bên mua và bán chứng khoán được đảm bảo đầy đủ quyền lợi và

đồng thời cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các đối tác giao dịch. Kết

hợp hệ thống lưu ký chứng khoán, hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán được xem

là yếu tố nền tảng, có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và hiệu quả của bất kỳ một

TTCK nào. Tuy nhiên với một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và pháp lý đặc thù

riêng của Việt Nam thì để phát triển một hệ thống bù trừ thanh toán phù hợp thì phải có

những điều hỉnh cần thiết nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ

thống này.

e) Nâng cao hiệu quả thị trường thông qua việc công khai hóa và minh

bạch hóa thông tin:

TTTC Việt Nam mới chỉ tăng tốc phát triển trong một thời gian ngắn, vấn đề truyền

thông tài chính cũng đã bắt đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhưng nhìn chung,

truyền thông tài chính ở Việt Nam chỉ mới phát triển sơ khai, hầu như là mang tính tự

phát, thiếu sự quản lý, ràng buộc trách nhiệm từ các cơ quan quản lý nhà nước. Với

một TTTC bậc cao như thị trường quyền chọn, thông tin càng đóng một vai trò quan

trọng trong các quyết định đầu tư, phòng ngừa rủi ro của DN, NĐT…Do đó, để phát

triển thị trường quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn quyền chọn chứng khoán, cần chấn

chỉnh và thúc đẩy truyền thông tài chính phát triển. Thông tin tài chính cần được công

khai, minh bạch hóa. Nhà nước cần tiếp tục ban hành các qui chế, thông tư, hướng

dẫn…chi tiết hơn việc công bố thông tin ra TTCK cũng như chế tài nghiêm khắc đối

với các vi phạm về công bố thông tin.

Ngoài ra, cần thúc đẩy các nguồn thông tin đa dạng, đầy đủ và cần thiết đến với

mọi đối tượng tham gia thị trường. Trước mắt, nên thành lập các tổ chức chuyên

nghiên cứu phát triển các công cụ dự báo giá và công bố kết quả dự báo giá cả, đặc biệt

là giá của một số mặt hàng quan trọng như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, xăng dầu…

98

qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tạp chí chuyên ngành để các

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

NĐT có cơ sở phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định kinh doanh hay phòng

ngừng rủi ro cho riêng mình.

f) Triển khai nghiệp vụ bán khống trên TTCK:

Bán khống là một chiến lược được thực hiện dựa trên dự đoán về một thị trường giá

xuống. NĐT vay cổ phiếu từ các nhà môi giới, sau đó bán ở một mức giá và mua lại

như kỳ vọng ở mức giá thấp hơn. Nếu giá cổ phiếu mua lại với giá thấp hơn giá đã bán

khống, giao dịch sẽ kiếm được lợi nhuận. Việc thực hiện nghiệp vụ bán khống sẽ thu

hút được các NĐT tham gia thị trường, đặc biệt là cải thiện mạnh mẽ tính thanh khoản

của thị trường- điểm yếu của các thị trường mới nổi như Việt Nam. Bán khống là xu

thế tất yếu để đảm bảo lợi ích của các NĐT, cũng như các tổ chức môi giới chứng

khoán chuyên nghiệp.

3.3.2.4 Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:

a) Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu và tuyên truyền:

Con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo và đào

tạo lại là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, nhất là trong lĩnh vực năng động như chứng

khoán và các công cụ tài chính phái sinh. Quá trình đào tạo không chỉ cho những nhà

phân tích, nhà môi giới, nhà quản lý mà cho quảng đại công chúng. Việc đào tạo phải

có sự kết hợp giữa những yêu cầu thực tế đặt ra với việc đào tạo nguồn nhân lực ở các

trường đại học trong và ngoài nước. Hình thức đào tạo cũng cần đa dạng như chính

khoá, hội thảo, đào tạo từ xa,… nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng và thông tin

tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK cho công chúng.

Để đáp ứng được yêu cầu về nhân lực cho TTCK thì chương trình đào tạo trong các

trường đại học cần chú trọng đến các môn học liên quan đến TTCK. Nội dung của

chương trình phải đáp ứng những tiêu chuẩn tiên tiến nhất.

Ngoài ra, cần thường xuyên phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công

chúng thông qua các chuyên mục về tìm hiểu kiến thức chứng khoán trên đài phát

thanh, truyền hình, internet,… Đây là kênh tuyên truyền nhanh nhất đến quảng đại

99

công chúng đầu tư.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

b) Phát triển đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và các công cụ

tài chính phái sinh:

Các CTCK, các ngân hàng cần lựa chọn các cá nhân để làm việc trong lĩnh vực này

dựa trên: Nền tảng đào tạo, nền tảng cá nhân và khả năng phát triển.

 Nền tảng đào tạo: Người ta thường cho rằng người có học vị cao phù hợp với

công việc này. Tất nhiên, có được bằng cấp đó là rất tốt nhưng chưa hẳn là đủ và cũng

chưa hẳn là chỉ những người đó mới phù hợp. Thực tế, một trực giác tốt để nhận biết

nhanh còn quan trọng hơn nền tảng đào tạo, đôi khi tài sản quan trọng nhất của một

chuyên gia là “giác quan” nhạy bén, hay có thể nói là họ có sở trường trong lĩnh vực

này. Thực tế cho thấy nhiều người thành công trên lĩnh vực này là những người biết

nắm bắt, xử lý thông tin, biết phân tích và ra quyết định đúng lúc. Một bộ phận kinh

doanh quyền chọn tốt cần có những con người có các nền tảng khác nhau với thế mạnh

của họ có thể bổ sung cho nhau và những điểm yếu của mỗi người được người khác bù

đắp.

 Nền tảng cá nhân: Cá tính mỗi con người cũng đóng góp đáng kể cho nghề

nghiệp kinh doanh công cụ phái sinh. Đây là hoạt động chịu nhiều áp lực, những người

kinh doanh trong lĩnh vực này thường rất muốn kiếm được nhiều lợi nhuận, nhưng nếu

họ qua đề cao chủ nghĩa cá nhân có thể dẫn đến những sai lầm lớn. Việc cư xử công

bằng, không độc đoán và không quá dựa trên lợi nhuận sẽ tạo được môi trường làm

việc lành mạnh để các giao dịch viên có thể đạt kết quả tốt.

 Khả năng phát triển: Đây là vấn đề rất khó đánh giá khi bắt đầu lựa chọn một

nhân viên giao dịch vì không biết người đó có đủ năng lực, kinh nghiệm, đủ minh mẫn

để cạnh tranh khi thị trường phát triển hay không. Vì vậy, ngoài khả năng của người

đó, các tổ chức này phải thường xuyên tổ chức các buổi huấn luyện, đào tạo về nghiệp

vụ, thi sát hạch cho các nhân viên của mình nhằm nâng cao tay nghề và cập nhật kiến

thức cho họ.

Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư vấn có

năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức nghề nghiệp tốt.

Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK hiện nay khi mà vấn đề

100

nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời gian qua. Định kỳ, các

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn, để các nhân

viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là không chỉ đào tạo theo hướng

chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo.

Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những

thắc mắc để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho các NĐT. Các CTCK cũng cần có

chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm

khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực của mình.

3.3.2.5 Các nhóm giải pháp khác:

a) Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới:

Đây là giải pháp vô cùng quan trọng trong việc ứng dụng các giao dịch quyền chọn

chứng khoán ở Việt Nam. Chúng ta có thể học hỏi và áp dụng kinh nghiệm của các

nước tiên tiến trên thế giới về các lĩnh vực như: việc tổ chức sàn giao dịch, nguyên tắc,

cơ chế và quy trình giao dịch; việc xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị

trường; việc xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK; việc đào tạo đội ngũ cán bộ,

công chức quản lý,… và đặc biệt là từ đó áp dụng một cách hiệu quả lên thị trường

chứng khoán Việt Nam.

b) Giải pháp để tiến tới thành lập một sàn giao dịch quyền chọn niêm yết

tập trung:

Để thị trường quyền chọn thực sự phát triển và trở thành một trong những trụ cột

của thị trường tài chính, khi thị trường quyền chọn và các giao dịch quyền chọn đạt đến

độ chín mùi cần thiết, bên cạnh một thị trường quyền chọn phi tập trung, nhà nước cần

tiến hành tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn giao dịch quyền chọn lớn trên thế

giới, đặc biệt là ở Mỹ, để thành lập một sàn giao dịch quyền chọn tập trung chính thức

(giống như một sàn giao dịch chứng khoán niêm yết tập trung) như ở các nước có

TTTC phát triển, với các tài sản cơ sở ở đây có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, chỉ

số chứng khoán, vàng, lãi suất... Điều này sẽ làm tăng tính thanh khoản, khối lượng

giao dịch trên thị trường quyền chọn cũng như thị trường các tài sản cơ sở, đặc biệt là

TTCK; dần dần tiến đến chuyên nghiệp hóa, tạo thuận tiện, phổ biến và đưa thị trường

quyền chọn trở thành một một trong những thị trường thiết yếu trên thị trường tài

101

chính.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Việc xây dựng hệ thống kỹ thuật công nghệ cho sàn giao dịch quyền chọn tập trung

đòi hỏi sự đầu tư lớn và đồng bộ. Các nhà quản lý có thể dựa vào kinh nghiệm xây

dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho SGDCK và tham khảo từ các sàn giao

dịch quyền chọn tập trung ở các nước, kết hợp với khả năng, tình hình thị trường hiện

tại để trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ phù hợp với điều kiện nước ta.

Các hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán bù trừ, hệ thống kết nối với các thành

viên (NHTM, CTCK môi giới quyền chọn)… cần được trang bị đồng bộ, thống nhất,

giúp đơn giản hóa các qui trình giao dịch, đồng thời tăng tính chính xác, thanh khoản

và độ an toàn cho các NĐT tham gia thị trường.

Về phía các CTCK: ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, khi một sàn giao dịch quyền

chọn tập trung được thành lập, cũng giống như TTCK; các hoạt động giao dịch, chuyển

nhượng quyền chọn sẽ diễn ra. Các CTCK sẽ đóng vai trò là thành viên của sở giao

dịch quyền chọn, đứng ra môi giới và thu phí đối với các giao dịch chuyển nhượng

quyền chọn đối với khách hàng.

Khi đó, phí môi giới quyền chọn cần được các CTCK tính toán kỹ lưỡng để có thể

bù đắp được các khoảng chi phí đầu tư đã bỏ ra, đảm bảo khả năng cạnh tranh và bước

đầu thu lợi nhuận. Trong điều kiện các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn mới bắt

đầu hình thành, các CTCK nên chào một mức phí cạnh tranh, để bước đầu thu hút được

khách hàng, giúp cho NĐT làm quen cũng như hứng thú hơn với việc tham gia giao

dịch các quyền chọn tập trung, đóng vai trò tích cực trong việc phát triển một thị

trường giao dịch quyền chọn tập trung chính thức.

3.4 Mô hình giao dịch đề xuất cho Việt Nam:

Nhằm giúp thị trường chứng khoán Việt Nam có thể áp dụng quyền chọn chứng

khoán vào giao dịch thì tôi có một mô hình đề xuất tương tự của sàn giao dịch CBOE

nhưng đơn giản hơn và thuận tiện cho người muốn mua (bán) hợp đồng quyền chọn ở

TTCK Việt Nam.

Mỗi cá nhân giao dịch quyền chọn cần có một tài khoản tại CTCK mà người môi

giới của mình đang làm việc để có thể tiện cho giao dịch thanh toán khi hợp đồng

102

quyền chọn được giao dịch.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Hình 3.3: Mô hình giao dịch quyền chọn chứng khoán đề xuất

cho thị trường chứng khoán Việt Nam

 Người mua và người bán chỉ thị cho người môi giới của mình tiến hành giao

dịch quyền chọn.

 Nhà môi giới của người mua (bán) quyền chọn yêu cầu CTCK của mình thực

hiện giao dịch.

 Các CTCK đặt lệnh lên sàn giao dịch, các giao dịch khớp nhau hình thành nên

lệnh với mức giá xác định.

 Thông tin giao dịch được thông báo về trung tâm thanh toán bù trừ.

 CTCK thông báo giá giao dịch cho người môi giới, sau đó thông báo với người

mua (bán).

 Người mua (bán) ký gửi phí quyền chọn cho người môi giới

 Người môi giới ký gửi phí quyền chọn cho CTCK của mình.

103

 CTCK thanh toán giao dich quyền chọn cho người mua (bán).

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

KẾT LUẬN

Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế

giới đặc biệt là kể từ khi gia nhập vào WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại cho

chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và

TTCK nói riêng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam TTCK

cũng đang có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự phát

triển nhanh này đã bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn cho công chúng đầu tư, đặc biệt là NĐT

nhỏ lẻ. Đã đến lúc cần phải có công cụ bảo vệ cho họ và việc xây dựng thị trường

quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Nó cũng tạo thêm

một sân chơi mới cho các NĐT và góp phần nâng cao tính cạnh tranh của TTCK Việt

Nam trong quá trình hội nhập.

Qua chuyên đề tốt nghiệp về quyền chọn, ta có thể nắm được cơ sở lý luận về

quyền chọn chứng khoán, kinh nghiệm về thị trường giao dịch quyền chọn ở một số

nước trên thế giới và đi vào thực trạng TTCK tại Việt Nam, phân tích tình hình thị

trường và mức độ cần thiết của công cụ quyền chọn chứng khoán, chuyên đề cũng đã

đưa ra một số giải pháp cũng như mô hình đề xuất cho việc áp dụng quyền chọn chứng

khoán tại Việt Nam.

Tuy nhiên, đây là lĩnh vực phức tạp và mới, do những hạn chế của bản than trong

quá trình làm bài, chuyên đề chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được

nhận ý kiến đóng góp, bổ sung của thầy cô giáo và những người quan tâm, đang nghiên

cứu về vấn để này. Để chúng ta có thể sớm áp dụng nó vào Việt Nam, mở ra cho thị

104

trường chứng khoán một công cụ để có thể phát triển mạnh hơn.

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

Tài liệu tham khảo

1. “Quản trị rủi ro tài chính” – TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang (Chủ biên), PGS.TS

Trần Ngọc Thơ, TS Nguyễn Khắc Bảo, GV Hồ Quốc Tuấn (2006).

2. “Tài chính doanh nghiệp” – PGS.TS Trần Ngọc Thơ (Chủ biên), PGS.TS

Nguyễn Thị Ngọc Trang, PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, TS Nguyễn Thị Liên Hoa,

TS Nguyễn Thị Uyên Uyên.

3. “Tài chính quốc tê” PGS.TS Trần Ngọc Thơ & PGS.TS Nguyễn Ngọc Định

(Đồng chủ biên), TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS Nguyễn Khắc Bảo, PGS.TS Nguyễn

Thị Liên Hoa.

4. Luận văn thạc sĩ kinh tế Nguyễn Thanh Tâm (2007): “Quyền chọn chứng

khoán và việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt

Nam”.

5. Nghiên cứu khoa học “Công cụ phái sinh – Gốc nhìn từ cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu” Nhóm sinh viên:Nguyễn Ngọc Linh + Trịnh Thị Thanh Tâm, GVHD:

Lê Đạt Chí.

6. Các thông tin trên trang web của Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hà Nội:

http://www.hastc.org.vn

7. Các thông tin trên trang web của chuyên đề về phân tích tài chính, quản trị

doanh nghiệp, ngân hàng, chứng khoán: www.saga.vn

8. Các thông tin trên trang web của Thời báo kinh tế Việt Nam:

www.vneconomy.com.vn

9. Các thông tin trên trang web của Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh:

www.hsx.vn

10. Các thông tin trên trang web của Ủy ban chứng khoán Nhà nước:

http://www.ssc.gov.com

http://tinnhanhchungkhoan.vn

11. Các thông tin trên trang web của Đầu tư chứng khoán online:

105

12. Các thông tin trên trang web: http://www.tapchichungkhoan.net

Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán” GVHD: Th.S Dương Kha

13. Các thông tin trên trang web của Tin nhanh Việt Nam: http://vnexpress.net/

14. Các thông tin trên trang web của Xa lộ tin tức: http://tintuc.xalo.vn/

Tài liệu nước ngoài:

1. “Option, Futures, and other derivatives” John C.Hull (2006)

2. Chicago Board Options Exchange: http://www.cboe.com

3. Euronext N.V: http://www/euronext.com

4. London International Financial Futures and Options Exchange:

http:/www.liffe.com

106

5. Tokyo Stock Exchange: http://www.tse.or.jp