
78
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi
xanh trong doanh nghiệp logistics: Nghiên cứu
thực nghiệm tại Việt Nam
Ngày nhận: 03/12/2024 Ngày nhận bản sửa: 26/02/2025 Ngày duyệt đăng: 04/03/2025
Tóm tắt: Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định chuyển đổi xanh trong các doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 217 doanh nghiệp logistics trong tháng
2/2024 đến tháng 11/2024. Các phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng
gồm kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA),
phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết
quả nghiên cứu cho thấy: Nhận thức về lợi ích của chuyển đổi xanh, Sự hợp tác
với các nhà cung cấp, Các chính sách và quy định của Chính phủ và Năng lực
công nghệ của doanh nghiệp là những yếu tố có tác động tích cực đến quyết
Factors affecting green transformation decisions in logistics enterprises: Empirical research in
Vietnam
Abstract: The objective of this study is to identify the factors influencing the decision to adopt green
transformation in Vietnamese logistics enterprises. Data was collected from 217 logistics companies from
February 2024 to November 2024. Data analysis methods employed include reliability testing, exploratory
factor analysis (EFA), confirmatory factor analysis (CFA), and structural equation modeling (SEM). The
findings reveal that awareness of the benefits of green practices, cooperation with suppliers, government
policies and regulations, and technological capacity of enterprises have a positive impact on the decision
to adopt green transformation in Vietnamese logistics enterprises. Based on these findings, the study
proposes recommendations to promote green transformation in Vietnamese logistics enterprises. For
state management agencies, it is necessary to complete a synchronized legal framework, encourage
businesses to apply green solutions. For logistics enterprises, it is necessary to invest in clean energy,
advanced technology, and strengthen cooperation and raise awareness of the benefits of green logistics
for sustainable development and business competitiveness.
Keywords: Green transformation, Green logistics, Financial capacity, Awareness of benefits, Cooperation
with suppliers
Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2844
Bui, Duy Linh
Email: duylinh@ftu.edu.vn
Foreign Trade University of Vietnam
Bùi Duy Linh
Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam

BÙI DUY LINH
79
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
định chuyển đổi xanh trong các doanh nghiệp logistics. Trên cơ sở đó, nghiên
cứu đề xuất các khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của các
doanh nghiệp logistics Việt Nam. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, cần
hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các
giải pháp xanh. Đối với các doanh nghiệp logistics, cần đầu tư vào năng lượng
sạch, công nghệ tiên tiến, đồng thời tăng cường hợp tác và nâng cao nhận thức
về lợi ích của logistics xanh đối với sự phát triển bền vững và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Từ khóa: Chuyển đổi xanh, Logistics xanh, Năng lực tài chính, Nhận thức về lợi ích,
Sự hợp tác với nhà cung cấp
1. Giới thiệu
Giữ vị trí quan trọng trong chuỗi sản xuất,
thương mại, nhưng logistics lại là một
trong những lĩnh vực gây ô nhiễm môi
trường đáng kể khi hoạt động vận chuyển
hàng hóa chiếm tới khoảng 8% tổng lượng
khí thải CO2 trên toàn thế giới (Zatrochová
và cộng sự, 2021). Do đó, phát triển
logistics theo hướng xanh, bền vững trở
thành một xu thế tất yếu trên toàn thế giới
trong những năm gần đây. Mục đích của
logistics xanh là tối ưu hóa mối liên hệ giữa
việc vận hành kho, phân phối hàng hóa và
môi trường tự nhiên, phát triển đáp ứng
nhu cầu hiện tại mà không làm giảm tính
sẵn có và chất lượng tài nguyên (Zhang
và cộng sự, 2020). Cốt lõi của xu hướng
này là việc áp dụng các biện pháp quản lý
và kỹ thuật nhằm giảm tổn thất, giảm mức
tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết
bị mà vẫn bảo đảm nhu cầu, mục tiêu đặt
ra đối với quá trình sản xuất và đời sống
(Zowada, 2018). Chính vì vậy, logistics
xanh là mục tiêu đang được nhiều quốc gia
trên thế giới theo đuổi.
Tại Việt Nam, việc phát triển hoạt động
logistics xanh vẫn còn nhiều thách thức và
logistics xanh vẫn là một khái niệm tương
đối mới. Điều này được thể hiện qua kết
quả khảo sát được công bố trong Báo cáo
logistics Việt Nam 2022 của Bộ Công
thương (Bộ Công thương, 2022), theo đó,
chỉ có 31% số doanh nghiệp logistics Việt
Nam được khảo sát có sử dụng năng lượng
tái tạo trong vận hành kho bãi; 26,8% số
doanh nghiệp logistics không có chiến
lược phát triển xanh và 35,2% số doanh
nghiệp không có hoạt động kiểm soát môi
trường. Cùng với đó, những chính sách về
quy trình sản xuất để đảm bảo phát triển
logistics xanh còn rất hạn chế, đặc biệt là
những quy định về việc tái chế, sửa chữa và
phục hồi chất thải; tái chế và phát triển bao
bì thân thiện môi trường và quảng bá sử
dụng các nguồn tài nguyên tái tạo. Trong
bối cảnh đó, chuyển đổi xanh đã và đang
trở thành yêu cầu cấp thiết đối với ngành
logistics Việt Nam.
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về
các yếu tố tác động đến chuyển đổi xanh
trong doanh nghiệp nói chung và chuyển
đổi xanh trong các doanh nghiệp logistics
nói riêng (Tariq và cộng sự, 2017; Wang và
cộng sự, 2018; Masudin, 2019; Konietzko
và cộng sự, 2020; Arsawan và cộng sự,
2021; Alam, 2022; Lutf và cộng sự, 2023;
Khayyat và cộng sự, 2024). Kết quả của
các nghiên cứu cho thấy quyết định chuyển
đổi xanh trong các doanh nghiệp chịu sự

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp logistics:
Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
80 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
tác động của các yếu tố đa dạng từ bên
ngoài cũng như bên trong doanh nghiệp.
Mức độ và chiều hướng tác động của các
yếu tố đối với chuyển đổi xanh của doanh
nghiệp cũng có sự khác biệt, phụ thuộc vào
bối cảnh nghiên cứu.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có nhiều nghiên
cứu về chuyển đổi xanh trong doanh
nghiệp logistics. Cùng với đó, các nghiên
cứu về logistics xanh chủ yếu khái quát
thực trạng phát triển logistics xanh của
Việt Nam mà chưa đi sâu vào phân tích các
yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng
đến quyết định chuyển đổi xanh của các
doanh nghiệp logistics Việt Nam. Sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng từ dữ
liệu khảo sát 217 doanh nghiệp logistics,
nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của
các yếu tố đến quyết định chuyển đổi xanh
trong doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu không chỉ xác định
được những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định chuyển đổi xanh của doanh
nghiệp logistics Việt Nam mà còn là căn
cứ để đề xuất các kiến nghị cụ thể nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của các
doanh nghiệp logistics, góp phần phát triển
ngành logistics Việt Nam theo hướng bền
vững.
Kết cấu của bài viết bao gồm 5 nội dung
chính: Giới thiệu, cơ sở lý thuyết, phương
pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu và
thảo luận, kết luận và khuyến nghị.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp
logistics
Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp
logistics là một chiến lược phát triển bền
vững, trong đó doanh nghiệp áp dụng các
biện pháp và công nghệ thân thiện với môi
trường để giảm tác động tiêu cực đến hệ
sinh thái, đồng thời tăng cường hiệu quả
kinh tế và xã hội trong chuỗi cung ứng (Ren
và cộng sự, 2019). Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra các hoạt động chính của chuyển đổi
xanh trong doanh nghiệp logistics bao gồm
thiết kế sản xuất xanh, vận tải xanh, kho
hàng xanh và quả lý chất thải (Karia &
Asaari, 2016; Zowada, 2018). Trong đó,
thiết kế sản xuất xanh là áp dụng các tiêu
chuẩn sản xuất sử dụng tài nguyên, thiết bị
sản xuất, vật liệu đóng gói, tái chế nhằm
giảm tác động đến môi trường (Wang,
2018). Vận tải xanh là sự kết hợp của nhiều
yếu tố như việc sử dụng nhiên liệu sạch,
cải thiện cơ sở hạ tầng, ứng dụng công
nghệ trong quản lý, mở rộng các tuyến vận
chuyển (Jedlinski, 2014). Kho hàng xanh
liên quan đến ứng dụng các thiết bị và giải
pháp tiên tiến nhằm giảm thiểu tối đa tình
trạng ô nhiễm không khí, tiếng ồn, rác thải
tại môi trường kho hàng (Zatrochová và
cộng sự, 2021). Ngoài ra, chuyển đổi xanh
trong doanh nghiệp logistics cũng chú
trọng đến việc tái chế, sử dụng chất thải
trong toàn bộ quá trình logistics.
2.2. Các lý thuyết nền tảng
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã sử
dụng nhiều lý thuyết khác nhau khi xem
xét các quyết định về thực hành xanh trong
hoạt động của các doanh nghiệp. Trong đó,
lý thuyết hành vi doanh nghiệp, lý thuyết
các bên liên quan và khung lý thuyết
Công nghệ-Tổ chức-Môi trường (TOE)
là những lý thuyết nền tảng được sử dụng
phổ biến trong các nghiên cứu gần đây
(Schniederjans & Starkey, 2014; Joo và
cộng sự, 2018; Masudin, 2019; Khayyat và
cộng sự, 2024).
Lý thuyết hành vi doanh nghiệp: Lý thuyết
hành vi doanh nghiệp do Cyert và March
(1963) đề xuất dựa trên tiền đề nghiên
cứu của Simon (1952) và March và Simon

BÙI DUY LINH
81
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
(1958). Lý thuyết này tập trung làm rõ quá
trình ra quyết định kinh doanh thực tế và chỉ
ra phương thức doanh nghiệp ra các quyết
định đó (Joel, 2021). Theo đó, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp là sự liên kết
các cá nhân có những mục tiêu chung trong
quan hệ, sản xuất, bán hàng, thị phần, hoặc
lợi nhuận. Các thành viên liên kết cũng là
những thành viên trong liên kết phụ nội
bộ và phụ thuộc lẫn nhau. Những liên kết
phụ nội bộ của doanh nghiệp tương ứng
với những lĩnh vực chuyên môn hóa chủ
yếu (các bộ phận chức năng) trong doanh
nghiệp. Mỗi một liên kết phụ trong doanh
nghiệp đều tuân thủ khung chính sách chung
và cùng hướng đến các mục tiêu chung.
Lý thuyết các bên liên quan: Lý thuyết này
được đưa ra bởi Freeman (1984), cho rằng
một tổ chức không chỉ tồn tại để phục vụ lợi
ích của cổ đông, mà còn phải cân nhắc và
đáp ứng nhu cầu của tất cả các bên có liên
quan đến hoạt động của tổ chức (Fassin,
2009). Các bên liên quan có thể bao gồm
khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp, cộng
đồng, Chính phủ, và các nhóm lợi ích khác.
Mối quan hệ với các bên liên quan rất
quan trọng trong lý thuyết này (Hatami &
Firoozi, 2019). Lý thuyết khẳng định rằng
xã hội sẽ hỗ trợ một công ty nếu họ nhận
được giá trị đổi lại, đặc biệt là trong các dự
án và hoạt động bền vững. Do đó, nhiệm vụ
chính của hoạt động kinh doanh trọng tâm
là điều phối việc tạo ra giá trị với và cho
các bên liên quan phù hợp với mục đích
chung (Freudenreich và cộng sự, 2020).
Khung lý thuyết TOE: Được phát triển bởi
Tornatzky và cộng sự (1990), là một mô
hình phân tích toàn diện, giúp giải thích sự
thành công hay thất bại của việc áp dụng
công nghệ mới trong các tổ chức. Khung lý
thuyết TOE bao gồm ba thành phần chính:
công nghệ, tổ chức và môi trường. Công
nghệ đề cập đến các đặc điểm của chính
công nghệ, bao gồm chức năng, độ phức
tạp, khả năng tương thích với các hệ thống
hiện có và dễ sử dụng. Tổ chức đề cập
đến ngữ cảnh nội bộ nơi công nghệ được
sử dụng, bao gồm các yếu tố như quy mô,
cấu trúc, văn hóa và nguồn lực của tổ chức.
Môi trường đề cập đến ngữ cảnh bên ngoài
nơi tổ chức hoạt động, bao gồm các yếu
tố như điều kiện thị trường, yêu cầu quy
định và chuẩn mực xã hội và văn hóa (Awa
và cộng sự, 2017). Khung lý thuyết này đã
được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về
việc áp dụng và triển khai công nghệ trong
các tổ chức, và nó đã chứng minh là một
công cụ có giá trị để hiểu sự tương tác phức
tạp giữa công nghệ, tổ chức và môi trường
(Liu, 2019).
2.3. Tổng quan nghiên cứu và mô hình
nghiên cứu đề xuất
Trong nghiên cứu này, tác giả xem xét các
yếu tố tác động đến quyết định chuyển đổi
xanh trong các doanh nghiệp logistics Việt
Nam. Quyết định chuyển đổi xanh trong
doanh nghiệp logistics trong phạm vi của
nghiên cứu này được hiểu là sự sẵn sàng và
cam kết của một doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực logistics trong việc thực
hiện các thay đổi về quy trình, công nghệ
và hành vi để giảm thiểu tác động tiêu cực
đến môi trường, hướng tới một hoạt động
logistics bền vững. Trong quá trình xây
dựng mô hình nghiên cứu đề xuất và các
biến quan sát, nghiên cứu cũng dựa trên
những quan sát thực tế và tiến hành thảo
luận nhóm với các doanh nghiệp, chuyên
gia để lựa chọn và điều chỉnh các yếu tố
phù hợp. Theo đó, 6 yếu tố được lựa chọn
để đưa vào mô hình nghiên cứu bao gồm:
(1) Nhận thức về lợi ích của chuyển đổi
xanh, (2) Áp lực từ khách hàng, (3) Sự hợp
tác với nhà cung cấp, (4) Chính sách và
quy định của Chính phủ, (5) Năng lực tài
chính và (6) Năng lực công nghệ.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp logistics:
Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
82 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
Nhận thức về lợi ích: là mức độ hiểu biết,
nhận thức và đánh giá của các nhà quản
lý, nhân viên và các bên liên quan trong
doanh nghiệp về những giá trị tích cực mà
việc chuyển đổi xanh mang lại (Brammer
và cộng sự, 2012). Để chuyển đổi mô hình
logistics xanh, doanh nghiệp cần đầu tư
cho công nghệ, cơ sở hạ tầng cũng như vận
hành. Tuy nhiên, những khoản đầu tư này
có thể thu hồi vốn theo thời gian nhờ quá
trình tăng hiệu quả quản lý sản phẩm từ nhà
sản xuất đến khách hàng, giảm chi phí sản
xuất, tiết kiệm năng lượng và ngăn ngừa tác
hại đến môi trường (Mariangela và cộng sự,
2022). Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh cũng
giúp các doanh nghiệp logistics xây dựng
hình ảnh về trách nhiệm môi trường của
doanh nghiệp và góp phần thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển bền vững của doanh nghiệp
(Rodrigue và cộng sự, 2017). Mối quan hệ
tích cực giữa nhận thức về lợi ích và chuyển
đổi xanh trong các doanh nghiệp đã được
chứng minh trong các kết quả nghiên cứu
của Masudin (2019), Konietzko và cộng
sự (2020), Lutf và cộng sự (2023). Từ đó,
nghiên cứu đề xuất giả thuyết:
H1: Nhận thức về lợi ích của chuyển đổi
xanh có ảnh hưởng tích cực đến quyết
định chuyển đổi xanh của doanh nghiệp
logistics Việt Nam.
Áp lực từ phía khách hàng: là tổng hợp các
tác động, yêu cầu và kỳ vọng mà khách
hàng đặt ra đối với doanh nghiệp, thúc
đẩy doanh nghiệp phải thay đổi các hoạt
động sản xuất, kinh doanh (Tariq và cộng
sự, 2017). Áp lực từ khách hàng có thể trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy chuyển
đổi xanh trong ngành logistics. Khi nhận
thức của khách hàng về những tác động
của hoạt động logistics đối với môi trường
ngày càng tăng lên, họ có nhu cầu tìm kiếm
các nhà cung cấp dịch vụ logistics có tính
bền vững hơn (Dangelico, 2016). Áp lực
này khiến các doanh nghiệp logistics phải
tìm kiếm và áp dụng những giải pháp xanh
như sử dụng phương tiện vận chuyển ít khí
thải, tối ưu hóa tuyến đường, giảm thiểu
bao bì và quản lý chất thải hiệu quả. Yếu
tố “xanh” dần trở thành một trong những
lợi thế cạnh tranh mà các doanh nghiệp
logistics hướng đến (Baeshen và cộng
sự, 2021). Các nghiên cứu của Tariq và
cộng sự (2017), Wang và cộng sự (2018),
Arsawan và cộng sự (2021) đã khẳng định
mối quan hệ tích cực giữa áp lực từ khách
hàng và chuyển đổi xanh trong các doanh
nghiệp đã được chứng minh trong các kết
quả. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giả thuyết:
H2: Áp lực từ khách hàng có ảnh hưởng
tích cực đến quyết định chuyển đổi xanh
của doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Sự hợp tác với nhà cung cấp: là mối quan
hệ hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và
các nhà cung cấp nguyên vật liệu, dịch vụ,
hoặc các đối tác trong chuỗi cung ứng.
Đây được xem là yếu tố cần thiết để doanh
nghiệp logistics thành công trong quá trình
chuyển đổi xanh. Bằng cách hợp tác, các
doanh nghiệp có thể cùng nhau tìm kiếm
và áp dụng những giải pháp bền vững.
Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin và kinh
nghiệm giữa các đối tác trong chuỗi cung
ứng giúp giảm thiểu lãng phí, tăng hiệu quả
hoạt động và góp phần xây dựng một hệ
sinh thái logistics bền vững (Rodrigue và
cộng sự, 2017). Sự hợp tác này không chỉ
mang lại lợi ích về môi trường mà còn tạo
ra giá trị gia tăng cho cả doanh nghiệp và
khách hàng, đồng thời củng cố vị thế cạnh
tranh trên thị trường (Zatrochová và cộng
sự, 2021). Mối quan hệ tích cực giữa yếu
tố sự hợp tác với nhà cung cấp và chuyển
đổi xanh trong các doanh nghiệp đã được
chứng minh trong các kết quả nghiên cứu
của Konietzko và cộng sự (2020), Alam
(2022), Khayyat và cộng sự (2024). Từ đó,
nghiên cứu đề xuất giả thuyết:
H3: Sự hợp tác với nhà cung cấp có ảnh