ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BOTULINUM TOXIN-A TRONG ĐIỀU TRỊ

NẾP NHĂN ĐỘNG NỬA TRÊN CỦA MẶT

TÓM TẮT

Giả thuyết: Tiêm Botulinum Toxin-A để làm giảm nếp nhăn động vùng

mặt ngày càng được sử dụng rộng rải, đặc biệt ở phần nửa trên của mặt.

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tiêm Botulinum Toxin-A (Dysport®) trong

điều trị nếp nhăn động vùng nửa trên của mặt ( nếp nhăn gian mày, nếp nhăn trán,

nếp nhăn đuôi mắt).

Phương pháp: Tiên cứu, mô tả có can thiệp, 51 bệnh nhân được tiêm

Dysport và đánh giá kết quả trong thời gian 6 tháng.

Kết quả: Trên 95% đáp ứng điều trị ở tuần lể thứ tư, đến tuần lể thứ 24 tỷ

lệ này giảm còn 25,7% cho nếp nhăn gian mày, 23,1% cho nếp nhăn vùng trán,

18,7% cho nếp nhăn đuôi mắt. Trên 93% số bệnh nhân hài lòng sau tiêm 1 tháng.

21% có tác phụ nhẹ tại chỗ, trong đó có 5,9% sụp mí mắt trên, tất cả các tác dụng

phụ này hoàn toàn hết sau 1tháng, không cần can thiệp nào; không có tác dụng phụ

toàn thân nào.

Kết luận: Tiêm Botulinum Toxin-A (Dysport®) rất hiệu quả và an toàn

trong điều trị giảm tạm thời nếp nhăn động nửa trên của mặt

SUMMARY

Hypothesis: Injection with Botulinum toxin-A to treat facial- hyperkinetic

wrinkle lines has been being used widely, especially at the upper half face.

Obiective: assessing the effect of the injection with Botulinum toxin-A

(Dysport®) in the treatment of the gabellar lines, forehead lines, crow´s feet.

Method: prospective, descriptive study with intervention, 51 patients have

been injected BTX-A, the effect of treatment was evaluated during 6 month

period.

Results: more than 95% of the responders at the fourth week, this rate

decreases 25% for gabellar lines, 23,1% for forehead lines, 18,7% fore crow´s feet

at the sixth month.More than 93% of the satified patients at 1 month after

injection. 21% of cases have mild local adverse events, in which 5,9%

blepharoptosis. All adverse effects were completely disappeared after 1 month inj

ection, whithout sequel, whithout any intervention, no general adverse effects was

reported.

Conclusion: injection BTX-A (Dysport®) is very effective, safe in

alternative reducing the severity of the upper facial dynamic lines.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Botulinum Toxin A (BTX-A) là một trong số 7 típ huyết thanh của độc tố

thần kinh được sản xuất bởi vi khuẩn Clostridium botulinum; BTX-A có tác dụng

vào nơi tiếp hợp thần kinh cơ, dẫn đến ngừng họat động cơ tạm thời, làm cho cơ bị

yếu và teo. Năm 1990 Carruther tiêm BTX-A vào bắp thịt để điều trị nếp nhăn

động vùng mặt. Từ đó đến nay có nhiều công trình nghiên cứu được tiến hành ở

châu Âu, Mỹ chứng tỏ tiêm BTX-A vào các cơ được chọn lọc để điều trị nếp nhăn

động vùng mặt là một phương pháp có hiệu quả, an toàn cao, gây tổn thương tối

thiểu, dể thực hiện và có thể phối hợp với những phương pháp xóa nếp nhăn khác.

Năm 2003 Dysport® được phép sử dụng ở Việt Nam, nhiều bác sĩ đã tiêm BTX-A

để điều trị nếp nhăn vùng mặt, tuy nhiên chưa có đề tài nào được công bố.để góp

phần vào hiểu biết kinh nghiệm sử dụng BTX-A trong thẩm mỹ chúng tôi thực

hiện nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả BTX-A trong điều trị nếp nhăn động nửa trên

của mặt”.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Tiến cứu mô tả có can thiệp.

Mẫu nghiên cứu

51 bệnh nhân

Đối tượng nghiên cứu

Bệnh nhân từ 30 tuổi đến 60 tuổi có nếp nhăn vùng trên của mặt có yêu cầu

điều trị, không có chống chỉ định tại khoa tai-mũi-họng bệnh viện nguyễn Đình

Chiểu, Bến Tre và phòng khám đa khoa Hồng Ân, Cần Thơ, từ 8/2005 – 8/2006.

Phương tiện nghiên cứu

Thuốc Dysport® của hãng Beaufour Ipsen. Dung dịch NaCl 0,9%. Bơm tiêm

1cc, kim 30 G. kem Emla 5%. Máy ảnh. Thước đo. Phiếu thu thập số liệu.

Kỹ thuật pha tiêm

Lọ thuốc Dysport® 500 đơn vị Speywood pha với 2,5 ml NaCl 0,9%, để có

nồng độ 20 đv/ml. khi tiêm thuốc pha loãng gấp 2 để có nồng độ 10 đv/ml. Vị trí

và liều lượng tùy bệnh nhân.

Các bước tiến hành

Bệnh nhân được ghi nhận, chụp ảnh, đánh giá mức độ nếp nhăn trước tiêm

và theo dõi 6 tháng sau tiêm. Chúng tôi sử dụng thang đo số ( rated numeric

kinetic line scale), thang đo WIS để đánh giá độ cải thiện kết quả sau tiêm, và sử

dụng thang đo 3 điểm để đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân. Dùng phần

mềm SPSS phiên bản 11.5 với phép kiểm Wilcoxon-Signed Ranks để so sánh kết

quả sau điều trị.

KẾT QUẢ

Bảng 1: Giới và mức độ nếp nhăn.

Giớ Tỷ Mức Mức độ Phi p S

i ố lệ độ 3. n (%)

c ( 2.n

a %) (%)

Nữ 4 88, 24 21

5 2 (47,1 (41,1%) 0,3 0,0

%) 55 16

Na 6 11, 0 6(11,8%

m 8 )

Tổn 5 10 24(47, 27(52,9

g 1 0 1) %)

Nữ vượt trội chiếm tỷ lệ 88,2%, nếp nhăn có độ vừa và nặng

Bảng 2: Liều lượng tiêm

Vị điể Liều Liề Liề Tổn SD trí m tiêm TB u tối thiểu u tối đa g

Gian 173 33,2 9,7 25 60 1530

mày 6 0

Đuô 118 37,7 16 20 60 755

i mắt 5

Trán 79 35,9 12, 25 60 575

4 5

Mũi 6 13,3 5,7 10 20 40

0 7

Tổn 376 2900

g

Biểu đồ 1: Thay đổi khoảng cách gan mày(mm) lúc nghỉ và khi nhíu mày

tối đa.

Biểu đồ 2: Độ nếp nhăn trung bình trước và sau điều trị.

Nhận xét: Mức độ nếp nhăn trán trước tiêm ở độ vừa và nặng, điểm trung

bình 2,50 + 0,516. Sau tiêm mức độ nếp nhăn giảm dần đến tuần lễ thứ 4 là thấp

nhất với số điểm trung bình 0,38 + 0,619; có đến 14/16 trường hợp tương ứng với

tỷ lệ đáp ứng là 93,3%. So sánh sự khác biệt về mức độ nếp nhăn trước và sau điều

trị ở các tuần lễ 1, 2, 4, 8, 12, 16, 24 bằng phép kiểm Wilcoxon - Signed Ranks có

p < 0,05 nghĩa là sự khác biệt về mức độ nếp nhăn trước và sau điều trị khác nhau

có ý nghĩa thống kê.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ đáp ứng

sau khi tiêm Dysport® theo thang đo RNKLS.

Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng sau khi tiêm Dysport® vào vùng gian mày, mắt,

trán, tăng cao nhất ở tuần lễ thứ 4, và duy trì tới tuần thứ 8 sau đó giảm dần, đến

tuần thứ 24 tỷ lệ đáp ứng còn 22,9% đối với nếp nhăn gian mày, 12,5% đối với

nếp nhăn mắt, 23,1% đối với nếp nhăn trán.

Biểu đồ 4: Biểu diễn mức độ cải thiện kết quả điều trị (WIS) nếp nhăn mặt

Nhận xét: Đường biểu diễn trên cho thấy kết quả điều trị tốt lên từ tuần thứ

1 đến tuần thứ 4 (T.1 – T.4) cho cả nếp nhăn gian mày, trán và đuôi mắt. Mức độ

này duy trì tới tuần 12 (T.12), rồi giảm dần đến tuần thứ 24 (T.24), mức độ cải

thiện kết quả điều trị tương đương 1 (cải thiện kết quả điều trị ít).

Biểu đồ 5: Tỷ lệ bệnh nhân hoàn toàn hài lòng.

- Tỷ lệ hoàn toàn hài lòng bệnh nhân đạt đỉnh cao tuần lể thứ 4 và 8, tỷ lệ

hoàn toàn hài lòng của bệnh nhân điều trị nếp nhăn đuôi mắt thấp ơn so với gian

mày và trán. Ở tuần lễ 24 tỷ lệ hoàn toàn hài lòng bằng không.

Bảng 3: Phân bố tần số về tác dụng phụ.

Tác dụng Tần Tỷ lệ

phụ số %

Đau nhẹ 19 37,7%

khi tiêm

Sụp mi 3 5,9

Tác dụng Tần Tỷ lệ

phụ số %

Sưng bầm 2 3,9

Chân mày 2 3,9

không cân đối

Cảm giác 3 5,9

căng cứng

2 3,9 Sưng bầm

1 1,8 Nhức đầu

BÀN LUẬN

Về khoảng cách gian mày

Kết quả khoảng cách giữa 2 đầu trong của chân mày khi bình thường là

24,03 + 2,91mm và khi hoạt động cơ lúc nhíu mày tối đa 18,88 + 3,7mm. khoảng

cách trung bình của gian mày lúc nghỉ, lớn nhất tuần 2 (giãn ra 0,72mm so với

trước tiêm), cho thấy khi tiêm Dysport® vào cơ cau mày, cơ hạ mày làm giảm

trương lực cơ lúc không hoạt động cho nên khoảng cách gian mày lúc nghỉ giãn

rộng hơn, tuy nhiên sự khác biệt về khoảng cách này chỉ có ý nghĩa thống kê ở

tuần lễ thứ 2,4, 8 mà thôi. Đối với khoảng cách trung bình của gian mày khi nhíu

tối đa cũng gia tăng tức là cơ hoạt động yếu đi, sự khác biệt so với trước tiêm ở tất

cả các tuần được kiểm bằng phép T ghép cặp cho thấy mức ý nghĩa p < 0,05; sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê. Theo thực nghiệm nêu trong y văn từ tháng thứ 3 có

hiện tượng nảy chồi sợi trục hình thành xi-náp mới kích thích cơ hoạt động trở lại.

Sở dĩ đến tháng thứ 6 khoảng cách gian mày co tối đa vẫn lớn hơn khi điền trị, là

do sự ngừng hoạt động kéo dài, sợi cơ bị teo, yếu nên đến tháng thứ 6 sức của co

cơ vẫn không bằng lúc chưa tiêm Dysport®.

Theo tiêu chí thang đo RNLN

Tác giả Ramirez sử dụng thang đo này, nghiên cứu Myobloc trong điều trị

nếp nhăn động ở mặt. Thang đo này có 5 mức từ 0 đến 4 điểm, tương ứng mức độ

nếp nhăn khác nhau khi nghỉ và vận động cơ mặt. Mức độ nếp nhăn trước điều trị

ở độ 2, 3, 4 mức trung bình là 3,41 + 0,65, sau tiêm Dysport®, nếp nhăn được

đánh giá lại sau điều trị, nếu ở mức 0 hoặc 1 thì xem như có đáp ứng điều trị. Qua

biểu đồ 3. tỷ lệ đáp ứng tuần lễ thứ 4 của nếp nhăn gian mày là 95,6%; mắt 95%;

trán 93,8%; khuynh hướng từ tuần lễ thứ 8, tỷ lệ đáp ứng giảm dần đến tuần 16 tỷ

lệ đáp ứng vẫn còn trên 50%. Đánh giá về nếp nhăn ở mặt nói riêng, về sắc đẹp

nói chung thường rất khó và mang tính chủ quan nhiều, việc phát triển thang đo

của tác giả Ramirez để đánh giá mức độ nếp nhăn động, gần giống như thang đo

0-3 điểm, nhưng chi tiết hơn, nhưng lại ít được các tác giả khác sử dụng trong

nghiên cứu hơn thang đo 0-3 điểm.

Về mức độ cải thiện kết quả điều trị theo tiêu chí thang đo WIS

(Wrinkle Improvement Score)

Qua kết quả trình bày cho thấy ở tuần lễ thứ 2 đến 12 không có trường hợp

nào không cải thiện kết quả điều trị (ở ba vùng gian mày, trán, đuôi mắt), nghĩa là

ít hay nhiều sau tiêm Dysport® mức độ nếp nhăn có giảm. Đến tháng thứ 6 không

có trường hợp nào cải thiện kết quả điều trị còn ở mức độ tốt cả, cũng tương tự với

phương pháp đánh giá đáp ứng điều trị, mức độ cải thiện kết quả điều trị đạt đỉnh

cao vào tuần lễ 4 đến thứ 8, sau đó giảm dần. Sự khác biệt mức độ cải thiện kết

quả điều trị giữa các tuần có ý nghĩa thống kê, trừ giữa tuần thứ 4 và thứ 8 sự khác

biệt không có ý nghĩa thống kê.

Về sự hài lòng của người bệnh

Mức độ hoàn toàn hài lòng đạt đỉnh cao tuần 4 và 8. Nhưng đến tuần 24

không còn bệnh nhân nào hoàn toàn hài lòng cả. So sánh với nghiên cứu của

Ascher liều 50 đơn vị Dysport® (n = 29) tỷ lệ hài lòng tuần thứ 4 cao nhất chiếm

65,5%, tuần 24 còn 13,8%. Trong nghiên cứu chúng tôi nếp nhăn vùng gian mày

(n = 46), tỷ lệ hoàn toàn hài lòng tuần lễ thứ 4 = 69,6% gần như tương tự, nhưng

tuần 24 không có bệnh nhân nào hài lòng. So sánh với tác giả Rzany liều 50 đơn vị

Dysport® vào gian mày (n = 73) tỷ lệ hoàn toàn hài lòng tuần 16 là (19,2%).

Nghiên cứu của chúng tôi ở tuần 16 tỷ lệ trên là 5%, nhìn chung sự hài lòng ở tuần

lễ 16 và 24 thắp hơn. Sự khác nhau về tỷ lệ hài lòng cho thấy: Việc đánh giá mức

độ hài lòng của người bệnh không chỉ phụ thuộc vào mức độ giảm nếp nhăn, thời

gian kéo dài mà còn phụ thuộc yếu tố tâm lý, ước muốn của người bệnh, phụ thuộc

vào tác dụng phụ không mong muốn vào sự tư vấn của thầy thuốc, nói chung là

lựa chọn đúng bệnh nhân, đáp ứng đúng yêu cầu. Đôi khi sự tác dụng quá tốt của

thuốc gây ra hiện tượng đóng băng vùng tiêm thuốc chống nhăn làm cho vẻ mặt

trở nên “vô cảm” cũng làm cho bệnh nhân không hài lòng, đối với những bệnh

nhân nổi tiếng họ muốn duy trì sự trẻ trung, phong độ nhưng cũng không muốn

người khác biết họ tiêm thuốc chống nhăn, vì vậy cần có cân nhắc cẩn thận về liều

lượng, nồng độ, vi trí, độ sâu, trước khi quyết định tiêm thuốc. Trong nghiên cứu

của chúng tôi không có bệnh nhân nào ở tuần lễ 24 hoàn toàn hài lòng cho thấy

người bệnh mong muốn hiệu quả kéo dài hơn. Cho nên khi tư vấn cần thông tin

cho bệnh nhân biết tới tháng thứ 6 thuốc còn tác dụng ít, nếp nhăn có thể hình

thành lại, cần tiêm nhắc lại để duy trì hiệu quả tác dụng.

Về tác dụng phụ

Đau tại chỗ khi tiêm được hỏi và đánh giá từ không đau đến đau dữ dội.

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 37,3% trả lời đau nhẹ và 62,7% không đau, vì

đã được thoa kem Emla 5% chống đau, và có chườm lạnh trước và sau tiêm thuốc.

Nhận thấy việc dùng kim nhỏ 30 G vẫn còn 1/3 bệnh nhân đau, cảm giác đau

trong lúc bơm thuốc nhiều hơn lúc kim xuyên qua da. Do đó ngoài việc thoa thuốc

tê Emla 5% và chườm lạnh trước tiêm để giảm cảm giác đau và còn giảm sưng

bầm cũng cần bơm thuốc chậm, tránh gây tăng áp lực đột ngột. Kinh nghiệm của

chúng tôi sử dụng bơm tiêm Omnican® của hảng Braun 1ml, kim dài 12mm, đầu

vát sắc bén, rất thuận tiện trong thao tác, có độ dài phù hợp cho vùng gian mày khi

cần tiêm sâu vào cơ cau mày. Đặc biệt rất kinh tế do thiết kế của bơm tiêm, thuốc

còn lại trong khoảng chết 0,01ml, so với ống tiêm thường thuốc mất 0,07ml.

- Tỷ lệ chung có tác dụng phụ là 21,6%, trong đó tác dụng phụ gây phiền

toái cho người bệnh và thầy thuốc nhất là sụp mí mắt trên. Chúng tôi có 3 trường

hợp (5,9%), 1 ở mức độ vừa (bờ tự do mí trên ngay sát bờ trên của đồng tử), 2 ở

mức độ nhẹ mí mắt vận động kém nhanh hơn so bên đối diện, hoàn toàn hết sau 2

tuần không cần can thiệp gì; riêng trường hợp sụp mí vừa thời gian tự khỏi chậm hơn

(ngày thứ 35). So sánh với các nghiên cứu khác: tác giả Carruther A. có 5,4%

(11/203) nghiên cứu sau chỉ có 1% (2/202); Ascher và Rzany không gặp trường hợp

nào Tỷ lệ sụp mi của chúng tôi cao (5,9%) là do bước đầu chưa có kinh nghiệm, sơ

suất trong kỹ thuật tiêm, đặc biệt là 2 điểm tiêm ngoài cùng của vùng gian mày. Theo

nhiều tác giả khuyên điểm tiêm nên ở trên bờ hốc mắt ít nhất 1cm, hướng tiêm và đầu

vát của kim phải hướng ra xa cơ nâng mi trên. Nghiên cứu của tác giả Lowe so sánh

kỹ thuật tiêm với hướng kim lên trên, ra ngoài và kỹ thuật tiêm với hướng kim xuống

dưới, vào trong khi điều trị nếp nhăn gian mày, kết quả cho thấy tỷ lệ sụp mi khi tiêm

hướng xuống dưới, vào trong có tỷ lệ sụp mí cao hơn. Nồng độ thuốc cao, thể tích

nhỏ, giảm sự lan tỏa thuốc cũng ít gây ảnh hưởng đến cơ kế cận Biến chứng sụp mí sẽ

hết hoàn toàn không để lại di chứng. Tuy nhiên có tác giả khuyên nên sử dụng thuốc

nhỏ mắt; thuốc thường dùng là chất đồng vận -Adrenergic như Iopidine 0,5% của

hãng Alcon, hoặc Neosynephrine 2,5% của hãng Sanofi, thuốc này có tác động làm

co cơ Muller, do đó mí mắt trên sẽ được nâng cao lên khoảng 1-3mm vì vậy có thể

tạo sự cân đối với bên đối diện, tạm thời làm giảm bớt lo âu, buồn phiền của người

bệnh.

- Tỷ lệ chân mày mất cân đối khi tiêm vùng trán là 2 (3,9%) nếu tính riêng

cho vùng trán 2/16 (12,5%); tỷ lệ này gần tương đương với tỷ lệ của tac giả

Kaltrider 30/200 (15%) chân mày mất cân đối hoặc chân mày cao không tự nhiên,

giống phù thủy (Méphisto) là tác dụng phụ không mong muốn, thường xảy ra khi

tiêm BTX vào vùng trán. Vì vậy khi tiêm BTX-A vào vùng này không chỉ chú ý

đến tác dụng làm giảm nếp nhăn trán mà còn phải chú ý đến dạng chân mày theo

mong muốn nữa. Tác giả Baumann cho rằng tiêm BTX-A để điều trị nếp nhăn trán

vừa là khoa học vừa là nghệ thuật vì lý do phải đạt được dạng chân mày thích hợp

với mong muốn của từng cá nhân. Do vậy điều quan trọng cần nhớ khi điều trị nếp

nhăn trán nói riêng, nếp nhăn mặt nói chung bằng độc tố Botulinum đòi hỏi có

kiến thức, thời gian thực hành, học tập lẫn nhau và cái nhìn thẩm mỹ. Phái nữ

thường thích dạng chân mày cong (nữ tính hơn); nam muốn dạng chân mày ngang

(mạnh mẽ hơn), cho nên cần chọn điểm tiêm thích hợp. Điều quan trọng hơn là

không nên tiêm ở vị trí thấp hơn 3cm cách bờ hốc mắt, dễ gây sụp chân mày và

nhớ trong đầu rằng 90% người có chân mày không đều. Do đó không nhất thiết

tiêm liều đối xứng 2 bên và cần khám lại ở tuần thứ 2 để có mũi tiêm bổ sung. Để

chỉnh cho dạng chân mày cân đối theo ý muốn, cũng nên biết thêm rằng điều

chỉnh chân mày cao không tự nhiên dễ hơn điều chỉnh chân mày bị sụp Huigol

tiêm BTX-A để nâng cao chân mày, ông ghi nhận chân mày được nâng cao từ

1mm đến 3mm Tác dụng phụ khác như sưng bầm có tỷ lệ 3,9% số bệnh nhân, để

giảm tác dụng phụ này cần ấn nhẹ vào nơi tiêm khi rút kim ra. Chú ý đối với

người đang xử dụng thuốc Aspirin và các chế phẩm giảm viêm không corticoides

khác, thuốc vitamin E, trà xanh, bạch quả, nên ngừng xử dụng trước 10 ngày, đối

với phụ nữ trong chu kỳ kinh cũng dể gây vết bầm và cũng rất nhạy cảm đau hơn

nên cũng tránh tiêm BTX-A vào những ngày này. chườm lạnh trước sau tiêm 5

phút Khi vết bầm xảy ra nên cho bệnh nhân thoa kem Hirudoid® ngày hai lần vết

bầm chóng phai hơn. Cảm giác căng cứng ghi nhận 5,9% số bệnh nhân, thường

xảy ra vùng trán do tiêm liều cao; nhức đầu có tỷ lệ 1,8%, tác dung phụ này

thường là do tiêm chạm vào màng xương.

Để tránh, hạn chế tác dụng phụ không mong muốn khi tiêm BTX-A vào

phần trên của mặt, ngoài vấn đề nồng độ, liều lượng thuốc cần chú ý đặc điểm lâm

sàng từng thân chủ, đặc biệt đối với người có khuông mặt không cân đối, đã được

phẫu thuật vùng mặt (có thay đổi về giải phẫu vùng mặt) để quyết định vị trí cần

tiêm và luôn tôn trọng kỹ thuật tiêm. Có tác giả khuyên dùng, ghi điện cơ

(electromyography) để hướng dẫn, có tác giả thì cho rằng không cần thiết. Qua

nghiên cứu chúng tôi thấy rằng đối với phần trên mặt trong mục đích xóa nếp nhăn

không cần thiết phải dùng ghi điện cơ để hướng dẫn mủi tiêm cho chính xác. Vì

chỉ cần tiêm dưới da thậm chí trong da là có tác dụng không cần tiêm chính xác

vào bó cơ; chỉ trừ vị trí gian mày là tiêm sâu, nhưng vùng này nếp nhăn động do

nhiều cơ chi phối nên cũng không cần tiêm chính xác vào một cơ, thông thường

thuốc lan tỏa 1cm chung quanh vùng tiêm. Gần đây tác giả Lee đưa ra kỹ thuật

tiêm nhiều điểm, tiêm vào nơi giữa lớp biểu bì và lớp bì có hiệu quả là trẻ hóa

khuôn mặt.

Tóm lại, tiêm Dysport® chống nếp nhăn động vùng mặt là một phương

pháp làm trẻ hóa khuôn mặt không cần phẫu thuật, dễ thực hiện, hiệu quả cao, chỉ

có biến chứng tại chỗ, không có biến chứng toàn thân, các biến chứng hoàn toàn

biến mất không cần can thiệp nào. Dù thế nào BTX-A là loại thuốc có độc tính cao

nên cần cân nhắc kỷ trước khi quyết định điều trị.

KẾT LUẬN

(1). Thuốc Dysport® có tác dụng trong điều trị nếp nhăn động ở nửa trên

của mặt. Mức đáp ứng điều trị đạt đỉnh cao ở tuần lễ thứ 4 với tỷ lệ 95,6% cho nếp

nhăn vùng gian mày; 95,5% cho nếp nhăn vùng đuôi mắt, và 93,8% cho nếp nhăn

vùng trán. Mức độ đáp ứng giảm dần đến tháng thứ 6 tỷ lệ đáp ứng còn 25,7% cho

vùng gian mày; 18,7% cho vùng mắt và 23,1% cho nếp nhăn trán. Mức độ hài

lòng và hoàn toàn hài lòng ở tháng thứ 1 có tỷ lệ 98,3% đối với nếp nhăn vùng

gian mày; 95% cho nếp nhăn vùng đuôi mắt; 93,7% cho nếp nhăn vùng trán. Đến

tháng thứ 6 tỷ lệ trên giảm còn 22,2% cho nếp nhăn gian mày; 17,6% cho nếp

nhăn đuôi mắt và 7,7% cho vùng trán.

(2). Thời gian bắt đầu có tác dụng ngày vào thứ 3 và kéo dài đến tháng thứ

4 với mức độ cải thiện kết quả điều trị > 50%.

(3). Tác dụng phụ xảy ra với tỷ lệ 21,6% số ca; phần lớn là tác dụng phụ

nhẹ, tại chỗ. Sụp mi mắt (5,9%) là tác dụng phụ gây phiền toái nhất cho bệnh

nhân. Tất cả các tác dụng phụ hoàn toàn biến mất sau 1 tháng mà không cần can

thiệp gì. Không có tác dụng phụ toàn thân nào.

(4). Kỹ thuật tiêm, giải phẫu vùng tiêm, tính chất dược lý của thuốc là

những yếu tố quan trọng góp phần cho điều trị đạt hiệu quả cao, và giảm thấp tỷ lệ

tác dụng phụ không mong muốn.

(5). Trong điều trị nếp nhăn phần trên của mặt không cần máy ghi điện cơ

dẫn đường.