Đằng sau việc giấu nợ xấu, khoe lãi
khủng là gì?
Lãi “khng” thực ra lại là “khối u ác tính” đang tích tụ trong cơ thể
ngân hàng, chỉ chờ ngày bung ra tnh nhng di căn không thể cứu
chữa.
Cáo bạch về tình hình hoạt động 6 tháng đầu năm của một số ngân hàng
thương mại cổ phần vừa công bố cho thấy các ngân hàng vẫn có lãi khủng,
bất chấp thực tế là tỷ lnợ xấu đang gia tăng và tốc độ tăng trưởng tín dụng
âm cho đến hết tháng 5 vừa qua.
Trong khi đó, thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy các ngân hàng đã
che giấu ít nhất 50% nợ xấu, chỉ công bố một nửa so với thực tế. Tại sao có
tình trng “giấu nợ xấu, khoe lãi khủng”? Đằng sau việc này là gì?
Những thông tin liên quan đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam đang khiến dư luận băn khoăn không ngớt. Đặc biệt
gần đây khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn h
thống ngân hàng lên tới 8,6% tổng dư nợ tín dụng, tương đương hơn
240.000 tỷ đồng. Điều đáng nói là con số này cách khá xa con sdo các
ngân hàng thương mại tự công bố, thực tế là cao gấp đôi so với báo cáo của
các ngân hàng thương mại.
Điều này có nghĩa là, từ lâu các ngân hàng thương mại đã che giấu thực
trạng nợ xấu, làm đẹp bảng cân đối kế toán. Theo các chuyên gia, việc làm
này có nhiều cái lợi : Thnhất, họ sgim được tỷ lệ trích lập dự phòng rủi
ro nếu như tỷ lệ nợ xấu nằm trong phạm vi cho phép của Ngân hàng N
nước là 3% tng dư nợ tín dụng. Thậm chí ngay cả việc điều chỉnh tiêu c
đánh giá nợ xấu, để làm gim tỷ lệ nợ xấu ở nhóm 4, nhóm 5 (là nhóm được
coi là rất khó có khả năng thu hồi) để giảm mức trích lập quĩ dự phòng rủi
ro.
Theo qui định của Ngân hàng Nnước, với nhóm nợ xấu nhóm 4 hay nhóm
5, ngân hàng thương mại phải trích 50% dư nợ cho dự phòng rủi ro. Chính vì
thế, báo cáo của các ngân hàng tơng mại cho biết tỷ lệ nợ xấu chỉ là
4,17%, còn nợ xấu nhóm 4, 5 chỉ chiếm 20% trong tổng nợ xấu, nhưng Ngân
hàng Nhà nước thì khẳng định con số này phải là 40%.
Thứ hai, khi đưa ra ngoài bảng kế toán những khoản nợ xấu, tức là những
khon khó thu hồi cả gốc lẫn lãi, hvẫn hạch toán lãi “dự thu” vào bng
quyết toán tài chính, do vy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng vẫn cao.
Điều này có thể được như hành động “đào hầm dưới cột chống nhà”, hay
hành động “tự ăn vào thịt mình” khi mà khối nxấu nm ngoài bng cân đối
tài sn thì ngày càng to lên, khả năng thu hồi ngày càng khó, nhưng những
nhà qun trị ngân hàng vẫn hỉ hả chia lãi, hưởng ơng cao, bất chấp những
rủi ro tiềm ẩn, không cần biết “quả bom nổ chậm ” sẽ nổ lúc nào.
Hành vi này có nguyên nhân từ chính cơ chế quản lý vĩ mô đối với hoạt
động ngân hàng, khi giới quản trị ngân hàng – dù thuộc nhà nước hay cổ
phần vẫn luôn có niềm tin vững chắc rằng dù thế nào thì Nhà nước cũng
không để ngân hàng chết.
Vì thế, dù có đang tích tụ những quả bom nổ chậm, thì họ cũng vẫn mong
đợi một cách duy ý chí rằng nó sẽ không nổ khi họ còn đang cầm chịch; còn
nó nlúc nào, thì người nào cm chịch lúc đó sbiết. Đây chính là biểu hiện
rõ nét nhất của tầm nhìn ngn hạn về lợi ích, nó cũng là hệ quả tất yếu khi
hàng loạt ngân hàng cphần thương mại được cho ra đời một cách dễ dãi
cách đây chục năm, huy động vốn một cách dễ dãi, hoạt động với phương
châm “tranh thgặt hái” với những chiêu bài như lập công ty sân sau để tiêu
thụ vốn, đổ vốn ồ ạt vào bất động sản, hạch toán ngoài bảng để có cáo bạch
đẹp như mơ”, nhằm đẩy giá cổ phiếu lên cao.
Đã có thời kỳ, ngân hàng cổ phần mọc lên như nấm, nhiều ngành đổ tiền vào
làm ngân hàng trong khi không hề có đủ lực lượng nhân lực có chuyên môn
quản trị ngân hàng. Chính vì thế, những CEO của ngành ngân hàng mới có
đòi hỏi những mức lương khủng, toàn tính bng triệu đô mỗi năm.
Những CEO trình cao lương cao” này quả đã đạt tới trình độ nghệ thuật
trong việc che giấu nợ xấu, làm đẹp bảng cân đối tài sản, làm hài lòng c
đông và Đại hội đồng cổ đông, để được tiếp tục giữ vị trí hưởng lương
khủng!
Thực trạng này cũng cho thấy những hạn chế của công tác quản lý nhà nước
trong lĩnh vực ngân hàng, khi chưa biện pháp chấn chỉnh nhng hành vi
bất cập của một số ngân hàng thương mại chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá,
bất chấp có thể gây hại cho hệ thống cũng như cho cả nền kinh tế. Dư luận
có quyn đặt câu hỏi: Tại sao các ngân hàng thương mại có thể giu nợ xấu
mà không bị phát hiện?
Đây chính là những nguyên nhân dn đến tình hình nxấu trở nên khó kiểm
soát; tín dụng đóng băng; mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng tr
nên khó khăn hơn bao giờ hết. Cũng chính vì thế, lãi khủng thực ra lại là
khối u ác tính” đang tích tụ trong cơ thể ngân hàng, chỉ chờ ngày bung ra
thành nhng din không thể cứu chữa.
Vì thế, muốn chữa bệnh tận gốc, ngành ngân hàng cn tập trung mọi nỗ lực
xlý nxấu một cách hiệu quả. Sau khi cơ thể đã hết bệnh, thì mới có thể
tập trung bồi bổ bằng những cơ chế chính sách tín dụng giúp cho những
ngân hàng tốt sớm phục hồi và trli phục vụ nền kinh tế, như chức năng
cần có của một hệ thống huyết mạch quan trọng.
Trong tiến trình này, cần phải kiên quyết để những ngân hàng yếu, vốn ít,
quản trị kém “ngừng cuộc chơi” để hệ thống không phải chịu vạ lây một khi
những ngân hàng này đổ vỡ.
Đây là lúc các nhà quản lý Ngân hàng cn có cái nhìn nghiêm túc và khách
quan về thực trạng NỢ và LÃI của hệ thống ngân hàng thương mại để quyết
m chữa trị tận gốc căn bnh “ Giấu nợ xấu – khoe lãi khủng” này.