Cổ đông tổ chức- có mỏ vàng?
Tâm lý ngóng xem nhà đầu tư nước ngoài làm gì”
Hôm nay “Tây” mua nhiu nhỉ”; “Tuần này nhà đầu tư ớc ngoài giao
dch mạnh”,… đó là những nhận xét thường thấy ở cả nhà đầu tư cá nhân lẫn
trên các mặt báo. Tâm lý “ngóng nhà đầu tư nước ngoài làm gì” là có thực.
Tâm này là kết quả của hai thực tế. Đầu tiên tình trng thiếu hụt thông tin
tin cy, thiếu hụt những chuyên gia được tín nhiệm,… vì thế nhà đầu tư phải
giả định: tổ chức của người ớc ngoài có thông tin và khnăng phân tích,
nghe theo hít nhất yên tâm hơn tự phân tích hay đọc báo.
Thứ hai, “người nước ngoài đầu tư nhiều hơn, có mất thì hmất nhiều hơn
nên họ phải lo hơn. nghe theo họ là đúng rồi”. Những lựa chọn của người
nước ngoài cũng hiếm khi hời ht mà thường có tính toán tỉ mỉ, và vì thế khi
chưa có cái cột nào thì ctạmn theo cột nước ngoài.
Người nước ngoài với khả năng phân tích tốt và nhiu vốn ở đây được ngầm
hiểu là nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên, vi nguồn vốn tích tụ lớn,
khả năng thực hiện đầu tư kng kém cạnh và năng lực phân tích ngày càng
cải thiện, các tổ chức trong nước cũng dần tham gia vào nhóm “trong tm
ngm” của thị trường. Nhà đầu tư tổ chức nói chung thực sự là một lực
lượng lớn mạnh và có nh hưởng trực tiếp tới xu thế thị trường.
Ví dnhư FPT, cho đến 30/1/2008, tính thêm cả tổ chức trong nước thì các
nhà đầu tư tổ chức chiếm trên 30% cổ phần của tập đoàn này, đây là mức
khá ln. Cá biệt nhiều công ty đại chúng, tính cả nhà đầu tư tổ chức trong và
ngoài nước (không tính tổ chức đầu tư là sáng lập viên), mức sở hữu này lên
đến 50% hoặc hơn.
Nhiu tổ chức – lợi hay hại
Không ít chủ doanh nghiệp thốt lên: “Quđầu tư hả, ngán lắm!” Những lời
nói “từ trái tim” này là kết quả những ngày tháng theo hlà “đau đớn” khi
làm việc với những người “đồng sở hữu” khó tính. Có vẻ như sau khi nhà
đầu tư đổ tiền vào thì họ quay ra làm tình làm ti doanh nghiệp.
Thực tế không hẳn như vậy. Với cổ đông nhà đầu tư tổ chức, bên cnh
lượng vốn đầu tư đưa vào doanh nghiệp, họ âm thầm mang tới vài điểm lợi
cho doanh nghip và cphiếu:
Thứ nhất, nhà đầu tư tổ chức giúp giải quyết tình trng thông tin bất cân
xứng và lựa chọn đối nghịch vấn đề được Akerlof đưa ra từ những năm
1970. Tình trng thông tin bất cân xứng làm nhà đầu tư (đa phần nhà đầu tư
nhỏ) nghĩ rằng mình có ít tng tin hơn và có xu hướng hạ giá cổ phiếu
xuống để giảm thiểu rủi ro mua đắt của mình. Tình trng này càng tệ thì
những cổ phiếu tốt sẽ ng ít được n ra vì người sở hữu nó không muốn
bán lỗ, chỉ còn lại những cổ phiếu không tốt bằng, sẵn sàng gim giá nhiều
để bán được.
Việc thuyết phục nhà đầu tư rằng cổ phiếu đang dưới mức giá hợp lý do đó
gặp nhiều khó khăn. Thực tế nhiều nhà đầu tư bỏ cọc Vietcombank, Sabeco
hay Habeco, một phần lý do có thể viện vì hết tiền, một phần khác, thể có
nhiều người cảm thấy việc mất phần cọc vẫn rẻ n rủi ro phải mua toàn b
với giá quá cao.
Vấn đề là thiếu công bằng thông tin và thị trường thậm chí có thể rối loạn
khi có sự bất cân xứng này. Tuy nhiên khi có nhà đu tư tổ chức, mọi việc
dường như dễ dàng n. Dù mức giá giao dịch có hoặc không công bố thì
với sự tham gia của một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, doanh nghiệp snhư
một “mác bảo hành” thông tin tốt, sức khỏe tài chính tốt. Nhà đầu tư sẽ
bớt đi nỗi lo về “lựa chọn đối nghịch” của mình.
Thứ hai, mối liên hệ giữa nhà đầu tư tổ chức và tính thanh khoản. Trực tiếp
bằng cách thực hiện giao dịch, với khối lượng giao dịch thường lớn, nhà đầu
tư tổ chức sẽ giúp tăng cường tính thanh khoản của cổ phiếu. Một cách gián
tiếp, cổ phiếu có nhiều nhà đầu tư tổ chức nắm giữ thường có mức thanh
khoản cao hơn so với cổ phiếu mà họ không quan tâm. Lý do đơn giản vì
hầu hết nhà đầu tư tổ chức đều phải cơ cấu liên tục với danh mục của mình,
đảm bảo hiu quả về sinh lời và an toàn trước rủi ro biến động giá. Ngoại tr
những lý do khách quan không thể tính vào hệ số beta thì nhà đầu tư tổ chức
luôn có xu hướng lựa chọn cổ phiếu có tính thanh khoản khá trở lên. Không
ai muốn ở vào tình trng “thừa tài sản, thiếu tiền.”