Cổ trướng xơ gan
I- ĐẠI CƯƠNG:
Bình thường khoang màng bụng giữa thành tạng là một khoang ảo không
có nước, nếu có chăng chỉ là một ít chất nhầy bôi trơn không đáng kể.
Khi giữa thành tạng của màng bụng xuất hiện một lượng dịch (ít hoặc nhiều)
gọi là tràn dịch màng bụng hay cổ trướng.
Nguyên nhân gây tràn dịch màng bụng (cổ trướng) chia thành 2 nhóm ln:
- Nguyên nhân gây ctrướng dịch tiết (lao màng bụng, K, viêm...)
- Nguyên nhân gây dịch thấm (xơ gan, suy thận, tim, suy dinh dưỡng)
Phạm vi bài này đề cập tới một nguyên nhân gây ctrướng là xơ gan.
II. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH CỔ TRƯỚNG TRONG BỆNH GAN:
1- Tăng áp lực tĩnh mạch cửa, giảm protide huyết tương:
Tnăm 1856 Starling đã phát hiện được một điều quan trọng là: Snước luôn
gi trong lòng mạch, không bị thoát qua thành mạch ra ngoài vì: scân bằng
giữa hai yếu tố (áp lực mao mạch và áp lực keo) cụ thể là:
- Áp lực mao mạch có xu hướng đẩy nước và các chất ra khỏi mao mạch.
- Áp lực thẩm thấu chủ yếu là keo của protide (anbumin)xu hướng giữ nước và
các chất ở lại trong lòng mao mạch.
người gan (giai đoạn muộn) hai yếu tố nêu trên mất sự cân bằng: áp lực mao
mạch tăng (do áp lực của tĩnh mạch gánh) nên nước và các chất bị đẩy ra khỏi
lòng mạch, đồng thời áp lực thẩm thấu giảm vì anbumin huyết tương giảm (do suy
gan không tổng hợp đủ) nên không gi được nước, các chất trong lòng mạch.
Nước và các cht thoát ra vào khoang màng bng hình thành cổ trướng.
Tuy nhiên trường hợp tăng áp lực tĩnh mạch gánh, giảm anbumin huyết
thanh nhưng không hình thành ctrướng. Như vậy việc hình thành ctrướng còn
có những cơ chế khác nữa.
2- Sự cản trở tuần hoàn sau xoang:
(P.lách tăng vừa trên 10 cm nước áp lực trên gan tdo giảm dưới 9cm nước, áp
lực tĩnh mạch trên gan bít tăng trên 10cm nước, chênh lệch P bít / tự do tăng trên 1
cm nước)
Nếu tắc hoặc chèn ép tĩnh mạch trước xoang chủ yếu gây lách to, THBH, ít khi
dịch cổ trướng. Ngược lại khi cản trở tuần hoàn sau xoang (chèn ép TMG hoặc
TMTG) thì xuất hiện cổ trướng vi các mức đkhác nhau. Trong bệnh xơ gan các
tĩnh mạch gan bị chèn ép bởi các u cục tân tạo - sự tăng sinh hoặc phình ra của các
tế bào Kupffer. Áp lực xoang tăng làm r dịch ra xung quanh. Hệ thống bạch mạch
giãn to (cũng gây chèn ép tĩnh mạch gan) nhm dẫn đi lượng dịch rỉ này. Nhưng
đến một lúc nào đó lượng dịch vượt quá khả năng dẫn lưu của nó thì dịch rỉ từ mặt
gan chảy thẳng vào bụng góp phần tạo nên ctrướng. Về mặt tổ chức học lớp tế
bào lót màng trong của xoang gan cấu trúc không liên tục khi tăng áp lực
xoang dịch rỉ càng ddàng chảy thẳng vào ổ bụng.
3- Vai trò của thận và các hormon:
Thận vai trò rất quan trọng trong quá trình điều hoà nước điện giải của
thể. Khi bệnh nhân bị gan cổ trướng nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
của thận:
+ Dịch cổ trướng nhiều m tăng áp lực trong ổ bụng gây ảnh hưởng tới chức năng
lọc của thận:
- Nước cổ trướng ép làm tăng áp lực tĩnh mạch thận. Áp lực tĩnh mạch thận tăng
tạo nên một đối áp làm cản trở tuần hoàn trong thận làm mức lọc của cầu thận
giảm.
- Áp lực bụng tăng tác động lên chính bản thân thận làm rối loạn tuần hoàn v
thận, làm ảnh hưởng tới hoạt tính của renin huyết tương.
- Áp lực ổ bụng tăng còn ép vào niệu quản cản trở vai trò dẫn nước tiểu của nó.
- Lưu lượng máu qua thận giảm nên mức lọc Na giảm. Na giữ lại trong cơ thể sẽ
gi nước gây phù, cổ trướng.
+ Vai trò của hormon: Aldosterol tăng làm cho tái hấp thu Na ống lượn xa và
tăng thải kali. Sự tăng aldosteron ở người xơ gan theo 2 cơ chế sau:
- Gan xơ nên chức năng hủy aldosteron gim nên m cho nng độ aldosteron tăng
cao.
- Trong xơ gan thể tích máu lưu thông giảm kích thích các thụ cảm thể tích làm v
thượng thận tăng sản xuất aldosteron.
+ Ống lượn gần tăng i hấp thu Natri theo một cơ chế người ta chưa biết rõ
(làm tăng ngưỡng hoặc giảm hormon bài xuất Natri. Cũng có tác giả đề cập tới vai
trò của renin prostaglandin và các cathecolamin tham gia vào các vòng xoắn này)
Vậy người gan bị nước lại gây phù, c trướng do hấp thu quá nhiều Natri,
áp lực thẩm thấu tăng kích thích các thcảm thể làm tăng sản xuất ADH (Anti
Diuretique Hormon) của thùy sau tuyến yên. Nước tăng tái hấp thu ống thận và
lại trong các do sự cân bằng thẩm thấu chưa được hồi phục. Nước thoát từ
lòng mạch vào bụng làm giảm thể tích máu kích thích th cảm thể tích m tăng
sản xuất Aldosteron và giNa phát sinh vòng xoắn bệnh duy trì sgiữ nước
ngoài mạch nhưng lại thiếu dịch trong lòng mạch.
- Tình trạng suy thận chức năng người gan (khi ghép cho bệnh nhân một gan
lành thì chức năng thận trở lại bình thường). Gan ngăn cản lưu thông máu trở
vmột phần không nhỏ máu bị lại trong các cơ quan bụng và chảy máu vào
các đường nối thông cửa - chủ, làm hthống này giãn ra rất nhanh, nhiều. Mặc
th tích máu chung tăng lên để bù, xong vn không đủ làm đầy thể tích
mạch còn lại. Trong khi đó suy gan làm albumin gim kết hợp với áp lực tĩnh
mạch cửa tăng m cho nước thoát ra gây cổ trướng và m giảm lượng máu lưu
thông gim làm cho máu tới thận giảm nên mức lọc cầu thận giảm thận phải tăng
gi Na, tăng giữ nước, tăng thải kali...Kết quả chức năng thận bị suy.
4. Một vài yếu tố khác:
- Màng bụng bình thường givai trò chđộng điều khiển schuyển dịch giữa
mao mạch và màng bụng, người gan cổ trướng khả năng này b giảm rõ rệt.
Theo Sheavl: người gan cổ trướng ngay cả khi dùng thuốc lợi tiểu liều cao,
tốc độ hấp thu nước c trướng cũng không quá 930ml /24 giờ.
- Khi có c trướng áp lực cổ trướng tăng dần tới làm tăng áp lực lồng ngực cản trở
dòng máu về nhĩ phải, cuối cùng dẫn tới ứ máu ngoại vi.