
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
53
CHUYỂN ĐỔI SỐ TẠI TỈNH ĐỒNG NAI: CHÍNH SÁCH, THỰC TIỄN
VÀ ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
DIGITAL TRANSFORMATION IN DONG NAI PROVINCE:
POLICY, PRACTICE AND APPLICATION IN HIGHER EDUCATION
MAI THỊ HUỆ, maihue1978@gmail.com
Trường Đại học Đồng Nai
THÔNG TIN
TÓM TẮT
Ngày nhận: 16/01/2025
Ngày nhận lại: 06/03/2025
Duyệt đăng: 18/03/2025
Mã số: TCKH-S01T03-2025-B07
ISSN: 2354 - 0788
Thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số được xem là chìa
khóa nâng cao hoạt động, gia tăng năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp, tổ chức thông qua những ưu điểm nổi bật mà nó mang
lại như: tối ưu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất, chất lượng và
đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ. Đối với giáo dục đại học nói riêng,
chuyển đổi số mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những
thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp
dạy học, đáp ứng đầy đủ hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo.
Trong bài này, bằng cách tiếp cận phi thực nghiệm và sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu thứ cấp, tác giả hệ thống
hoá một số khái niệm cơ bản của khung lý thuyết chuyển đổi số; phân
tích những đặc trưng của chuyển đổi số trong giáo dục đại học; giới
thiệu những chủ trương, chính sách của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Đồng Nai về triển khai thực hiện chuyển đổi số tại địa phương
theo chương trình chuyển đổi số quốc gia; bước đầu nêu lên thực
trạng chuyển đổi số và đề xuất một số giải pháp ưu tiên thực hiện
chuyển đổi số tại bốn trường đại học trên địa bàn tỉnh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: Thứ nhất, thời gian qua, tỉnh Đồng Nai đã có
những bước tiến đáng kể trong quá trình chuyển đổi số, đặc biệt là
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và triển khai dịch vụ công trực
tuyến. Tuy nhiên, tỉnh vẫn cần khắc phục các thách thức liên quan
đến nguồn nhân lực, nhận thức cộng đồng, và hạ tầng tại các vùng
xa để tiến tới mục tiêu chuyển đổi số toàn diện. Thứ hai, chuyển đổi
số tại các trường đại học ở tỉnh Đồng Nai đã có những tiến bộ đáng
kể, đặc biệt là trong việc giảng dạy trực tuyến và quản lý đào tạo.
Tuy nhiên, để tiến xa hơn, các trường cần đầu tư mạnh mẽ vào hạ
tầng công nghệ, đào tạo nhân lực và xây dựng chiến lược chuyển đổi
số toàn diện hơn. Điều này sẽ giúp các trường nâng cao chất lượng
giáo dục, thúc đẩy nghiên cứu và cải thiện năng lực cạnh tranh trong
bối cảnh phát triển giáo dục đại học hiện nay.
Từ khóa:
chuyển đổi số, số hoá, chính quyền
điện tử, giáo dục đại học, đại học
số.
Keywords:
digital transformation, digitalization,
e-government, higher education,
digital university.
ABSTRACT
In the era of the Fourth Industrial Revolution, digital transformation is
considered the key to enhancing operations and increasing
competitiveness for businesses and organizations through its prominent
advantages such as optimizing operational costs, improving productivity
and quality, and diversifying products and services. Specifically, for
higher education, digital transformation offers the opportunity to apply
technology to rapidly transform models, organizational methods, and
teaching approaches, fully meeting the requirements of the quality
assurance system in education.
In this article, using a non-experimental approach and the method of
analysis and synthesis of secondary materials, the author systematizes
some basic concepts of the digital transformation theoretical framework;

MAI THỊ HUỆ
54
analyzes the characteristics of digital transformation in higher education;
introduces the directives and policies of the Provincial Party Committee
and the People's Committee of Dong Nai province regarding the
implementation of digital transformation at the local level in line with the
national digital transformation program; and preliminarily presents the
current state of digital transformation and proposes several priority
solutions for digital transformation at four universities in the province. The
research results show that Dong Nai has made significant progress in
digital transformation, especially in infrastructure development and the
implementation of online public services. However, the province still
needs to address challenges related to human resources, community
awareness, and infrastructure in remote areas to achieve comprehensive
digital transformation. The research results also show that digital
transformation at universities in Dong Nai has seen remarkable
advances, particularly in online teaching and training management.
However, to progress further, universities need to make strong
investments in technological infrastructure, human resource training, and
the development of more comprehensive digital transformation strategies.
This will help universities improve the quality of education, promote
research, and enhance competitiveness in the current context of higher
education development.
1. Mở đầu
Chuyển đổi số (CĐS) đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong kỷ nguyên Cách mạng Công
nghiệp 4.0, khi công nghệ thông tin và các nền
tảng kỹ thuật số trở thành động lực chính cho sự
phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa. CĐS
giúp các doanh nghiệp và tổ chức cải thiện quy
trình sản xuất, vận hành và quản lý; tối ưu hóa
và tự động hóa quy trình sản xuất; tạo ra các mô
hình kinh doanh và cơ hội việc làm mới; cải
thiện chất lượng dịch vụ công và quản lý xã hội;
tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu. Đối
với giáo dục nói chung và giáo dục đại học
(GDĐH) nói riêng, CĐS mang lại cơ hội áp dụng
công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng
về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp
dạy học (PPDH), đáp ứng đầy đủ cả hệ thống
bảo đảm chất lượng bên trong (Internal Quality
Assurance system - IQA) và hệ thống bảo đảm
chất lượng bên ngoài (External Quality
Assurance system - EQA) thông qua cơ chế
kiểm định chất lượng GDĐH (Quality assurance
centers - QACs), nhanh chóng đưa giáo dục Việt
Nam đi vào quỹ đạo hội nhập quốc tế.
Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông
Nam Bộ của Việt Nam, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Tỉnh Đồng Nai có vị trí
địa lý thuận lợi, giáp ranh với Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng
Tàu và Lâm Đồng. Đây là một trong những địa
phương có tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng
và là đầu mối giao thông quan trọng của khu vực
phía Nam nhờ vào hệ thống đường bộ, đường sắt
và sắp tới là sân bay quốc tế Long Thành. Nhằm
tăng cường kết nối và hội nhập quốc tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh kinh tế, nâng cao chất lượng
dịch vụ công và chính quyền điện tử, thu hút đầu tư
và phát triển doanh nghiệp, phát triển và quản lý
hiệu quả đô thị thông minh, những năm gần đây,
tỉnh Đồng Nai đã và đang tích cực triển khai chương
trình CĐS. Tuy nhiên, tỉnh cũng đang đối mặt với
một số thách thức trong quá trình CĐS, bao gồm
việc nâng cao kỹ năng công nghệ cho người dân,
mở rộng hạ tầng số tại các vùng sâu vùng xa, bảo
đảm an ninh mạng; và đặc biệt là nâng cao năng lực
thực hiện CĐS tại các trường đại học trên địa bàn
tỉnh, tạo nên những điểm sáng về CĐS.
Trong bài viết này, bằng cách tiếp cận phi
thực nghiệm, tác giả sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp tài liệu cơ bản về lý thuyết CĐS
nói chung, về chủ trương, chính sách CĐS của
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Đồng Nai về CĐS nói riêng
và các dữ liệu đã công bố trên Cổng thông tin
điện tử của bốn trường đại học trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai, bao gồm: trường Đại học Công nghệ
Đồng Nai (DNTU), trường Đại học Lạc Hồng
(LHU), trường Đại học Công nghệ Miền Đông
(MIT) và trường Đại học Đồng Nai (DNU) để
hệ thống hóa các khái niệm liên quan đến khung
lý thuyết CĐS, phân tích thực trạng triển khai
CĐS tại tỉnh Đồng Nai và tại các trường đại học
trên địa bàn tỉnh, qua đó góp phần bổ sung cơ sở
lý luận về ứng dụng công nghệ số trong quản lý
và đào tạo, bước đầu đề xuất một số giải pháp
thúc đẩy CĐS tại các trường đại học phù hợp với
bối cảnh thực tiễn.
2. Nội dung
2.1. Một số khái niệm cơ bản
Mặc dù CĐS là một trong những cụm từ
được sử dụng nhiều nhất trong hầu hết các lĩnh

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
55
vực của đời sống hiện đại nhưng hiện tại, vẫn
chưa có một định nghĩa chung, thống nhất cho
khái niệm này. Đối với mỗi doanh nghiệp, tổ
chức có mô hình và phương thức quản lý khác
nhau, khái niệm CĐS cũng được hiểu theo
những cách khác nhau. Tổng hợp từ nhiều quan
niệm khác nhau, có thể hiểu bản chất của CĐS
là sự thay đổi căn bản về công nghệ và tâm lí
theo xu hướng chung của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0; trong đó bao gồm việc sử dụng dữ
liệu và công nghệ số để thay đổi tổng thể và toàn
diện cách làm việc và phương thức sản xuất của
cá nhân, tổ chức. Nói cách khác, CĐS chính là
quá trình áp dụng công nghệ số vào mọi khía
cạnh của hoạt động kinh doanh, tổ chức, hay
cuộc sống cá nhân. Nó không chỉ dừng lại ở việc
số hóa (biến đổi thông tin từ dạng vật lý sang
dạng kỹ thuật số) mà còn bao gồm việc thay đổi
cách thức vận hành, tối ưu hóa quy trình, cải
thiện trải nghiệm người dùng, thúc đẩy sáng tạo
cũng như tạo ra cơ hội phát triển mới bằng cách
ứng dụng các công nghệ mới như: Dữ liệu lớn
(Big Data), Internet vạn vật (IoT), Điện toán
đám mây (Cloud computing), Mô hình ngôn ngữ
lớn (Large Language Model), Trí tuệ nhân tạo
(AI), Trí tuệ nhân tạo tạo sinh (Gen AI) và các
phần mềm công nghệ khác, “CĐS liên quan đến
việc sử dụng công nghệ để làm cho quy trình
kinh doanh hiệu quả hơn; nhưng ở đây, sử dụng
công nghệ không chỉ để sao chép một dịch vụ
hiện có dưới dạng kỹ thuật số mà chủ yếu là để
chuyển đổi dịch vụ đó thành thứ gì đó tốt hơn
đáng kể” (Mark Samuels, 2024).
CĐS có quan hệ mật thiết với số hoá
(Digitization) nhưng giữa chúng có sự khác biệt
về quy mô, phạm vi và mục tiêu: số hóa là quá
trình chuyển đổi dữ liệu từ dạng vật lý hoặc
Analog sang dạng kỹ thuật số nhằm tăng cường
hiệu quả quản lý và lưu trữ thông tin, giúp thông
tin dễ dàng truy cập, chia sẻ và sử dụng hơn; còn
CĐS không chỉ là việc sử dụng công nghệ để số
hóa, mà còn là việc tái cấu trúc các quy trình kinh
doanh, chiến lược và văn hóa tổ chức để phù hợp
với môi trường số. Như vậy, số hóa là bước đầu
tiên trong hành trình ứng dụng công nghệ, tạo ra
các nền tảng dữ liệu số để các tổ chức có thể khai
thác và quản lý tốt hơn; còn CĐS là một quá trình
sâu rộng hơn, không chỉ dừng lại ở việc áp dụng
công nghệ mà còn đòi hỏi sự thay đổi về chiến
lược, văn hóa và cách thức hoạt động của toàn bộ
tổ chức. Từ mối quan hệ này, quá trình phát triển
của CĐS gồm các giai đoạn:
Giai đoạn 1. Số hóa thông tin (Digitization):
số hóa thông tin là việc chuyển đổi dữ liệu từ
dạng vật lí (analog) sang dạng kĩ thuật số
(digital). Trọng tâm của giai đoạn này là xây
dựng nền tảng dữ liệu có tính ứng dụng ngay,
tức là thực hiện các hoạt động chuyển đổi thông
tin dạng giấy tờ, văn bản sang dạng file điện tử
như excel, PDF và lưu trữ online hoặc trong hệ
thống máy tính của tổ chức. Đây cũng là các hoạt
động nền tảng, là bước đệm cho giai đoạn số hóa
quy trình làm việc tiếp theo.
Giai đoạn 2. Số hoá quy trình (Digitalizatin):
số hóa quy trình là việc sử dụng các thông tin đã
được chuyển sang dạng điện tử và áp dụng công
nghệ để phân tích và đưa ra các cải tiến hoặc
thay đổi quy trình vận hành hiện tại trên cả hai
khía cạnh: quy trình làm việc trong nội bộ tổ
chức và quy trình làm việc với khách hàng của
tổ chức nhằm giảm chi phí vận hành và tăng hiệu
quả làm việc.
Giai đoạn 3. Số hoá toàn diện (Digital
transformmation): số hoá toàn diện (hay CĐS)
là giai đoạn hoàn thiện cơ sở dữ liệu, quản lí tập
trung mọi dữ liệu trên một hệ thống duy nhất,
làm thay đổi hoàn toàn cả quy trình bên trong và
bên ngoài của mô hình kinh doanh - quản trị hiện
tại, mang lại lợi ích đồng thời cho cả tổ chức và
các đối tác, khách hàng của tổ chức.
2.2. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học
Trong giai đoạn trước năm 2020, việc đổi
mới GDĐH ở Việt Nam được thực hiện theo
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006 - 2020 và chủ yếu thông qua ba tiêu
chí: 1) Trang bị cách học; phát huy tính chủ động
của SV; sử dụng CNTT và truyền thông trong hoạt
động dạy và học; 2) Khai thác các nguồn tư liệu
giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet;
3) Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình
tiên tiến của các nước. Có thể thấy trong cả ba tiêu
chí trên, mặc dù chưa đề cập trực tiếp đến CĐS
nhưng trong các nội dung cụ thể, tiêu chí nào cũng
có những mối liên hệ nhất định với CĐS.
a. Bản chất của chuyển đổi số trong giáo
dục đại học
Đối với GDĐH, CĐS mang lại cơ hội áp
dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh
chóng về mô hình, cách thức tổ chức, phương
pháp dạy học (PPDH) và các thiết bị, phương
tiện dạy học, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của giảng viên (GV), sinh viên (SV) và khuôn
viên của trường đại học. Về bản chất, CĐS
không thay đổi giá trị cốt lõi hay mô hình của
một tổ chức GDĐH mà là sự chuyển đổi hoạt
động cốt lõi thông qua công nghệ và nền tảng số,
đồng thời nắm bắt các cơ hội mà chúng mang
lại. Nói cách khác, trong GDĐH, CĐS là sự giao
thoa giữa công nghệ và chiến lược đào tạo.
CĐS giúp tạo ra một môi trường học tập
mới, ở đó không gian, thời gian học tập và các
hình thức tương tác được mở rộng hơn; tài
nguyên học tập phong phú và được khai thác sâu

MAI THỊ HUỆ
56
rộng, thuận lợi hơn; chương trình học tập và các
hình thức tổ chức dạy học được thiết kế, tổ chức
linh hoạt hơn; cơ hội trải nghiệm trong quá trình
học tập của SV đa dạng, phong phú hơn. Vì thế,
CĐS trong GDĐH không chỉ là thay đổi về công
cụ, phương pháp, quy trình dạy học và quản lí
đào tạo mà còn là chiến lược thay đổi căn bản
trong ngành nghề đào tạo, nội dung chương trình
và đặc biệt là PPDH.
b. Lợi ích của chuyển đổi số trong giáo dục
đại học
Có thể khái quát những lợi ích cơ bản mà
CĐS mang lại cho GDĐH như sau:
- Chủ động trong việc học tập: CĐS mở ra
không gian học tập rộng rãi, thoải mái qua mạng
Internet, SV có thể học và tự học mọi lúc, mọi nơi;
giúp loại bỏ những giới hạn về khoảng cách, tối ưu
thời gian học, nâng cao tư duy cho người học thông
qua các nền tảng học trực tuyến như: Coursera,
Udemy, Khan Academy, Zoom, Microsoft Teams,
Google Meet… Đặc biệt, thời gian gần đây, những
ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong
GDĐH như Chatbot, Chat GPT, New Bing, Spark
Desk… ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở
thành công cụ hết sức hữu hiệu, hỗ trợ đắc lực cho
GV, SV trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập
(tạo lập văn bản, thiết kế PowerPoint, làm bảng
Excel, dựng đồ thị, sơ đồ, bảng biểu…)
- Không giới hạn trong truy cập tài liệu học
tập: với kho dữ liệu khổng lồ, không giới hạn
được số hoá (Big Data), SV có thể truy cập để
tìm kiếm, chia sẻ, khai thác, xử lí học liệu một
cách nhanh chóng dễ dàng, ngay cả đối với các
tài liệu viết bằng tiếng nước ngoài; đồng thời tiết
kiệm được khá nhiều thời gian, chi phí.
- Chất lượng đào tạo được nâng cao: CĐS
giúp nâng cao chất lượng đào tạo qua các thành
tựu cụ thể như: Bigdata giúp lưu trữ mọi kiến
thức lên mạng, cho phép quản lí, chia sẻ dữ liệu
từ nhiều trường khác nhau; IoT giúp theo dõi
hoạt động của SV, quản lí, giám sát SV;
Blockchain, Moodle, Blackboard giúp quản lí
thông tin, hồ sơ giáo dục của SV, ghi chép lại
lịch sử học tập, bảng điểm để đảm bảo thông tin
được minh bạch.
- Tăng cường tương tác giữa GV và SV:
CĐS giúp nâng cao tương tác và tạo thuận lợi
cho cả GV và SV dễ dàng kết nối và trao đổi,
chia sẻ, gặp gỡ trên giao diện lớp học ảo (Virtual
Classroom) hoặc các hình thức học tập tương tác
(Interactive Learning) khác.
- Tiết kiệm tối đa chi phí học tập: khả năng
tiết kiệm chi phí là một lợi ích lớn, thiết thực mà
CĐS trong giáo dục đem lại; giúp việc học tập
của SV trở nên suôn sẻ, không có quá nhiều ảnh
hưởng từ xung quanh.
c. Giải pháp chuyển đổi số trong giáo dục
đại học
Trong GDĐH, “Sẽ là phiến diện nếu chỉ coi
CĐS đơn thuần là giảng dạy từ xa thông qua
webcam mà cần phải coi CĐS như là cả một hệ
sinh thái đào tạo hiện đại với nhiều thách thức
mới, cơ hội mới” (Vũ Hải Quân, 2021). Do vậy,
đổi mới GDĐH trong môi trường CĐS bao gồm
hàng loạt vấn đề cần phải xử lí: số hóa các học
liệu (giáo trình điện tử, bài giảng điện tử, kho bài
giảng E-learning, ngân hàng câu hỏi trắc
nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo;
chuyển đổi toàn bộ cách thức tổ chức quá trình
dạy học sang không gian số; khai thác công nghệ
thông tin để tổ chức dạy học, theo dõi và lưu trữ
toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của SV. Bên
cạnh đó, mỗi cơ sở GDĐH đều phải bảo đảm về
hạ tầng công nghệ mới, trang thiết bị mới, phục
vụ hiệu quả cho cả hoạt động giáo dục, dạy học
và hoạt động quản lí, vận hành nhà trường. Đi
kèm thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần
mềm thống nhất, các nền tảng tương thích và kết
nối, tích hợp với nhau để toàn bộ mọi hoạt động
dạy học và hoạt động quản lí của các cấp diễn ra
trên đường truyền Internet ổn định. Đồng thời,
các trường đại học trong nước cũng cần liên kết,
hợp tác với nhau trong sử dụng các nền tảng số
dùng chung (thư viện số, học liệu, công trình
nghiên cứu khoa học…) để giảm chi phí đầu tư cho
hạ tầng công nghệ số; đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế về chính sách giáo dục, các ưu tiên học tập
và phát triển công nghệ giáo dục; tăng cường tính
công bằng trong tiếp cận giáo dục và phân bổ
nguồn lực hiệu quả trong các chương trình liên kết
đào tạo với nước ngoài.
Ngày 25/1/2022, Chính phủ ban hành Quyết
định 131/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số
trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025,
định hướng đến năm 2030″. Đây là một trong
những văn bản pháp lí quan trọng nhất, có vai
trò định hướng cho việc đẩy mạnh CĐS đối với
GDĐH trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, ngoài
những giá trị vừa dẫn ở trên, CĐS còn giúp các
cơ sở GDĐH “nhanh chóng thích nghi và sử dụng
những phương thức mới, ứng dụng khoa học công
nghệ hiện đại trong dạy và học, sử dụng công cụ
đánh giá và đối sánh chất lượng theo thông lệ
quốc tế” (Nguyễn Bình Huy et al, 2023) để cải
thiện vị trí của mình trên các bảng xếp hạng của
Tổ chức QS (Quacquarelli Symonds), THE
(Times Higher Education) hoặc khẳng định chất
lượng đào tạo của mình thông qua các tổ chức
kiểm định chất lượng GDĐH có uy tín như
HCERES (High Council for the Evaluation of
Research and Higher Education - Hội đồng cấp

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
57
cao đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học),
FIBAA (Foundation for International Business
Administration Accreditation - Quỹ Kiểm định
các chương trình Quản trị Kinh doanh Quốc tế),
AUN-QA (ASEAN University Network -
Quality Assurance - Bộ tiêu chuẩn đánh giá toàn
diện chất lượng đào tạo của mạng lưới các
trường đại học Đông Nam Á).
2.3. Chương trình chuyển đổi số ở tỉnh Đồng Nai
Thành công của CĐS trước hết đòi hỏi phải
bước ra khỏi những lối mòn trong tư duy, thói
quen cũ trong làm việc, lối sống. Chương trình
chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày
03/6/2020 khẳng định: “Nhận thức đóng vai trò
quyết định trong chuyển đổi số”; và nói như Bộ
trưởng bộ Thông tin và Truyền thông (cũ)
Nguyễn Mạnh Hùng: “Chuyển đổi số là cuộc
cách mạng về thay đổi hơn là cuộc cách mạng
về công nghệ (Tạ Quang Trường, 2024).
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây
dựng chính quyền điện tử tiến tới chính quyền
số, kinh tế số, xã hội số theo định hướng chung
của Chương trình chuyển đổi số Quốc gia, ngày
30-12-2020, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định
số 5003/QĐ-UBND về Chương trình chuyển đổi
số tỉnh Đồng Nai đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030; kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng
Chính quyền điện tử tỉnh Đồng Nai và đổi tên
thành Ban Chỉ đạo về chuyển đổi số tỉnh Đồng
Nai theo Quyết định số 2080/QĐ-UBND ngày
26/8/2022. Song song đó, ngày 28/3/2022, Tỉnh
uỷ cũng ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về
Chuyển đổi số tỉnh Đồng Nai đến năm 2025 và
định hướng đến năm 2030 với mục tiêu tổng
quát: “Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối
với công tác chuyển đổi số; đổi mới, nâng cao
chất lượng điều hành công tác quản lý của Nhà
nước tiến tới xây dựng chính quyền số, phát triển
kinh tế số, xã hội số và thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh theo hướng ứng dụng công nghệ
số, hình thành các doanh nghiệp công nghệ số có
sức cạnh tranh trên thị trường”. Dưới sự chỉ đạo
sâu sát, quyết liệt của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh,
việc xây dựng chính quyền điện tử được chú
trọng: các dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho
người dân, doanh nghiệp được triển khai đồng
bộ, kết nối với cổng dịch vụ công quốc gia; hệ
thống xử lý hồ sơ công việc, hồ sơ thủ tục hành
chính “một cửa” trên môi trường mạng được đưa
vào vận hành; hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến
nghị về thủ tục hành chính thực sự trở thành
kênh tương tác giữa người dân, doanh nghiệp
với các cơ quan nhà nước; cơ chế gắn kết trách
nhiệm công vụ, trách nhiệm người đứng đầu
trong thực hiện cải cách hành chính đã từng
bước phát huy hiệu quả. Nhờ vậy, các chỉ số cải
cách hành chính (PAR index), hiệu quả quản trị
và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) từng bước cải thiện và
ngày càng được nâng lên. Theo bảng xếp hạng
ICT Index (chỉ số đánh giá và xếp hạng mức độ
sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông của các địa phương, cơ
quan nhà nước và doanh nghiệp tại Việt Nam)
năm 2022, Đồng Nai đạt 0,5687 điểm và xếp hạng
8 trên toàn quốc, dẫn đầu khu vực Đông Nam Bộ.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020
của Thủ tướng Chính phủ có nêu: “Việc xây dựng
hạ tầng số là nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc
chuyển đổi số”. Theo đó, ngày 6/10/2023, UBND
tỉnh đã ban hành kế hoạch Phát triển hạ tầng số trên
địa bàn tỉnh giai đoạn 2023 - 2025. Mục đích của kế
hoạch nhằm phát triển hạ tầng số (bao gồm hạ tầng
viễn thông băng rộng, hạ tầng trung tâm dữ liệu và
điện toán đám mây, hạ tầng công nghệ số, nền tảng
số có tính chất hạ tầng) băng rộng, siêu rộng, phổ cập,
xanh, an toàn, bền vững, mở, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Gần đây nhất, ngày 15/02/ 2024,
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 379/QĐ-UBND
phê duyệt kế hoạch Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo trên địa bàn đến năm 2025; trong
kế hoạch này, CĐS được ưu tiên phát triển để nâng
cao hoạt động trên các lĩnh vực thương mại điện tử,
ngân hàng số, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng
chính quyền điện tử.
Theo đánh giá của Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn
Hồng Lĩnh: “Việc thực hiện CĐS là một quá trình
lâu dài mang lại nhiều lợi ích trong quản lý xã hội,
rất cần sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và người
dân trên địa bàn tỉnh. CĐS thành công sẽ giúp
chính quyền ngày càng cải thiện chất lượng công
tác của cán bộ, công chức, viên chức cùng với cải
thiện dịch vụ công, giảm ách tắc và phục vụ nhu
cầu của người dân hiệu quả hơn; giúp doanh
nghiệp tiết giảm được chi phí hoạt động bởi khả
năng kết nối vô hạn của quá trình số hóa. CĐS vừa
là cơ hội, vừa là động lực khơi dậy khát vọng, mở
ra không gian phát triển mới cho tỉnh nhà. Với
những lợi ích mà CĐS mang lại, có thể tin tưởng
rằng đến năm 2030, tỉnh Đồng Nai sẽ cơ bản hình
thành chính quyền số, nền kinh tế số, xã hội số”
(Nguyễn Hồng Lĩnh, 2022).
Từ thực tiễn, có thể đưa ra một số đánh giá
về thực trạng CĐS tại Đồng Nai như sau:
1) Cơ sở hạ tầng công nghệ: tỉnh Đồng Nai
đã chú trọng đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông
tin, đặc biệt là mạng viễn thông và Internet, để
đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Các khu vực thành thị như thành phố Biên Hòa
và các khu công nghiệp lớn được ưu tiên kết nối
mạnh mẽ nhưng vẫn còn hạn chế ở các vùng
nông thôn và vùng sâu vùng xa.

