z

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới



Đạo đức người luật sư trong thời kì mới

1

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

LỜI CẢM ƠN

Đây là báo cáo khoa học của nhóm năm người chúng tôi. Đây thực

sự là sản phẩm lao động miệt mài mà chúng tôi đã cố gắng có được.

Nhưng chỉ dựa vào sự gắng sức thì chưa đủ. Nếu không có sự giúp đỡ của

mọi người thì chúng tôi không thể có sản phẩm này.

Người đẩu tiên chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đó chính là GS.TS.

Hoàng Thị Kim Quế, người đã tận tình hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề

tài từ những bước nhỏ nhất. Xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới cô.

Xin gửi lời cảm ơn tới ĐHQG, Khoa luật và bộ môn LLNNPL đã

tạo cơ hội, điều kiện cho chúng tôi thực hiện đề tài này, đây thực sự là một

hoạt động rất bổ ích cho sinh viên. Hi vọng rằng sẽ có nhiều hoạt động

nghiên cứu khoa học hơn nữa được phát động để sinh viên có nhiều cơ hội

làm quen và thử sức, xây dựng đam mê nghiên cứu khoa học.

Xin cám ơn những nhân viên thư viện của Học viện tư pháp đã tạo

điều kiện cho chúng tôi sử dụng tài liệu để viết lên báo cáo này.

Và xin cám ơn tất cả những người đã giúp đỡ chúng tôi hoan thành

báo cáo này. Xin chúc mọi người hạnh phúc và công tác tốt.

2

Xin chân thành cám ơn.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sự phát triển mặt kinh tế

đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội trong đó có yếu tốvăn hóa pháp lý.

Việc hội nhập và phát triển kinh tế tạo cơ hội cho nhiều ngành nghề phát

triển, trong đó có nghề luật sư. Việc hội nhập kinh tế giao thương vói

nước ngoài làm nảy sinh những nhu cầu,đòi hỏi nhiều hơn từ giới luật sư.

Gia nhâp Tổ chức thương mại thế giới WTO, phải chập nhận luật chơi xứ

người, nhiều doanh nghiệp VN đã vấp phải những khó khăn pháp lý, phải

đương đầu những vụ kiện bán phá giá, kiện bản quyền, nhiều doanh nghiệp

đã tỏ ra bỡ ngỡ và thường là thất bại. Vụ kiện cá tra,cá basa, tranh chấp

thương hiệu cà fe Trung Nguyên, vụ thua kiện của hãng hàng không VN

airline là những minh chứng rõ ràng nhất. Lúc này người ta mới thấy tầm

quan trọng của người luật sư, những người hướng dẫn pháp luật trên con

đường phát triển của nước nhà.

Việt Nam đang trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà

nước pháp quyền là nhà nước nước coi trọng quyền con người, và một trong sứ

mệnh của luật sư là bảo vệ quyền con người trước công quyền. Qua những vụ

án nhưn vu án “vườn điều”, vụ án Đào Xuân Thế chúng ta có thể thấy luật sư

đứng lên với tư cach là bảo vệ công lý và quyền con người

Với vai trò to lớn đó số lượng luật sư đã có bước phat triển rất

nhanh. So với 186 luật sư vào cuối thâp kỉ 80, tính đến nay cả nước đã có

5800 luật sư đang hành nghề và 2200 luật sư đang thực tập, đội ngũ luật sư

đang được đánh giá phát triển với tốc độ vượt bậc, với tốc độ phát triển đat

250%. Tuy vậy, là một nghề có tốc độ phát triển nhanh nhưng luật sư vẫn

là một nghề non trẻ ở Việt Nam, số lượng không đi đôi với chất lượng ,đặc

biệt là việc xây dựng và thực hiện đao đức nghề luật. Nếu như người luật

3

sư là “người dẫn đường pháp lý” đi đến hội nhập thì cái gì sẽ dẫn đường

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

cho người luật sư làm đúng nhiệm vụ vủa mình. Đó chính là đạo đức nghề

nghiệp. Nghề luật sư là một trong những nghề đòi hỏi đạo đức nghề nghiệp

rất cao, hoạt động của luật sư liên quan đến lợi ích của nhiều người, có ý

nghĩa quan trọng đối với của một bản án. Đạo đức người luật sư có tầm

quan trọng như vậy nhưng lại chưa nhận được sư quan tâm đúng mức của

nhà nước,của các tổ chức luật sư, chúng ta mới chỉ có Bộ qui tắc mẫu đạo

đức người luật sư đo Bộ tư pháp ban hành. Nhưng những qui tắc đó chỉ

mang tính định hướng, chưa thật sự rõ ràng, nhiều luật sư đã lúng túng khi

gặp các trường hợp cụ thể, dẫn đến vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Chính vì những lí do trên, nhóm chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu về

đề tài “Đạo đức người luật sư trong thời kì mới”, hi vọng có thể đóng góp

để đưa ra cái nhìn toàn diện về đạo đức người luật sư ngày nay.

2.Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước khi chúng tôi viết báo cáo này, cũng đã có những bài

viết,những báo cáo khoa học của các học giả, luật sư có liên quan đến đề

tài này

- Thạc sĩ Trần Vũ Hải –ĐH Luật Hà Nội với bài viết : “Đạo đức

luật sư- đôi điều suy nghĩ”

- PGS.TS.Lê Hồng Hạnh :”Đạo đức và kĩ năng của luật sư trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa_”

- Hội thảo hợp tác pháp luật Việt Nam – Châu Âu về đạo đức nghề

luật sư.

Và rất nhiều các bài viết khác mà chúng tôi không tiện nêu, báo cáo

khoa học này có tham khảo ý kiến các bài viết, báo cáo trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích của báo cáo này là làm sáng tỏ về lí luận vấn đề “Đạo

đức nghề luật sư trong thời kì mớitừ đó cung cấp cho người đọc những cái

nhìn khái quát và cơ bản về đạo đức nghề luật sư ngày nay. Để thực hiện

4

được mục đích đó, báo cáo cần thực hiện những nhiệm vụ sau:

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

1. Làm sáng tỏ các khái niệm liên quan tới đạo đức nghề luật sư

2. Chỉ ra được đặc trưng và yêu cầu đạo đức người luật sư trong thời

kì mới, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Báo cáo khoa học này tạp trung nghiên cứu những lí luận cơ bản về

đạo đức nghề luật sư trong thời kì ngày nay. Và tập trung nghiên cứu các

vấn đề chính sau :

- Các khái niệm cơ bản liên quan đến đạo đức người luât sư

- Đặc trưng của đạo đức người luật sư trong thời kì mới

- Yêu cầu về đạo đức người luật sư trong thời kì mới

- Những biểu hiện đi xuống của đạo đức người luật sư đồng thời

đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư

5.Phương pháp nghiên cứu

Khi thực hiện báo cáo này,chúng tôi có sử dụng một số phương

pháp sau

- Phương pháp phân tích.

- Phương pháp đối chiếu so sánh.

6. Những kết quả nghiên cứu

Báo cáo này đã đạt được một số kết quả sau :

- Đưa ra được các khái niệm liên quan đến đạo đức nghề luật sư

- Nêu được vai trò quan trọng của người luật sư, những đặc trưng

về đạo đức người luật sư

- Đưa ra các yêu cầu cơ bản về đạo đức người luật sư

- Nêu và giải thích nguyên nhân các biêu hiện đi xuống của đạo

đức của luật sư. Đồng thời đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức

người luật sư

5

7. Cơ cấu của báo cáo

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Ngoài phần mở đầu, báo cáo khoa học này được bố cục thành ba

phần chính

- Chương I : Tổng quan các khái niệm liên quan tới đạo đức nghề luật sư

- Chương II : Đạo đức nghề luật sư ngày nay

- Chương III: Một số biều đi xuống của đạo đức nghề luật sư và giải

pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư.

6

Kết thúc cuối báo cáo l phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

CHƯƠNG I:

TỔNG QUAN KHÁI NIÊM LIÊN QUAN VỀ

NGHỀ LUẬT SƯ TRONG ĐỀ TÀI

1.Nghề luật sư

1.1. Khái niêm

Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội

không phải đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta

trong suốt một thời gian dài cho đến trước thời điểm ban hành Pháp lệnh

luật sư năm 2001. Thực tế này có căn nguyên về mặt lịch sử và từ quan

niệm chung của xã hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử

dài lâu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa học, khái niệm nghề

luật nói chung và nghề luật sư nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các

tác phẩm khoa học pháp lý, trong các văn bản pháp quy và đời sống xã hội.

Thực tế, khi đánh giá cả một quá trình lịch sử, thời gian gần đây có ý kiến

nhận định ở Việt Nam, nghề luật cũng được coi trọng, nhất là từ sau năm

1945 và hệ thống văn bản về nghề và hành nghề luật đã tương đối hoàn

chỉnh. Ý kiến này tuy có cơ sở lịch sử của nó, nhưng chưa phản ánh được

bản chất và nội hàm hoàn chỉnh của khái niệm nghề luật sư. Chỉ vào cuối

năm 2001, khi ban hành Pháp lệnh luật sư mới, Trường Đào tạo các chức

danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp mới mở khóa đầu tiên chính thức đào tạo

luật sư. Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt

nó trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị,

chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã

hội. Có ý kiến quan niệm việc hành xử chức năng luật sư như là một thiên

chức (mission) hơn là một nghề nghiệp (profession) để mưu sống. Trên

một bình diện khác, có tác giả cho rằng chưa có sự chính xác về mặt ngôn

ngữ khi sử dụng cụm từ “nghề luật sư” hay “nghề nghiệp luật sư” và “hành

nghề luật sư”, vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng

7

để chỉ một nghề (trong tiếng Anh người ta dùng “lawyer” để chỉ luật sư và

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

“practice law” để chỉ hành nghề luật). Tuy nhiên, việc sử dụng cụm từ nói

trên là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với Pháp lệnh luật

sư. Hoạt động luật sư trong cơ chế thị trường được coi là một loại hình dịch

vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các đạo luật về hành nghề luật sư và

các luật lệ về kinh doanh. Tuy nhiên, giữa các nước theo hệ thống tập quán

pháp và các nước theo hệ thống luật thành văn có những điểm khác nhau

trong quan niệm về nghề luật sư. Các nước theo tập quán pháp coi nghề

luật sư là một nghề kinh doanh, nhưng thuộc loại hình kinh doanh đặc biệt;

còn các nước theo hệ thống luật thành văn nhìn chung coi hoạt động luật sư

là một trong những nghề tự do (luật sư, công chứng, kiểm toán, bác sỹ,

kiến trúc sư…). Ngày nay, theo một quan điểm được đa số các nhà nghiên

cứu pháp luật ủng hộ, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là một

nghề cao quý trong xã hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phấn đấu

xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

Tuy nhiên, xác định hoạt động luật sư như là một nghề cao quý

không thể thiếu trong xã hội và cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động nghề

nghiệp này như thế nào vẫn đang là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp

lý cần nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra các giải pháp cho sự hoàn thiện và

phát triển của nghề luật sư. Trước hết, hiện nay trong một số văn kiện của

Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoạt động luật sư được coi là hoạt động

“bổ trợ tư pháp” . Quan niệm này xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của

luật sư thường gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt

động xét xử của Tòa án. Vì thế, tổ chức nghề nghiệp của luật sư (Đoàn,

Hội luật sư) thường được thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của

một Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa phương/ Đoàn luật sư

địa phương/ luật sư địa phương. Cũng vì lý do đó mà nhiều nước trên thế

giới, trong đó có Việt Nam đã coi luật sư là một hoạt động “bổ trợ tư

8

pháp”5. Trong hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng, luật sư được xác

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

định là “người tham gia tố tụng”, có địa vị pháp lý hoàn toàn khác so với

những người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, xét về bản chất thì chức năng

bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng công tố như là một tất

yếu khách quan tự thân của tranh tụng hình sự. Xét ở một bình diện khác,

một quan điểm rất đáng chú ý là trong luật tố tụng hình sự thực định hiện

hành, chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc

về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa.

Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm nghề luật sư bao gồm hai cụm từ: Nghề

với tính chất là một nghề nghiệp và luật sư chỉ những người đủ điều kiện

hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển

tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội”

hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là “thành thạo trong một công việc nào đó”.

Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn nghề tự do có nghĩa là

“nghề tự mình làm để sinh sống, không thuộc tổ chức, cơ quan nào7. Nếu

theo giải thích của Từ điển tiếng Việt nêu trên, cách hiểu nghề luật sư như

một nghề tự do lại không hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng

của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và

cùng với việc được cấp chứng chỉ hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong

một tổ chức hành nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức xã

hội nghề nghiệp nhất định nơi địa phương mình cư ngụ. nước, luật sư được

coi là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ Mặt khác,

khái niệm “nghề tự do” nói trên mới đặt nặng khía cạnh “kiếm sống” mà

không bao hàm được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự phát triển của

xã hội. Trong luật thực định của một số quan niệm tính chất của nghề

nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản của một sự

vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư

pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của Nhà nước nên không thể

nói tính chất của nghề nghiệp này là nghề tự do. Tính chất độc lập cần phải

9

được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do là nói tới

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không gian

hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn

chế, bó buộc như một công chức Nhà nước.

Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên chúng tôi khái

quát hóa và định nghĩa khái niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là

một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc

lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp

cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm

nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ

pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

1.2.Vai trò luật sư

Luật sư là một nghề dựa trên sự am hiểu pháp luật và áp dụng pháp

luật. Nghề được hình thành và phát triển song song với hệ thống pháp luật.

Quy phạm pháp luật được hình thành trước hết phải có sự xuất hiện của

nhà lập pháp, người thảo ra các quy phạm đó. Và chính vì tính chuyên môn

cao của pháp luật, nên khó có thể lập luận, chứng minh, đưa ra ý kiến để

bảo vệ quyền lợi của mình trước tòa. Do vậy sự ra đời của luật sư đảm bảo

cho việc bào chữa cho đương sự của mình. Dần dần chức năng của luật sư

cũng thay đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của xã hội

 Bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước tòa.

Mỗi quốc gia lại hình thành cho mình một hệ thống lập pháp riêng cùng

với đó là đội ngũ luật sư được tổ chức đa dạng, thực hiện những chức năng

khác nhau nhưng tựu chung lại có một điểm là nghề luật sư mang tính xã

hội, là công cụ hữu hiệu góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Mỗi

người có hàng trăm mối quan hệ mà cuộc sống càng phức tạp sẽ làm nảy

sinh những mâu thuẫn, xung đột. Người luật sư là người am hiểu pháp luật,

có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật sẽ trợ giúp người dân về mặt

pháp lý một cách hiệu quả nhất.

10

 Tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân tổ chức.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Càng ngày sự xuất hiện của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong

nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội đòi hỏi liên quan mật thiết đến

pháp luật. Do vậy, với tư cách là người thông thạo pháp lý, luật sư có vai

trò tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp họ nhằm giải quyết tranh chấp, hạn chế hành vi

vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, giảm bớt khó khăn trong hoạt động.

 Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Là một luật sư đồng nghĩa với việc liên tục trau dồi kiến thức, kĩ

năng để tăng cường và phát triển hệ thống pháp luật. Dù hệ thống pháp luật

có tốt đến đâu thì vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót vì chung

quy lại nó được xây dựng dựa trên bộ óc con người mà cuộc sống luôn

luôn thay đổi nên một vài người không thể kiểm soát được. Vì vậy, đội ngũ

luật sư còn có vai trò hay trách nhiệm trong việc hoàn g trong mọi hoàn

cảnh nghề nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp,

phẩm giá cao quý của nghề luật sư. Nó chính là thước đo phẩm chất của

một người luật sư chân chính. Người luật sư cần phải căn cứ vào những

quy tắc chuẩn thiện hệ thống pháp luật.

Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền. trách nhiệm

người luật sư càng trở nên lớn lao và

2. Đạo đức nghề luật sư

2.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp nói chung

Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào

tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại

sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của

xã hội. Xét một cách đơn giản nhất có 2 phạm trù lớn liên quan đến nghề

nghiệp. Đó là chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Chuyên môn là một

khái niêm cơ bản nhất, mà qua đó con người dùng sức mạnh vật chất và

sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ thể nhằm

biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi

11

ích của con người. Đây là điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển của xã

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

hội. Có thể thấy rằng, trình độ chuyên môn cao sẽ phản ánh chất lượng

nghề nghiệp tốt. Việc một đất nước có hệ thống nghề nghiệp chuyên

nghiệp chất lượng tốt sẽ góp phần xây dựng một xã hội vững mạnh. Tuy

nhiên để cho một xã hội phát triển đảm bảo sự trong sạch, văn minh, tiến

bộ, vì lợi ích của con người và cộng đồng thì nhân tố quan trọng hơn cả đó

chính là đạo đức nghề nghiệp. Một người thực hiện làm nghề có chuyên

môn giỏi nhưng không có đạo đức tốt thì chắc hẳn nghề đó cũng không thể

phát triển bền vững được. Hơn thế, khi xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu vật

chất cơ bản được thỏa mãn thì vấn đề con người càng được đề cao, mà đây

cũng chính là một yêu cầu quan trọng được đặt ra cho đạo đức nghề nghiệp

Trước hết, chúng ta cần xác định thế nào là đạo đức nghề nghiệp?

Hiểu một cách đơn giản nhất đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực, giá

trị tốt đẹp về cách hành xử của người đó với nghề nghiệp của mình. Bản

thân đạo đức đã là sự phản ánh của các mối quan hệ xã hội, là phép tắc đỗi

xử trong xã hội mà nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho

phù hợp với lợi ích cộng đồng, xã hội. Nó được thực hiện bởi niềm tin cá

nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức luôn mang

tính kế thừa nhất định nhưng càng về sau nó lại có những thay đổi căn bản

để phù hợp với hoàn cảnh và nhân thức xã hội. Mà đạo đức nghề nghiệp lại

là một phạm trù nhỏ của đạo đức nói chung nên nhất thiết nó mang những

đặc trưng cơ bản của đạo đức.

Phải nói rằng, đạo đức có một vai trò hết sức quan trọng trong việc

thực hiện nghề.

Thứ nhất, nó như là nhân tố quyết định để xã hội công nhận và tôn

trọng nghề nghiệp đó.

Thứ hai, đạo đức giúp cho nghề nghiệp phát triển theo hướng tốt

đẹp, thanh sạch.

Thứ ba, đạo đức góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh

12

theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Thứ tư, đạo đức mới giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và

phát huy giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc…Đạo đức trở thành

nền tảng cho một xã hội phát triển vững mạnh và ổn định.

2.2. Đạo đức nghề luật sư

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “có tài mà không có đức là người

vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, có thể thấy tài

và đức là hai nhân tố vô cùng quan trọng đối với một con người. Đặc biệt

là đối với người làm nghề luật sư, nó còn đòi hỏi cao hơn thế. Nếu người

bác sĩ chữa bệnh cứu sống cơ thể người thì luật sư được so sánh như một

người chữa bệnh về tinh thần cho họ. Chính vì thế ngoài chuyên môn( tài)

phải giỏi người luật sư nhất thiết cần có đạo đức tốt, trong sáng. Nghề luật

sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy định của

pháp luật. Ngoài nhưng quy định của pháp luật còn có những quy tắc nghề

nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật. Những quy tắc này đôi khi

còn đặt ra yêu cầu cao hơn so với yêu cầu của pháp luật. Những quy tắc

đạo đức nghề nghiệp được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng.

Tuy nhiên, cho dù quyền lợi của khách hàng có lớn đến đâu thì người luật

sư cũng không được phép làm bất cứ điều gì trái pháp luật và lương tâm.

Một bộ quy tắc không chỉ điều chỉnh việc hành nghề mà còn điều

chỉnh đến cuộc sống riêng của luật sư. Luật sư không thể trở thành một tên

du côn ở ngoài đời rồi dùng chính kiến thức luật pháp của mình để biện hộ

cho bản thân.

Đạo đức nghề luật sư là tổng hợp các nguyên tắc ứng xử mà luật sư

phải tuân thủ khi hành nghề. Ngoài ra, nó là những quy chuẩn chung về

đạo đức hành nghề của luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng

nghiệp, cơ quan nhà nước và trong lối sống. Đạo đức nghề luật sư phản ánh

hai khía cạnh cơ bản đó là bảo vệ lợi ích khách hàng và bảo đảm công lý,

tuân thủ pháp luật. Luật sư được thuê để hướng dẫn và bảo vệ công lý

nhưng nó không hoàn toàn mang ý nghĩa kinh doanh thuần túy. Tư cách

đạo đức của nghề luật sư đảm bảo cho việc hành nghề của họ an toàn, hữu

13

hiệu và uy tín.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Trong quá trình hành nghề, luật sư gặp rất nhiều các tình huống mà

pháp luật không quy định hoặc không thể quy định được, trong trường hợp

này những quy phạm xã hội sẽ điều chỉnh tốt hơn các quy phạm xã hội. Và

có những trường hợp pháp luật không cấm nhưng đạo đức nghề nghiệp lại

không cho phép làm. Chính vì vậy việc hình thành quy tắc đạo đức cho

người luật sư sẽ giúp họ sử xự đúng mực này để tu dưỡng, rèn luyện, phấn

đấu xứng đáng với sự tin cậy của xã hôi.

Đạo đức được coi là nguyên tắc trong hoạt động của nghề luật sư

được pháp luật ghi nhận tại điều 5 luật luật sư năm 2006. Căn cứ Pháp lệnh

luật sư năm 2001; Căn cứ Nghị định số 94/2001/NĐ/CP ngày 12 tháng 12

năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh luật sư; Căn

cứ Nghị định số 38/CP ngày 4 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp; Theo đề nghị của

Vụ trưởng Vụ quản lý luật sư, tư vấn pháp luật ngày 5/8/2002 Bộ Tư pháp

đã ban hành bộ Quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư. Đây là văn bản chính

thức quy định về những nguyên tắc trong hoạt động hành nghề của luật sư

trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan nhà nước

2.3.Tiêu chí đánh giá cơ bản

Lẽ đương nhiên là một luật sư đòi hỏi phải triệt để tôn trọng và thực

thi pháp luật. Nhưng cho dù hệ thống pháp luật hoàn thiện đến mấy nó

cũng không thể điều chỉnh tuyệt đối hành vi ứng xử của người luật sư. Bởi

luật sư với tư cách cá nhân tự chịu trách nhiệm về uy tín nghề nghiệp của

mình. Chính vì thế mà việc hành nghề của các luật sư mang trong mình

nhận thức, tư tưởng, tâm lý cá nhân việc đặt ra một tiêu chí đánh giá cơ bản

một luật sư có đạo đức quả thực chỉ mang tính tương đối.

Trong bộ quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư có nhắc đến một số tiêu chí

chung như: sứ mệnh, kĩ năng, chuẩn mực ứng xử, thanh danh. Ngoài ra,

còn vô vàn các tiêu chí đạo đức khác mà người luật sư cần phải đạt được

14

đó là lương tâm nghề nghiệp, nhiệt huyết, uy tín, trách nhiệm...

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

CHƯƠNG II:

ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ HIỆN NAY

1. Sự phát triển của nghề luật sư trong thời kì hội nhập và xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Đối với nghề nào cũng vậy, sự tác động của thị trường luôn tạo ra

một tầm ảnh hưởng không nhỏ với nghề đó. Và nhất là trong nền kinh tế thị

trường này thì việc sự tác động của không nằm ngoài quy luật đó. Nghề

luật sư có thể gọi là một nghề tự do, tự do trong khuôn khổ của pháp luật.

Cái gì càng tự do thì đều chịu ảnh hưởng nhiều từ thị trường, từ nhà nước.

Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

chuyển từ một nước nghèo nàn, lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại hơn.Hay

nói một cách khác nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên hoàn cảnh đất nước có rất nhiều vấn

đề tác động thị trường, của nhà nước lại càng quan trọng.Nghề luật sư cũng

vào nghề luật sư, tác động vào đạo đưc nghề luật sư về cả mặt tích cực lẫn

mặt tiêu cực.

1.1.Đối với kinh tế Pháp luật thuộc một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng,

còn kinh tế thì thuộc về yếu tố của cơ sở hạ tầng. Cũng như nhà nước, pháp

luật sinh ra trên cơ sở của hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở hạ

tầng là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, qui định

nội dung, hình thức, cơ cấu và phát triển của pháp luật.

Nền kinh tế của nước ta đang trên đà phát triển rất nhanh. Tốc độ

tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2009 đạt 6,6% và đến năm 2010 nước

ta dự định tăng trưởng kinh tế đạt trên 7%. Nước ta là một nước có tốc độ

phát triển kinh tế cao trên Thế giới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị

thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh lớn với

15

Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ hồi. Tuy

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền kinh tế

của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra

các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất nước

đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói năm

1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam ngày

càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và các tổ

chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa quan hệ Việt

– Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm 2007, Việt Nam

chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.

Theo cùng sự phát triển của nền kinh tế là sự phát triển của nghề luật

sư.Kinh tế càng phát triển, các hoạt động thương mại diễn ra càng nhiều thì

ngành luật sư càng phát triển.

thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh

lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ

hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền

kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta

đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất

nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói

năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam

ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và

các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa

quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm

2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại

Thế Giới WTO.

Việt Nam – WTO đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam

cũng đặt chân vào sân chơi “không biên giới”, ẩn chứa cả cơ lẫn nguy. Luật

sư Lưu Văn Tám (Hội đồng Luật sư Quốc gia) cho biết, nhiều luật sư trẻ

bây giờ là đồng nghiệp, cũng là “đối thủ của ông ngay từ giai đoạn Việt

Nam đang đàm phán vào WTO. Họ đã có kế hoạch thành lập Văn phòng

16

Luật sư riêng.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Chúng ta từng phải liên tục đối mặt với các vụ kiện bán phá giá,

liên quan đến con cá, con tôm, các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da

giày… Hay vụ thua kiện pháp lý của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

(Vietnam Airlines), cũng là lời cảnh tỉnh đối với các doanh nghiệp, vừa

thiếu thông tin và cả hiểu biết về Luật thương mại quốc tế.

thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh

lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ

hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền

kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta

đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất

nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói

năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam

ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và

các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa

quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm

2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại

Thế Giới WTO.

thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh

lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ

hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền

kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta

đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất

nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói

năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam

ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và

các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa

quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm

2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại

17

Thế Giới WTO.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

1.2.Về chính trị Việt Nam đã trải qua 2 cuộc chiến tranh lớn với Pháp và Mĩ, tưởng

rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ hồi. Tuy nhiên, nhờ vào

đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền kinh tế của nước ta đã

phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các kế hoạch 5

năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất nước đang rơi vào tình

trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói năm 1945 đã làm hai triệu

đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam ngày càng đi lên theo đó

là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và các tổ chức trên Thế giới

như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa quan hệ Việt – Mĩ(1995),

tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm 2007, Việt Nam chính thức

là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.

Luật sư Việt Nam ra đời từ khi nước Việt Nam dân chủ công hoà

được thành lập năm 1945. Nhưng, nghề luật sư chỉ được biết đến là một

nghề từ năm 1987, khi Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành. Tuy được

coi là một nghề nhưng cho đến trước năm 2001, luật sư vẫn chỉ được coi là

"nghề tay trái", việc "làm thêm" của một số cán bộ, công chức trong các cơ

quan pháp luật, chưa phải là một nghề chuyên nghiệp như các nghề nghiệp

khác.Vì thế, sau 14 năm Pháp lệnh luật sư đi vào cuộc sống, cả nước mới

có chưa đầy 2000 luật sư. Phần lớn trong số ít luật sư này lại là các cán bộ

về hưu, các công chức kiêm nhiệm... Luật sư trẻ chuyên nghiệp chỉ tính

được trên đầu ngón tay!Cái vòng luẩn quẩn của sự không chuyên nghiệp đã

khiến cho luật sư Việt Nam chưa tìm được chỗ đứng trong hệ thống thực

thi pháp luật và đời sống kinh doanh, thương mại.

Pháp lệnh luật sư 2001 ra đời mang theo một sứ mệnh lịch sử là chuyên

nghiệp hoá luật sư Việt Nam, nâng tầm nghề này để xứng đáng với vị trí

vốn có của nó trong nền kinh tế thị trường của một xã hội dân chủ, văn

minh. Hai thay đổi cơ bản so với hệ thống pháp luật về luật sư trước đó là:

18

Hình thành các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp và không chấp

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

nhận sư kiêm nhiệm trong hoạt động luật sư. Bên cạnh đó, một số những

thay đổi pháp ly khác cũng có tác động tích cực đến con đường chuyên

nghiệp hoá nghề này như:không chấp nhận trình độ "tương đương đại học

luật", mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ cho luật sư.. Sau 5 năm thực thi

Pháp lệnh 2001, diện mạo luật sư Việt Nam đã thay đổi hẳn. Hơn 1100 tổ

chức hành nghề luât sư Việt Nam đã đi vào hoạt động, tạo thành một mạng

lưới quan trọng trong hệ thống thực thi pháp luật. Hình thành một đội ngũ

luật sư chuyên nghiệp hơn 4100 luật sư. Đặc biệt, vai trò của luật sư trong

hệ thống thực thi pháp luật và hệ thống thương mại đã được khẳng định.

Luật sư - hai từ này đã tạo được một vị trí khá quan trọng trong hệ thống

phân vai của xã hội Việt Nam đương đại.

Tuy nhiên, Pháp lệnh luật sư cũng còn để lại một khoảng trống khiến cho

con đường chuyên nghiệp hoá của luật sư Việt Nam vẫn gặp những "cú

sóc" bất ngờ. Những quy định chưa rõ ràng của Pháp lệnh 2001 về khái

niệm dịch vụ pháp lý đã đẻ ra nạn "hai luật chơi" trong thị trường dịch vụ

pháp lý. Nhiều người không phải luật sư vẫn cứ cung cấp dịch vụ pháp lý

như luật sư. Bên cạnh đó, việc phận biệt vai trò giữa luật sư trong công ty

luật hợp danh với luật sư trong các văn phòng luật sư đã khiến hệ thống

hành nghề của chúng ta phát triển không bình thường như quy luật của nó.

Luật luật sư ra đời đúng lúc. Ngày 01.01.2006 đánh dấu một mốc quan

trọng trên chặng đường chuyên nghiệp hoá của nghề luật sư Việt Nam bởi

những thay đổi về thể chế mà Luật luật sư tạo ra sẽ tạo đà cất cánh cho luật

sư Việt Nam. Những thay đổi ấy là:

 Thứ nhất, Luật đã thống nhất điều chỉnh thị trường dịch vụ pháp lý,

không còn nạn hai luật chơi. Ai muốn cung cấp dịch vụ pháp lý

phải là luật sư và phải được điều chỉnh bởi Luật, quy tắc đạo đức

nghề nghiệp.

 Thứ hai, luật đã thừa nhận bản chất của tổ chức hành nghề luật sư là

19

doanh nghiệp, nghề luật sư là một nghề kinh doanh dịch vụ. Như

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

thế, chúng ta không còn khác thế giới trong quan niệm về nghề

luật sư.

 Thứ ba, các luật sư không phải chịu sự phiền toái khi gia nhập đoàn

luật sư vì cái hộ khẩu nữa. Từ nay, nó đã bị loại hẳn khỏi bộ hồ sơ

và những phiền hà do nó gây ra cũng chấm dứt.Đáng chú ý là sự

mở rộng hình thức hành nghề luật sư đang tạo ra nhiều cơ hội hơn

nữa cho luật sư khẳng định mình trong nhiều lĩnh vực mà trước

nay không có.

Ngoài việc ra luật, thông tư, quyết định về ngành luật, nhà nước còn ra

rất nhiều nghị quyết về các vấn đề: kinh tế, chính trị, xã hội...để phát triển

đất nước.

 Về kinh tế: Nghị quyết số 51/2010/QH12 về kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội năm 2011. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ra

Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 48). Điểm 6 mục II của Nghị

quyết số 48 đã đặt ra định hướng: “Xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về hội nhập quốc tế”, trong đó nhấn mạnh “ưu tiên xây dựng

các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập

tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; khẩn trương rà

soát, hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện

cam kết với ASEAN; tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006; tiến

tới Cộng đồng kinh tế Châu Á vào năm 2020. Ngày 11/01/2007,

Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức thứ 150 của

WTO. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra các nghị quyết số

08-NQ/TW ( Nghị quyết số 16) đã đặt ra yêu cầu rà soát hệ thống

pháp luật.

 Về xã hội: Luật trợ giúp pháp lí được Quốc hội khóa XI kì họp thứ

20

9 thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực kể từ ngày

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

1/1/2007.Nghị quyết số 7/2007/NĐ/CP ra ngày 12/1/2007 quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ giúp

pháp lí.Bộ tư pháp đã ban hành thông tư số 7/2008/TT-BTP ban

hành ngày 21/8/2008 hướng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp pháp lí

trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó

khăn, vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 và

chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010.

Ngày 19/10/2010 tại Hà Nội, dự thảo chiến lược phát triển nghề

luật sư đến năm 2020 do bộ tư pháp soạn thảo. Thay mặt ban soạn thảo dự

thảo Chiến lược phát triển nghề luật sư giai đoạn 2020, Vụ phó Vụ Bổ trợ

tư pháp, Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Bốn cho biết, có 4 quan điểm được ban

soạn thảo đặt ra gồm: Thực trạng tổ chức, hoạt động luật sư ở nước ta;

Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển nghề luật sư; Nhiệm vụ và

giải pháp thực hiện; Tổ chức thực hiện. Ông Bốn nêu lên 5 định hướng

chiến lược phát triển hành nghề luật sư. Thứ nhất, phát triển số lượng và

nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp phục

vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Thứ hai, phát triển hoạt động hành nghề luật sư trở thành nghề

chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cơ quan, tổ chức, cá

nhân, doanh nghiệp về dịch vụ pháp lý và chất lượng dịch vụ pháp lý. Thứ

ba, phát triển tổ chức hành nghề luật sư hành nghề chuyên sâu trong một số

lĩnh vực, có khả năng cạnh tranh cao, từng bước chiếm lĩnh thị trường dịch

vụ pháp lý trong khu vực và trên thế giới. Thứ tư, phát triển các tổ chức xã

hội nghề nghiệp của luật sư có cơ cấu, tổ chức thống nhất từ Trung ương

đến địa phương, hoạt động chuyên nghiệp đảm bảo phát huy tối đa vai trò

tự quản trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư. Thứ năm, đổi mới

công tác quản lý nhà nước, từng bước giao cho tổ chức xã hội nghề nghiệp

của luật sư thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về luật sư và hành

nghề luật sư, đảm bảo tuân thủ pháp luật tuân theo quy tắc đạo đức nghề

21

nghiệp luật sư.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

1.3.Về xã hội

Cùng với sự phát triển của thời đại thì các tệ nạn xã hội ngày càng gia

tăng: ma túy, HIVS, trộm cắp, hiếp dâm...Các tệ nạn xảy ra ngày nhiều, có

tổ chức và hoạt động ngày càng chuyên nhiệp hơn. Chính vì vậy mà vấn đề

pháp luật ngày càng được đặc biệt chú trọng.

Không chỉ có các tệ nạn xã hội mà nhu cầu dân sự ngày càng tăng: như

li hôn, bạo lực gia đình, tranh chấp đất đai...

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu pháp lí ngày càng gia

tăng. Người ta không còn ngại việc ra tòa hay đến văn phòng luật sư, gặp

luật sư nữa. Những vụ án dân sự giờ đây xảy ra ngày càng nhiều, ngày càng

nghiêm trọng và dần trở thành vấn nạn của xã hội, của đất nước đòi hỏi cần có

một đội ngũ luật sư vững vàng trong chuyên môn, kiên định trong tư tưởng và

lương tâm thanh sạch để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.

2. Yêu cầu về đạo đức luật sư trong thời kì đổi mới

Để trở thành một người luật sư tốt, đúng với vai trò đặc biệt trong

tình hình xã hội hiện nay thì một người luật sư cần bảo đảm các yêu cầu

cũng như nguyên tắc đối với họ. Dưới đây là một số yêu cầu cơ bản cho

người luật sư để thực hiện tốt vận mệnh của mình đối với cộng đồng, xã

hội. Với thiên chức của nghề, người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và

ứng xử một cách có đạo đức trong xã hội, về quan hệ giữa người với người,

giữa cá nhân với tập thể, tuân thủ những giá trị chuẩn mực của cuộc sống

đã đem lại. Khi đề cập đến đạo đức của nghề luật sư là chúng ta đề cập đến

sự mệnh mà người luật sư phải thực hiện; là nói đến phẩm chất, thanh danh

của họ; là kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của

luật sư trong khi hành nghề.

2.1.Thanh danh

Trong xã hội, một con người để được mọi người tín nhiệm thì

người đó phải tạo được lòng tin. Cũng như vậy, một ngành nghề muốn

22

ngày càng phát triển thì cần phải tạo uy tín cho mọi người. Nghề luật là một

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

trong số đó. Đặc biệt, người luật sư hơn ai hết cần phải đặt vấn đề lên hàng

đầu để ngày càng phấn đấu đạt được đó là Thanh danh. Nó là tiếng danh tốt

đẹp, những giá trị cao quý được xã hội công nhận và tôn trọng. Một người

luật sư tốt cần phải giữ được uy tín cũng như vị thế của mình trong xã hội,

phải khẳng định được giá trị, tầm quan trọng của mình ở mội lúc, mọi nơi.

Họ phải luôn hướng tới những điều tốt đẹp, giá trị đích thực để luôn mang

lại công lí của mọi người. Cuộc sống có muôn hình vạn trạng, con người có

nhiều mối quan tâm khác hơn để bảo đảm lợi ích của mình tuy nhiên luật

sư_một nghề tạo ra “ sản phẩm” phục vụ trực tiếp cho xã hội càng phải chú

trọng thanh danh, uy tín. Không vì vụ lợi cá nhân, những ham muốn nhất

thời phục vụ lợi ích vật chất trước mắt mà làm những điều không đúng với

sự thật. Họ phải gạt tất cả những điều không tốt ấy sang một bên bởi hành

động của họ không mang lại danh tiếng cho chính bản thân mình mà còn

ảnh hưởng trực tiếp tới công bình xã hội. Nghề luật sư có nhiều điểm tương

đồng với bác sĩ. Bác sĩ là người có kiến thức về y học và nhờ đó họ có thể

chăm sóc cho bệnh nhân của mình. Luật sư cũng vậy. Họ cần phải có kiến

thức pháp luật, thông thạo nghề nghiệp để “ chăm sóc con bệnh” pháp luật

của mình. Người luật sư phải thực hiện nhiệm vụ của mình bằng nhân

phẩm, lương tâm, sự độc lập, liêm chính, nhân đạo và đôi khi có cả lòng

dũng cảm. Đó lagf lí do vì sao mà luật sư phải được pháp luật điều chỉnh

chặt chẽ để duy trì lòng tin trong cộng đồng xã hội cũng như bảo vệ thanh

danh của mình đối với mọi người.

2.2.Sứ mệnh

Bên cạnh bảo vệ thanh danh, giữ uy tín và vị thế trong xã hội thì

người luật sư phải thực hiện tốt sứ mệnh của mình đối với tất cả mọi người.

Sứ mệnh của người luật sư là gì? Đó chính là phục vụ suốt đời vì công lí,

phục vụ cộng đồng, trợ giúp cho số đông. Họ phải giải quyết, điều hòa các

23

mâu thuẫn do xung đột lợi ích của mỗi bên trong cuộc sống hàng ngày.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Trong quá trình giải quyết do bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự

hiểu biết nhất định về pháp luật nên công dân khó bảo vệ quyền và lợi ích

của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Luật sư là người am hiểu pháp luật

có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, là người giúp cho công dân về

mặt pháp lí có hiệu quả nhất khi có những việc xảy ra liên quan đến pháp

luật. Bởi thế, sứ mệnh của người luật sư cần phải được phát huy trong quá

trình tiến tới bảo vệ lợi ích của con người. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả

đó, luật sư không những phải là người gương mẫu trong việc tôn trọng và

chấp hành pháp luật mà còn bổn phận tự giác chấp hành các quy tắc đạo

đức nghề nghiệp trong hoạt đọng hành nghề và giao tiếp xã hội.

Chức năng của luật sư là góp phần bảo vệ các quyền cơ bản của con

người và thực hiện chức năng công bằng xã hội. Luật sư phải thực hiện các

nghĩa vụ của mình một cách trung thực, cố gắng hết sức để duy trì trật tự xã

hội và tăng cường hệ thống pháp luật phù hợp với chức năng của mình.

Với tư cách là người đại diện của khách hàng, luật sư thực hiện

nhiều chức năng. Với tư cách là một cố vấn pháp lí, luật sư mang đến cho

khách hàng những hiểu biết về quyền, nghĩa vụ hợp pháp của họ và giải

thích việc thực thi các quyền và nghĩa vụ đó. Với tư cách là một người biện

hộ, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Là nhà đàm

phán, luật sư làm cầu nối trung hòa những quyền lợi khác nhau của các bên

và thực hiện chức năng của một người phát ngôn cho mỗi khách hàng.

Trong khi thực hiện những công việc chuyên môn, luật sư phải thể

hiện hết khả năng làm việc nhanh gọn và siêng năng. Luật sư phải thường

xuyên thông báo cho khách hàng về công việc mình làm và giữ bí mật

những thông tin của khách hàng, trừ khi quy tắc nghề nghiệp hoặc pháp

luật yêu cầu hoặc cho phép tiết lộ những thông tin đó.

Khi thực hiện công việc cho khách hàng và trong các mối quan hệ

riêng tư, tư cách đạo đức của luật sư phải phù hợp với quy định của pháp

24

luật. Luật sư chỉ được sử dụng các biện pháp mà pháp luật quy định cho

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

mục đích hợp pháp chứ không được gây rối hoặc đe dọa người khác. Luật

sư phải tôn trọng pháp luật và những người thực thi pháp luật như thẩm

phán, công chức và các luật sư khác.

Bằng hoạt động của mình, luật sư góp phần tích cực bảo vệ pháp

chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lí kinh tế và quản lí xã hội theo pháp

luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức;

góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan , đúng pháp luật;

góp phần thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật,

thực hiện dân chỉ XHCN; giáo dục công dân tuân theo hiến pháp, pháp luật,

tôn trọng những quy tắc của cuộc sống CNXH.

Quá trình làm việc, công tác của mình luật sư được ví như một cuộc

cách mạng để chứng minh, đấu tranh với quyền lợi, công lí cho con người,

công cộng xã hội. Luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu rộng về

pháp luật cần phải tích cực thực hiện sứ mệnh cao cả của mình để khẳng

định hơn nữa giá trị nghề nghiệp của bản thân trong công cuộc xây dựng

một xã hội tốt đẹp, công bằng, dan chủ, văn minh.

2.3.Kĩ năng hành nghề

Ngoài những yêu cầu về thanh danh, sứ mệnh thì người luật sư cần

phải trau dồi cho mình kĩ năng hành nghề. Đó là một yêu cầu quan trọng để

giúp cho người luật sư thể hiện đúng nghĩa vai trò của mình trong xã hội.

Nghề luật là nghề nói, nên kĩ năng giao tiếp cũng như kĩ năng thuyết phục,

diễn giải vấn đề một cách khúc triết luôn là những kĩ năng quan trọng nhất.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem trong một phiên tòa xét xư mà vị luật

sư cứ nói ấp a ấp úng, diễn đạt lủng củng, không rành mạch, lời nói không

logic, không đúng trọng tâm việc mà cứ luẩn quẩn thì thân chủ của anh ta

có bao nhêu phần trăm là thắng? Để có được những kĩ năng này phải chịu

khó rèn luyện, phải thử tập nói trước, hay thỉnh thoảng tập hợp mọi người

lại để cùng tranh luận về một vấn đề quan tâm. Ngoài ra, luật sư có thể

25

tham gia các khóa học về kĩ năng giao tiếp. Một điều nữa trước khi nói nên

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

tìm hiểu kĩ vấn đề mình sẽ nói, lên dàn bài cho nội dung mình sẽ nói để khi

thực hiện sứ mệnh bảo vệ quyền lợi cho thân chủ sẽ có một cuộc “tranh

cãi” tốt hơn.

Sự hiểu biết tâm lí con người nói chung và tâm lí tội phạm nói riêng

rẽ sẽ giúp cho luật sư dễ tìm ra nguyên nhân của những hành vi phạm tội.

Đi sâu hơn vào đời sống nội tâm của họ, để nắm bắt được tâm lí cho dễ

điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp đem lại những hướng đi tốt cho công

cuộc bảo vệ pháp lí của người luật sư.

Người luật sư phải có bản lĩnh vững vàng. Bởi vì nghề luật phải

thường xuyên đối mặt với mặt trái của xã hội: những đút lót, hối lộ hay

thậm chí là đe dọa không những là bản thân người luật sư mà còn đến cả

những người thân, gia đình của họ để hằng đổi “ trắng thay đen”.

Nếu không có bản lĩnh vững vàng và dũng cảm thì dễ chán nản và

đi đến thất bại hoặc có thể sa ngã vào con đường tội lỗi tiếp tay cho những

hành động xấu xa để nó có thể tung hoành ngang nhiên không sợ đến pháp

luật trong xã hội. Đó là một điều kì diệu nhất của mỗi luật sư. Bởi thế, họ

phải luôn luôn là chính mình, giữ đúng phẩm giá của mình mà không bị

nhiều thứ khác mê hoặc làm cho biến mất đi lòng tin của mọi người đối với

bản thân.

Ngoài ra, người luật sư rất cần đến tư duy phân tích tổng hợp, phán

đoán và tư duy phân tích tổng hợp, phán đoán và tư duy logic. Bạn cần

phân tích các hành vi xảy ra trong vụ kiện, sau đó xâu chuỗi tất cả những

hành vi này thành một hệ thống để thấy đâu là nguyên nhân là điều cốt lõi

của sự kiện hay là một cánh cửa nhỏ để đi theo nó mà thu nhập thông tin.

Tất cả những sự tư duy này luôn phải đảm bảo một nguyên tắc logic chứ

không thể đem cách suy nghĩ theo cảm tính của bản thân ḿnh.

Tŕnh độ ngoại ngữ. Đây cũng chính là một trong những yêu cầu

quan trọng của một người luật sư đặc biệt là trong thời kì hội nhập hiện

26

nay. Đó là một “bàn đạp” thuận lợi để luật sư tiến tới phát triển khả năng,

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

tầm mắt của mình không chỉ là những vụ kiện ở sân nhà mà còn có thể mở

mang tầm mắt của mình ở tầm quốc tế. Đừng vì rào cản ngôn ngữ mà làm

hạn chế đi tài năng của mình. Thế nên, bên cạnh những kĩ năng trong ứng

xử thì người luật sư cần phải trau dồi cho mình trình độ ngoại ngữ tốt để trở

thành một người luật sư đúng nghĩa.

2.4. Chuẩn mực ứng xử

2.4.1. Quan hệ của luật sư với khách hàng

Bên cạnh những yêu cầu trên đạo đức của nghề luật sư còn được thể

hiện rõ trong các mối quan hệ. Đó là mối quan hệ với khách hàng, người

luật sư cần phải quán triệt thực hiện 3 vấn đề cơ bản sau: nhận và thực hiện

yêu cầu của khách hàng; xử lí trong việc xung đột quyền lợi, giữ uy tín

trong quá trình làm việc.

Đối với người luật sư, việc nhận và thực hiện những yêu cầu của

khách hàng cũng có những chuẩn mực cụ thể. Luật sư phải tôn trọng sự lựa

chọn của khách hàng, chỉ nhận vụ việc theo khả năng của mình và thực

hiện vụ việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng. Có 2 nguyên tắc chung

phải tuân theo khi luật sư nhận yêu cầu đại diện cho khách hàng. Nguyên

tắc đầu tiên và quan trọng nhất là khách hàng có quyền tự do lựa chọn bất

cứ luật sư nào mình muốn. Nguyên tắc thứ hai là luật sư phải lựa chọn cho

mình vụ việc mà trong đó luật sư đưa ra được lời khuyên vô tư cho khách

hàng của mình. Điều này cũng có nghĩa là luật sư không được nhận việc

nếu có xung đột với khách hàng khác.

Luật sư có quyền từ chối cung cấp dịch vụ pháp lí nếu yêu cầu của

khách hàng vi phạm pháp luật trái đạo đức xã hội hoặc nếu thực hiện yêu

cầu đó có thể dẫn đến việc luật sư vi phạm pháp luật hoặc quy tắc đạo đức

nghề nghiệp luật sư thì luật sư phải từ chối thực hiện yêu cầu khách hàng.

Khi người luật sư đã chấp nhận thực hiện dịch vụ bào chữa hay kiện

tụng thì phải tuân theo những yêu cầu của khách hàng về phương pháp xử

27

lí vụ việc. Cả khách hàng và luật sư đều có quyền và nghĩa vụ đối với mục

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

đích và phương pháp thực hiện. Tuy nhiên luật sư không được tìm kiếm

những mục đích hoặc sử dụng phương pháp nếu chỉ vì khách hàng muốn

luật sư làm như vậy.

Luật sư phải thực hiện nghề nghiệp trong khuôn khổ pháp luật,

hoàn toàn vì lợi ích của khách hàng và không bị ràng buộc bởi những thỏa

hiệp ảnh hưởng đến lòng trung thành. Ngoài những trách nhiệm đã thỏa

thuận có hàng loạt trách nhiệm mà luật sư phải thực hiện đối với khách

hàng của mình khi đại diện cho họ. Luật sư thay mặt khách hàng có nhiệm

vụ thực hiện kỹ năng 1 cách thận trọng với 1 kỹ năng phù hợp. Luật sư

cũng phải hành động trong khuôn khổ thẩm quyền mà khách hàng trao. Vì

vậy luật sư cần phải khẳng định chính xác yêu cầu của khách hàng khi nhận

việc. Đặc biệt luật sư cần phải giữ bí mật về công việc và quan hệ với

khách hàng.

Một luật sư không được ngừng tiến hành vụ việc cho khách hàng

trừ khi có lý do chính đáng và gửi thông báo đúng lúc cho khách hàng. Và

khi việc giữa khách hàng và luật sư kết thúc luật sư phải trao cho khách

hàng toàn bộ tài sản và tài liệu thuộc sở hữu của khách hàng hoặc giữ lại

nếu khách hàng yêu cầu và trả lại tiền cho họ.

Trong việc xung đột quyền lợi, người luật sư cũng phải thực hiện

những yêu cầu sau: không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho 2 hay nhiều

khách hàng trong cùng một vụ việc nếu quyền lợi của khách hàng đối lập

nhau. Trước khi quan hệ với khách hàng mới luật sư cần phải xem xét xem

liệu có mâu thuẫn về lợi ích nào không. Luật sư không được phép tiến hành

công việc nếu có mâu thuẫn hoặc có nguy có mâu thuẫn về lợi ích khách

hàng. Như một nguyên tắc chung , lòng trung thành với khách hàng không

cho phép luật sư nhận làm đại diện nếu việc này có ảnh hưởng bất lợi đến

khách hàng trừ khi được khách hàng đồng ý. Vì vậy thông thường luật sư

không được làm người bào chữa chống lại 1 khách hàng trước đây là khách

28

hàng cũ của mình ngay cả khi 2 vụ việc không có quan hệ gì với nhau.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Bí mật trong quá trình làm việc cũng là chuẩn mực quan trọng trong

hành nghề luật sư. Luật sư phải bảo vệ những vấn đề thuộc đời tư, bí mật

của khách hàng. Luật sư không được sử dụng thông tin có được trong quá

trình làm đại diện của khách hàng vào những việc làm bất lợi cho khách

hàng, hoặc phục vụ lợi ích riêng của luật sư, trừ khi có sự đồng ý của khách

hàng. Điều này được thực hiện kể cả khi luật sư thôi hành nghề, chết, mất

khả năng hay nghỉ hưu

Một nguyên tắc cơ bản trong quan hệ luật sư khách hàng là luật sư

phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc đại diện cho khách hàng. Điều

này khuyến khích khách hàng thông tin đầy đủ và cởi mở với luật sư ngay

cả những vấn đề tế nhị nhất.

Việc tuân thủ nghĩa vụ giừ bí mật thông tin của khách hàng không

những tạo điều kiện cho việc xử lý tốt vụ việc mà còn khuyến khích mọi

người sớm tìm đến các dịch vụ pháp lý. Hầu như không có ngoại lệ, tất cả

các khách hàng tìm đến luật sư là để xác định các quyền của họ và để xác

định thế nào là những việc làm hợp pháp.

2.4.2. Quan hệ của luật sư với cơ quan nhà nước

Vấn đề thứ 2 trong mối quan hệ được đề cập đến là mối quan hệ

luật sư với cơ quan nhà nước.

Trước hết đó là mối quan hệ luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng.

Theo quy định của pháp luật về tố tụng luật sư tham gia tố tụng với tư cách

là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền lợi, lợi ích

hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Trong mối quan hệ của luật

sư với các cơ quan tiến hành tố tụng thì thường xuyên và quan trọng hơn cả

là mối quan hệ giữa luật sư và tòa án, giữa luật sư và thẩm phán. Với tư

cách là một luật sư bào chữa, đại diện trước tòa, luật sư phải cân bằng

quyền lợi của khách hàng và quyền lợi của xã hội. nhiệm vụ của một luật

sư bào chữa là trình bày vụ việc của khách hàng bằng những lí lẽ thuyết

29

phục của mình. Thực hiện nghĩa vụ này và duy trì long tin của khách hàng

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

chính là thái độ cần thể hiện trước tòa của luật sư. Nói một cách khác, tuy

có nghĩa vụ cố gắng bảo vệ quyền lợi của khách hàng nhưng luật sư bào

chữa không được lừa dối tòa án.

Luật sư và thẩm phán cùng nhau tham gia vào sự nghiệp bảo vệ

công lý. Vì vậy họ có cùng chung một thứ ngôn ngữ và cùng chung những

giá trị để tháo gỡ cùng một vụ án một cách tốt nhất cho những lợi ích của

đương sự và của xã hội. Luật sư phải tỏ long tôn trọng nói chung với người

được xã hội giao phó sứ mệnh thực hiện công lý. Đó là bổn phận đồng thời

là nghĩa vụ của người luật sư.

Bên cạnh đó, người luật sư cũng cần có thái độ nghiêm chỉnh chấp

hành nội quy của các cơ quan nhà nước khác đặc biệt là các vấn đề thủ tục

hành chính. Phải có thái độ lịch sự, tôn trọng cán bộ, công chức nhà nước

khi làm nhiệm vụ của mình. Trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước

có hành vi sai trái thì luật sư phải kiên quyết đấu tranh, khiếu nại, tố cáo

theo quy định của pháp luật.

2.4.3. Quan hệ với đồng nghiệp

Trong hoạt động nghề nghiệp của mình luật sư có nhiều mối quan

hệ với cơ quan nhà nước, khách hàng và đồng nghiệp. Mối quan hệ với

đồng nghiệp rất quan trọng trong quá trình hành nghề luật sư. Đây là mối

quan hẹ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các luật sư nhằm nâng cao hoạt

động nghiệp vụ và phục vụ khách hàng được tốt hơn đồng thời đây cũng là

mối quan hệ cánh tranh.

Việc duy trì một quan hệ tốt đẹp với những người mà luật sư có

quan hệ về mặt nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân nghề

luật sư cũng như đối với công ty luật. Luật sư luôn phải giữ quan hệ tốt với

phía đối tác, nếu điều đó không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng

và có thể tạo thiện chí của đối tác trong những vụ việc sau này. Không

được làm mất uy tín của luật sư khác mà cần phải thận trọng trong việc

đánh giá họ. luật sư phải có thái độ góp ý khách quan, không được xúc

30

phạm đồng nghiệp, trung thực thẳn thắng với đồng nghiệp của mình.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Trong bản qui tắc mẫu có điều 13, 14 nhằm điều chỉnh các mối

quan hệ giữa luật sư và đồng nghiệp. Tuy nhiên chủ mang tính định

hướng,chưa qui định cụ thể luật sư phải ững xử như thế nào cũng chưa qui định

cụ thể những điều luật sư không được làm. Tham khảo bộ qui tắc ứng xử nghề

nghiệp cho luật sư châu Âu, ta thấy điều này được qui định rất cụ thể:

Các điểm 5.1, 5.2, 5.3, 5.4, 5.5, 5.7, 5.9

Quan hệ với đồng nghiệp là lĩnh vực được điều chỉnh bởi quy tắc

đạo đức nghề nghiệp và nó thể hiện được tính tự quản trong hoạt động nghề

nghiệp của luật sư. Trong quy tắc đạo đức nghề nghiệp thể hiện nền tảng

của mối quan hệ đồng nghiệp như quan hệ theo thâm niên, nghề nghiệp,

vấn đề nhận yêu cầu của khách hàn…Trong quan hệ với đồng nghiệp luật

sư buộc phải thực hiện những việc sau :

- Tôn trọng độngnghiệp

- Chân tình hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp

- Giám sát phát hiện kịp thời khi đồng nghiệp làm việc sai trái

Và không được làm những việc sau đây:

_ Không được xúc phạm hay hạ uy tín đồng nghiệp.

_ Không được có hành vi gâp áp lực, đe dọa hoặc dùng những thủ

đoạn xấu khác đối với đồng nghiệp để giành lợi thế về ḿnh.

_ Không được thông đồng với luật sư của khách hàng có quyền lợi

đối lập với khách hàng của luật sư để cùng mưu cầu lợi ích cá nhân

bất chính.

Ngoài ra,luật sư phải coi trọng tổ chức xã hội – nghề nghiệp của

mình,cụ thể:

- Phải thực hiện nghĩa vụ sinh hoạt họ tập theo qui định của tổ chức

xã hội – nghề nghiệp

- Phải đóng phí thành viên và các khoản khác theo qui định của

Điều lệ;

- Phải tham gia vào công việc chung nhằm xây dựng tổ chức xã hội

31

– nghề nghiệp trong sạch vững mạnh

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

2.4.4. Quan hệ với các phương tiện thông tin đại chúng

Nghề luật sư là một nghề mang tính đặc thù xã hội. Từ trước đến

nay khi đề cập mối quan hệ của các luật sư, chúng ta mới chỉ nói đến mối

quan hệ của luật sư đối với cơ quan tố tụng, quan hệ với đồng

nghiệp…Nhưng chưa có một văn bản nào đề cập đến mối quan hệ của luật

sư với các cơ quan thông tin đại chúng. ,điều đó vẫn tồn tại hiển nhiên cho

dù chúng ta chưa qui định và chưa đưa vào bộ qui tắc mẫu

- Hiện nay, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đã và

đang đóng vai trò đi đầu trong việc phòng chỗng tiêu cực, trong hoạt động

xây dựng và và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nếu như luật sư có thể phối

hợp tốt với cơ quan truyền thông thì chính luật sư có thể tự khẳng định

mình và trởi thành nhân tố tham gia tích cực và việc bảo vệ quyền công dân

và lợi ích khách hàng, đồng thời đảm bảo nguyên tắc chung mà xã hội luôn

đòi hỏi phải có trách nhiệm thực hiện

- Xây dựng mối quan hệ tốt với cơ quan truyền thông chính là con

đường ngẵn nhất mà thông qua đó ảnh hưởng của luật sư ấn tượng tốt đẹp,

một thói quen cho mọi người dân khi tham gia các quan hệ pháp luật

Khi xây dựng Bộ qui tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư, các

nhà soạn thảo châu Âu đã đề cập đến quan hệ tương tác giữa luật sư và cơ

quan truyền thông. VD:

“Điểm 2.6.2, bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp cho luật sư Châu Âu:

Việc công khai thông tin cá nhân của luật sư qua các phương tiện

thông tin đại chúng ,như báo chí, truyền hình, các phương tiện truyền thông

thương mại hoặc các loại hình khác phải phù hợp với các yêu cầu được qui

định tại điểm 2.6.1”.

Trên thực tế, Việt Nam chưa có 1 bản Quy tắc đạo đức nghề nghiệp

luật sư thống nhất áp dụng trong cả nước. Tuy nhiên Bộ Tư pháp đã ban

hành 1 bản Quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư. Nó đã trở thành cơ sở cho

32

các đoàn luật sư cụ thể hóa và ban hành quy tắc riêng cho từng đoàn. Trong

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

cả bản quy tắc mẫu và các Quy tắc đạo đức do các đoàn luật sư ban hành

đều không có quy định về nghĩa vụ cơ bản của luật sư mà chỉ đưa ra những

yêu cầu chung về đạo đức nghề luật sư bằng 4 nguyên tắc cụ thể:

_ Quy tắc 1: Giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp.

_ Quy tắc 2: Độc lập, trung thực và khách quan.

_ Quy tắc 3: Văn hóa ứng xử hành nghề và lối sống.

_ Quy tắc 4: Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý.

3. Kết quả việc xây dựng đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam

3.1.Bộ quy tắc chuẩn về đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam.

Đối với luật sư không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn mà còn cả về

đạo đức. luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của

mình và được điều chỉnh, kiểm soát chặt chẽ bằng những quy định của

pháp luật. Để hướng các hành vi ứng xử của luật sư theo đúng chuẩn mực,

bên cạnh việc tuân theo pháp luật, việc ban hành bộ quy tắc về đạo đức

nghề luật sư là một yêu cầu quan trọng

Đạo đức nghề luật sư trước đây vẫn chưa đi vào thành quy định cụ

thể, tuy nhiên nó vẫn tồn tại trong các bộ luật liên quan đến hoạt động hành

nghề của luật sư. Như luật sư có thể bào chữa cho nhiều bị can bị cáo trong

cùng một vụ án, nếu quyền lợi của họ không đối lập nhau ( Điều 16 Pháp

lệnh luật sư, Điều 35 Luật tố tụng hình sư); luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật

trong khi hành nghề ( Điều 16 Pháp lệnh luật sư, Điều 36 Luật tố tụng hình

sự). Những quy tắc đó không những là quy tắc ứng xử của luật sư mà còn

được luật hóa trở thành bắt buộc.

Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 1987, mỗi đoàn luật sư

đều có nội quy của đoàn, trong đó có quy định về đạo đức nghề luật sư. Có

thể kể đến bộ quy tắc của các đoàn luật sư Hà Nội, Lâm Đồng, TP. Hồ Chí

Minh, Hà Tĩnh…Nó trở thành cơ sở cho việc xử lý hành vi vi phạm trong

quá trình hành nghề và là chuẩn mực cho luật sư tự rèn luyện, phấn đấu.

33

Tuy nhiên những quy tắc này còn mang tính cục bộ trong phạm vi hẹp mà

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

chưa có sự thống nhất trên cả nước. Việc ban hành Bộ quy tắc mẫu về đạo

đức nghề luật sư chỉ mang ý nghĩa nền tảng cho các đoàn luật sư xây dựng

quy tắc riêng của đoàn mình.

Thế giới, ở các nước có nghề luật sư lâu đời và pháp triển đều có

quy định chặt chẽ về đạo đức nghề luật sư như: Những tiêu chuẩn về đạo

đức và kỷ luật nghề nghiệp luật sư ở Trung Quốc; Bộ quy tắc ứng xử của

luật sư ở Thụy Điển…Nhìn chung chúng đểu đưa ra những quy định làm

chuẩn mực cho việc hành nghề của luật sư, nếu vi phạm sẽ bị xử lý. Hơn thế

nữa, luật sư cũng giống như bác sỹ, nhà giáo đều là những người đòi hỏi có

lương tâm và đạo đức trong sang vì vậy cần có quy tắc đạo đức luật sư.

Xuất phát từ nhu cầu thực tế và xu hướng chung của Thế giới, nhất

thiết cần có bộ quy tắc đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam. Chính vì thế, Bộ

tư pháp, dựa theo Nghị quyết của Đảng về việc thi hành Pháp lệnh luật sư

và ban hành Bộ quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư ngày 5/8/2002.

Về cơ bản, Bộ quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư Việt Nam xây

dựng dựa trên cơ sở của những định hướng, quan điểm sau:

_ Phát huy truyền thống tốt đẹp về đạo đức của con người Việt

Nam. Dân tộc Việt Nam vỗn có truyền thống văn hóa lâu đời với những

phẩm chất tốt đẹp. Do đó, một luật sư Việt Nam cũng cần phải tuân thủ

những chuẩn mực tốt đẹp của người Việt ta như tôn trọng chữ tín, giữ gìn

phẩm giá, sống mẫu mực, lương tâm trong sáng…Điều này được hợp pháp

hóa thành quy tắc đạo đức nghề luật sư.

_Việc xây dựng quy tắc đạo đức còn phải dựa trên điều kiện phát

triển nghề luật sư ở Việt Nam. Đến nay, nghề luật sư đang phát triển nhanh

vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều mặt tồn

tại tiêu cực.Vì vậy tính cấp thiết phải có bộ quy tắc đạo đức chung. Và nó

phải là công cụ trợ giúp luật sư trong việc hành nghề, góp phần nâng cao

34

đạo đức, ngăn chặn vi phạm làm tổn hại đến uy tín, danh dự luật sư.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

_ Sự phù hợp với thông lệ quốc tế về luật sư: nghề luật sư ở Việt

Nam mới phát triển trong một thời gian không dài, trong khi đó nhiều nước

trên Thế giới nghề luật sư đã có lịch sử lâu đời. Đây chính là cơ sở cho

chúng ta học tập, tiếp thu, tham khảo và áp dụng vào thực tế ở Việt Nam.

3.2. So sánh việc xây dựng đạo đức nghề luật sư với một nước có nghề

luật phát triển_ nước Anh.

Anh là một trong những nước có nghề luật sư phát triển nhất thế

giới. Việc phân chia nghề luật sư thành 2 hoạt động tách rời (tranh tụng và

tư vấn) và tương ứng với chúng cũng có 2 loại luật sư (luật sư tư vấn và

luật sư tranh tụng) là đặc điểm nổi bật của nghề luật sư của nước này. Là

một nước có hệ thống Pháp luật bất thành văn, nhưng Anh vẫn xây dựng

cho mình một bộ quy tắc đạo đức nghề luật sư riêng chứng tỏ họ rất đề cao

vấn đề đạo đức trong ngành luật. Vậy có những điểm giống và khác nhau

nào giữa quy tắc đạo đức giữa Anh và Việt Nam?

Về mặt giống nhau, quy tắc đạo đức nghề luật sư ở Anh và bản quy

tắc mẫu ở Việt Nam đều không cho phép luật sư cung cấp dịch vụ trong

trường hợp họ không có khả năng cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu của khách

hàng là vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư. Quy định như vậy là do cả

hai nước đều cho rằng mục tiêu của một luật sư là hoạt động vì quyền lợi

tốt nhất của khách hàng và vì quyền lợi chung của cộng đồng. Quyền lợi tốt

nhất của khách hàng sẽ không được bảo đảm đầy đủ khi mà luật sư không

có kĩ năng hoặc cơ sở vật chất để thực hiện công việc của họ.

Tuy có một số điểm giống nhau nhưng do hoàn cảnh xã hội dẫn đến

những điểm khác nhau giữa quy tắc đạo đức nghề luật sư ở Anh và bộ Quy

tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam. Điểm khác nhau cơ bản là ở

Anh luật sư được tự do từ chối vụ việc đối với khách hàng ( bản quy tắc

đạo đức nghề luật sư nước Anh có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 quy định

luật sư tự mình quyết định liệu có thể thực hiện vụ việc được hay không, co

35

nghĩa là luật sư có nhiệm vụ giúp đỡ pháp lý cho tất cả các khách hàng tiềm

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

năng đến với họ). Tuy nhiên Quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư ở Việt

Nam yêu cầu các luật sư phải cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng chỉ

trừ trường hợp được từ chối theo văn bản của quy tắc mẫu này ( Quy tắc 4

quy định rõ nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư phải xác định trách

nhiệm của mình đối với hoạt động xã hội thông qua các hoạt động như tự

nguyện trợ giúp pháp lý...)

Khác với bản quy tắc mẫu của Việt Nam, quy tắc đạo đức ở Anh

không cấm luật sư cung cấp dịch vụ trong các trường hợp:

_ Bất khả kháng.

_ Yêu cầu của khách hàng là không căn cứ.

_ Yêu cầu của khách hàng là vi phạm Pháp luật.

_ Yêu cầu của khách hàng là trái với đạo đức xã hội.

_ Khi luật sư có cơ sơ để tin rằng khách hàng sử dụng dịch vụ pháp

lý của luật sư để thực hiện hành vi trái pháp luật.

_ Khi người luật sư có quan hệ kinh doanh với khách hàng.

_ Người thân thích của đang thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý cho

khách hàng khác có quyền lợi đối lập với khách hàng của luật sư.

Quy tắc đạo đức nghề luật sư ở Anh có một số nghĩa vụ mà bản quy

tắc mẫu của Việt Nam không quy định bao gồm:

_ Luật sư không thể cung cấp dịch vụ khi luật sư biết hoặc có cơ sở

tin rằng yêu cầu của khách hàng là không tự nguyện hoặc chịu ảnh hưởng

của người khác.

_ Luật sư có thể từ chối cung cấp dịch vụ khi vụ việc đó trái ngược với

lợi ích của luật sư, cộng đồng, ứng xử, niềm tin của khách hàng tương lai là

không chấp nhận đối với luật sư hoặc cộng đồng.

Trong quá trình soạn thảo thảo bản Quy tắc mẫu về đạo đức nghề

nghiệp có nhiều vấn đề chúng ta có thể học hỏi được từ nước Anh. Tuy

nhiên chúng ta cũng cần nhắc đến thực tế của Việt Nam khi dự định sửa đổi

36

bản quy tắc mẫu và dự thảo Quy tắc đạo đức nghề luật sư mới.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

CHƯƠNG III:

BIỂU HIỆN ĐI XUỐNG CỦA ĐẠO ĐỨC NGƯỜI LUẬT SƯ

VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

ĐẠO ĐỨC LUẬT SƯ

1. Những biểu hiện đi xuống của đạo đức luật sư

1.1. Luật sư với nạn chạy án.

Thỉnh thoảng trên các phương tiện thông tin đại chúng lại có thông

tin luật sư A tham gia vào những vụ tiêu cực nơi “công đường”, thường

được gọi là chạy án. Chạy án thực chất là những hành vi nhằm che đậy sự

thật , làm sai lệch bản án băng nhiều thủ đoạn ma fchur yếu thông qua việc

hối lộ. Một số luật sư nhờ những lần va chạm tại tòa án đã có sự quen biết

đén những thẩm phánm kiểm sát viên, đã thực hiện đưa hối lộ hoặc môi

giới hối lộ để tác động đến bản án sau này.

“Luật sư khai quan hệ với với cán bộ tòa án nhân dân tối cao

Sau khi bị bắt, luật sư chạy án Lê Bảo Quốc đã khai ra những mối

quan hệ của mình ở các cơ quan pháp luật. Trong số này có ông Đặng Xuân

Đào - thẩm phán kiêm Trưởng ban Thư ký TAND Tối cao.

Điều này khá trùng khớp với đơn tố cáo một công dân Hà Nội, ông

Hoàng Minh Chính, gửi trung tướng Nguyễn Việt Thành (Phó tổng cục

trưởng Tổng cục cảnh sát).

Theo lá đơn, ông Chính mang ơn cứu mạng của một người bạn ở

TPHCM. Năm 2004, người này rơi vào vòng kiện tụng, với kết quả là bản

án phúc thẩm của TAND TPHCM tuyên huỷ hợp đồng mua bán nhà đã

thực hiện từ hơn 20 năm trước, và buộc ông này phải trả lại nhà. Để trả ơn

bạn, ông Chính viết nhiều đơn kêu cứu tới các cơ quan trung ương.

Tháng 1, khi ra Hà Nội, Lê Bảo Quốc bằng cách nào đó nắm bắt

được một số vụ việc oan khuất mà TAND Tối cao đang giải quyết. Trong

37

số này có cả việc bạn ông Chính. Quốc đến nhà ông Chính, khoe khoang

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

quen biết nhiều người ở TAND Tối cao trực tiếp thụ lý, giải quyết các vụ

kêu oan. Qua họ, Quốc đã giúp giải quyết nhiều vụ khó khăn, phức tạp ở

TPHCM.

Trong những người mà Quốc đề cập có ông Đặng Xuân Đào. Quốc

nói thẳng: Nếu không nhờ Quốc và qua ông Đào - người gác cổng cho lãnh

đạo TAND Tối cao - thì dù các cấp tòa có trình xin kháng nghị bản án vì có

oan khuất, cũng không thể tới được lãnh đạo. Thậm chí, chỉ cần chậm vài

ngày để việc thi hành án xong xuôi, thì lúc đó có trình cũng muộn, vì hiếm

khi án đã thi hành bị lật lại.

Ông Chính cho biết, để chứng minh quan hệ, Quốc đã bấm điện thoại

cố định, trao đổi với ông Đào. Qua điện thoại, Quốc nói rõ là nhờ ra kháng

nghị bản án mà TAND Tối cao đang xem xét. Đầu dây bên kia trả lời đồng

ý và nói trong một tuần là xong. Trao đổi một lúc, đầu dây bên kia hỏi

Quốc đang nói ở số máy nào đó. Quốc trả lời: “Nhà người quen”. Bên kia

ngắt luôn: “Thôi chuyện đó để lúc khác hãy nói”... Toàn bộ cuộc trao đổi

đã được ông Chính ghi lại.”

(theo báo pháp luật tp.HCM)

Lý giả cho hiện tượng này,chúng tôi cho rằng hiện nay trong những

phiên tòa xét xử, khi tham gia bào chữa, đối mắt với hội đồng xét xử, kiểm

sát viên luật sư luôn là người yếu thế (luật sư không được tự do đưa ra

chứng cứ, việc trao đổi thông tin với thân chủ bị giám sát, khó khăn trong

việc tham gia hỏi cung). Thậm chí có trường hợp đại diện viện kiểm sát còn

thẩm vấn cả luật sư :

“ Đại diện viện kiểm sát đòi thẩm vấn …luật sư

Đào Xuân Thế bị bắt tạm giam về tội “trộm cắp” từ lời khai hết sức mơ

hồ của Thắng chỉ sau một ngày ký hợp đồng lao động. Phiên tòa sơ thẩm

được mở lại do lần đầu phải hoãn vì lời khai bất nhất của bị cáo đầu vụ.

Trước khi bước vào phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát giữ

38

quyền công tố đã đề nghị luật sư Trịnh Thanh, người bào chữa của

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Thế…đứng dậy để thẩm vấn một số vấn đề liên quan đến lời khai của bị

cáo Thắng (người sau này được xác định là vu oan cho Thế). Thắng khai đi

cùng xe với Thế nên được thông cung “Luật sư tao bảo mày cứ nhận tội

một mình”. Sau một hồi “tranh luận” khá “nảy lửa” giữa Luật sư và Kiểm

sát viên bằng những quy định của BLTTHS cho phép ai có quyền thẩm vấn

và được thẩm vấn ai, cuối cùng Chủ toạ phiên toà đã có lời “nhắc nhở” vị

đại diện Viện Kiểm sát cần xem xét lại…”

(vietbao.vn 28/02/2006,chuyện các luật sư bào chữa trắng án)

Rõ ràng lúc này,sức ép của luật sư tăng lên rất nhiều, vậy để dành phần

thắng liệu người luật sư có nghĩ tới các con dường khác (tiêu cực) hay không.

Thứ hai, luật sư không phải là người ra quyết định bản án, và không

thể chắc chắn về kết quả bản án như vậy luật sư có thể chạy án khi có sư

đồng ý của cán bộ viện kiểm sát hoặc tòa án. Thậm chí có trường hợp chính

bản thân thẩm phán chủ động “đưa giá”:

“Ông Vũ Văn Lương (nguyên thẩm phán TAND quận Hoàn Kiếm,

Hà Nội) hứa sẽ giúp đương sự được thắng kiện nếu đưa 150 triệu đồng.

Ngày 21-22/1, ông Lương bị TAND Hà Nội xét xử về tội nhận hối lộ. Ông

Lương bị Cơ quan An ninh điều tra Công an Hà Nội bắt quả tang khi nhận

70 triệu đồng từ ông Vũ Đình Tiến (bị đơn dân sự trong vụ kiện tranh chấp

2,5 m2 công trình phụ tại nhà 90 phố Hàng Gai).Từ đây, cơ quan chức

năng phát hiện, quá trình xác minh thu thập tài liệu, thẩm phán Lương đã

gặp, trao đổi riêng với ông Tiến. Bốn ngày trước thời điểm dự kiến mở

phiên xử (5/6/2008), tại phòng làm việc, ông Lương đã nói những bất lợi

của ông Tiến, thể hiện trong hồ sơ vụ án. Ông Tiến bảo: "Anh cố gắng giúp

em, chi phí hết bao nhiêu em chịu". Thẩm phán Lương nói: "15", ông Tiến

hiểu là 150 triệu đồng. Ông Tiến sau đó xin sẽ đưa trước 70 triệu đồng, lần

sau sẽ giao nốt vì gặp một số khó khăn về kinh tế...Tại tòa, ông Tiến cho

biết, không chỉ được biết về những bất lợi của mình để chuẩn bị trước, ông

39

còn được thẩm phán Lương cho xem dự thảo bản án, hứa sẽ sửa hồ sơ để

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

được thắng kiện. Những lần trao đổi với thẩm phán về vụ "đi đêm" này,

đương sự Tiến đều ghi âm và trình báo công an.” .

Những hành vi này không chỉ làm sứt mẻ công lý mà còn cho niểm

tin của nhân dân vào hệ thống cơ quan tư pháp bị giảm sút,ảnh hưởng đến

sự trật tự xã hội.

1.2. Lợi dụng danh nghĩa luật sư để thực hiện hành vi chống phá nhà nước

Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, từng

bước phát triển kinh tế. Tuy vậy Đảng và nhà nước vần luôn cảnh giác với

những âm mưu chống phá của bọn phản động lưu vong có sự tiếp tay của

những cá nhân trong nước. Và điều đáng buồn là một phần không nhỏ

các cá nhân đó là luật sư. Đáng lẽ họ la người “dẫn đường” pháp lý quan

trọng hưỡng dẫn nhân dân thực hành pháp luật thì họ lại dung chính kiến

thức, khả năng hùng biện để lôi kéo,dụ dỗ những người nhẹ dạ cả tin.Qua

các thông tin từ báo đài, hẳn chúng ta đã từng nghe về các luật sự bị khởi tố

về tội chống phá nhà nước: luật sư Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài,

Trưởng Văn phòng luật sư Thiên Ân và là Giám đốc Công ty TNHH Việt

Luật, luật sư Lê Thị Công Nhân….

“ Ngày 6/3, Cơ quan an ninh điều tra, Công an Hà Nội đã khởi tố,

bắt tạm giam, khám xét nơi làm việc và nơi ở đối với Nguyễn Văn Đài (SN

1969) và Lê Thị Công Nhân (SN 1979) về tội “Tuyên truyền chống phá

Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.

Nguyễn Văn Đài đã thành lập Văn phòng luật sư Thiên Ân nhưng

không tham gia bào chữa cho bất kỳ một thân chủ nào. Tuy nhiên, hàng

tháng Đài vẫn có tiền để trả lương cho nhân viên, chi phí đủ các khoản

(lương cứng của Đài khoảng 700 USD/tháng). Hàng ngày, Đài cử nhân

viên đi các địa phương trong cả nước gặp gỡ các phần tử cực đoan để thu

thập thông tin chuyển cho bọn phản động lưu vong.

Về Lê Thị Công Nhân, sau khi tốt nghiệp Đại học Luật, năm 2004

40

Nhân vào làm việc tại đoàn Luật sư Hà Nội. Năm 2005, Nhân đăng ký

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

hành nghề tại Văn phòng luật sư Thiên Ân và công khai hoạt động chính trị

từ tháng 4/2006 khi tham gia ký tên ủng hộ “Tuyên ngôn tự do, dân chủ

cho Việt Nam 2006” và tham gia khối 8406 do Nguyễn Văn Lý lập ra. Đặc

biệt nghiêm trọng, Nhân còn sử dụng văn phòng luật sư Thiên Ân để mở

lớp tuyên truyền luận điệu, tư tưởng phản động cho một số sinh viên và các

tín đồ bằng các bài giảng về “dân chủ, nhân quyền” với ý đồ tạo ra một lớp

người có tư tưởng chống phá Đảng, Nhà nước. Cho đến ngày 3/2/2007, Công

an Hà Nội đã phát hiện ra lớp học này khi Nhân đang “giảng bài” cho một số

sinh viên trường Cao đẳng Phát thanh truyền hình Hà Nam….(theo dantri)”

“Chiều ngày 13-6-2009, Cơ quan an ninh điều tra - Bộ Công an đã

bắt giữ luật sư Lê Công Định vì cho rằng có hành vi chống phá Nhà nước

CHXHCN Việt Nam.

Cơ quan điều tra cho biết, trong rất nhiều tài liệu thu được, có hai tài liệu

đáng chú ý là bản thảo Tân Hiến pháp mà ông Định “cùng một nhóm đối

tượng soạn thảo nhằm chuẩn bị cho kế hoạch lật đổ chính quyền và tài liệu

trích xuất từ blog Đảng Lao động có nội dung tuyên cáo thành lập Đảng

này và những luận điệu xuyên tạc và vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Cũng theo báo Tiền Phong, ông Lê Công Định còn biên soạn hàng

chục tài liệu đăng tải ở nước ngoài công khai xuyên tác đường lối, chính

sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, kêu gọi thay chế độ do Đảng Cộng

sản Việt nam lãnh đạo, lợi dụng các vấn đề xã hội đang quan tâm để kích

động chống Đảng, Nhà nước; tham giá ý kiến với các đối tượng trong

nhóm đưa tin, viết bài bôi nhọ một số lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tập trung

vào Thủ tướng Chính phủ. Ông Định còn lợi dụng việc bào chữa cho số đối

tượng chống đối (Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Hải) để

hậu thuẫn cho số này, xuyên tạc chống lại Hiến pháp và phát luật Việt Nam...”

(theo báo Tiền phong 13/06/20099)

Những trường hợp kể trên đó là những người hiểu luật mà vẫn

41

cố tình vi phạm luật họ thực sự là những con sâu làm giảu nồi canh làm mất

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

đi hình ảnh tốt đẹp về đạo đức người luât sư. Lý giải cho hiện tượng này

chúng tôi cho rằng vì những nguyên nhân sau:

- Người luật sư được đào tạo kiến thức về chính trị có hệ thống, có

thể nhìn ra những mặt hạn chế của chế độ chính trị hiện nay,nếu không có

lòng tin và đạo đức thì rất dễ sa ngã

- Người luật sư có tài hùng biện, kiến thức sâu rộng là đối tượng

nhắm đến của bọn phản động lưu vong ở nước ngoài

1. 3.Luật sư vi phạm chuản mực ứng xử

Người luật sư được coi là thành phần trí thức của xã hội, cà cách

ững xử của họ luôn được xã hội coi trọng và đề cao. Tuy nhiên, ở nhiều

trường hợp do áp lực công việc nhiều luật sư đã có hành vi nóng nảy với

với báo chí,nhân chững . Để lại ấn tượng không tốt cho dư luận

“Ngày 20/09/2005, tại tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đang xử vụ

tranh chấp giữa công ti Gedeon Richter và bà Nguyễn Thị Kim Nga thì ông

Hồ Mạnh Hùng đã xông vào tấn công và bẻ gãy máy ảnh của phóng

viên Đỗ Văn Khanh báo Lao Động. Điều đặc biệt là tại toà, ông Hồ Mạnh

Hùng khai báo mình là phóng viên báo Hà Nội Mới, đại diện cho công ty

Gedeon Richter. Ông Hùng còn có những lời nói và hành vi thách thức

những nhà báo khác đang tác nghiệp tại đây.

Nhà báo Đỗ Văn Khánh, người bị tấn công, cho biết trước đó anh đã

làm đủ thủ tục cần thiết như trình thẻ nhà báo với chủ toạ phiên toà là

Thẩm phán Nguyễn Bích Ngân và đã được sự đồng ý của chủ toạ.”

(Dantri.com.vn, 20/09/2005)

- Lợi dụng danh nghĩa luật sư để thực hiện các hành vi lừa

đảo,chiếm đoạt tài sản công dân

- Hiện tượng “xui nguyên, giục bị”, “bắt cá hai tay”

- Móc ngoặc luật sư đồng nghiệp để trục lợi cá nhân gây thiệt hại

42

quyền lợi cho khach hàng.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

2. Một số giải pháp đề cao đạo đức nghề nghiệp

2.1. Cần đề cao vai trò của luất sư trong 1 phiên tòa,

Vai trò luật sư phải được đối trọng một cách thất sự với viên kiểm

sát, có như vậy luật sư mới có cơ hội để thể hiện tất cả những lí lẽ thuyết

phục hội đồng xét xử. Đồng thời hạn chế việc xét hỏi của hội đồng xét xử.

Có như vậy người luật sư mới không phải chịu áp lực và thể hiện được tính

công tâm của mình

2.2. Cần xây dựng tổ chức luật sư toàn quốc và cơ chế giám sát

hoạt động của luật sư

Luật luật sư 2006 đã ghi nhân địa vị pháp lý của tổ chức luật sư

toàn quốc nhưng đến nay vẫn chưa được thành lập trên thực tế do nhiều

nguyên nhân. Hiện nay việc quản lý luật sư do các Đoàn luật sư của tỉnh

đảm nhiệm, nên trên thực tế việc quản lý luật sư còn nhiểu lỏng lẻo. Việc

có tổ chức luật sư toàn quốc sẽ gawcns kết công tác quản lý luật sư trên

toàn quốc, qua đó sẽ đảm bảo hiệu quả hơn trong công tác theo dõi , giám

sát hoạt động để phòng tránh những tiêu cực có thể xảy ra. Ở Anh, Ban

quản lý luật sư tư vấn là cơ quan có trách nhiệm đảm bảo chắc chắn rằng

các luật sư của Anh tuaanthur bản qui tắc đạo đưucs nghề nghiệp. Ban này

thực hiện công việc này thông qua khiếu nại của khách hàng hoặc do Ban

đó thành lập. Ngoài giám sát hoạt động tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, Ban

còn thực hiện giám sát việc thực hiện của các tổ chức đào tạo luật sư; đưa

ra các hướng dẫn và qui tắc về đạo đức nghề nghiệp cho luật sư; cung cấp

thông tin cho cộng đồng về luật sư tư vấn và thực hiện các biện pháp đã

được qui định

2.3 Cần xây dựng một bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp mang

tính áp dụng toàn quốc,

Thay thế cho bộ qui tắc mẫu 2002, trong đó cần qui định một cách

43

cụ thể về những việc luật sư không được làm và buộc phải làm,không cần

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

thiết phải làm, qui định rõ về hình thức xử lý, cách thức tiến hành xử lý

hành vi vi phạm qui tắc đạo đức của luật sư.

2.4. Cần đẩy mạnh công tác phòng và chống tiêu cực trong

ngành tư pháp

2.5 Đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật đến với người dân để

người dân không tìm đến luật sư với tâm lý chạy án .Nếu người dân nhận

thức rõ vai trò của luật sư, chắc chắn sẽ có những yêu cầu phù hợpkhông

gây sức ép với luật sư trong quá trình giải quyết

2. 6. Cần nâng cao chất lượng đào tạo về đội ngũ luật sư hiên nay.

Hầu hết các trường đại học có chức năng đào tạo luật đều không có

môn học về đạo đức nghề luật do đó cần xây dựng các môn học về đạo đức

nghề luật. Đồng thời bắt buộc sinh viên trước khi ra trường cần có chững

44

chỉ về kĩ năng trợ giúp pháp lý cộng đồng và kĩ năng hành ngề luật sư.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

KẾT LUẬN

Nghề nào trong xã hội cũng cần phải có đạo đức, có những chuẩn

mực ứng xử trong nghề nghiệp. Tuy nhiên đối với nghề luật sư, đạo đức

nghề nghiệp phản ánh rõ và đúng nhất “ tiếng nói bênh vực quyền con

người” trong bất cứ xã hội nào. Tiếng nói của luật sư là tiếng nói đanh thép

của những con người nhân danh công lý, là tiếng nói sinh động thức tỉnh sự

thật sống dậy, là tiếng nói khơi dậy lý trí, niềm tin và long thương con

người. Tuy nhiên, một vấn đề đáng lo ngại hiện nay là thực tế cho thấy đạo

đức nghề luật sư ở Việt Nam có dấu hiệu đi xuống. Điều này là một trở

ngại quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền trong

tương lai của chúng ta khi mà lực lượng nhân danh bảo vệ con người đang

bị suy thoái dần về mặt đạo đức. Thế hệ chúng ta hiện nay, những người

luật sư tương lại đang và sẽ làm gì để nắm vững sứ mệnh bảo vệ bảo vệ con

người, bảo vệ xã hội và nhân loại. Hãy tự mình quyết định con đường mà

cuộc sống đã lựa chọn cho chúng ta bởi lẽ “ sứ mệnh cho chúng ta đường đi

45

nhưng chỉ có chúng ta mới biến đường đi đó thành đường đi đúng hướng”.

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A,Sách và các bài viết tham khảo

1. PGS.TS.Lê Hông Hạnh,” Đạo đức và kĩ năng của luật sư trong nền

kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa”,trang 11-53.

2. Trần Quốc Phú, “Văn hóa pháp đình”, trang 82-94. Nxb Tư pháp

3. Trần Vũ Hải “ Đạo đức luật sư- đôi điều suy nghĩ”,trích trong “Nghề luật

,những nghĩ suy”,Nguyễn Bá Bình chủ biên,trang 23-39, nxb Tư pháp

4. Trần Ngọc Định, “Luật sư thời hội nhập – cơ hội và thách thức” trích

trong “Nghề luật,những nghĩ suy”,Nguyễn Bá Bình chủ biên,trang 40-

58, nxb Tư pháp

5. Sổ tay luât sư.

6. Nguyễn Trọng Tỵ, “Quan hệ của luật sư đối với đồng nghiệp”, trích

“Kỉ yếu hội thảo hợp thảo hợp tác pháp luật Việt Nam – Châu Âu về

đạo đức nghề luật sư”, trang 183-189, nxb Tư Pháp

7. Lê Thu Hiền, “Quy tắc ứng xử của luật sư trong quan hệ với các cơ quan

nhà nước” trích “Kỉ yếu hội thảo hợp thảo hợp tác pháp luật Việt Nam –

Châu Âu về đạo đức nghề luật sư”, trang 178-182, nxb Tư Pháp

8. Trần Văn Sơn, “ Đạo đức nghề nghiệp và việc xử lý vi phạm đạo đức

nghề nghiệp luật sư hiên nay”, trích “Kỉ yếu hội thảo hợp thảo hợp tác

pháp luật Việt Nam – Châu Âu về đạo đức nghề luật sư”, trang 204-

208, nxb Tư Pháp

9. Vilaf Hồng Đức, “Tiếp nhận và từ chối vụ việc”, trích “Kỉ yếu hội thảo

hợp thảo hợp tác pháp luật Việt Nam – Châu Âu về đạo đức nghề luật

sư”, trang136-148, nxb Tư Pháp

10. Vụ bổ trợ tư pháp- Bộ tư pháp, “Thực trạng qui tắc đạo đức nghề

nghiệp luật sư ở Viêt Nam” trích “Kỉ yếu hội thảo hợp thảo hợp tác

pháp luật Việt Nam – Châu Âu về đạo đức nghề luật sư”, trang 118-

46

122, nxb Tư Pháp

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

B. Các văn bản pháp luật

Pháp lệnh luật sư 1987 1.

Pháp lệnh luật sư 2001 2.

Bộ qui tắc mẫu đạo đức nghề luật sư, Bộ tư pháp ban hành năm 2002 3.

Luật luật sư 2006 4.

Bộ qui tắc ứng xử nghề nghiệp cho luật sư châu Âu 5.

Bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư tư vấn pháp luật của Vương 6.

quốc Anh

C. Internet

1. Báo điện tử của TW hội khuyến học: http://dantri.com.vn/

47

2. Việt báo Việt Nam: http://vietbao.vn/

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3

1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................... 3

2.Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................. 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ........................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài......................................... 5

5.Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 5

6. Những kết quả nghiên cứu .............................................................. 5

7. Cơ cấu của báo cáo ......................................................................... 5

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN KHÁI NIÊM LIÊN QUAN VỀ

NGHỀ LUẬT SƯ TRONG ĐỀ TÀI .......................................................... 7

1.Nghề luật sư ............................................................................................... 7

1.1. Khái niêm ............................................................................................... 7

1.2.Vai trò luật sư ........................................................................................ 10

2. Đạo đức nghề luật sư ............................................................................... 11

2.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp nói chung ......................................... 11

2.2. Đạo đức nghề luật sư ........................................................................... 13

2.3.Tiêu chí đánh giá cơ bản ....................................................................... 14

CHƯƠNG II: ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ HIỆN NAY ..................... 15

1. Sự phát triển của nghề luật sư trong thời kì hội nhập và xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam ............................................................ 15

1.1.Đối với kinh tế ....................................................................................... 15

1.2.Về chính trị ............................................................................................ 18

1.3.Về xã hội ................................................................................................ 22

2. Yêu cầu về đạo đức luật sư trong thời kì đổi mới ................................... 22

2.1.Thanh danh ............................................................................................ 22

2.2.Sứ mệnh ................................................................................................. 23

2.3.Kĩ năng hành nghề ................................................................................ 25

48

2.4. Chuẩn mực ứng xử ............................................................................... 27

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

2.4.1. Quan hệ của luật sư với khách hàng ...................................... 27

2.4.2. Quan hệ của luật sư với cơ quan nhà nước ............................ 29

2.4.3. Quan hệ với đồng nghiệp ........................................................ 30

2.4.4. Quan hệ với các phương tiện thông tin đại chúng ................. 32

3. Kết quả việc xây dựng đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam ...................... 33

3.1.Bộ quy tắc chuẩn về đạo đức nghề luật sư ở Việt Nam. ....................... 33

3.2. So sánh việc xây dựng đạo đức nghề luật sư với một nước có nghề luật

phát triển_ nước Anh. .................................................................................. 35

CHƯƠNG III: BIỂU HIỆN ĐI XUỐNG CỦA ĐẠO ĐỨC NGƯỜI

LUẬT SƯ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC

LUẬT SƯ………………………………………………………….……..37

1. Những biểu hiện đi xuống của đạo đức luật sư ....................................... 37

1.1. Luật sư với nạn chạy án. ...................................................................... 37

1.2. Lợi dụng danh nghĩa luật sư để thực hiện hành vi chống phá nhà nước ..... 40

1.3.Luật sư vi phạm chuản mực ứng xử ...................................................... 42

2. Một số giải pháp đề cao đạo đức nghề nghiệp ........................................ 43

KẾT LUẬN ................................................................................................ 45

49

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 46