Luận văn

Đầu tư trực tiếp nước

ngoài của Singapo vào

Việt Nam - thực trạng và

giải pháp

1

LỜI MỞ ĐẦU

Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh

chóng và sâu sắc.Việt Nam với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá

quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế - thương mại và

toàn cầu : là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký hiệp định

thương mại Việt-Mỹ và đang xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) ... Các nước đánh giá cao vai trò và vị trí của Việt Nam ở khu vực

và thế giới , đồng thời đánh giá cao tiềm năng phát triển của Việt Nam.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình hoạt động kinh tế

quốc tế ra, đời và phát triển có tính tất yếu, lâu dài cùng với xu thế toàn cầu

về kinh tế. FDI có vai trò vị trí quan trọng, tích cực đối với cả nước tiếp

nhận FDI lẫn nước đi đầu tư. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là nhiệm vụ

của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH . Trong

suốt quá trình này, chúng ta cần nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản

lý. Nên việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài , nhất là các nước

trong cùng khu vực có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, văn hoá, xã hội ...

là rất quan trọng. Một trong những nhà đầu tư nước ngoài có số vốn đầu tư

lớn vào Việt Nam phải kể đến Singapo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của

Singapo góp phần làm tăng thêm vốn để đầu tư phát triển sản xuất, cung

cấp cho nền kinh tế nước ta những máy móc kỹ thuật và quy trình công

nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, tạo thêm

nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng kim ngạch

XK của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần ổn định nền tài chính

tiền tệ quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển .

Với luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ năm 1987,

được sửa đổi bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996 và đầu năm 2000 vừa

qua đến nay luật đầu tư nước ngoài đã thông thoáng hơn, tạo nhiều điều

2

kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất kinh

doanh.

Sau gần 13 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đến

nay điều được khẳng định chắc chắn : chủ trương thu hút vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài là đúng đắn và cần thiết của Đảng và Nhà nước ta, góp

phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập vào nền

kinh tế toàn cầu và khu vực.

Nhận thấy tính cấp thiết và quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài,

đặc biệt là các nguồn vốn từ các nước trong cùng khu vực nên đề tài “Đầu

tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - thực trạng và giải

pháp” đã được chọn làm nội dung luận văn tốt nghiệp. Luận văn được viết

thành 3 chương:

Chương I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo tại

Việt Nam, giai đoạn 1988-2000.

ChươngIII: Triển vọng quan hệ hợp tác và một số giải pháp đẩy

mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam.

Trong quá trình làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em xin trân trọng

cảm ơn Ths Đỗ thị Hương, cùng các cô, chú và đặc biệt là giáo sư Hàn

Mạnh Tiến - Giám đốc Công ty TNHH CONCETTI đã tận tình hướng

dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Nhưng do khuôn khổ có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế, chuyên đề

này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong được

sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn.

3

CHƯƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

I/KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC CỦA FDI :

1.Khái niệm .

Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ ra hay hy sinh một nguồn

lực ở hiện tại nhằm thu được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong

tương lai.

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện từ thời kỳ tiền tư

bản và đã có nhiều lý thuyết đề cập về nó. Tuy không có nhiều tranh cãi

nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về đầu tư trực tiếp

nước ngoài được thừa nhận rộng rãi .

Nói một cách khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động

có những đặc điểm sau:

- Có sự thiết lập quyền sỡ hữu về vốn và tài sản của người nước này

ở một nước khác .

- Chủ đầu tư chịu hoàn toàn trách nhiệm về quản lý dự án và hiệu

quả của vốn đầu tư .

- Thường do các cá nhân hay các công ty đặc biệt là các công ty

xuyên quốc gia tiến hành thông qua việc thành lập mới mở rộng các cơ sở

sản xuất hiện có nhằm mở rộng thị trường.

- Thường gắn liền với hoạt động chuyển giao công nghệ.

Như vậy, có thể rút ra một định nghĩa về FDI như sau:

4

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các cá nhân hay

tổ chức kinh tế thực hiện nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và

thị trường ở một nước khác thông qua việc di chuyển vốn, hay bất kỳ hình

thức giá trị nào như máy móc thiết bị, công nghệ và thiết lập quyền sở hữu

về vốn đầu tư của mình tại nước đó .

Một hình thức đầu tư nước ngoài khác tồn tại song song với đầu tư

trực tiếp là đầu tư gián tiếp. Đây là hoạt động đầu tư thường do Chính phủ

các nước hay các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi Chính phủ

(NGOs)cho một nước khác (thường là các nước đang phát triển ) vay vốn.

Theo hình thức này bên nhận vốn trở thành con nợ, họ có toàn quyền quyết

định việc sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, còn bên cho

vay không chịu rủi ro và hiệu quả của vốn vay mà chỉ huởng lãi suất theo

tỷ lệ cho trước của số vốn mà họ cho vay. Đầu tư gián tiếp bao gồm các

khoản viện trợ chính thức (ODA), tín dụng quốc tế, trái phiếu, cổ phần...

Loại hình đầu tư này thường đi kèm với các điều kiện về kinh tế hay chính

trị bất lợi cho nước nhận vốn. Do vậy, loại hình đầu tư này chiếm tỷ trọng

không lớn lắm trong vốn đầu tư quốc tế, nó thường chỉ dành cho các nước

đang phát triển đang có nhu cầu cấp thiết về vốn.

Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, các hình thức đầu tư trực

tiếp phổ biến hơn và có xu hướng ngày càng tăng. Sở dĩ như vậy là do hình

thức đầu tư trực tiếp có mộ số lợi thế hơn hẳn. Đối với các nước đang phát

triển, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế rất lớn trong lúc đó kinh

nghiệm quản lý của họ còn yếu kém nên hiệu quả vốn đầu tư thấp. Bởi vậy,

cho các nước này vay vốn sẽ có nhiều rủi ro, khả năng thu hồi vốn thấp.

Trong hoàn cảnh đó, đầu tư trực tiếp sẽ là giải pháp tốt nhất vì vốn được

mang sang nước họ cùng với công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm sản xuất

nhiều, do đó làm tăng hiệu quả vốn đầu tư. Nước nhận vốn bên cạnh đó còn

tiếp nhận được cả phương thức sản xuất mới hoà nhập vào thị trường quốc

5

tế. Một lợi thế nữa là đầu tư trực tiếp nước ngoài không đưa những nước

nhận vốn đến gánh nặng nợ nần, không bị các ràng buộc về kinh tế và

chính trị bất lợi cho đất nước.Tuy nhiên, hạn chế của nguồn vốn đầu tư trực

tiếp là nếu các nước nhận vốn không có định hướng rõ ràng, không quản lý

tốt thì sẽ dẫn đến sự phát triển kinh tế không cân đối tạo ra một cơ cấu đầu

tư, cũng như cơ cấu kinh tế không phù hợp.

2. Nguồn gốc và bản chất của FDI.

Theo định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trên ta thấy đặc

điểm cơ bản nhất của nó là việc người nước ngoài đưa vốn vào một nước

khác để mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường. Việc sản

xuất hàng hoá tại nước mình rồi xuất sang nước khác như vậy làm cho chi

phí vận chuyển tăng lên. Thay vào đó, chủ đầu tư đưa vốn sang nước khác

để sản xuất và bán ngay tại thị trường nước sở tại thì họ không những giảm

được chi phí vận chuyển mà còn tránh được thuế nhập khẩu hàng hoá vốn

do các nước đặt ra để bảo vệ nền kinh tế của họ. Điều này lý giải tại sao lại

có dòng vốn đầu tư cùng chảy vào và chảy ra tại cùng một nước, tại sao

đầu tư vốn mà không nhập khẩu hàng hoá.

Theo học thuyết của D.Ricardo, mỗi nước có lợi thế riêng về các yếu

tố sản xuất mà ông gọi đó là lợi thế so sánh, ở các nước phát triển đó là lợi

thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất còn ở các nước đang phát

triển đó là lao động rẻ, tài nguyên tại chỗ phong phú, thị trường sơ khai. Do

vậy, khi chi phí sản xuất ở một nước (thường là nước phát triển) cao họ tìm

cách đưa vốn sang nước khác để tận dụng hết lợi thế so sánh của mỗi nước

bằng cách đó họ đã nâng cao được tỷ lệ lợi nhuận biên/chi phí biên.

Mọi nhà kinh doanh đều có xu hướng đa dạng hoá danh mục đầu tư.

Thiết lập nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ở các nước khác, tức là họ đã

thực hiện mục tiêu của mình một cách hợp lý. Sự thay đổi thường xuyên

6

của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố khiến cho việc di chuyển tư bản trên

phạm vi quốc tế diễn ra mạnh hơn. Chẳng hạn, khi đồng USD tăng giá so

với đồng Việt Nam thì hàng hoá nhập khẩu của Mỹ tại thị trường Việt Nam

trở nên đắt hơn so với trước. Nhưng nếu hàng hoá đó sản xuất tại Việt Nam

sử dụng đầu vào tại chỗ thì nó sẽ không thay đổi về giá cả, thậm chí khi đó

chủ đầu tư còn có lợi nếu xuất khẩu trở lại Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề này có

tính hai mặt tức là khi tỷ giá hối đoái biến động ngược lại thì chủ đầu tư lại

bị thiệt hại.

Trước những năm 1970, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường chỉ diễn

ra ở các nước phát triển với nhau hoặc từ các nước phát triển sang các nước

đang phát triển. Sau đó cùng với sự thịnh vượng của khối OPEC (tổ chức

các nước xuất khẩu dầu lửa) và các nước công nghiệp mới (NICs) thì một

lượng vốn đầu tư lớn do các nước này đưa sang nước phát triển và đang

phát triển khác. Thể hiện rõ nét cho các xu hướng này là đầu tư từ các nước

Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo...sang khu vực Tây Âu và các

nước đang phát triển ngày càng tăng.

Sự phát triển của thương mại và thị trường tài chính quốc tế và các

công ty đa quốc gia đã tạo điều kiện cho FDI phát triển mạnh. Các công ty

đa quốc gia thường là các phương tiện cho việc đi vay và cho vay quốc tế

chiếm 70% từ FDI quốc tế. Công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình

qua các công ty chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, khi nói tới FDI người ta

cũng thường ám chỉ các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty

ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Vì vậy FDI luôn

gắn liền với công ty đa quốc gia ở đó việc chuyển giao vốn không đơn

thuần là sự chuyển giao nguồn lực mà còn là sự mở rộng thị trường mở

rộng sự kiểm soát và quản lý .

7

II. CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA FDI :

Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam đầu tư trực tiếp

nước ngoài bao gồm các hình thức chủ yếu sau :

1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh .

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên

hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh

doanh ở Việt Nam trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả

kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới .

Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên kết kinh

doanh giữa chủ đầu tư trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài theo

từng trường hợp cụ thể, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân

riêng chứ không tạo nên bất cứ một pháp nhân mới nào. Ởđây cũng không

chỉ góp vốn và các phương tiện sản xuất mà còn thoả thuận về nghĩa vụ và

quyền hạn của mỗi bên bằng hợp đồng trong việc tiến hành một công việc

sản xuất kinh doanh và những quyền lợi mà họ được hưởng. Hình thức này

rất đa dạng và phù hợp với những dự án có qui mô nhỏ thời hạn hoạt động

ngắn.

2. Doanh nghiệp liên doanh.

Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước

ngoài và Việt Nam cùng góp vốn thành lập liên doanh theo một tỷ lệ đã

thỏa thuận. Theo luật định doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt

Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký hoặc là doanh nghiệp do doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc

do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở

hợp đồng liên doanh.

8

Doanh nghiệp liên doanh đươc thành lập theo hình thức công ty trách

nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.Thời gan

hoạt động của các doanh nghiệp khoảng từ 30-50 năm. Doanh nghiệp hoàn

toàn tự chủ về tài chính vì vốn pháp định do mỗi bên liên doanh góp (mức

góp của bên Việt Nam ít nhất là 30%). Trong quá trình liên doanh, doanh

nghiệp không được giảm vốn nếu muốn tăng vốn phải làm biên bản giải

trình lên Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư để xem xét và giải quuyết.

Thông thường, khi thành lập liên doanh phía Việt nam có lượng vốn

rất nhỏ, vì vậy sẽ dẫn đến tỷ lệ phần quyền lợi rất ít. Do đó, vốn pháp định

của doanh nghiệp liên doanh được qui định luôn nhỏ hơn vốn đầu tư thực

tế để đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam cũng như đảm bảo tỷ lệ chia lãi

hợp lý hơn. Đối với loại hình này, nhà nước đã giành được nhiều ưu đãi mà

cả bên nước ngoài và bên Việt Nam đều được hưởng.

3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà

đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam (luật đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập

theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp

luật Việt Nam .Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30%vốn

đầu tư của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không

được giảm vốn pháp định. Các doanh nghiệp này thường ở trong khu chế

xuất hay trong khu công nghệ cao.

Ngoài ra còn có một số hình thức biến dạng khác như :

* Hình thức đầu tư BOT.

BOT là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó nhà

đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian

9

nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao

không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước sở tại.

Hình thức BOT ra đời nhằm tạo ra loại hình công việc có chất lượng

ở các nước chậm và đang phát triển khi các nước này không có đủ vốn. Đặc

điểm chung của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ vốn nhiều,

thời gian thu hồi vốn chậm .

Các công ty ký hợp đồng BOT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền

được hưởng nhiều ưu đãi về thuế, được nhà nước bảo lãnh để tránh rủi ro…

Hình thức hợp đồng BOT là hình thức đầu tư mới xuất hiện ở Việt Nam,

song nó có vai trò to lớn làm thay đổi bộ mặt mặt nền kinh tế. Nhờ nó chất

lượng kết cấu hạ tầng được nâng cao một cách rõ rệt, tạo đà thu hút hơn

nữa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như đáp ứng tốt hơn nhu cầu

tăng lên của nhân dân.

* Hình thức đầu tư BTO.

BTO ( Built-Transfer-Operate) hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh

doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu

tư nước ngoài để xây dựng công trình, sau khi đã xây dựng xong nhà đầu tư

nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước sở tại và được dành quyền

kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu

tư và lợi nhuận hợp lý.

* Hình thức đầu tư BT.

BT (Built-Transfer) hợp đồng xây dựng chuyển giao là văn bản ký

kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây

dựng công trình, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao

công trình đó cho nước chủ nhà và tạo điều kiện thực hiện dự án khác nhằm

thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

10

III. TÁC ĐỘNGCỦA FDI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ :

1. Đối với quốc gia đi đầu tư.

Thứ nhất, để mở rộng thị trường tiêu thụ, ngay tại nước chủ đầu tư,

nhà đầu tư có thể đã có một vị trí nhất định trên thị trường. Cũng có thể loại

hàng hoá hoặc dịch vụ mà nhà đầu tư có cung cấp đang bị cạnh tranh gay

gắt tại thị trường trong nước. Việc tìm kiếm những thị trường ngoài nước

với những nhu cầu lớn về loại hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà đầu tư sẽ đáp

ứng được việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra,

các chủ đầu tư có thể có lợi thế độc quyền nhờ sở hữu một nguồn lực hay

kỹ thuật mà các đối thủ cạnh tranh của họ không có được ở thị trường sở

tại. Điều này sẽ mang lại cho nhà đầu tư nhiều lợi nhuận hơn.

Thứ hai là xâm nhập thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Theo lý

thuyết về tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nếu cứ tiếp tục đầu tư vào một dự án

nào đó ở một quốc gia nào đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ tăng đến một mức độ

nhất định rồi sẽ giảm dần. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn chú trọng tìm kiếm

những thị trường đầu tư mới mẻ đề đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

Đồng thời, ở các nước công nghiệp phát triển thường có hiện tượng thừa

“tương đối” vốn nên việc đầu tư ra nước ngoài giúp các nhà tư bản nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn.

Thứ ba, sử dụng các yếu tố sản xuất ở nước nhận đầu tư. Do sự phát

triển không đều về trình độ của lực lượng sản xuất, ở các quốc gia khác

nhau chi phí sản xuất là không giống nhau. Giữa các quốc gia có sự chênh

lệch về giá cả hàng hoá, sức lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, vị trí

11

địa lý ... Các nhà đầu tư thường lợi dụng sự chênh lệch này để thiết lập hoạt

động sản xuất ở những nơi có chi phí sản xuất thấp nhằm hạ giá thành sản

phẩm. Đầu tư ra nước ngoài có thể giúp các nhà đầu tư hạ thấp chi phí sản

xuất do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại.

Đồng thời, khi đầu tư sản xuất ở nước sở tại, nhà đầu tư có thể sử dụng

nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất của mình ở chính nước này.

Việc này giảm bớt được chi phí vận tải cho việc nhập nguyên nhiên liệu,

nhất là khi các nhà đầu tư muốn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng ở nước ngoài.

Đối với việc thiết lập nhà máy sản xuất ở các nước Tư bản phát triển

các nhà đầu tư có thể học tập công nghệ tiên tiến của các nước đó. Và

những công nghệ này có thể sẽ được áp dụng ở nhiều nhà máy hay chi

nhánh của công ty ở các nước khác. Những công nghệ hiện đại sẽ góp phần

nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất để đưa đến mục

đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận cao.

Cuối cùng, đó là tránh được các hàng rào thương mại. Xu thế bảo hộ

mâu dịch trên Thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở các nước công

nghiệp phát triển. Đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập

chiếm lĩnh thị trường và tránh được các hàng rào bảo hội mậu dịch giúp các

chủ đầu tư giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tránh được các trướng ngại cho

việc tiêu thụ hàng hoá hay dịch vụ của mình như tránh được thuế nhập

khẩu, hạn ngạch.

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, tích cực trên đây, FDI cũng có thể

chứa đựng những thách thức đối với nước có đầu tư ra nước ngoài. Đó là

các vấn đề quản lý vốn, công nghệ, sự ổn định của đồng tiền, cán cân thanh

toán quốc tế, vấn đề việc làm của lao động trong nước .

- Có khả năng làm lộ các bí quyết kinh doanh: Do CGCN nên nhà

ĐTNN thường phải hướng dẫn, truyền đạt một số kinh nghiệm của mình

12

cho đối tác bên nước sở tại để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho cả

hai bên

- Dễ tạo ra đối thủ cạnh tranh trong tương lai: Trong thời gian

dài của quá trình CGCN, đối tác nước sở tại thường có nhiều cơ hội học

hỏi, hiện đại hoá chính mình và từ đó làm tăng khả năng trở thành đối thủ

mạnh trong tương lai đối với các nhà ĐTNN .

- Chịu nhiều rủi ro và có thể không thu hồi được vốn: Hoạt động

ĐTQT là hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro do sự khác biệt về môi

trường kinh doanh giữa nước này với nước kia và những tác động củ yếu tố

ngoại cảnh.

2. Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những đáp ứng được nhu cầu và

lợi ích của nước chủ đầu tư mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát

triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó thể hiện ở những khía cạnh sau

:

Thứ nhất : Đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cho nước sở tại một

nguồn vốn lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Hầu hết các

nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu vốn để thực hiện

công nghiệp hoá và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã thu

hút được một lượng vốn nước ngoài lớn từ đầu tư trực tiếp để giải quyết

khó khăn về vốn và do đó đã thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá đất

nước.

Thứ hai : Cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuât. Qua thực hiện đầu

tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ các chi

nhánh, nhà máy của họ ở nước khác sang nước sở tại. Chuyển giao công

nghệ là kết quả của quá trình nghiên cứu và phát triển nhằm vào việc phát

minh ra sản phẩm hay kỹ thuật sản suất mới hoặc cả hai.Cho nên, nhờ có sự

13

chuyển giao đó mà các nước đang phát triển có điều kiện tốt hơn để khai

thác các thế mạnh sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, tăng sản xuất, sản

lượng và khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thị trường Thế giới

nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Thứ ba : Việc thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước sở tại, chủ đầu tư

cần sử dụng lao động ở chính nơi đây. Sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy

mới, nông trại mới đã thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Hơn thế

nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải đào tạo những người lao động

thành những công nhân lành nghề cho doanh nghiệp của mình. Điều này

góp phần tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động cho

nhân dân nước sở tại, do đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở những nước này.

Thứ tư : FDI đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về

ngoại tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có

thể được bổ xung bằng nguồn vốn FDI.

Khi FDI chảy vào một nước nó có thể làm giảm thâm hụt cán cân

vãng lai. Nó cũng có thể làm triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua thời gian khi

các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng.Thêm nữa

khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà

như công nghệ, kỹ năng sản xuất ...chúng cũng làm nâng cao sức cạnh

tranh quốc tế của các hãng trong nước do đó có thể làm tăng xuất khẩu góp

phần tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại .

Thứ năm : Tác động giữa FDI và công nghệ được coi như một trong

những nội dung quan trọng trong việc xem xét đầu tư nước ngoài cả cho

nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Lý do của điều này là công nghệ mang

lại những lợi ích cho cả hai đặc biệt là nước nhận đầu tư .Đầu tiên người ta

hy vọng FDI đem đến những công nghệ tiên tiến cho nước sở tại. FDI có

thể mang đến cho nước chủ nhà các bí quyết sản xuất và công nghệ tiên

14

tiến. FDI có thể thúc đẩy quá trình cải tiến công nghệ của các nước đang

phát triển làm tăng năng suất lao động.Thông qua FDI các nước chủ nhà sẽ

có được những tiến bộ trong nền sản xuất và xuất khẩu.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp cho nước chủ nhà các kỹ

năng, khả năng quản lý mới thông qua việc đầu tư của mình các nhà đầu tư

nước ngoài mang đến những kinh nghiệm quản lý kỹ năng áp dụng công

nghệ mới thực hiện thông qua các chương trình đào tạo vừa học vừa làm .

Thứ sáu : Do tác động của vốn và khoa học công nghệ, đầu tư trực

tiếp sẽ tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ

cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó,

thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện

để mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có

thêm nhiều sản phẩm để không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong

nước mà còn để xuất khẩu sang các nước khác và mở rộng quan hệ thương

mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy

sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay nước sở tại làm cho môi

trường đầu tư ngày càng phát triển.

Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu

cũng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ

nhà. Nó chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn

định, đặc biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của

mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối

với nước nhận đầu tư như :

- Các nước nhận FDI thường không dễ giải quyết mối quan hệ giữa

mở cửa thu hút FDI với việc bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước, thị trường

trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền về kinh tế, an ninh chính trị và ổn

định, an toàn xã hội .

15

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây sự rối ren, mất ổn định cho nền

kinh tế nước sở tại.

- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử

dụng theo những mục tiêu của họ.

- Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển

thường không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công

nghệ không còn được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời

hạn sử dụng hoặc không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất

lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng

chuyển giao công nghệ nhỏ giọt, từng phần và mất nhiều thời gian.

- Nếu không định hướng và quản lý tốt FDI, nợ quốc gia sẽ tích tụ, tăng

dần , ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thanh toán quôc tế và sự ổn định của

đồng tiền.

- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học ,

dễ dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột

quá mức.

- Nước sở tại phải đương đầu với chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi

trong kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở

trong luật pháp sở tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước sở tại.

16

Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không

thể phủ nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và

nước nhận đầu tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm

soát đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích

cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.

IV. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ

TRONG KHU VỰC :

1. FDI luôn phát triển với tốc độ nhanh và trở thành một loại

hình quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng, có tính tất yếu đối với sự

phát triển của nền kinh tế thế giới và hầu hết các quốc gia ; trong đó,

các nước công nghiệp phát triển là lực lượng chi phối chủ yếu .

Từ đầu những năm 1960 đến nay, FDI thế giới luôn tăng nhanh qua

các năm , bình quân khoảng 20%/năm . Nếu như tổng FDI thế giới chỉ là

vài chục tỷ USD/năm trong những năm 70s thì đến những năm 80s đã là

hàng trăm tỷ USD/năm ; đặc biệt là đến năm 1995 đã đạt 315 tỷ USD, năm

1997 đạt 400 tỷ USD, năm 1998 đạt trên 600 tỷ USD, năm 1999 trên 700 tỷ

USD . Hầu hết các nước trên thế giới, bao gồm cả nước công nghiệp phát

triển lẫn nước đang phát triển đều mở cửa thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu như

trong những năm 50s , 60s , FDI tập trung chủ yếu vào các nước đang phát

triển ( khoảng 70%, chỉ có khoảng 30% còn lại vào các nước công nghiệp

phát triển ) thì từ những năm đầu thập kỉ 70s trở lại đây, tình hình đã thay

đổi theo chiều ngược lại. Trong những năm 90s, trung bình khoảng 75%

FDI thế giới chảy vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước này đồng

thời cũng là các nước xuất khẩu FDI lớn nhất, chiếm khoảng 80% FDI toàn

cầu. Dòng vốn FDI trên thế giới lưu chuyển chủ yếu trong nội bộ và giữa

ba trung tâm kinh tế thế giới Bắc Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản và Đông Bắc á .

17

2. Xuất hiện xu hướng đa cực, đa biên và hiện tượng hai chiều hay

lưỡng tính trong FDI ; các công ty xuyên quốc gia trở thành chủ thể

đầu tư quan trọng nhất .

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ và các công ty Mỹ, trước hết

là các công ty xuyên quốc gia (TNC) của Mỹ là nước và lực lượng gần như

độc tôn tiến hành các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo kế hoạch

Marshall. Nhưng sau đó không lâu, các công ty, đặc biệt là các TNC của

các nước Tây Âu, Nhật Bản đã lớn mạnh và tiến hành các hoạt động FDI

cạnh tranh với các công ty của Mỹ. Thị trường FDI ngày nay không còn là

thị trường riêng của các công ty Mỹ và ngược lại có sự cạnh tranh ngày

càng gay gắt giữa các công ty của nhiều nước khác nhau có đầu tư ra nước

ngoài. Cùng với sự vươn lên của Tây Âu, Nhật Bản và các nước NIC, nhất

là NIC Châu Á , tính “đa biên” , “đa cực” đã xuất hiện và hoàn toàn thay

thế tính đa cực của FDI .

Từ cuối những năm 70s , đầu những năm 80s trở lại đây, đã xuất

hiện hiện tượng “hai chiều” hay “lưỡng tính” trong FDI ; đó là hiện tượng

một nước vừa tiếp nhận FDI vừa đầu tư ra nước ngoài. Mỹ là nước điển

hình nhất về hiện tượng này, vừa là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất,

chiếm khoảng 17% FDI ra thế giới, nhưng cũng là nước thu hút FDI lớn

nhất, chiếm khoảng 30% FDI toàn cầu. Tổng FDI đầu tư ra nước ngoài của

các nước G7 chiếm khoảng 80% tổng FDI toàn cầu, nhưng chính họ lại thu

hút khoảng 70% FDI của thế giới vào nước mình. Tình hình tương tự cũng

diễn ra ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển thuộc nhóm OECD và

các nước NIC. Nhiều nước đang phát triển, trong đó có các nước trong khu

vực, đồng thời với việc chú trọng thu hút FDI, vẫn tiến hành các hoạt động

xuất khẩu FDI.

Hiện nay, các TNC đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh

doanh vào FDI trên thế giới. Kết quả nghiên cứu 100 TNC lớn nhất trên thế

18

giới cho thấy, các TNC này chiếm tới một phần ba FDI toàn thế giới và

tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD, sử dụng tới 72

triệu lao động trong đó có 12 triệu lao động nước ngoài. Thời kỳ 1990 -

1995, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC

Mỹ là 42% ; của các TNC Nhật Bản là 48% ; và của các TNC Châu Âu là

59%. Thời kỳ 1996 - 2000, các TNC tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ra nước

ngoài. Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC

Mỹ sẽ là 55%, của các TNC Nhật Bản, các nước Tây Âu là 63%, và bình

quân chung sẽ là 60%.

Hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) giữa các công ty, đặc biệt là

các TNC trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, hoá chất, dược phẩm, viễn

thông tăng mạnh trong các năm 1997 - 2000 ; nhằm cơ cấu lại và củng cố

vị trí của các TNC trong các lĩnh này. Ngoài ra, các TNC còn đang thực

hiện mục tiêu chiến lược hoặc cơ cấu lại thông qua các hợp đồng giữa các

công ty thành viên trong nội bộ TNC nhằm nâng cao sức cạnh tranh về

công nghệ. Số lượng hợp đồng này đã tăng từ mức trung bình hàng năm

gần 300 vào đầu những năm 80s lên hơn 600 vào giữa những năm90s, chủ

yếu trong những ngành sử dụng nhiều chất xám như thông tin, dược phẩm,

công nghệ sản xuất ô tô .... Hoạt động M&A phát triển cực mạnh từ khi xảy

ra khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực Châu á, trở thành yếu tố quyết

định sự tăng vọt về FDI toàn cầu từ năm 1998 đến nay.

3. Cuộc cạnh tranh thu hut FDI giữa các nước, đặc biệt là giữa

các nước đang phát triển đang diễn ra hết sức gay gắt ; hình thành

nhiều định chế về hợp tác đầu tư ; xuất hiện làn sóng tự do hoá đầu tư

.

19

Nhận thức được vai trò quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh

tế và giải quyết vấn đề việc làm nên cả các nước công nghiệp phát triển lẫn

các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với

việc hình thành NAFTA , EU , AIA ... , môi trường đầu tư ở các khu vực

này trở nên hấp dẫn cạnh tranh hơn do được mở cửa và tự do hoá ở mức

cao hơn. Các nước công nghiệp phát triển đang đàm phán để đi đến ký kết

hiệp định đa biên về đầu tư (MAI) nhằm tự do hoá đầu tư. Nhiều nước

đang tiếp tục nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi cho FDI thông qua các hiệp

định song phương và những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu

vực và từng bước để tạo đà đi lên. Các thoả thuận về hợp tác đầu tư, ở mức

độ khác nhau đều đề cập đến vấn đề mở cửa thị trường và tiến tới tự do hoá

đầu tư .

Trong năm 1997, đã có 151 thay đổi trong qui định về FDI ở 76

nước, 89% những thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI. Nhiều

ngành trước đây được xem như bị đóng cửa đối với FDI như viễn thông

bảo hiểm năng lượng ... đã được mở ra cho FDI và tự do hoá hơn, Trung

Quốc là nước thu hút FDI thành công nhất trong nước đang phát triển. Năm

1998, FDI vào Trung Quốc chiếm 80% tổng FDI vào Châu á và 35% của

toàn bộ FDI vào các nước đang phát triển. Ấn Độ, Hàn Quốc mới chuyển

hướng, chú trọng hơn vào FDI và đang trở thành đối thủ cạnh tranh đáng

gờm của các nước thu hút FDI Châu Á, nhất là trong bối cảnh do tác động

của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trong khu vực, nguồn cung cấp

FDI từ Châu Á, nhất là từ Nhật Bản, Hàn Quốc giảm đi rõ rệt ( của Nhật ,

giảm từ mức trung bình 33 tỷ USD/năm xuống mức 25 tỷ USD/năm)

20

V. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI .

Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yêu tố đối nội,

đối ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội... Có liên quan

đến các hoạt động của các nhà đầu tư. Qua thực tiễn của nhiều nước trên

thế giới cho thấy, một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước

ngoài phải đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:

1.Sự ổn định về chính trị-xã hội.

Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà đầu

tư. Vì thực tế tình hình chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì

các chính sách, chủ trương của Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững,

đặc biệt là các chủ trương chính sách nhất quán về đầu tư nước ngoài. Qua

kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới, ta thấy rằng ở

các quốc gia luôn xảy ra những biến động về chính trị (mâu thuẫn sâu sắc

giữa các Đảng phái, sắc tộc, đảo chính, nội chiến, chiến tranh biên giới...)

thì rất khó thu hút các dự án đầu tư hoặc đang là quốc gia thu hút nhiều dự

án nhưng bất ngờ xảy ra những biến động kể trên thì ngay lập tức các nhà

đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chuyển vốn về nước hoặc sang

nước khác, còn các nhà đầu tư mới được cấp giấy phép hoặc đang nghiên

cứu tiền khả thi sẽ “lặng lẽ” rút lui. Thực trạng này có thể thấy ở các nước

trong khu vực như: Philipines, Malaixia, Indonexia, Thái Lan... hoặc các

nước khác trên thế giới như CHLB Nga, Brazin... hoặc các nước đi theo

chủ nghĩa cực đoan như Apganistan, Algieri... thì chẳng có một nhà đầu tư

nào giám mạo hiểm thực hiện các dự án của mình.

Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu những năm 80 (khi ta mới chỉ có

Nghị định của Chính phủ về đầu tư nước ngoài và đất nước mới được giải

phóng) các nhà đầu tư còn thăm dò và chỉ đến khi chính sách của Đảng và

21

Nhà nước ta có nhiều thay đổi căn bản (chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập

trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng XHCN), có Bộ luật đầu tư nước ngoài khá hoàn

chỉnh và đặc biệt là tình hình chính trị-xã hội ở đất nước ta rất ổn định nên

mới thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể (khoảng 37 tỷ USD)

như ngày nay. Thêm vào đó, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều chuyển

biến tích cực có lợi cho việc mổ rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam nói

chung và của hợp tác đầu tư nói riêng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên

của ASEAN, tham gia APEC, ASEM...đang đàm phán gia nhập WTO, đã

ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, cùng với các chính sách đối ngoại

mềm dẻo trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ đã tạo ra lợi thế so sánh đáng kể của Việt Nam

trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

2.Sự phát triển về kinh tế.

Sự phát triển kinh tế ở đây được hiểu là sự phát triển đồng bộ về các

mặt: tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch

xuất nhập khẩu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các

loại. Thực tế cho thấy ở các nước phát triển, tốc độ thu hút vốn đầu tư nước

ngoài bao giờ cũng cao hơn các nước đang phát triển. Ở nước ta sự phát

triển về kinh tế chưa được coi là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vì hệ thống

giao thông tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn lộn xộn, hệ thống bưu

chính viễn thông có nhiều tiến bộ nhưng giá cước phí vẫn được xếp vào

hạng nhất nhì thế giới về đắt đỏ, hệ thống ngân hàng và các hoạt động dịch

vụ khác còn nhiều bất cập, chưa thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Nhìn vào

phân bố địa bàn đầu tư ở nước ta, chúng ta nhận ra ngay rằng chỉ ở các

thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng. Bà Rịa Vũng Tàu mới có

nhiều dự án hoặc ở các địa phương có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với

các nhà đầu tư như Bình Dương, Đồng Nai mới thu hút được nhiều dự án

22

đầu tư. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái,

Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên Giang, An Giang... Có rất ít thậm

chí không có dự án nào đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu kém, may ít rủi nhiều.

3.Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài.

Đây là một yếu tố không thể thiếu được của môi trường đầu tư. Hệ

thống pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia điều chỉnh hoạt

động đầu tư như Luật đầu tư, các Luật khác có liên quan đến hoạt động đầu

tư, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật (như Nghị

định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị) và Luật quốc tế áp dụng đối với quan

hệ đầu tư như các Hiệp định đa phương (Công ước MIGA, Hiệp định

khung về đầu tư ASEAN) và Hiệp định song phương về khuyến khích và

bảo hộ đầu tư. Nội dung các quy định của hệ thống pháp luật kể trên phải

đảm bảo hai vấn đề quan trọng, đó là các quy định về ưu đãi khuyến khích

đầu tư (như ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế, quyền hoạt động kinh doanh )

và các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp của

các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về luật...). Ngoài

ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài phải đảm

bảo tính đồng bộ, tính minh bạch, tức là không được mâu thuẫn, chồng

chéo và đặc biệt là phải mang tính ổn định, nhất quán. thực tế cho thấy để

đáp ứng yêu cầu này không hoàn toàn đơn giản đối với các nước đang phát

triển. Ở nước ta, mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy

đủ với nhiều quy định ưu đãi, bảo đảm đầu tư nhưng các văn bản hướng

dẫn thi hành luật lại vô cùng rắc rối, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau.

Đáng ngại hơn là việc áp dụng luật của các cơ quan thi hành pháp luật với

những thủ tục hành chính rườm rà, kém hiệu quả và thái độ nhũng nhiễu

của cán bộ thi hành. Điều này đôi khi dẫn đến tác hại không nhỏ đối với

môi trường đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu tư. Do vậy để cải thiện môi

trường pháp lý về đầu tư, ngoài việc sửa đổi và bổ sung thường xuyên các

23

quy định của pháp luật còn phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành pháp

luật để hạn chế những yếu kém về nghiệp vụ và nâng cao nhận thức của họ.

Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số

yếu tố khác như văn hoá, du lịch... Có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu

tư hấp với các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy ở các quốc gia giầu truyền

thống văn hoá, thái độ hiểu biết, cởi mở của người dân và là đất nước có

nhiều danh lam thắng cảnh thì số dự án đầu tư tăng lên nhiều hơn so với

các quốc gia chỉ có ba yếu tố cơ bản kể trên. Ở Việt Nam mặc dù chúng ta

có lợi thế về văn hoá, du lịch nhưng thực tế chưa khai thác hết thế mạnh

này, ngoài ra chưa kể đến có những lúc thái độ đối với các nhà đầu tư nước

ngoài còn thiếu thiện chí, chưa đánh giá đúng về vai trò của đầu tư nước

ngoài đối với đất nước mình...

Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài

cần phải tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư như đã

phân tích ở trên, đồng thời phải đặc biệt chú ý cải thiện môi trường pháp lý,

môi trường kinh doanh, tiến tới áp dụng một mặt bằng pháp lý và điều kiện

kinh doanh cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước.

Thêm vào đó cần chú trọng cải cách thủ tục hành chính, đào tạo đội ngũ

cán bộ và quan tâm đúng mức đến hoạt động xúc tiến đầu tư để cho mọi

người quan tâm đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có được ấn tướng tốt

đẹp về môi trường đầu tư ở Việt Nam.

24

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

CỦA SINGAPO TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000.

I.TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT

NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000:

1. Quy mô vốn và tình hình thực hiện dự án đầu tư .

Từ khi luật ĐTNN tại Việt Nam có hiệu lực cho đến năm 2000, Nhà

nước ta đã cấp giấy phép cho 3098 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là

38979,56 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho

238 dự án với mức 2998,43 triệu USD vốn đăng ký (chưa kể các dự án

của Vietsopetro) ( nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Biểu 1: Số dự án và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy

phép qua các năm

(Chưa kể các dự án của Vietsopetro)

Đơn vị: Triệu USD

325 Dù ¸n

370

345

275

343

269

197

332

278

151

108

68

37

9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0

8 8 9 1

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

3 9 9 1

4 9 9 1

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

Nguồn: Niên giám thống kê 1998, NXB Thống Kê, Hà Nội 2000

25

Dựa trên số liệu ở biểu 1 ta thấy nhịp độ thu hút ĐTTTNN của ta có

xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng

ký. Riêng năm1996, số dự án đã tăng nhanh một cách đáng kể, nguyên

nhân là do trong năm 1996 có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô

thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án

lớn( hơn 3 tỷ USD/ hai dự án ). Như vậy, xét trong suốt thời kỳ 1988-2000

thì năm 1995 được xem là năm đỉnh cao về thu hút ĐTTTNN của Việt

Nam cả về mặt số dự án , vốn đăng ký cũng như quy mô dự án .

Từ năm 1997, ĐTTTNN vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là

các năm1998,1999 và 2000 thì xu hướng giảm ngày càng thể hiện rõ rệt

hơn: nếu so với năm 1997 số dự án của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm

1999 chỉ bằng 80,58% còn năm 2000 bằng 96,23%. Tuy vậy, xét về mặt số

lượng vốn đăng ký thì năm 1998, 1999 và 2000 có chỉ số lần lượt tương

ứng là 83,83%; 33,01% và 40,09%. Sự suy giảm này phần nào là do sự tác

động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực năm 1997 đối với

hoạt động FDI vào Việt Nam (Khi mà khoảng 60-70% vốn FDI vào Việt

Nam là xuất phát từ các nước trong khu vực ASEAN, Hàn Quốc, Nhật

Bản, Đài Loan, Singapo) và nguyên nhân khác cũng không kém phần quan

trọng đó là sự sút giảm về khả năng hấp dẫn của môi trường ĐTNN tại Việt

Nam trước sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thu hút vốn ĐTNN của

các quốc gia khác trong cùng khu vực và trên thế giới.

Với quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988- 2000 là 11,59 triệu

USD/ dự án thì so với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu

hút FDI, quy mô dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là

không thấp. Nhưng điểm đáng quan tâm là quy mô dự án theo vốn bình

quân của năm 1999 và 2000 lại giảm đi một cách đột ngột và ở mức thấp

nhất từ trước tới nay( năm 1999: 5,52 triệu USD/ dự án ; năm 2000: 5,79

triệu USD/ dự án ) tức là chỉ bằng 43,87% và 46,02% quy mô bình quân

26

của thời kỳ 1988-2000 và chỉ bằng 31,27% và 32,80% quy mô dự án bình

quân của năm 1995 (xem chi tiết bảng 1).

Bảng 1: Quy mô dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm.

( Chưa kể các dự án của Vietsopetro)

STT Năm

1 2 3 Quy mô ( triệu USD/ DA) 10,05 8,57 7,77 1988 1989 1990

4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 8,76 11,00 10,78 10,98 17,65 26,15 13,48 14,17 5,52 5,79 150,67 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng

Nguồn :Niên giám thống kê 1998, NXb Thống Kê, HN 2000.

2. Hình thức và cơ cấu đầu tư.

a. Hình thức đầu tư

Liên doanh hiện là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước

ngoài tại Việt Nam. Với 1.047 dự án đang triển khai thực hiện chiếm

39,97% số dự án và tổng vốn đầu tư hơn 21,5 tỷ USD chiếm 62,5% tổng

vốn đầu tư của các dự án còn hiệu lực. Trong khi đó, các doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài có nhiều dự án hoạt động hơn ( 1434 dự án ), nhưng

tổng vốn đầu tư lại chỉ đạt 10,5 tỷ USD chiếm 28,99% tổng vốn đầu tư

(xem chi tiết bảng 2). Đặc điểm này phản ánh sự hiểu biết của các nhà đầu

tư nước ngoài tại Việt Nam còn hạn chế . Do đó, họ thường chọn hình thức

27

liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt

động của liên doanh hiệu quả hơn, thay vì hình thức doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài. Nhưng sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu

tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã có điều kiện để hiểu biết hơn

về pháp luật, chính sách,phong tục tập quán và các hình thức hoạt động

kinh doanh ở Việt Nam. Cho nên, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các nhà

đầu tư nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng lên

Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư, 1988 -

2000.

( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )

Hình thức đầu tư

Số dự

Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định

Vốn thực hiện

án

BOT

4

415,125,000

140,030,000

37,112,500

Hợp đồng hợp tác kinh doanh

134

3,932,333,053

3,331,320,867

3,214,335,674

DN 100% vốn nước ngoài

1,434

10,553,671,105

4,636,969,393

4,789,122,074

DN Liên doanh

1,047

21,503,053,259

8,311,041,762

9,635,915,087

Tổng số

2,619

36,404,182,417

16,419,362,022

17,676,485,335

Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ngoài hai hình thức trên, đầu tư hợp đồng hợp tác kinh doanh và các

dự án BOT cũng được triển khai ở Việt Nam đạt 138 dự án chiếm 5,2% số

dự án, với vốn đầu tư hơn 4,3 tỷ USD chiếm 11,9% tổng vốn đầu tư.

b. Cơ cấu đầu tư.

28

Qua các năm, cơ cấu đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu

cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng các dự án thuộc các lĩnh vực sản

xuất ngày càng tăng. Nếu trong những năm đầu, vốn đầu tư tập trung chủ

yếu trong các ngành dầu khí (32%) và khách sạn (20,6%), thì từ năm 1991

nhất là trong các năm 1994, 1995 và đầu năm 1996 đầu tư nước ngoài vào

công nghiệp tăng đáng kể (nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Có được kết

quả này là do Chính phủ đã có những chính sách, đường lối đúng đắn nhằm

kích thích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp

như như giảm thuế, đơn giản các thủ tục cấp giấy phép đầu tư … và đặc

biệt là vào năm 1991với chiến dịch mở rộng và nâng cấp các Khu công

nghiệp-Khu chế xuất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành công

nghiệp, góp phần xây dựng sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.

Bảng 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, 1988 - 2000.

( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )

Chuyên ngành Số dự án Vốn đăng ký Tỷ Vốn thực hiện Tỷ

trọng trọng

(%) (%)

Công nghiệp 1,639 19,366,246,780 53,19 11,008,321,116 62,27

Nông,lâm,ngư 343 2,110,402,256 5,79 1,112,070,909 6,29

nghiệp

Dịch vụ 637 14,927,533,381 41,02 5,556,093,310 31,54

Bao gồm: khách

sạn, du lịch, xây

dựng văn phòng,

29

căn hộ cho thuê và

một số dịch vụ khác

Tổng số 2619 36,404,182,417 100 17,676,485,335 100

Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Theo số liệu bảng 3, ngành công nghiệp với 1.639 dự án đang hoạt

động chiếm 62,58% số dự án, vốn đầu tư đạt 19.366 triệu USD chiếm

53,19% tổng vốn đầu tư, vốn thực hiện 11.008 triệu USD chiếm 62,27%

tổng vốn thực hiện. Lĩnh vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang

chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất công nghiệp của nước ta hiện nay;

các chỉ số thống kê cho thấy, chỉ riêng giá trị của ngành dầu khí với vốn

đầu tư gần 3,3 tỷ USD đã chiếm 17% tổng vốn đầu tư của ngành công

nghiệp. Quy mô đầu tư cho một dự án của ngành công nghiệp và xây dựng

khoảng 12 triệu USD, trong đó lớn nhất là các dự án khai thác dầu khí 93

triệu USD/dự án.(nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Tiếp sau là ngành nông, lâm, ngư nghiệp với 343 dự án, chiếm 13,1%

số dự án với vốn đầu tư đạt 2.110 triệu USD chiếm 5,79% tổng vốn đầu tư,

vốn thực hiện đạt 1.112 triệu USD chiếm 6,29% tổng vốn thực hiện. Các

nhà chuyên môn nhận định rằng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong ngành

nông nghiệp đã góp phần không nhỏ đối với việc xây dựng cơ sở vật chất,

nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh và giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành. Được biết, trung bình mỗi năm ngành nông nghiệp tiếp nhận 26 dự

án đầu tư nước ngoài với số vốn 174 triệu USD. Theo báo cáo của Vụ

Quản lý và Quy hoạch-Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, thì trong

điều kiện ngành nông nghiệp còn thiếu vốn đầu tư như hiện nay, đầu tư

nước ngoài đã và sẽ là một nguồn lực quan trọng đối với ngành. Mặt khác,

các sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh

vực nông nghiệp đã góp phần đáng kể trong tổng kim xuất khẩu chung của

30

toàn ngành. Quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong ngành

nông,lâm, ngư nghiệp tương đối thấp so với các ngành khác, trong đó các

dự án đầu tư vào ngành thuỷ sản chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án.

Kế tiếp là ngành dịch vụ với 637 dự án chiếm 24,3% tổng số dự án,

trong đó vốn đầu tư là 14,927 tỷ USD chiếm 41,02% tổng vốn đầu tư, vốn

thực hiện đạt 5,556 tỷ USD chiếm 31,54% tổng vốn thực hiện. Quy mô đầu

tư bình quân cho một dự án của ngành dịch vụ lớn nhất (khoảng 25 triệu

USD/dự án).

c. Cơ cấu đầu tư theo vùng

Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng có điều kiện thuận lợi

về hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, dịch vụ...; còn những vùng kinh tế-xã hội khó

khăn thì tỷ lệ đầu tư nước ngoài còn rất thấp, vì vậy tạo ra sự bất hợp lý về

đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Với mong muốn hoạt động đầu tư nước

ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nên Chính phủ đã có những

chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng

có điều kiện kinh tế khó khăn; miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Bảng 4: Cơ cấu đầu tư theo vùng, 1988 - 2000.

Đơn vị: triệu USD

STT Vùng Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng %

1 Đông Nam Bộ 2 Đồng Bằng Sông Hồng 3 Duyên Hải Nam Trung Bộ 4 Đông Bắc 5 Đồng Bằng Sông Cửu Long 6 7 8 Bắc Trung Bộ Tây Nguyên Tây Bắc

19.343 10.775 2.782 1.623 895 866 58 55 36.404 53,15 29,6 7,65 4,46 2,46 2,38 0,16 0,15 100%

Tổng cộng Nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

31

Số liệu của bảng 4 cho thấy, vùng kinh tế Đông Nam Bộ có ưu thế

vượt trội với hàng loạt khu chế xuất, khu công nghiệp và các cơ sở kinh tế

quan trọng, đầu tầu trong thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong phát

triển kinh tế với tổng vốn đầu tư 19.343 triệu USD, chiếm 53,15% tổng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Vùng kinh tế này gồm thành phố

Hồ Chí Minh được coi là địa bàn hấp dẫn đầu tư nhất, vì đa số dự án tiếp

nhận mới đều đăng ký hoạt động tại đây với 905 dự án, tổng vốn đầu tư là

9.651 triệu USD chiếm 26,5% tổng vốn đầu tư của toàn vùng. Đồng Nai,

Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tầu đều là các đơn vị đi đầu trong thu hút đầu

tư nước ngoài với số dựa án là 699 và tổng vốn đầu tư 7.937 triệu USD

chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư của toàn vùng (nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế

hoạch và Đầu tư). Đặc biệt đây là vùng kinh tế tập trung hầu như toàn bộ

khu chế xuất, trong đó khu chế xuất Tân Thuận được đánh giá là khu chế

xuất thành công nhất Đông Nam Á và thứ ba Châu Á.

Đứng thứ hai là vùng kinh tế Đồng Bằng Sông Hồng có tổng vốn đầu

tư 10.775 triệu USD, chiếm 29,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào Việt Nam. Trong đó, Hà Nội đứng thứ hai toàn quốc về thu hút đầu tư

có 363 dự án với tổng vốn đầu tư 7.705 triệu USD, chiếm 21,2% tổng vốn

đầu tư của toàn vùng (nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Tiếp theo là vùng kinh tế Duyên Hải Nam Trung Bộ đứng thứ ba toàn

quốc với tổng vốn đầu tư 2.782 triệu USD, chiếm 7,64% tổng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên nếu không tính nhà máy lọc

dầu Dung Quất thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn kém cả đồng bằng

Sông Cửu Long ( xem chi tiết biểu 2)

32

§«ng Nam Bé §ång b»ng S«ng Hång Duyªn H¶i Nam Trung Bé §«ng B¾c §ång b»ng S«ng Cöu Long B¾c Trung Bé T©y nguyªn T©y B¾c

Biểu 2: Tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng, 1988-2000.

Nguồn: VQLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Còn 5 vùng Đông Bắc, đồng bằng Sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Tây

Nguyên, Tây Bắc là những vùng kinh tế gặp nhiều khó khăn nên tỷ lệ thu

hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn ở tỷ lệ thấp.

II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA

SINGAPO VÀO VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1988- 2000 :

1. Khái quát về quan hệ hợp tác kinh tế - kỹ thuật - phát triển giữa

Singapo và Việt Nam.

Một biểu tượng thành công của sự hợp tác kinh tế - kỹ thuật giữa hai

nước là dự án xây dựng khu công nghiệp Việt Nam - Singapo (VSIP) ở tỉnh

Bình Dương. Đây là dự án hợp tác giữa chính phủ hai nước. Thủ tướng

Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Singapo Goh Chock Tong đã tham

dự lễ động thổ xây dựng VSIP tháng 05/1996. Khu công nghiệp này được

xây dựng trên một diện tích 500 hecta với tổng số vốn đầu tư xây dựng

trong giai đoạn đầu (1996-1998) là 52,5 triệu USD. Trong giai đoạn này,

trên 70% diện tích đất đai và một nửa số nhà máy, công xưởng đã được xây

33

dựng. Từ năm 1998 VSIP đã bước vào xây dựng ở giai đoạn thứ hai. Tính

đến đầu năm 1999 số vốn đầu tư xây dựng VSIP đã lên đến 85 triệu USD.

Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính đã có những tác động xấu đến

sự phát triển kinh tế trong khu vực, VSIP vẫn đạt được bước phát triển đều

đặn, đúng kế hoạch ban đầu đặt ra. Tính đến tháng 02/1999 VSIP đã thu

hút 33 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư 380 triệu USD. Diện tích cho

thuê của khu công nghiệp hiện nay đạt trên 50% diện tích, thu hút được 52

dự án (50 dự án đầu tư nước ngoài ), đã có 32 dự án đi vào hoạt động sản

xuất kinh doanh. Doanh thu năm1999 đạt 2,04 triệu USD , ước năm 2000

doanh thu đạt 5,67 triệu USD (nguồn Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Cùng với việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp Việt Nam -

Singapo, chính phủ hai nước đã thống nhất về việc thành lập một Trung

tâm đào tạo kỹ thuật Việt Nam - Singapo (VSTTC). Tháng 09/1997,

VSTTC bắt đầu được khởi công xây dựng với kinh phí xây dựng 10 triệu

USD, đánh dấu một giai đoạn mới của sự hợp tác kỹ thuật và đào tạo kỹ

thuật của hai nước. VSTTC có cơ sở hạ tầng hiện đại, thiết bị đào tạo chất

lượng cao, với phương pháp đào tạo kỹ năng thực hành liền tay để đảm bảo

cho học sinh tốt nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật có thể làm

việc cho khu công nghiệp VSIP.

Hai công ty đa quốc gia hàng đầu của Singapo là công ty Festo và

công ty Mitutoyo Asia Pacific đã lắp đặt hai phòng thí nghiệm đặc biệt:

Phòng thí nghiệm đo lường Mitutoyo để giảng dạy cho học sinh những

công nghệ tiên tiến nhất. Đội ngũ giảng viên của VSTTC bao gồm các

chuyên gia Singapo và các chuyên gia Việt Nam được đào tạo tại Viện kỹ

thuật quốc gia Singapo. Tháng 09/1998, VSTTC đã khai giảng khoá học

đầu tiên. Những học viên sau khi tốt nghiệp sẽ được tuyển dụng vào khu

công nghiệp Việt Nam - Singapo và tiến tới sẽ trở thành công nhân lành

nghề cho các khu công nghiệp khác ở nước ta.

34

Bên cạnh đó phải kể đến sự hỗ trợ phát triển chính thức của Singapo

giành cho Việt Nam thông qua các nguồn từ Quỹ hỗ trợ Đông dương.

Chương trình Hợp tác Kỹ thuật song phương và chương trình Hợp tác cho

phát triển bền vững. Ngoài ra, Chính phủ Singapo còn đào tạo cho các cán

bộ Việt Nam thông qua chương trình hợp tác với nước thứ ba. Các chương

đào tạo chủ yếu tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như : Môi trường ,

Năng lượng, Thương mại, Hành chính công , Công nghệ thông tin, Du lịch,

Cơ khí, Giáo dục đào tạo, Giao thông vận tải, Khí tượng thuỷ văn, Y tế,

Bưu chính viễn thông và Ngân hàng-Tài chính.

Trong năm 2000 đã có 203 cán bộ Việt Nam được đào tạo tại

Singapore về các lĩnh vực nói trên, trong đó có 37 cán bộ được đào tạo

trong khuôn khổ Quỹ hỗ trợ Đông dương; 35 cán bộ được đào tạo trong

khuôn khổ Chương trình Hợp tác Kỹ thuật song phương và Chương

trình Hợp tác cho phát triển bền vững; 131 cán bộ được đào tạo trong

khuôn khổ Chương trình hợp tác với nước thứ ba.

Ngoài các suất học bổng nói trên, Chính phủ Singapo còn hỗ trợ cho

Việt Nam ( Tổng cục đo lường, Tiêu chuẩn, Chất lượng )01 dự án hỗ trợ kỹ

thuật về Tiêu chuẩn hoá-Đo lường và Chất lượng với giá trị 437.651USD (

trong khuôn khổ Quỹ hỗ trợ Đông dương ). Đến nay, dự án đã đi vào hoạt

động, triển khai được một số nội dung cụ thể, trong đó một số lớp đào tạo

ngắn hạn đã được tổ chức tại Việt Nam và Singapo .

2.Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo.

Để thu hút FDI, Singapo đã đầu tư nhiều vào giáo dục và rèn luyện

những kỹ năng kỹ thuật, đầu tư vào kết cấu hạ tầng mà các công ty xuyên

quốc gia coi trọng. Khi cần thiết, Singapo đã sử dụng các công ty của

Chính phủ để thúc đẩy chương trình phát triển, mặc dù những công ty này

hoạt động trên cơ sở thương mại là cơ bản.

35

Singapo, đất nước đô thị với nguồn tài nguyên rất hạn chế sẽ phụ

thuộc vào tái xuất khẩu, thế hệ thứ nhất các nhà lãnh đạo Singapo đã ý thức

được đặc thù đó và đã xây dựng chiến lược công nghiệp của họ dựa trên cơ

sở chính sách lao động toàn diện, tức là dựa trên nguồn lực con người. Kế

hoạch 5 năm lần thứ nhất của Singapo đã chú trọng đến giáo dục kỹ thuật,

xây dựng trường học và kế hoạch hoá gia đình. Đó là những nội dung nòng

cốt để tạo ra người lao động trí tuệ. Chương trình hoạt động chính trị bao

gồm việc ban hành Bộ Luật lao động. Bộ Luật đã xây dựng thành hệ thống

những quy định nghề nghiệp trên toàn quốcvà phác họa lợi ích của người

nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, Luật các

quan hệ công nghiệp đã mở đường cho những hiệp định thương lượng 3

năm. “Hội đồng lương quốc gia” là một tổ chức gồm 3 lực lượng xã hội

(kinh doanh, chính phủ và lao động) thành lập năm 1972 nhằm cải tiến tiền

lương dựa trên cơ sở những thành tựu sản xuất và chi phí cuộc sống. Đây là

cơ sơ nhằm bảo đảm tính ổn định và hoà hợp của mọi tầng lớp xã hội.

Đồng thời tiền lương là công nhằm đảm bảo tính cạnh tranh. Nhà nước can

thiệp vào thị trường lao động bằng các chính sách xã hội như: chính sách

nhà ở, nhằm cải thiện điều kiện sống và chính sách giáo dục, đào tạo nhằm

nâng cao năng lực sáng tạo cũng như nâng cao chất lượng và tính phong

phú của đời sống cho người lao động.

Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ đã quyết định

thúc đẩy công nghệ cao. Trong những năm 70, Chính phủ cũng đưa ra một

chính sách tiền lương cao nhằm nhanh chóng loại bỏ những ngành công

nghiệp truyền thống cần nhiều lao động. Chính sách này đã thúc đẩy được

đầu tư trong các ngành công nghiệp điện tử, máy móc, dược phẩm và các

sản phẩm chính xác. Tuy vậy, đến năm 1985 Singapo đã trải qua giai đoạn

khủng hoảng đầu tiên. Để khỏi phải phá giá đồng tiền, Chính phủ đã quyết

định giảm những chi phí lao đông do đóng góp của các chủ doanh nghiệp

36

vào Quỹ tiết kiệm Trung Ương. Việc cắt giảm hoàn toàn 12% lương diễn ra

êm thấm vì phong trào công đoàn đã liên kết với Chính phủ và giới lãnh

đạo chính trị. Để có hiệu lực Chính phủ đã cố gắng đề cao lực lượng lao

động nhằm thu hút các công ty đa quốc gia vào hoạt động, điều chỉnh giá

cả, nâng cao các kỹ năng và sửa đổi các biện pháp khuyến khích tài chính

nhằm thay đổi hình thức thương mại và đi đầu trong cuộc cạnh tranh với

các nước trong khu vực.

Như vậy, thông qua việc can thiệp vào thị trường lao động, Chính phủ

Singapo đã thúc đẩy được sự phát triển của sức sản xuất và thay đổi cơ cấu

kinh tế, tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ của thế giới.

Trong giai đoạn hiện nay để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Singapo

đã xây dựng một số biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông

thoáng hơn, tạo một “sân chơi ” công bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Về hình thức đầu tư, các công ty nước ngoài hoạt động tại Singapo có

thể lựa chọn một trong hai hình thức sau:

 Công ty tư nhân trách nhiệm hữu hạn; hoặc

 Đăng ký hoạt đông với tư cách là chi nhánh của công ty nước

ngoài.

 Mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

Nhà đầu tư nước ngoài có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ

phiếu, trái phiếu và vay tổ chức tài chính trong nước cũng như nước ngoài.

Về nguyên tắc, các công ty nước ngoài chỉ có thể thuê đất. Thời hạn

cho thuê đất lần đầu tối đa là 30 năm và có thể được gia hạn đến 60 năm.

Công ty nước ngoài có thể mua nhà xưởng. Người nước ngoài được phép

mua nhà ở với một số nhất định.

3.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo tại Việt Nam.

37

Đầu tư trực tiếp là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong quan hệ

kinh tế giữa hai nước Việt Nam và Singapo. Trong thập kỷ 70, Singapo đã

bắt đầu thăm dò khả năng đầu tư vào Việt Nam. Tuy vậy, khi xẩy ra vấn đề

của Campuchia, Singapo đã ban hành lệnh cấm vận đầu tư vào Việt Nam.

Năm 1991 sau khi Hiệp định hoà bình về Campuchia được ký kết, Singapo

đã xoá bỏ lệnh cấm vận đầu tư vào Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu

tư, từ năm 1991 đầu tư trực tiếp từ Singapo vào Việt Nam tăng lên nhanh

chóng. Đến tháng 10/1993, tức là chỉ trong vòng 2 năm, Singapo đã xếp

thứ 9 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, với tổng số vốn đầu tư

lên tới 225,3 triệu S$. Phần lớn các dự án đầu tư tập trung vào các ngành

như kinh doanh bất động sản, thức ăn,đồ uống đến vật liệu xây dựng.

Đến năm 1994, với 51 dự án được cấp giấy phép và tổng số vốn đầu

tư lên tới 385 triệu USD, Singapo đã trở thành nhà đầu tư thứ 8 trong số 10

nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam.

Với tốc độ phát triển nhanh chóng như vậy, tính đến ngày 31/12/2000

với các số liệu cập nhập được, Singapo hiện đang dẫn đầu các nước và

vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (hiện còn 58

quốc gia và vùng lãnh thổ hiện còn dự án đầu tư tại Việt Nam) thu hút 236

dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 6.744 triệu USD, vốn pháp định 2.079

triệu USD và đầu tư thực hiện đạt 1,944 triệu USD (Xem chi tiết biểu 3).

Các dự án đầu tư của Singapo đều được triển khai tốt. Đến nay đã có 172

dự án, góp 1.994 triệu USD vào vốn thực hiện, chiếm 29% tổng số vốn đầu

tư của Singapo vào Việt Nam. Trong đó, 126 dự án góp vốn đã đi vào sản

xuất kinh doanh, có tổng doanh thu trong năm 2000 ước đạt 461 triệu USD,

xuất khẩu đạt 50 triệu USD, tạo việc làm cho hơn 20 nghìn lao động trực

tiếp, chưa kể hàng vạn lao động gián tiếp khác trong xây dựng cơ bản và

dịch vụ ( nguồn: Vụ Quản Lý Dự Án Đầu Tư Nước Ngoài).

38

Biểu 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước, 1988 - 2000.

( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )

Đơn vị: Triệu USD

236 Dù

618

Vèn ®Çu t­

301

260

Vèn ph¸p ®Þnh

208

101

108

34

Vèn thùc hiÖn

40

33

7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0

n ¶ B

p ¸ h P

n i g r i

n a o L

n a L µ H

o p a g n i S

i µ §

t Ë h N

c è u Q n µ H

c è u Q h n A

g n « K g n å H

V h s i t i r B

a g N g n a B n ª i L

Nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Mặc dù vào Việt Nam tương đối muộn so với các nước khác, nhưng

các doanh nghiệp Singapo đã lần lượt vượt qua Đài Loan, Nhật Bản và Hàn

Quốc để trở thành nước đầu tư lớn nhất với số vốn đăng ký (6.744 triệu

USD) chiếm 23,27% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của 10 quốc

gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (xem chi tiết biểu 4).

Biểu 4: Tỷ trọng vốn đăng ký theo các nước đầu tư vào Việt Nam,

1988-2000.

( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )

4,01

4,07

5,55

23,27

6,09

6,31

9,28

17,15

10,87

13,4

Singapo §µi Loan NhËt B¶n Hµn Quèc Hång K«ng Ph¸p British Virgin islands Liªn Bang Nga Hµ Lan Anh Quèc

39

Quy mô vốn đầu tư bình quân mỗi dự án khoảng 28,6 triệu USD, cao

nhất trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Singapo có

26 dự án với quy mô vốn đầu tư lớn hơn 40 triệu USD, tập trung vào các

ngành nghề như xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn, văn phòng,

căn hộ và công nghiệp, cụ thể như sau: (Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế

hoạch và Đầu tư)

- Nhà máy bia Việt Nam, sản xuất bia Heineken, đối tác nước ngoài

là Công ty Asia Pacific Breweries Limited-Singapo thuộc tập đoàn

Heineken. Tổng vốn đầu tư 93 triệu USD, vốn pháp định 33,72 triệu USD.

Doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp định, sản phẩm có doanh thu cao, doanh

thu năm 1999 đạt 101 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 89 triệu

USD.

- Công ty liên doanh khách sạn Chains Caravelle, mục tiêu của dự án

là xây dựng, năng cấp khách sạn Caravelle đạt tiêu chuẩn quốc tế 4 sao với

353 phòng, tổng vốn đầu tư 61,5 triệu USD, vốn pháp định 18,57 triệu

USD, vốn đầu tư thực hiện 58 triệu USD. Doanh nghiệp chính thức hoạt

động vào đầu năm 2000, doanh thu7,31 triệu USD, lỗ 3,9 triệu USD.

- Công ty liên doanh căn hộ và văn phòng Sài gòn-Somerset Chancel,

mục tiêu của dự án là xây dưng khu căn hộ và văn phòng cho thuê. Tổng

vốn đầu tư là 42 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 47 triệu USD. Doanh thu

năm 1999 đạt 4,5 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 4,28 triệu USD.

- Công ty quốc tế Hồ Tây, mục tiêu xây dựng khu liên hợp gồm

khách sạn, cửa hàng bán thực phẩm ở số 3 Phó Đức Chính, Hà Nội. Tổng

vốn đầu tư 69,9 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 68,988 triệu USD. Doanh

40

thu năm 1999 đạt 2,32 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 2,2 triệu

USD.

- Xí nghiệp liên doanh trách nhiệm hữu hạn Carnaudmeta Box

Saigon, với mục tiêu sản xuất lon nhôm 2 mảnh và nắp dễ mở, tổng vốn

đầu tư 104,9 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 59,9 triệu USD. Doanh

nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, doanh thu năm 1999 đạt 29,55 triệu

USD; xuất khẩu năm 1999 đạt 1,04 triệu USD. Doanh thu năm 2000 ước

đạt 24,98 triệu USD, xuất khẩu năm 2000 ước đạt 1,49 triệu USD.

- Công ty liên doanh Đại dương, mục tiêu xây dựng khách sạn 5 sao

và văn phòng tại 80 Đông Du, tổng vốn đầu tư 97 triệu USD, vốn đầu tư

thực hiện 96,4 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng

01/1999, đến nay vẫn chưa có doanh thu.

- Công ty liên doanh gạch men Mỹ An, với mục tiêu sản xuất gạch

men, men sứ, bột kaolin, tổng vốn đầu tư 46,4 triệu USD, vốn đầu tư thực

hiện 37,2 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng 01/1996,

hoạt động tốt, doanh thu cao và bắt đầu có lãi từ năm 2000. Doanh thu năm

1999 đạt 15 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 11,1 triệu USD.

- Công ty liên doanh phát triển tiếp vận số 1 với mục tiêu xây dựng

và kinh doanh khu cảng Tân Thuận, tổng vốn đầu tư 53,6 triệu USD, vốn

đầu tư thực hiện 53,6 triệu USD. Công ty đã đi vào hoạt động từ tháng

11/1998, doanh thu năm 1999 đạt 2,28 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước

đạt 6,3 triệu USD.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn vườn Hoàng Viên-Quảng Bá, với mục

tiêu xây dựng các công trình căn hộ, khách sạn, biệt thự. Chủ đầu tư là tập

đoàn Keppel Corp Ltd (tập đoàn tài chính lớn nhất của Singapo) với tổng

vốn đầu tư 50,93 triệu USD, đầu tư thực hiện 37,5 triệu USD. Doanh

41

nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng 01/1998, doanh thu năm 1999 đạt 2,8

triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 2,76 triệu USD.

- Công ty phát triển khu công nghiệp Long Bình LOTECO, xây dựng

cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Long Bình. Đối tác nước ngoài là công ty

Nissho Iwai Techno Park Holding Pte., Singapo thuộc tập đoàn Nissho

Iwai-Nhật Bản, đối tác Việt Nam là Công ty May 28-Bộ Quốc Phòng. Tổng

vốn đầu tư là 41 triệu USD, đầu tư thực hiện 21 triệu USD.Doanh nghiệp

đã đi vào hoạt động từ tháng10/1997. Doanh thu năm 1999 đạt 295 nghìn

USD, doanh thu năm 2000 ước 384 nghìn USD.

- Công ty liên doanh nhà máy bia Hà Tây, đối tác nước ngoài là Công

ty Asia Pacific Breweries Ltd-Singapo thuộc tập đoàn Heineken. Tổng vốn

đầu tư 190 triệu USD, đầu tư thực hiện 55 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi

vào hoạt động từ tháng 04/1999. Doanh thu năm 1999 đạt 18,4 triệu USD,

doanh thu năm 2000 ước đạt 34,5 triệu USD.

a. Hình thức đầu tư của Singapo.

Các dự án đầu tư của Singapo chủ yếu tập trung dưới hình thức liên

doanh với 103 dự án, chiếm 52,5% số dự án. Sau đó đến xí nghiệp 100%

vốn nước ngoài với 103 dự án, chiếm 43,3% số dự án và số dự án hợp

doanh là rất nhỏ, 10 dự án chiếm 4,2% số dự án (xem bảng 5). Sở dĩ như

vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi

nhiều giấy tờ lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp,

trong khi đó nhà đầu tư Singapo còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế -

xã hội và pháp luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch,

quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có

được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức

thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư

42

Singapo thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo

các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.

Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các

nhà đầu tư Singapo có điều kiện để hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách

phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự am

hiểu của họ được nâng lên trong điều kiện các thủ tục cấp phép của Việt

Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn

trước, và cùng với sự xuất hiện các tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư nước

ngoài thực hiện các thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh của các

dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam để tiến

hành các thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng

kể. Không những thế, khi tham gia liên doanh khả năng của phía Việt Nam

thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu

tư Singapo không muốn chia sẻ quyền điều hành doanh nghiệp với bên Việt

Nam trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang

ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối.

Bảng 5: Đầu tư của Singapo vào Việt Nam theo hình thức đầu tư,

1988-2001.

(tính tới ngày 23/02/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

Phân ngành Số Tỷ Vốn đăng ký Vốn thực hiện Doanh Lao

43

trọng(%) (triệu USD) thu động

dự án 100% vốn nước ngoài 103 125 Liên doanh 10 Hợp doanh 238 Tổng số 43,3 52,5 4,2 100 (triệu USD) 415 1.562 83 2.060 354 1.855 26 2.235 6.844 12.880 385 20.109

895 5.800 53 6.748 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Qua số liệu bảng 5, cho thấy tính tới ngày 23/02/2001 Singapo là một

nước hiện đang dẫn đầu về số dự án với 238 dự án, trong đó:

- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với vốn đăng ký đạt 895

triệu USD chiếm 13,2% tổng vốn đăng ký; vốn đầu tư thực hiện đạt 415

triệu USD, chiếm 46% so với vốn đăng ký; doanh thu 354 triệu USD, đáp

ứng việc làm cho 6.844 lao động. Các dự án như: sản xuất ngọc trai Khánh

Hoà, chế biến thực phẩm tại thành phố HCM, Sơn Nippon, sản xuất đá

granit Bình Dương, công ty trách nhiệm hữu hạn vườn Hoàng Viên -

Quảng Bá... Ngoài ra, còn nhiều dự án tập trung sản xuất hàng tiêu dùng

như: đồ nhôm, nhựa kéo, sản xuất thực phẩm chế biến và đồ uống...

- Doanh nghiệp liên doanh với 125 dự án chiếm 52,5% số dự án;

vốn đăng ký đạt 5.800 triệu USD chiếm 85,9% tổng vốn đăng ký; vốn đầu

tư thực hiện chỉ đạt 27% so với vốn đăng ký (tốc độ giải ngân của các dự

án thuộc liên doanh thấp hơn các dự án thuộc doanh nghiệp 100% vốn

nước ngoài, trong khi vốn đầu tư cao hơn rất nhiều). Các dự án tập trung

chủ yếu trong lĩnh vực khách sạn, dịch vụ, sản xuất bìa catton để làm bao bì

hàng hoá... doanh thu đạt 1.855 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho

12.880 lao động .

- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với 10 dự án, chiếm

4,2% số dự án, vốn đăng ký đạt 53 triệu USD, vốn thực hiện 83 triệu USD.

Nhưng mới có 20% số dự án đã đi vào hoạt động, doanh thu chỉ dừng lại ở

44

con số khiêm tốn 26 triệu USD, tạo việc làm cho 385 lao động. Số còn lại

xin gia hạn và tiếp tục hoàn thiện thủ tục hành chính (xem chi tiết biểu 4).

Biểu 4: Tỷ trọng vốn đăng ký và vốn thực hiện theo hình thức đầu tư

của Singapo vào Việt Nam, 1988-2000.

(tính tới ngày 23/02/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

100% Vèn n­íc ngoµi

100% Vèn n­íc ngoµi

Liªn doanh

Liªn doanh

Hîp doanh

Hîp doanh

a- Tỷ trọng theo vốn đăng ký. b- Tỷ trọng theo vốn thực hiện.

b. Cơ cấu đầu tư.

*Đầu tư theo cơ cấu ngành.

Các dự án của Singapo đã đầu tư vào tất cả các ngành kinh tế quốc dân của Việt

Nam , đặc biệt là các lĩnh vực như xây dựng khu đô thị mới, công nghiệp thực

phẩm, xây dựng căn phòng - căn hộ…

Bảng 6: Đầu tư của Singapo vào Việt Nam phân theo ngành,1988-2000.

(tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

45

Chuyên ngành Số dự án Vốn đăng ký Tỷtrọng Vốn thực hiện Tỷtrọng

(%) (%)

Công nghiệp 1,401,724,800 20,78 745,480,935 37,37 96

170,855,469 2,54 95,286,773 4,78 27 Nông,lâm,ngư

nghiệp

Dịch vụ 113 5,172,354,013 76,68 1,154,012,290 57,85

Bao gồm: khách

sạn, du lịch, xây

dựng văn phòng,

căn hộ, cho thuê,

xây dựng khu đô thị

mới và một số dịch

vụ khác

Tổng số 236 6,744,934,282 100 1,994,779,998 100

Nguồn:Vụ QLDA - Bộ KH & ĐT

Theo số liệu bảng 6, ta thấy đầu tư của Singapo tập trung vào lĩnh vực

dịch vụ bao gồm xây dựng khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, du

lịch…với 113 dự án, chiếm 47,88% tổng số dự án đầu tư vào Việt Nam,

vốn đăng ký đạt 5.172 triệu USD chiếm 76,68% tổng vốn đầu tư vào Việt

Nam, vốn thực hiện 1.154 triệu USD chiếm 57,85% tổng vốn thực hiện. Có

được kết quả đó là do xây dựng khu đô thị mới với 2 dự án, vốn đầu tư đạt

2.230 triệu USD chiếm 33% tổng vốn đầu tư, tuy nhiên, vốn thực hiện 394

nghìn USD chỉ đạt 0.02% so với vốn đăng ký-tốc độ giải ngân chậm.

(nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là những vấn

đề nội bộ phát sinh từ phía Việt Nam. Quá trình quy hoạch tổng thể đã

46

được triển khai nhưng quy hoạch bộ phận vẫn chưa được quán triệt đến

từng hộ gia đình. Bên cạnh đó, vấn đề tái định cư cho các hộ dân ở khu vực

cần quy hoạch đang gặp nhiều khó khăn. Một số hộ dân chấp nhận mức

đền bù của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tán thành việc di chuyển

định cư ở nơi khác. Song cũng có không ít hộ gây khó khăn, không chịu

chuyển đi do những lý do về thay đổi thu nhập, ảnh hưởng đến công việc

hàng ngày hoặc không chấp nhận mức đền bù...

Lĩnh vực công nghiệp thu hút 96 dự án, vốn đăng ký 1.401 triệu USD

chiếm 20,78% tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư thực hiện 745 triệu USD,

chiếm 37,37% tổng vốn thực hiện và chiếm 53,13% vốn đăng ký ở ngành

công nghiệp (tốc độ giải ngân khá nhanh), doanh thu đạt 1. 965 triệu USD,

giải quyết hơn 7000 lao động có công ăn việc làm (nguồn: Bộ Kế hoạch và

Đầu tư). Tong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp dầu khí chỉ nhận

được hai dự án đầu tư của Singapo với số vốn đăng ký 56 triệu USD nhưng

vốn thực hiên đạt tới hơn 71 triệu USD ( nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH & ĐT).

Như vậy, tốc độ giải ngân ở ngành dầu khí là rất nhanh. Sở dĩ có được

thành tựu trên bởi vì công nghiệp dầu khí là một ngành đặc trưng có quy

hoạch ngành cụ thể , có nhiều khâu, nhiều nấc như thăm dò, khai thác, lọc

dầu…Cho nên, vốn thực hiện các dự án thuộc ngành chiến lược này là rất

cao. Điều này cũng lý giải phần nào cho tiến trình giải ngân nhanh tại các

ngành công nghiệp nói chung ở Việt Nam .

Trong khi đó, ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp chỉ thu hút được một

lượng đầu tư khiêm tốn từ đối tác Singapo. Nguyên nhân là do đầu tư của

Singapo ở các tỉnh miền núi, nông thôn còn chưa đáng kể. Tuy vẫn là

những địa bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nông-lâm nghiệp

và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng do điều do điều kiện

khó khăn, thiên tai, nguồn nhiên liệu không ổn định nên các dự án đầu tư

nước ngoài của Singapo vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp ở các vùng này vẫn

47

còn hạn chế.Vốn đăng ký 170 triệu USD chỉ chiếm 2,54% tổng vốn đầu tư.

Vốn đầu tư thực hiện đạt 95 triệu USD chiếm 4,78% tổng vốn thực hiện.

Nhìn chung, tốc độ giải ngân, số lượng dự án của Singapo vào các

ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam là chưa đồng đều. Nếu như tỷ lệ vốn

thực hiện so với vốn đăng ký của các ngành như GTVT - Bưu điện, CN nhẹ

...là 84%, 60% thì ngành Xây dựng, Xây dựng khu đô thi mới... chỉ đạt một

con số khiêm tốn 22%, 0,02%. Hai dự án đối với các ngành CN dầu khí,

Tài chính ngân hàng so với 50 dự án, 24 dự án ở các ngành CN nặng, XD

văn phòng - Căn hộ( nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

* Đầu tư theo địa phương.

Các dự án đầu tư của Singapo đã đầu tư vào 26 tỉnh và thành phố, tập

trung chủ yếu vào các địa phương có cơ sở hạ tầng phát triển tốt như Hà

Nội, TP Hồ Chí Minh; các khu công nghiệp thuộc các tỉnh Bình Dương,

Đồng Nai, Hải Phòng...tạo nhiều công việc cho người lao động.

Bảng 7 : Đầu tư của Singapo vào Việt Nam theo địa phương

1988-2001.

(tính tới ngày 23/02/2001- chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

Địa phương Số dự Vốn đăng Vốn thực Doanh Lao

án ký (triệu hiện (triệu thu (triệu động

USD) USD) USD)

Hà Nội 31 2.795 392 74 2.765

TP Hồ Chí Minh 93 1.469 885 1.344 7.757

Bình Dương 41 446 283 188 2.429

Hà Tây 4 355 121 153 1.024

Quảng Ninh 3 62 37 167 657

48

Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Qua số liệu của bảng 7, cho thấy :

Đứng vị trí thứ nhất là Hà Nội với 31 dự án, trong đó vốn đầu tư là

2.795 triệu USD chiếm 41,4% tổng vốn đầu tư của Singapo vào Việt Nam;

vốn đầu tư thực hiện đạt 392 triệu USD, chiếm 14,02% vốn đầu tư, doanh

thu 74 triệu USD và tạo việc làm cho 2.765 lao động.

Vị trí thứ hai thuộc về thành phố Hồ Chí Minh với 93 dự án, trong đó

vốn đầu tư là 1.469 triệu USD chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư của Singapo;

đầu tư thực hiện 885 triệu USD đạt 60% so với vốn đăng ký ; doanh thu

cao nhất với 1.344 triệu USD và giải quyết việc làm cho 7.757 lao động.

Ngoài ra, các tỉnh như Bình Dương cũng đạt 446 triệu USD vốn đầu

tư với 41 dự án, đầu tư thực hiện đạt 283 triệu USD, doanh thu cao và tạo

nhiều việc làm cho người lao động (xem chi tiết bảng 8); Hà Tây, Bà Rịa-

Vũng Tàu, Đồng Nai, Hải Phòng, Quảng Ninh… cũng nhận được một số

lượng lớn vốn đầu tư của Singapo.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN

1988 - 2000 :

1.Kết quả đạt được .

Hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực

sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền

kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hoá. Âm hưởng

tích cực của loại hình hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan

rộng trên nhiều mặt trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước ta.

Singapo có đầu tư lớn vào Việt Nam, hiện đang đứng đầu các nước và

lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam (như đã nêu trên). Kết quả nảy trước hết là

49

do chính sách hợp tác của Chính phủ Singapo đối với Việt Nam, cũng như

của chính các công ty của Singapo có tiềm năng về tài chính và thị trường,

quan tâm đến thị trường Việt Nam. Nhưng, bên cạnh đó còn có một yếu tố

khá quan trọng là các công ty đa quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam thông

qua chi nhánh của mình ở Singapo (như Coca-Cola, Pepsi...), góp phần

quan trọng đưa tổng vốn đầu tư của Singapo vào Việt Nam tăng cao như

hiện nay.

Thực tế triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo

ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng

ký còn ở mức khiêm tốn. Chuyển giao công nghệ ở mức trung bình hoặc

thấp hơn so với trình độ công nghệ trên thế giới.

Tính đến ngày 23/02/2001, tổng vốn thực hiện của dự án FDI của

Singapo đạt 2.060 triệu USD. Tốc độ giải ngân của Singapo chỉ đạt khoảng

30%. Như vậy, tốc độ giải ngân còn thấp phản ánh tính khả thi của dự án

và năng lực tài chính của chủ đầu tư chưa cao. Nguyên nhân là do các dự

án lớn mới đầu tư 3-4 năm gần đây, thường đầu tư nhiều vào lĩnh vực kinh

doanh bất động sản trong khi tình hình nhu cầu thị trường bất động sản

trong khu vực và Việt Nam giảm sút. Chỉ cần một dự án lớn về bất động

sản (như dự án khu đô thị mới Nam Thăng Long) chưa triển khai được đã

kéo theo tỷ lệ vốn thực hiện chung của các dự án xuống thấp.

Các dự án FDI của Singapo vào Việt Nam chủ yếu là chuyển giao

công nghệ ở tầm trung bình và sử dụng nhiều lao động, rất ít công nghệ

hiện đại điều này rất dễ làm Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ của

Singapo.

Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài của

Singapo đã lại một số kết quả đáng khích lệ. Tính đến ngày 23/02/2001 thì

doanh thu các dự án FDI của Singapo đạt 2.235 triệu USD; tăng thu ngoại

50

tệ cho đất nước thông việc thực hiện nghĩa vụ của chủ đầu tư, tăng kim

ngạch xuất khẩu; giải quyết công ăn việc làm cho hơn 20.000 lao động

(nguồn Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Những kết quả này đã góp

phần đáng kể vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong

hơn 10 năm qua.

Trong năm 2000, nhìn chung các dự án triển khai tốt. Đã có 172 dự án

(chiếm 70%) góp 1.994 triệu USD vào thực hiện, chiếm 20% cam kết ban

đầu. Trong đó 126 dự án góp vốn đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh,

có tổng doanh thu trong năm 2000 ước đạt 461 triệu USD, xuất khẩu đạt 50

triệu USD, tạo việc làm cho hơn 20 nghìn lao động trực tiếp, chưa kể hàng

vạn lao động gián tiếp khác trong xây dựng cơ bản và dịch vụ. Mặc dù đầu

tư lớn, có nhiều dự án đã di vào hoạt động nhưng các dự án của Singapo

chưa tạo ra doanh thu lớn, vì nguyên nhân chính là các dự án tập trung chủ

yếu vào lĩnh vực dịch vụ (như khách sạn, du lịch, xây dựng văn phòng căn

hộ, xây dựng khu đô thị mới).

Có nhiều tập đoàn, công ty đa quốc gia (Coca-Cola, Mercedes-Benz,

Heineken...) không đầu tư trực tiếp từ nước mình mà thông qua các chi

nhánh, công ty con ở Singapo đầu tư vào Việt Nam, nên mới biến hòn đảo

Singapo nhỏ bé trở thành quốc gia đứng đầu trong số các nước đầu tư vào

Việt Nam.

2. Những tồn tại và nguyên nhân.

Không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt động đầu tư nước ngoài

cũng đưa lại những kết quả mong muốn và nếu so với mục tiêu mà chúng

ta đặt ra cho đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đâu phải dự án nào cũng đạt

được. Điều này cũng là khó tránh khỏi đối với chúng ta ở giai đoạn đầu.

Tuy nhiên, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm, vừa học. Tiếp đến

là thời kỳ mà nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài còn lớn, kinh nghiệm của

chúng ta trong việc thu hút và sử dụng loại hình này còn ít, các cơ sở cho

51

cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu thốn nên chúng ta chưa

có điều kiện để lựa chọn, do đó có những dự án mặc dù chỉ đạt một hoặc

một số mục tiêu nhưng hoàn cảnh buộc chúng ta vẫn phải chấp nhận. Có lẽ,

đã đến lúc đòi hỏi chúng ta cần phải cố gắng khắc phục những hạn chế

được rút ra từ thực tế thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở

Việt Nam vừa qua. Những tồn tại đối với các nhà đầu tư nước ngoài của

Singapo nói riêng cũng như các nhà đầu tư nước ngoài nói chung.

a.Công tác xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch thu hút

vốn đầu tư của Singapo còn chậm, thiếu cụ thể, chất lượng chưa cao.

Do quy hoạch chưa hoàn chỉnh, dự báo thiếu chuẩn xác, chưa lường

hết diễn biến phức tạp của thị trường... nên đã dẫn đến tình trạng trong một

số lĩnh vực số dự án được cấp giấy phép có tổng năng lực vượt xa so với

nhu cầu.

Đầu tư của Singapo ở các tỉnh miền núi, nông thôn còn chưa đáng kể.

Do điều kiện khó khăn, thiên tai, nguồn nhiên liệu không ổn định nên các

dự án đầu tư nước ngoài của Singapo vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp ở các

vùng này vẫn còn hạn chế mặc dù là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở

rộng và phát triển nông-lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư

nước ngoài.

Các dự án đầu tư của Singapo thường tập trung chủ yếu vào các địa

phương có cơ sở hạ tầng tốt như Hà Nội , Thành Phố Hồ Chí Minh..., các

khu công nghiệp đã thành lập do thiếu kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, chưa

đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư Singapo. Nhiều khu công nghiệp ở miền Bắc

và miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp.

Về phía các ngành, các địa phương vẫn còn tồn tại hiện tượng cạnh

tranh giữa các ngành, các địa phương trong thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài. Một số doanh nghiệp Singapo khi đến Việt Nam tìm hiểu các điều

52

kiện đầu tư nhưng qua tiếp xúc với một số địa bàn và lĩnh vực cụ thể, họ có

thể thấy “cách mời chào” khác nhau mặc dù vấn đề đó cùng một điều

khoản trong luật đầu tư. Những hiện tượng “gây nhiễu” như vậy đôi lúc

làm cho nhà đầu tư nước ngoài mất phương hướng, thậm chí còn làm cho

họ giảm mất độ tin cậy vào sự nhất quán trong thực hiện một số điều

khoản, quy định của Việt Nam. Tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch

cũng như cách kêu gọi vốn đầu tư giữa các ngành, địa phương đã trở thành

yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư nước

ngoài theo ngành và vùng lãnh thổ của cả nước.

b. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài của Singapo có một số bất hợp

lý, hiệu quả của khu vực đầu tư chưa cao.

Đầu tư nước ngoài của Singapo thường tập trung nhiều vào các địa

phương có điều kiện thuận lợi và những ngành có dự kiến có thể thu lợi

nhuận nhanh, các dự án nuôi trồng và chế biến nông sản, cơ khí chế tạo còn

rất hạn chế.

Những năm gần đây, xuất khẩu ở khu vực đầu tư của các doanh

nghiệp Singapo tăng nhanh. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là các

mặt hàng gia công, lắp ráp điện tử, giá tri gia tăng thấp, khả năng cạnh

tranh trên thị trường thế giới không cao, chưa vững chắc.

Qua phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp Singapo, ta có thể đánh giá một số vấn đề (đã bộc lộ hoặc đang tiềm

ẩn), những ý định, mong muốn của các doanh nghiệp Singapo đối với

những sản phẩm do doanh nghiệp của mình sản xuất ra. Có lẽ, khi nghiên

cứu, tìm hiểu các điều kiện của nước ta để tính toán cho dự án đầu tư của

họ nhìn nhận Việt Nam như một thị trường nhiều tiềm năng : số dân đông,

sức mua hiện nay tuy còn ở mức thấp nhưng rất có triển vọng nâng cao

trong tương lai… Họ cho rằng, thay vì việc sản xuất ở nước khác và muốn

nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam thì phải thông qua nhiều điều kiện khó

53

khăn, thuế nhập khẩu cao, bị động trong nắm bắt thị trường tiêu thụ hàng

hoá…bằng đầu tư trực tiếp để sản xuất hàng hoá tại Việt Nam. Điều này

chiếm lĩnh thị trường khi hàng hoá cùng loại chưa có doanh nghiệp nào sản

xuất, hoặc có doanh nghiệp Việt Nam ở trình độ thấp sản xuất với giá thành

cao hiện nay, vừa dành được ưu thế cạnh tranh trong tương lai khi sản

phẩm của họ trở nên quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam .

Xuất phát từ những tính toán như vậy nên khi theo yêu cầu của ta,

nhiều nhà đầu tư Singapo sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy phép

là sản xuất hàng hoá phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Nhưng trong thực tế,

doanh nghiệp Singapo đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đã lấy lý

do gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của khủng hoảng

cũng như một số điều kiện bất khả kháng từ bên ngoài…để hướng sản xuất

của họ vào thị trường Việt Nam , cứ từng bước như vậy, họ cố gắng làm

giảm dần tính hiệu lực của một số điều khoản được ghi trong giấy phép đầu

tư để rồi chuyền hướng từ sản xuất hướng về xuất khẩu sang sản xuất cho

thay thế nhập khẩu.

c. Quan hệ giữa phương thức góp vốn và lợi ích của các đối tác

Singapo.

Về phương thức và thực trạng thực hiện góp vốn là việc góp vốn của

bên Việt Nam thường được thực hiện một lần ngay khi dự án bắt đầu triển

khai xây dựng cơ bản, trong khi đó việc góp vốn của đối tác Singapo

thường thực hiện rải rác trong một thời gian dài...Như vậy, có những thời

kỳ tỷ lệ góp vốn thực tế của bên Việt Nam cao hơn phía Singapo, nhưng

theo quy định vì lợi ích mà hai bên được hưởng cũng như vị thế trong điều

hành hoạt động của liên doanh lại theo tỷ lệ thuận với phần vốn pháp định

đã được ghi trong giấy phép đầu tư. Điều này một mặt gây thua thiệt cho

bên Việt Nam cả về kinh tế lẫn quyền điều hành liên doanh, mặt khác, làm

54

mất đi yếu tố kinh tế để ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài thực hiện

việc góp vốn đầy đủ và đúng tiến độ.

Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trong hoàn cảnh thiếu

thốn các nguồn lực khác, là cách tạo thêm điều kiện kinh tế để chúng ta

tham gia liên doanh, nhưng có nhược điểm là khi cần khuyến khích đầu tư

chúng ta tiến hành giảm giá tiền thuê đất điều này đồng nghĩa với việc

chúng ta chấp nhận giảm quy mô góp vốn của mình. Khi đang chiếm giữ

một diện tích đất đai nào đó, họ sẵn sàng tìm kiếm, mời chào, kêu gọi đầu

tư nước ngoài, bất chấp những dự án mà họ có kinh nghiệm và chuyên môn

hay không. Kết quả, nếu dự án đầu tư trở thành hiện thực thì không những

hoạt động của liên doanh đó rất kém hiệu quả mà cũng rất có thể làm tổn

hại đến lợi ích chung của đất nước.

Trên thực tế vừa qua, việc góp vốn bằng thiết bị, máy móc, nhà

xưởng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công

nghệ, dịch vụ kỹ thuật...bên Việt Nam chỉ mới có một số nhà xưởng, công

trình cũ, số còn lại là của bên nước ngoài. Vì vậy, việc thu hút vốn nước

ngoài, công nghệ, kỹ thuật hiện đại...là rất cần thiết. Nhưng một vấn đề đặt

ra là trình độ kiểm tra chất lượng của các công nghệ đưa vào Việt Nam còn

thấp, điều đó gắn liền với việc Việt Nam trở thành bãi rác thải công nghệ

của các nước cũng như của đối tác Singapo.

d. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện

nên thiếu đồng bộ và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán

trước.

Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao; một số luật pháp,

chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài thay đổi nhiều, một số

trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm

đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều văn bản dưới

55

luật ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ,

ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, đẻ thêm quy trình, dẫn đến tình

trạng “ trên thoáng, dưới chặt”. Một số chính sách mới của Chính phủ chậm

đưa vào cuộc sống.

Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm; thủ tục hành chính

các cấp, nhất là thủ tục sau giấy phép, chậm được cải tiến; hiện tượng sánh

nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng; thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo,

phiền hà. Những việc trên đã làm biến dạng chính sách, làm xấu thêm môi

trường đầu tư.

Chủ trương tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu

tư nước ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được

khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, do còn

những nhận thức khác nhau dẫn đến lúng túng, thiếu nhất quán trong hoạch

định chính sách, trong xử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến đầu tư nước

ngoài nên đã tạo ra những khó khăn, tiêu tốn thời gian và tiền bạc của các

nhà đầu tư nước ngoài mà điển hình là các doanh nghiệp Singapo.

Nói tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa đầu tư nước

ngoài của Singapo, yêu cầu đặt ra là phải xác định chủ trương, phương

hướng và hệ thống các giải pháp hữu hiệu, tạo dựng một môi trường đầu tư

về tổng thể có sức hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao so với các nước trong

khu vực, giảm thiểu rủi ro để các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói

chung và các doanh nghiệp Singapo nói riêng làm ăn có hiệu quả trên cơ

sở bình đẳng, cùng có lợi.

56

CHƯƠNG III

TRIỂN VỌNG QUAN HỆ HỢP TÁC VÀ MỘT SỐ GIẢI

PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO VÀO VIỆT NAM.

I.TRIỂN VỌNG QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA HAI CHÍNH PHỦ

VIỆT NAM VÀ SINGAPO :

1.Nhận định chung về tình hình kinh tế của một số nước trong

khu vực Châu Á và Việt Nam.

Kinh tế khu vực được phục hồi với tốc độ khá kinh ngạc bắt đầu từ

quý 3 năm 1999. Tốc độ tăng trưởng của toàn bộ khu vực là 6,4% vào năm

1999 và được các tổ chức tài chính – tiền tệ thế giới như IMF, WB, ADB

dự báo sẽ tăng trên 6,5% trong năm 2000 và 2001.

Thực tế(1)

Nước/Khu vực

Dự báo IMF(3)

ADB(4)

1998

1999

World Bank(2) 2001 2000

2000

2001

2000

2001

Đông Nam á Inđônêxia Malayxia Philipin Thái lan Việt Nam NIEs

-8,5 -13,2 -7,5 -0,5 -10,2 4,4 -2,6

2,9 0,2 5,4 3,2 4,2 4,8 7,4

4,0 6,0 4,5 4,5 4,5

4,0 8,0 4,0 4,5 5,0

4,0 6,0 4,0 5,0 4,5

5,0 6,0 4,5 5,0 5,4

4,7 3,5 7,8 3,8 4,5 6,0 7,9

5,2 5,0 7,0 4,3 4,6 6,5 6,6

Bảng 8: Tăng trưởng GDP của một số nền kinh tế khu vực Đông và Đông Nam á Đơn vị : %

57

3,1 10,7 5,4 5,4 7,1 0,3

-5,3 -6,7 0,4 4,6 7,8 -2,8

8,0 8,8 7,9 6,5 7,5 1,4

4,8 6,5 5,9 6,0 7,3 1,8

4,4 6,5 6,4 5,9 7,5 2,0

8,7 8,5 8,1 6,6 8,0 1,9

8,8 6,0 6,0 6,3 7,2 2,0

8,5 Hồng Kông 8,0 Hàn Quốc 8,0 Singapo 6,8 Đài Loan 7,5 Trung Quốc Nhật Bản 1,5 Nguồn : (1) Asian Development Outlook Update - 9/2000- ADB

(2) East Asia Brief - 9/2000 World Bank .

(3) World Economic Outlook - 9/2000- IMF.

Hai nước có nền kinh tế chuyển đổi là Trung Quốc và Việt Nam đang

trên đà tăng trưởng bền vững từ 5,0- 8,0%.

Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá (NIEs): Đài Loan, Hồng Kông

đều đạt tốc độ tẳng trưởng cao từ 6,6 – 8,7%.

Nhật Bản, Inđônêxia tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ dừng lại ở mức

1,9-4,0 ( xem bảng 9).

2. Tình hình kinh tế Singapo.

Nền kinh tế của Singapo tăng trưởng mạnh trong quý I/2000 ở mức

9,8% so với cùng kỳ năm1999 và chậm lại trong quý II nhưng vẫn ở mức

cao 8%, xu hướng giảm này vẫn tiếp tục giảm trong hai quý sau của năm

2000. Triển vọng ngắn hạn rất tích cực với mức tẳng trưởng mạnh, tăng

trưởng trung bình 8% năm 2000 và giảm còn 6,0- 6,4% năm 2001.

Tiêu dùng của người dân tăng từ 5,0% năm1999 lên khoảng 6,4% năm

2000, phản ánh niềm tin của người tiêu dùng. Tiêu dùng của Nhà nước ở

mức cao hơn: 6,5%. Đồng nội tệ có phần giảm giá so với USD trong hai

quý đầu năm xuất nhập khẩu đã phục hồi. Xuất khẩu, nhập khẩu lần lượt

tăng trên 20% trong năm 2000 so với cùng kỳ năm 1999. Thặng dự thương

mại trên GDP đạt trung bình khoảng 22,6% năm 2000 và 19,7% năm 2001

với giá trị thặng dư sẽ tăng thêm 9,6 tỷ USD trong năm 2000 và 5,1 tỷ

trong năm 2001 (nguồn : Development Outlook Update) Sự phục hồi của

nền kinh tế sẽ phụ thuộc nhiều vào triển vọng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là

58

cú sốc dầu mỏ hiện nay, sự hạ cánh an toàn của nền kinh tế Hoa Kỳ và khả

năng phục hồi của các nước Châu Á.

Bảng 9: Một số chỉ tiêu kinh tế của Singapo

Chỉ số kinh tế (%) 1997 1998 1999 2000 2001

8,4 0,4 5,4 8,0 6,0 Tăng trưởng GDP

2,0 -0,3 0,4 1,5 2,0 Lạm phát

-0,2 -12,1 4,6 3,5 5,3 Tăng trưởng XKHH

0,7 -23,1 8,9 7,9 8,8 Tăng trưởng NKHH

17,9 25,4 Tài khoản vãng lai/GDP 25,3 22,6 19,7

Nguồn: Asia Development Outlook Update – 9/2000 – ADB.

II. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI CỦA VIỆT NAM.

Nhận thức được xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng mở

rộng, đó là quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ xung

cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ

trương lợi dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di

chuyển vốn, mở rộng thụ trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm

quản lý để bổ xung và phát huy có hịu quả các lợi thế và nguồn lực trong

nước”. Để thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ

trương “đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong

đó FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại.

Trong hoàn cảnh tích lũy nội bộ gần như con số 0, sử dụng viện trợ

59

nước ngoài không có hiệu quả, cơ chế quản lý kém, sản xuất đình trệ, bộ

máy hành chính cồng kềnh, quản lý tiền tệ kém dẫn đén lạm phát liên tục

trong nhiều năm liền. Cuộc cải tổ giá-lương-tiền năm 1981 và năm 1985

kết thúc thất bại thảm hại. Đến giữa những năm 80 hình ảnh của nền kinh

tế Việt Nam thật sự ảm đạm.

Với tình trạng trên để giải quyết những khó khăn kinh tế, buộc chúng

ta phải đổi mới. Tháng 12/1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh

dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới xây dựng kinh tế ở Việt Nam.

Từ việc nhận thức được đầy đủ đặc trưng quan trọng của thời đại hiện nay

là xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhà nước Việt

Nam đã chủ trương mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết

kinh tế ở trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông qua việc mở

rộng quan hệ kinh tế với các nươc trên thế giới-trong đó có hợp tác đầu tư.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với quan điểm “Việt Nam

muốn là bạn với tất cả các nước” đã tạo điều kiện thật sự cho phát triển

kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng.

Những quan điểm, tư tưởng của Đảng đã được thể chế hóa trong Luật

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1996, gần đây nhất là Luật

đầu tư nước ngoài có sửa đổi và bổ sung ban hành tháng 6 năm 2000. Đây

là bộ luật phản ánh tính khuyến khích, hấp dẫn và thu hút đầu tư nước

ngoài.

Dưới đây là những quan điểm và định hướng cơ bản của Nhà nước

Việt Nam về tác động của FDI đối với kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.

1.Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân.

FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc

gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI

không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của

60

nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh

tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng

góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. FDI “là việc tổ chức, cá

nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài

hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác

kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc

xí nghiệp 100% vốn nước ngoài...”. Rõ ràng, FDI khác với ODA là không

gây ra tình trạng nợ nần cho thế hệ mai sau. Khi bỏ vốn đầu tư vào Việt

Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền đẻ ra tiền. Trong quan hệ

làm ăn với các đối tác Việt Nam theo nguyên tắc “được cùng ăn, thua cùng

chịu” theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên.

Trong quá trình thu hút FDI phải tránh những quan điểm sai lầm:

Thứ nhất: Coi nhẹ, thậm chí lên án FDI như một nhân tố có hại cho

nền kinh tế độc lập, tự chủ. Những người đi theo quan điểm này hiện nay ở

Việt Nam không nhiều nhưng họ cũng đã cản trở quá trình phát triển của

một nền kinh tế đang khởi sắc, họ không ý thức được mục tiêu của FDI

thực ra là yếu điểm của nước chủ nhà và đồng thời là thế mạnh của nhà đầu

tư nước ngoài. Nhưng FDI vào Việt Nam là một nước có chủ quyền, có

pháp luật phải chịu sự điều hành của pháp luật Việt Nam, những quy định,

kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Bởi vì, tất cả các xí

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100%

vốn nước ngoài), là pháp nhân Việt Nam. Trong điều kiện nền kinh tế thị

trường có điều tiết của Nhà nước thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài là một trong năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Đó là hình thức

CNTB nhà nước. Hơn nữa, FDI ở Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam chỉ được tồn tại và hoạt động trong một thời gian

nhất định (tối đa không quá 50 năm). Hết thời gian quy định trong giấy

phép đầu tư việc gia hạn hay không đó là chủ quyền của Nhà nước Việt

61

Nam. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thuê đất của nhà nước

hoặc là bên Việt Nam góp vào vốn pháp định của liên doanh bằng giá trị

quyền sử dụng đất. Nhà nước ta không bán đất. Ở đây, CNTB nhà nước

không chỉ bao gồm đầu tư nước ngoài theo hình thức xí nghiệp liên doanh

(tư bản nước ngoài và doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước góp vốn) mà

còn bao gồm cả đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài và theo hình

thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì về bản chất, đó là việc thực hiện chế

độ tô nhượng đối với các nhà tư bản nước ngoài (cho thuê đất đai, nhà

xưởng, thuê quyền khai thác mỏ...) V.I.Lê Nin đã từng nêu rõ: “xét về mặt

quan hệ kinh tế thì tô nhượng là gì ? đó là chủ nghĩa tư bản nhà

nước…Chính quyền Nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu

sản xuất của mình: hầm mỏ, công xưởng, vật liệu; nhà tư bản tiến hành

kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất

XHCN, thu được lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra và nộp cho Nhà nước

XHCN một phần sản phẩm”.

Việc sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước có tính

chất tất yếu khách quan, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển lực

lượng sản xuất của XHCN và do đó, là một hình thức quan hệ sản xuất rất

gần với CNXH. V.I.Lê Nin đã từng nhấn mạnh: “khi du nhập CNTB nhà

nước dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô Viết tăng cường được nền

sản xuất lớn đối lập với nền sản xuất nhỏ, nền sản xuất tiên tiến đối lập với

nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hóa đối lập với nền sản xuất thủ

công, nó tăng thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó

cũng củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước quy định đối lập với

những tiểu tư sản vô chính phủ”.

Như vậy, FDI không thể là nhân tố tạo nên chệch hướng nếu chúng ta

có chiến lược đúng đắn và có biện pháp quản lý tốt.

Thứ hai: Ảo tưởng về tính “mầu nhiệm” của FDI, gán cho nó một vai

62

trò tích cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời

những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù, nhiều nước trên thế

giới đã coi FDI như một chìa khoá vàng của sự tăng trưởng kinh tế. Thông

qua FDI nhà nước ta có thể nhận được công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp

thu được kinh nghiệp quản lý tốt, tìm kiếm được thị trường bên ngoài Việt

Nam. Ngay cả các nước có trình độ phát triển cao như Mỹ, EU…vẫn cần

đến vốn đầu tư bên ngoài. Nhưng không vì thế mà ỷ lại vào FDI mà không

khai thác tối đa các lợi thế bên trong.

FDI tự nó chưa thể quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển

kinh tế, mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác: ODA,

nguồn vốn huy động rộng rãi trong nước.

2. Nhận thức đúng đắn về “mở” và “che chắn” trong chính sách

thu hút FDI.

Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, các mục tiêu của FDI có

đạt được hay không còn phụ thuộc nhiều vào vấn đề đảm bảo an ninh chính

trị, kinh tế và xã hội. Để giải quyết mối quan hệ này, phải bắt đầu từ cách

đặt vấn đề an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trong quá trình thực hiện FDI.

Trong một số trường hợp, vì lợi ích tối đa hóa của đầu tư là lợi nhuận,

người ta bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hóa, xã hội của

dân tộc.

Thông thường, phía nước tiếp nhận FDI mong muốn nguồn FDI hỗ trợ

tối đa cho việc thc hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho việc

phát triển đồng đều ở các cơ sở công nghệ tiên tiến, cho việc khai thác tài

nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường sinh thái...

Nhưng phía chủ đầu tư nước ngoài vì lợi ích tối thượng của họ là lợi

nhuận nên lợi dụng khai thác nhiều mặt sự yếu kém của Chính phủ nước

tiếp nhận đầu tư và các nhà doanh nghiệp nước sở tại. Trong đó, họ (các

63

chủ đầu tư nước ngoài) thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về

luật lệ, thủ tục và cán bộ.

Những sự khác biệt đó về mục tiêu khi vượt qua mức độ nào đó sẽ

xuất hiện tình trạng thiếu đảm baỏ cần thiết về an ninh chính trị, kinh tế, xã

hội cho quá trình FDI và tất yếu sẽ có hại cho cả hai bên.

Trong thời đại ngày nay, hki chấp nhận nguyên tắc “bình đẳng, hai

bên cùng có lợi” thì vấn đề an ninh trong quá trình FDI cần thiết cho cả hai

phía.

Đối với các nhà đầu tư nước ngoài cần có sự an ninh cho đồng vốn,

cho quá trình thực hiện dự án, an ninh cho người hoạt động đầu tư và

chuyển lợi nhuận về nước.

Đối với nước tiếp nhận FDI, cần có sự an ninh chính trị, kinh tế xã hội

chẳng những cho sự phát triển, mở rộng FDI có hiệu quả mà còn giữ vững

độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng

chính trị-xã hội.

Do đó mở cửa cho bên ngoài vào nhưng không quên những biện pháp

che chắn cần thiết cho an ninh chính trị, kinh tế, xã hội. Tư tưởng trên chi

phối toàn bộ Luật đầu tư nước ngoài và được thể hiện tại nhiều điều khoản

của luật và các văn bản dưới luật.

Một “hành lang” dù rộng rãi đến đâu cũng có khuôn khổ của nó. Do

vậy, bên cạnh những quy định có tính chất rộng rãi, thường có những quy

định có tính chất “che chắn”.

Vấn đề đặt ra trong khi thi hành Luật đầu tư nước ngoài là không để

cho người nước ngoài lợi dụng “rộng rãi” của luật và vượt ra ngoài những

nghĩa vụ mà luật đã quy định. Mặt khác, cũng không thể chỉ quan tâm tới

những biện pháp “che chắn” (thậm chí đặt ra những ràng buộc trái luật theo

kiểu “phép vua thua lệ làng”) làm giảm hoặc triệt tiêu tính hấp dẫn của

chính sách đối với FDI.

64

“Rộng rãi” hay “che chắn” đều phải trên cơ sở tuân theo pháp luật,

tuân theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với thông lệ với tập

quán quốc tế, hợp lý, có sức thuyết phục.

3.Giải quyết hợp lý các mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong

quá trình thu hút FDI.

Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác đầu tư giữa

nước ta với nước ngoài thực chất là tìm “điểm gặp nhau” về lợi ích để cùng

nhau sản xuất kinh doanh và trả giá cho nhau trên nguyên tắc thoả thuận, tự

nguyện bình đẳng và cùng có lợi. Theo nguyên tắc đó, cái trả giá cho nhau

phải:

-Phù hợp với tương quan về nhu cầu và khả năng của bên này và bên

kia trong hợp tác;

-Có lựa chọn, so sánh các giá phải trả cho các đối tác khác nhau trong

cùng một mục tiêu và một thời điểm.

-Có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, bảo đảm phát huy

có hiệu quả lợi ích của mỗi bên (chủ đầu tư nước ngoài, các pháp nhân Việt

Nam tham gia liên doanh và Nhà nước Việt Nam) trong đó, quan trọng nhất

đối với nhà đầu tư nước ngoài là được quyền kinh doanh có hiệu quả và

được đảm bảo an toàn vốn, lợi nhuận của họ.

Hợp tác liên doanh như mối tình dẫn đến hôn nhân giữa các bên tham

gia (bên Việt Nam và bên nước ngoài). Cho nên trong quá trình triển khai

dự án FDI phải chú ý đến những nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn

trong nội bộ liên doanh. Mau thuẫn trong nội bộ liên doanh giữa bên Việt

Nam và bên nước ngoài thực chất là xuất phát từ khác biệt về quan hệ sở

hữu. Bên nước ngoài hầu hết là những công ty, hãng tư nhân, họ là người

sở hữu thực sự tài sản mà họ đem góp vào liên doanh. Cho nên từ quan

niệm, cách nhìn nhận cho đến cách hành động, hoạt động sản xuất kinh

doanh, họ đều thể hiện tính chất tư bản tư nhân. Mục đích tối thượng của

65

họ là lợi nhuận, nên bằng mọi cách để đạt được lợi nhuận tối đa.

Trong khi đó bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước

thuộc sở hữu nhà nước. Bên nước ngoài là công ty xuyên quốc gia nên rất

hùng mạnh về nhiều mặt, ngược lại các công ty quốc doanh Việt Nam lại

rất yếu kém về mọi lĩnh vực.

Trong quá trình thực hiện dự án FDI bên nước ngoài không muốn

thành lập các tổ chức đoàn thể (tổ chức Đảng, công đoàn...) trong liên

doanh, cho nên, các tổ chức này hiện nay rất ít và khó hoạt động.

Nhìn chung, cần tránh một số quan điểm mơ hồ trong quá trình thu hút

FDI:

-Không muốn trả giá, chỉ đứng về lợi ích bên mình, muốn ăn cả. Điều

này trái với nguyên tắc hợp tác đầu tư là “cùng chung trách nhiệm kinh

doanh, cùng ăn chia lợi nhuận”.

Về vấn đề này V.I.Lê Nin nói: “trong vấn đề CNTB Nhà nước, dĩ

nhiên là không phải ngay một lúc mà mọi người đồng ý với nhau...chúng

tôi phải bỏ tiền ra bù vào chỗ lạc hậu, kém cỏi của chúng tôi, phải trả tiền

về điều mà hiện nay chúng tôi đang học, về điều mà chúng tôi cần phải

học. Ai muốn học thì phải trả học phí...Chúng tôi hoàn toàn công khai thừa

nhận, chúng tôi không dấu diếm rằng tô nhượng trong chế độ tư bản chủ

nghĩa là nộp cống vật cho chủ nghiã tư bản. Nhưng chúng tôi tranh thủ

được thời gian có nghĩa là chúng tôi thắng lợi về tất cả các mặt”.

-Hiểu nguyên tắc “bình đẳng, cùng có lợi” một cách máy móc, không

đứng trên quan điểm tổng thể để xác định thoả đáng lợi ích của mỗi bên

phù hợp với lợi thế so sánh.

-Trả giá không tính toán, trả bất cứ giá nào, miễn là tranh thủ được

vốn và công nghệ mà không tính toán đến hậu quả và mặt trái của vấn đề.

4. Hiệu quả kinh tế-xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong

hợp tác đầu tư.

66

Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam

chỉ qua tâm nhiều đến hiệu quả tài chính. Bởi vì đứng về lợi ích riêng của

nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được. Nên họ chú ý đến

những vấn đề thiết thực như doanh thu, chi phí, thuế, tiền thuê đất. Trong

khi đó nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án FDI không chỉ căn cứ

vào hiệu quả tài chính, mặc dù đó là một nhân tố làm tăng thu của Ngân

sách Nhà nước, góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng điều phải

quan tâm nhiều hơn để đánh giá một dự án FDI là hiệu quả kinh tế-xã hội

của nó. Lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định

phương hướng lựa chọn các dự án và tính chất công nghệ. Nhà nước phải

chú ý nhiều hơn nữa đến sự phát triển tổng thể của nền kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên, lợi ích mà dự án có thể đưa lại hiệu quả tài chínhlà một

yếu tố của hiệu quả kinh tế-xã hội trong một loạt các nhân tố khác. Không

ít trường hợp có hiệu quả tài chính cao nhưng hiệu quả kinh tế-xã hội thấp,

thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế-xã hội, có lợi ích trước mắt nhưng

lại có hại lâu dài.

Do đó, trong khi thẩm định xem xét một dự án FDI cần phải đạt hiệu

quả kinh tế-xã hội lên trên và coi trong đólà phương hướng cơ bản của

những biện pháp khuyến khích đầu tư.

Trong điều kiện kinh tế của đất nước kém phát triển như hiện nay, chỉ

tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội của FDI nhìn tổng thể phải đáp ứng các yêu

cầu: vốn, công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh;

giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết thị

trường tiêu thụ cho sản phẩm.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu trên đều nhất thiết

phải được hội tụ đủ trong một dự án cụ thể. Trong điều kiện của nước ta,

trước mắt có lẽ nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm. Điều đó có

nghĩa là trong mối tương quan giữa vốn thu hút và vốn công nghệ của FDI

67

thì tạm thời chúng ta phải chấp nhận thực tế là chưa có điều kiện tự do lựa

chọn công nghệ tiên tiến như ý muốn. Hơn nữa, lao động được coi là một

trong hai sức kéo có ý nghiã trong giai đoạn đến năm 2000, tạo ra công ăn

việc làm cũng là biện pháp hữu hiệu tích luỹ vốn cho công nghiệp hóa, cho

mua sắm công nghệ.

5.Đa dạng hóa hình thức FDI.

Thu hút FDI dưới hình thức “hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp

liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng BOT ”, trong đó đặc

biệt khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh (vì có lợi cho bên Việt

Nam trong việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, kiểm soát

hoạt động của xí nghiệp) và hình thức hợp đồng xây dựng-kinh doanh-

chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO)

hoặc hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) đối với các công trình cơ sở hạ

tầng (do nguồn vốn lớn, chậm thu hồi vốn, tỷ suất lợi nhuận thấp nhưng nó

lại là yếu tố rất quan trọng đối với cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp

nước ngoài). Vấn đề lựa chọn hình thức FDI thực chất cũng là vấn đề cơ

cấu vốn, sử dụng vốn trong nước và vốn nước ngoài sao cho có lợi nhất.

Mỗi hình thức FDI quy định trong luật đầu tư nước ngoài đều có mặt mạnh

và mặt yếu, việc chọn hình thức nào còn tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện

của ta và bên đối tác nước ngoài.

6. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và quyền tự

chủ của các doanh nghiệp có FDI.

Cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài cũng dựa vào những nguyên tắc cơ

chế chung. Tuy nhiên, do đặc thù của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, nên bên cạnh sự giống nhau về cơ chế quản lý,đầu tư nước ngoài có

những điểm khác cơ chế chung cần được quan tâm, trong đó, vấn đề quan

trọng nhất là xác định vai trò quản lý của nhà nướcvà quyền tự chủ sản xuất

kinh doanh của các nhà đầu tư, đảm bảo đầy đủ quyền tự chủ của họ trong

68

khuôn khổ Luật định. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài được thể hiện dưới hai khía cạnh:

- Thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một pháp

nhân của Việt Nam;

- Thứ hai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp

có người nước ngoài tham gia nắm quyền sở hữu.

Là một pháp nhân Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

phải hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, về nguyên tắc các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có quyền hạn và nghĩa vụ như các

phàp nhân khác cuả Việt Nam. Về mặt tổ chức, các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu

hạn. Điều này cho phép xác đinh rõ quyền hạn, trách nhiệm của nhà đầu tư

trong việc thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Quy mô quyền hạn, trách nhiệm

và quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài trong việc điều hành và quản lý

kinh doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.

Do có phần sở hữu tài sản của người nước ngoài, thường là các công

ty đa quốc gia, nên các quyết định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài không hoàn toàn phụ thuộc và theo khuôn khổ pháp lý của Việt Nam.

Phần góp vốn của bên nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên

ngoài càng nhiều. Cho nên sự quản lý của Nhà nước Việt Nam phải làm

cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi phục vụ lợi ích của

họ cũng phải đưa lại lợi ích chính đáng cho Bên Việt Nam và Nhà nước

Việt Nam .

69

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT VỐN ĐẦU

TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO VÀO VIỆT NAM .

1.Nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài .

Quy hoạch đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch

tổng thể các nguồn lực chung của cả nước, gồm vốn và các nguồn lực trong

nước,vốn ODA, vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở phát huy nội lực; cái gì

tự đầu tư được thì nhất thiết phải để doanh nghiệp trong nước đầu tư; phải

gắn chặt với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm chủ yếu và đặt

trong chiến lược phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý sản xuất trong

nước, gắn với tiến trình hội nhập, năng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của

nền kinh tế.

Đề nghị xây dựng quy hoạch lĩnh vực thu hút FDI của Singapo trong

cả nước, từng địa phương và từng khu công nghiệp. Công bố quy hoạch và

danh mục gọi vốn đầu tư thống nhất, trong đó chú trọng xúc tiến những dự

án có quy mô vừa và nhỏ.

Khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài của Singapo vào các ngành

công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện

tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động.

Cần có chính sách, cơ chế, biện pháp để tạo bước chuyển căn bản hướng

mạnh hơn nữa đầu tư của Singapo hướng vào xuất khẩu, góp phần tích cực

làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội.

2.Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh

doanh.

a. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư.

Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu

tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng

70

hoá, dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ IV. Trong năm

2000 cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá, dịch vụ để

trong 2, 3 năm tới về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất giá, phí cho

các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cần có quy định cụ thể hợp lý về việc miễn thuế nhập khẩu đối với

nguyên liệu. Cho đến nay, nguyên liệu nhập khẩu được hiểu chỉ bao gồm

các vật tư, phụ liệu, nguyên liệu...trực tiếp cấu thành sản phẩm-chưa bao

gồm bao bì.

Đề nghị quy định các Cơ quan Cấp giấy phép đầu tư chủ động rà soát

và điều chỉnh ưu đãi đầu tư theo quy định mới cho doanh nghiệp mà không

cần có đề nghị của doanh nghiệp.

Đề nghị cần sớm điều chỉnh theo hướng giảm mức thuế thu nhập cá

nhân. Đề nghị miễn thuế nhập khẩu cho tất cả các thiết bị sản xuất không

được sản xuất tại Việt Nam.

Đề nghi bỏ thuế chuyển lợi nhuận và tính toán vào thuế thu nhập để

không có sự khác biệt giữa trong nước và nước ngoài.

Các nhà đầu tư Singapo thường phải chịu giá và phí một số dịch vụ

quá cao như điện, điện thoại... nhưng lại không được cung cấp dịch vụ chất

lượng cao (ví dụ: việc mất điện có thể làm cho doanh nghiệp thiệt hại rất

lớn). Vì vậy, đề nghị trước khi có thể điều chỉnh giảm các loại giá, phí đối

với đầu tư nước ngoài, những cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước cung

cấp các loại dịch vụ này cần nâng cao chất lượng và trách nhiệm đối với

việc cung cấp dịch vụ của mình.

Cần sớm nghiên cứu để công bố lộ trình và kế hoạch cụ thể giảm các

loại giá, dịch vụ như điện, bưu chính viễn thông...tiến tới một mặt bằng

chung giữa trong nước và nước ngoài. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho

71

các doanh nghiệp Singapo tiến hành các hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ

Việt Nam .

b. Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu

tư nước ngoài.

b.1.Đất đai.

Ngoài vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất, cần rà soát lại giá cho thuê

đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách

tắc đối với việc triển khai dự án (2 dự án xây dựng khu đô thị mới). Trong

cơ chế liên doanh giũa hai nước, cần nghiên cứu thay thế dần hình thức các

doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để chuyển

sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất đối với các dự án đầu tư nước

ngoài của Singapo.

b.2.Tài chính, tín dụng, ngoại hối.

- Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt

buộc; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với

các giao dịch vãng lai.

- Đề nghị Chính phủ Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài

cũng như các doanh nghiệp Singapo được tiếp cận thị trường vốn; được

vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại

Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có

thể bảo đảm bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài. Phát triển mạnh

thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng

các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực hiện cổ

phần hóa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài .

72

- Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp

Singapo; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiêm toán phù hợp với thông lệ

quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; đồng thời đảm

bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

c. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những

lĩnh vực, địa bàn và dự án ta cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài của

Singapo.

Để thu hút được đầu tư nước ngoài của Singapo vào các lĩnh vực, địa

bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một

hệ thống ưu đãi, có sức cạnh tranh cao.

-Thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các

doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ

khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện.

-Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm,

thủy sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội

khó khăn.

-Đối với một số hạn chế của những dự án đặc biệt quan trọng, cần xử

lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết

trong lộ trình hội nhập.

-Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp

hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu (khuyến khích chế biến sâu, sử dụng

nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao).

d. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư của Singapo.

Mỗi hình thức đầu tư (liên doanh, 100% vốn nước ngoài) tuy có vị trí,

73

đặc thù riêng, nhưng đều nằm trong quy hoạch kinh tế-xã hội, quy hoạch

ngành và lãnh thổ, quy hoạch các sản phẩm quan trọng; chịu sự điều chỉnh

của pháp luật Việt Nam, sự quản lý, giám sát, kiểm tra của các cơ quan

quản lý Nhà nước. Do đó, ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự

án do yêu cầu an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa, thuần phong

mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh

mục các dự án cho phép nhà đầu tư Singapo được lựa chọn các đầu tư xuất

phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh họ .

Đối với các liên doanh giữa hai bên hiện nay hoặc trong tương lai gần

làm ăn có lãi và những liên doanh quan trọng cần phải duy trì. Nhà nước

cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, giải quyết dứt

điểm các vấn đề phát sinh, cho vay tín dụng để doanh nghiệp Việt Nam

trong liên doanh với Singapo nâng dần tỷ lệ góp vốn, tăng cường cán bộ có

năng lực góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trong liên doanh.

Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh liên doanh với doanh nghiệp Singapo, đồng thời đa dạng hơn nữa

hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới. Hiện nay, luật

pháp ta cũng quy định doanh nghiệp Việt Nam được quyền mua cổ phần

của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài quan trọng. Chính phủ cũng đã có

chủ trương thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước

ngoài, trong đó có các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đề nghị chính

phủ sớm triển khai chủ trương mở rộng và đa dạng hoá hình thức tổ chức

doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

được cổ phần hoá, chuyển đổi thành Công ty cổ phần được phép phát hành

cổ phiếu.

Bên cạch đó, một số nhà đầu tư nước ngoài cũng đề nghị Chính phủ

nên coi việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (theo quy định

NĐ51) là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.

74

e. Mở rộng thu hút FDI của Singapo vào khu công nghiệp, khu chế

xuất.

Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư của Singapo vào các khu công

nghiệp đã được thành lập.

Ngoài các khu công nghiệp nhỏ, các cụm công nghiệp đã giãn mật độ

và dịch chuyển các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ

việc thành lập các khu công nghiệp mới. Trước mắt cần rà soát các khu

công nghiệp không đủ yếu tố khả thi, chỉ thành lập khu công nghiệp mới

khi hội đủ điều kiện.

Để tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài của Singapo vào

khu công nghiệp, cần thực hiện nghiêm túc thủ tục cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp Singapo ở khu công nghiệp; đảm

bảo các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên

lạc) đến tận hàng rào của các khu công nghiệp; ưu đãi ở mức cao nhất các

dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với khu công nghiệp (nhà ở cho

công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở chữa khám bệnh, thương

mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế).

Bổ sung quy định chế độ báo cáo với Ban Quản lý Khu công nghiệp

(hiện nay các báo cáo trong khu công nghiệp chỉ gửi về cơ quan quản lý

đầu tư ở TW và địa phương).

Quy hoạch Khu công nghiệp cần gắn với quy hoạch Khu dân cư. Đề

nghị có chính sách ưu đãi cần thiết đối với việc xây dựng các công trình

ngoài hàng rào, nhà ở cho công nhân, chuyên gia của hai nước.

Đề xuất Phương án về việc cho thuê đất và công trình hạ tầng trong

Khu công nghiệp, theo đó, công ty phát triển hạ tầng chỉ cho thuê công

trình hạ tầng; doanh nghiệp trực tiếp thuê đất của Nhà nước. Cần có đại

diện của các cơ quan công an, hải quan tại Khu công nghiệp, Khu chế xuất,

đồng thời có chính sách miễn các loại chi phí đối với các cơ quan công an,

75

hải quan nằm trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Đơn giản hoá thủ tục

cấp phép của Ban Quản lý Khu công nghiệp đối với những dự án đặc biệt

ưu đãi, không có những vấn đề phức tạp về môi trường, hoặc đối với những

dự án đã có tiền lệ.

3. Hoàn thiện pháp luật.

a. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài.

Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo phải được

xây dựng trên một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh

cao so với các nước trong khu vực. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật đầu tư nước ngoài hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan,

với các yêu cầu:

-Bảo đảm một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn

định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với

các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng lên mức các quy định của Luật, các

chính sách, quyết định của Chính phủ đã được kiểm nghiệm qua thực tế.

-Phù hợp đồng bộ với tiến trình xây dựng và hoàn thiện khung khổ

pháp Luật chung của nước ta, trước hết là Luật doanh nghiệp, Luật khuyến

khích đầu tư trong nước… nhằm tạo mặt bằng ưu đãi bình đẳng giữa các dự

án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

-Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước

ngoài, thực hiện nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng

đồng các nhà đầu tư nước ngoài.

-Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các

cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập kinh tế.

b. Sửa đổi một số điều khoản trong các văn bản pháp luật liên quan

đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các

doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp Singapo.

-Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn với

76

giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam (Ngân

hàng Việt Nam, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài)

nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn.

-Các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong

nước thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị,

máy móc để tạo tài sản cố định.

-Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm

việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài để khuyến

khích sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ

chốt.

4.Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước

ngoài.

Sau khi xây dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông

thoáng, hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều

hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ, việc nghiêm túc

thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương.

Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ

quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư

nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng Cơ quan quản lý

Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bảo đảm thực hiện đúng và đủ vai trò là

cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, giúp Chính phủ quản lý

thống nhất hoạt động đầu tư nước ngoài, là đầu mối phối hợp giữa các Bộ,

các ngành và địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh tronh hoạt

động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các Bộ, ngành và địa

phương thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài theo đúng chức

năng, thẩm quyền đã quy định theo Luật Đầu tư nước ngoài, các Nghị định

của Chính phủ.

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các Ban quản lý Khu công

77

nghiệp được phân cấp, uỷ quyền quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài

trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu,

chính sách, cơ chế quản lý; tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra của các

Bộ, ngành trung ương; nâng cao kỷ cương và kỷ luật thực hiện để vừa phát

huy sức mạnh chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở, vừa tránh phá

vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lý

Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn,

tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, giúp đỡ các doanh nghiệp giải

quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; giám sát, kiểm

tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp,

chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời xử lý các cán bộ cóhành vi

tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực.

Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà

nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá các quan

hệ kinh tế của doanh nghiệp; đồng thời vẫn đảm bảo giám sát được các

doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các

doanh nghiệp.

Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch

các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời

hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến

căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài;

duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu

tư.

Áp dụng cơ chế đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với những dự án có

quy mô nhỏ, tính chất đơn giản, đã được xác định trong các quy hoạch về

ngành, địa bàn, thị trường.

78

Tiếp tục tăng cường phân cấp uỷ quyền cho địa phương và Ban quản

lý Khu công nghiệp (Hải Phòng đề nghị phân cấp đến 10 triệu USD) để

tăng tính chủ động cho địa phương trong việc thu hút đầu tư. Đặc biệt đối

vơi những dự án đã có tiền lệ, không có những vấn đề phức tạp về môi

trường thì nên bỏ cơ chế trước khi cấp giấy phép đầu tư phải thoả thuận với

Bộ Kế hoạch và Đầu tư .

Cải tiến mạnh các thủ tục đầu tư theo hướng tiến tới áp dụng rộng rãi

chế độ đăng ký đầu tư-thay thế dần chế độ cấp giấy phép đầu tư. Đề nghị

các Bộ, ngành cần xử nhanh những khó khăn của doanh nghiệp như về hải

quan, thuế và hoàn thuế, đồng thời nghiên cứu để giảm thiểu một số thủ tục

hành chính hiện nay còn rất phức tạp, dặc biệt là các thủ tục liên quan đến

thuế đất, xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, xuất nhập cảnh, xuất nhập

khẩu.

Tiếp tục phân cấp cho các địa phuơng trong việc miễn thuế nhập khẩu

đối với nguyên liệu. Quy định việc lập báo cáo đánh giá tác động môi

trường được thực hiện sau khi cấp giấy phép đầu tư nhằm đơn giản hoá hồ

sơ dự án cũng như giảm thiểu thời gian và chi phí cho nhà đầu tư trong quá

trình hình thành dự án.

5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.

Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và

phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có

hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến

thương mại, là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của các

Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Ngân sách Nhà

nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc

tiến đầu tư.

Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để

79

tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các

nhà đầu tư truyền thống ở Châu Á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh

nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất

khẩu ... cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm

tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng

công nghệ hiện đại.

Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án

kêu gọi đầu tư được phê duyệt; các ngành, các địa phương cần chủ động

tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng

dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng .

Bộ Kế hoạch và Đầu tư , Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối

hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các

nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và công ty lớn để có chính

sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu Luật pháp, chính sách,

biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời

có các đối sách thích hợp.

Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư Singapo hiện

đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là

biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức

thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần hỗ trợ mạnh mẽ các địa phương trong

công tác xúc tiến đầu tư như: tăng cường các hoạt động trao đổi thông tin;

làm đấu mối giới thiệu dự án, đối tác; hỗ trợ xây dựng các trương trình

hành động xúc tiến đầu tư của địa phương; xây dựng các tài liệu tuyên

truyền vận động đầu tư; xây dựng mạng thông tin điện tử để xúc tiến đầu

tư. Nghiên cứu khả năng xây mô hình quỹ xúc tiến đầu tư. Mục tiêu của

quỹ xúc tiến đầu tư là nhằm hỗ trợ trong việc xây dựng quy hoạch, xây

80

dựng cơ sở dữ liệu về FDI.

Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cần thiết lập

quan hệ trực tiếp với cơ quan đại diện ngoại giao các nước và tăng cường

đối thoại thường xuyên với các nhà đầu tư và doanh nghiệp.

Nghiên cứu xây dựng một tổ chức xúc tiến đầu tư chuyên trách ở

trung ương và địa phương; xây dựng chương trình, chiến lược quốc gia về

xúc tiến đầu tư.

Bố trí ngân sách Nhà nước phù hợp với hoạt động xúc tiến đầu tư,

khắc phục tình trạng ngân sách xúc tiến đầu tư vẫn nằm trong danh sách

hành chính thông thường như hiện nay.

6.Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức

đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, công tác cán bộ đặc biệt quan

trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng

pháp luật, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt

động đầu tư nước ngoài. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh

đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam,

của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh

nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến

công tác đào tạo năng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ

chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ và

lao động Việt Nam đi đôi với việc củng cố và năng cao chất lượng hoạt

động của các tổ chức đoàn thể (Đảng, công đoàn,…) trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cần có chính sách đầu tư thích hợp để đầu tư phát triển nguồn nhân

lực đáp ứng nhu cầu hợp tác đầu tư với nước ngoài ở các địa phương như

việc đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo nghề nhằm đảm bảo cung cấp một

81

đội ngũ lao động tại chỗ có chất lượng cao. Trước hết trong khuôn khổ dự

án đầu tư Đông Dương, tăng cường hợp tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và

ESCAP để tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và xúc tiến

đầu tư.

Đề nghị bỏ cơ chế tuyển dụng lao động thông qua cơ quan cung ứng

lao động, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động, trong

đó ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương.

Với 6 giải pháp cụ thể đã nêu trên, phần nào đã làm an tâm các doanh

nghiệp đầu tư nước ngoài và cũng tạo điều kiện kinh doanh cho các doanh

nghiệp Singapo đầu tư vào Việt Nam, để các doanh nghiệp Singapo áp

dụng vào công việc kinh doanh của họ một cách có hiệu quả và nó cũng thể

hiện mối quan tâm của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường

đầu tư ngày càng trở nên tốt hơn.

KẾT LUẬN

Đầu tư trực tiếp của Singapovào Việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, thời gian

qua đầu tư trực tiếp của Singapo vào Việt Nam đã góp phần đáng kể

82

trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao

động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.

Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với

các nước ASEAN của Singapo để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế

này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và

nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng

thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng

trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử

dụng vốn đầu tư.

Có thể nói quan hệ với Singapo là cần thiết cho sự nghiệp phát

triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó,

để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy

tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất

hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các

nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Singapo nói riêng.

Quan hệ Việt Nam - Singapo đang phát triển, chắc chắn trong tương

lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Singapo sẽ tiến triển hơn nữa nhất là

trong lĩnh vực đầu tư.

PHỤ LỤC 1.

HIỆP ĐỊNH

83

GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT

NAM VÀ CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA SINGAPO

VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ.

Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính Phủ

Cộng Hoà Singapo (mỗi chính phủ sau đây được gọi là “Bên ký kết” ).

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác kinh tế

giữa hai nước, đặc biệt cho những đầu tư của các công dân và cônh ty

của nước này trên lãnh thổ của nước kia trên cơ sở nguyên tắc bình

đẳng và cùng có lợi.

Nhận thấy rằng, việc khuyến khích và bảo hộ những đầu tư đó sẽ

ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích sáng kiến kinh doanh và

làm tăng sự thịnh vượng ở cả hai quốc gia.

Đã thoả thuận như sau:

ĐIỀU 1

ĐỊNH NGHĨA

Với mục đích của Hiệp định này:

84

1.Thuật ngữ “đầu tư ” nghĩa là mọi loại hình tài sản được mỗi Bên ký

kết thừa nhậnphù hợp với luật pháp và những quy định của Bên ký kết đó,

bao gồm chủ yếu:

a) Động sản,bất động sản và các quyền sở hữu khác như cầm cố,thế

chấp hoặc thế nợ;

b) Cổ phiếu, chứng khoán, phiếu ghi nợ và các quyền lợi tương tự

trong các công ty;

c) Chứng quyền về tiền hoặc về các hợp đồng có giá trị kinh tế;

d) Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, (bằng sáng chế, nhãn

hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp), bí quyết, phương pháp kỹ thuật,

tên thương mại và đặc quyền kế nghiệp;

e) Tô nhượng thương mại theo luật định hoặc theo hợp đồng về thăm

dò, nuôi trồng, chiết suất hoặc khai thác các tài nguyên thiên nhiên.

2.Thuật ngữ “thu nhập” nghĩa là những khoản thu nhập từ đầu tư bao

gồm lợi nhuận, lãi, các khoản tăng vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền hoặc

phí.

3.Thuận ngữ “công dân” nghĩa là:

a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thể nhân là công dân

của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật Việt Nam .

85

b)Về phía Cộng Hòa Singapo, bất kỳ công dân nào của Cộng Hòa

Singapo theo Hiến pháp của Cộng Hòa Singapo.

4.Thuật ngữ “Công ty” nghĩa là:

a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một công ty hoặc

một pháp nhân được hợp nhất hay thành lập trên lãnh thổ của Việt Nam

theo pháp luật Việt Nam.

b)Về phía Cộng hoà Singapo, bất kỳ công ty, hãng, hiệp hội hoặc tổ

chức có hay không có tư cách pháp nhân được hợp nhất, thành lập hoặc

ĐIỀU 2

đăng ký theo pháp luật hiện hành của Cộng hoà Singapo.

ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH

1.Hiệp định sẽ chỉ áp dụng:

a)Về đầu tư trên lãnh thổ công hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,

những đầu tư do công dân và công ty của Công hoà Singapo thực hiện, đã

được cơ quan có thẩm quyền do Chính phủ Việt Nam chỉ định chuẩn y rõ

ràng bằng văn bản và theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp

ứng, nếu có.

b)Về đầu tư trên lãnh thổ Singapo, những đầu tư do công dân và công

ty của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, đã được cơ quan có

thẩm quyền do Cộng hoà Singapo chỉ định chuẩn y rõ ràng bằng văn bản và

theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp ứng, nếu có.

86

2.Các quyđịnh nói trên sẽ áp dụng đối với những đầu tư do công dân

và công ty của một Bên ký kết thực hiện trên lãnh thổ của Bên ký kết kia,

không phân biệt đã thực iện trước hay sau khi Hiệp định này có hiệu lực.

ĐIỀU 3

KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ

1.Mỗi Bên ký kết khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các

công dân và công ty của Bên ký kết kia thực hiện trên lãnh thổ của mình

những đầu tư phù hợp với chính sách kinh tế chung của mình.

2.Những đầu tư đã được chuẩn y theo Điều 2 được hưởng sự đối xử

công bằng, thoả đáng và sự bảo hộ phù hợp với Hiệp định này.

87

ĐIỀU 4

QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TỐI HUỆ QUỐC

Không Bên ký kết nào đối xử với những đầu tư trên lãnh thổ của mình

đã được chấp nhận phù hợp với quy định theo Điều 2 hoặc với những thu

nhập của công dân và công ty của Bên ký kết kia những điều kiện kém

thuận lợi hơn so với những điều mà Bên ký kết đó giành cho công dân và

công ty của bất kỳ nước thứ ba nào.

ĐIỀU 5

TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ

1.Các quy định của Hiệp định này liên quan đến việc đối xử không

kém thuận lợi hơn so với những điều dành cho công dân và công ty của bất

kỳ nước thứ ba nào, không bắt buộc một Bên ký kết phải giành cho công

dân và công ty Bên ký kết kia những ưu đãi hoặc đặc quyền ghi trong:

a)Bất kỳ sự thoả thuận nào về hải quan, tiền tệ, về các vấn đề thuế

hoặc thương mại (kể cả khu vực mậu dịch tự do) hoặc bất kỳ hiệp định nào

trong tương lai về một thoả thuận như vậy.

88

b)Bất kỳ sự thoả thuận nào với một nước thứ ba hoặc với các nước

cùng khu vực địa lý nhằm xúc tiến sự hợp tác khu vực trong các lĩnh vực

kinh tế, xã hội, công nghiệp hoặc tiền tệ trong khuôn khổ các dự án cụ thể.

2.Các quy định của Hiệp định này sẽ không áp dụng đối với các vấn

đề thuế trên lãnh thổ của các Bên ký kết. Các vấn đề thuế sẽ được điều

chỉnh theo Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa hai Bên ký kết và luật

quốc gia của mỗi Bên ký kết.

ĐIỀU 6

TƯỚC ĐOẠT QUYỀN SỞ HỮU

1.Không Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ một biện pháp nào về

tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc các biện pháp khác có hậu quả

tương tự đối với những đầu tư của công dân và công ty của Bên ký kết kia,

trừ khi các biện pháp đó được thực hiện vì một mục đích được luật cho

phép, trên cơ sở không phân biệt đối xử, phù hợp với pháp luật của mình và

phải được bồi thường, việc bồi thường sẽ được thực hiện một cách có hiệu

quả và không chậm chễ nếu không có lý do chính đáng. Sự bồi thường tuân

theo pháp luật của mỗi Bên ký kết và trị giá vào thời điểm ngay trước khi

quyền sở hữu bị tước đoạt, quốc hữu hoá hoặc các biện pháp có hậu quả

tương tự. Khoản bồi thường sẽ được tự do chuyển đổi và chuyển về nước.

2.Khi một bên ký kết tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc thực

hiện các biện pháp có hậu quả tương tự đối với những tài sản của một công

ty được sát nhập hay thành lập theo luật hiện hành ở bất kỳ nơi nào trên

lãnh thổ nước mình và trong đó các công dân hoặc công ty của Bên ký kết

89

kia có cổ phần, bên đó sẽ đảm bảo sự bồi thường đối với những công dân

hoặc công ty của Bên ký kết kia mà họ là chủ sở hữu của cổ phần đó.

ĐIỀU 7

BỒI THƯỜNG DO BỊ THIỆT HẠI

Công dân hoặc công ty của Bên ký kết là những người có đầu tư trên

lãnh thổ của Bên ký kết kia bị thiệt hại do chiến tranh hoặc do các xung đột

vũ trang, tình trạng khẩn cấp quốc gia, khởi nghĩa, bạo loạn sẽ được Bên ký

kết kia đối xử bằng việc bồi thường, hoàn trả, hoặc các giải pháp khác nếu

có không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử giành cho công dân hoặc công

ty bất kỳ nước thứ ba nào.

ĐIỀU 8

CHUYỂN VỐN VỀ NƯỚC

Mỗi Bên ký kết sẽ đảm bảo cho các công dân hoặc công ty của Bên ký

kết kia việc tự do chuyển các khoản vốn, thu nhập từ bất kỳ đầu tư nào trên

cơ sở không phân biệt đối xử, bao gồm:

a) Lợi nhuận, lãi về vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền, lãi và các thu nhập

khác phát sinh từ bất kỳ đầu tư nào.

b) Các khoản thu từ thanh lý toàn bộ hoặc từng phần của bất kỳ đầu tư nào.

c) Các khoản thanh toán theo các Hiệp định vay nợ liên quan đến các đầu tư.

d) Lệ phí giấy phép liên quan đến các vấn đề nêu ở Điều 1, khoản 1, mục d.

90

e) Các khoản thanh toán liên quan đến sự trợ giúp kỹ thuật, dịch vụ kỹ

thuật và lệ phí quản lý.

f) Các khoản thanh toán liên quan đến các dự án ký hợp đồng.

g) Các khoản thu nhập của công dân của Bên ký kết kia làm việc cho dự

án đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết này.

ĐIỀU 9

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

Sự chuyển tiền nêu ở Điều 6 đến Điều 8 của Hiệp định này sẽ được

thực hiện theo tỷ giá thị trường vào ngày chuyển bằng đồng tiền chuyển

đổi. Trong trường hợp không có tỷ giá thị trường sẽ áp dụng tỷ giá chính

thức.

ĐIỀU 10

LUẬT ÁP DỤNG

Để tránh nghi ngờ, cần khẳng định tất cả các đầu tư theo Hiệp định

này phải tuân theo pháp luật hiện hành trên lãnh thổ của Bên ký kết mà

những đầu tư đó được thực hiện.

ĐIỀU 11

91

ĐIỀU CẤM VÀ HẠN CHẾ

Các quy định của Hiệp định này không hạn chế quyền của mỗi Bên ký

kết áp dụng những điều cấm hoặc hạn chế nào hay tiến hành bất cứ hoạt

động nào, khi những điều cấm hoặc hạn chế đó liên quan đến:

a) Sự bảo hộ quyền lợi cơ bản về an ninh.

b) Việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân hoặc

c) Phòng chống dịch bệnh và côn trùng cho động vật và cây cối.

ĐIỀU 12

SỰ THẾ QUYỀN

1.Trong trường hợp một trong hai Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ

quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) đã thanh toán cho

công dân và công ty của mình theo khiếu nại của họ trong khuôn khổ Hiệp

định này, để thực hiện đền bù một khoản đầu tư hoặc một phần của khoản

đầu tư đó, thì Bên ký kết kia công nhận rằng, Bên ký kết (hoặc hãng, tổ

chức, cơ quan do pháp luật quy định hay công ty được uỷ quyền) được

hưởng sự thế quyền để thực hiện các quyền và quyền khiếu nại của công

dân và công ty của mình. Quyền và quyền khiếu nại được thế quyền này sẽ

không lớn hơn quyền và quyền khiếu nại ban đầu cuả nhà đầu tư.

2. Bất kỳ thanh toán nào do một Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ

quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) thực hiện cho công

dân và công ty của mình sẽ không ảnh hưởng đến quyền của công dân và

công ty đó được khiếu nại Bên ký kết kia theo Điều 13.

92

ĐIỀU 13

TRANH CHẤP VỀ ĐẦU TƯ

1.Bất kỳ tranh chấp nào giữa công dân hoặc công ty của một Bên ký kết với

Bên ký kết kia về đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, sẽ cố gắng hòa

giải bằng thương lượng giữa các Bên tranh chấp. Bên có ý định giải quyết

tranh chấp thông qua thương lượng sẽ gửi thông báo đến Bên kia về ý định

của mình.

2.Nếu việc tranh chấp không giải quyết được như đã nêu trong khoản (1)

của Điều này trong vòng 6 tháng kể từ ngày có thông báo như nêu dưới

đây, Bên ký kết và nhà đầu tư có liên quan sẽ đưa vụ tranh chấp ra hòa giải

theo các nguyên tắc về hòa giải năm 1980 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về

Luật thương mại quốc tế hoặc đưa ra trọng tài theo các nguyên tắc về trọng

tài năm 1976 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế theo

những điều khoản dưới đây:

a- Về các thủ tục hòa giải, sẽ có 2 thành viên hòa giải do mỗi Bên chỉ

định một người, và

b- Về các thủ tục trọng tài, sẽ áp sụng theo các điều khoản sau:

i) Toà án trọng tài gồm 3 trọng tài viên. Mỗi Bên sẽ chọn một

trọng tài viên, hai trọng tài viên này trên cơ sở cùng thoả thuận sẽ chỉ định

công dân của một nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với các Bên tranh

chấp làm Chủ tịch. Các trọng tài viên này sẽ được chỉ định trong vòng hai

tháng kể từ ngày một trong các Bên thông báo cho Bên kia về ý định đưa

vụ tranh chấp ra Tòa án trọng tài trong khoảng thời gian 6 tháng như đã

quy định tại khoản (2) của Điều này.

93

ii) Phán quyết của Toà án trọng tài sẽ được thực hiện theo các

điều khoản của Hiệp định này phù hợp với luật quốc gia có liên quan, kể cả

các nguyên tắc về luật xung đột trên lãnh thổ của Bên ký kết xảy ra tranh

chấp về đầu tư, cũng như những nguyên tắc được công nhận rộng rãi của

luật quốc tế.

iii)Nếu các sự chỉ định cần thiết không được thực hiện trong

khoảng thời gian nêu ở khoản 2(b) (i) và không có sự thoả thuận nào khác,

thì một trong các Bên yêu cầu Tổng thư ký của Trung tâm quốc tế về giải

quyết tranh chấp đầu tư thực hiện sự chỉ định cần thiết.

iv)Toà án trọng tài sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.

v)Quyết định của Toà án trọng tài sẽ là cuối cùng và bắt buộc

các Bên phải tuân theo các quy định của phán quyết đó.

vi)Toà án trọng tài sẽ tuyên bố những cơ sở của quyết định

của mình và tuyên bố những lý do theo yêu cầu của một trong các Bên.

vii)Mỗi Bên liên quan sẽ chịu chi phí cho trọng tài của mình

và các đại diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch trong

việc thực hiện chức năng trọng tài của mình và các chi phí còn lại của Toà

án trọng tài sẽ do các Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án trọng tài

có thể quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn, và quyết định

này sẽ là bắt buộc đối với hai Bên.

3.Những quy định của Điều này sẽ không ảnh hưởng bất lợi đến các

Bên ký kết trong việc áp dụng nhuững thủ tục được quy định ở Điều 14 khi

việc tranh chấp liên quan đến việc hiểu hoặc áp dụng Hiệp định này.

ĐIỀU 14

94

TRANH CHẤP GIỮA CÁC BÊN KÝ KẾT

Bất kỳ tranh chấp nào giữa các Bên ký kết liên quan đến việc hiểu và

áp dụng Hiệp định này, trong chừng mực có thể, sẽ được giải quyết bằng

con đường ngoại giao.

1.Nếu vụ tranh chấp đó không được giải quyết thì theo yêu cầu của một

trong các Bên ký kết, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Toà án trọng tài. Toà án

trọng tài (sau đây được gọi là “Toà án”) gồm có ba trọng tài viên, mỗi bên

ký kết chỉ định một người và người thứ ba sẽ do hai Bên ký kết thoả thuận

chỉ định làm Chủ tịch Toà án.

2.Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu về trọng tài,

mỗi Bên ký kết sẽ chỉ định một trọng tài viên và trong vòng hai tháng kể từ

khi chỉ định các trọng tài viên đó, các Bên ký kết sẽ thoả thuận chỉ định

trọng tài thứ ba.

3.Nếu Toà án không được thiết lập trong thời hạn bốn tháng kể từ khi

nhận được yêu cầu về trọng tài, thì một trong các Bên ký kết sẽ mời Chủ

tịch của Toà án trọng tài quốc tế chỉ định một trọng tài viên hoặc các trong

tài viên còn thiếu nếu không có bất kỳ thoả thuận nào khác. Nếu Chủ tịch là

công dân của một trong các Bên ký kết hoặc không thể thực hiện được việc

đó thì sẽ mời Phó Chủ tịch. Nếu Phó Chủ tịch là công dân của một trong

các Bên ký kết hoặc cũng không thể thực hiện được việc đó thì thành viên

cao cấp tiếp theo của Toà án quốc tế không phải là công dân của một trong

các Bên ký kết được mời để thực hiện sự chỉ định cần thiết.

4.Toà án sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.

5.Quyết định của Toà án sẽ là cuối cùng và các Bên ký kết phải tuân

theo các quy định của phán quyết đó.

95

6.Mỗi Bên ký kết sẽ chịu chi phí cho trọng tài viên của mình và các đại

diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch Toà án và các

chi phí còn lại sẽ do hai Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án có thể

quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn và quyết định này là bắt

buộc đối với cả hai Bên.

7.Ngoài những điều nêu trên, Toà án sẽ quy định những thủ tục riêng.

ĐIỀU 15

Các nghĩa vụ khác

Nếu pháp luật của một trong các Bên ký kết hoặc các nghĩa vụ quốc tế

hiện có hoặc được xây dựng sau này giữa các Bên ký kết để bổ sung cho

Hiệp định này, cho phép những đầu tư của các công dân Bên ký kết kia

được hưởng sự đối xử thuận lợi hơn so với những đối xử nêu trong Hiệp

định này, những quy định như vậy sẽ không bị Hiệp định này chi phối.

Ngoài những cam kết nêu ở Hiệp định này, các công dân hoặc công ty của

mỗi Bên ký kết sẽ tôn trọng bất cứ cam kết nào liên quan tới những đầu tư

của họ phù hợp với luật pháp của mình.

ĐIỀU 16

HIỆU LỰC, THỜI HẠN VÀ KẾT THÚC

1.Mỗi Bên ký kết sẽ thông báo cho Bên ký kết kia về việc hoàn thành

các thủ tục pháp lý cần thiết để việc thực hiện Hiệp định này có hiệu lực.

Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ ngày có thông báo của

Bên ký kết kia.

96

2.Hiệp định này có hiệu lực trong thời gian 10 năm và tiếp tục có hiệu

lực sau đó, trừ khi trước thời hạn kết thúc 10 năm đầu, một trong hai Bên

ký kết thông báo bằng văn bản cho Bên ký kết kia về ý định kết thúc Hiệp

định này. Thông báo về kêt thúc sẽ có hiệu lực một năm sau khi Bên kia

nhận được thông báo đó.

3.Liên quan tới những đầu tư được thực hiện trước ngày thông báo kết

thúc Hiệp định này thì các điều khoản từ Điều 1 đến Điều 15 sẽ tiếp tục có

hiệu lực thêm 10 năm nữa kể từ ngày Hiệp định này hết hiêụ lực.

Những người có tên dưới đây được Chính phủ các Bên uỷ quyền ký

Hiệp định này.

Hiệp định này được làm thành hai bản tại Singapo ngày 29 tháng 10

năm 1992 bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nam, cả hai bản có giá trị như

nhau. Trong trưòng hợp có sự hiểu khác nhau giữa hai bản, thì sẽ căn cứ

vào bản tiêng Anh.

Thay mặt Chính phủ Thay mặt Chính phủ

Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Cộng hoà Singapo

Nam Lim Boon Heng

Đậu Ngọc Xuân Bộ trưỏng cấp cao

Bộ trưỏng, Chủ nhiệm Bộ công thưong

Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư

(đã ký)

(đã ký)

97

PHỤ LỤC 2.

ĐỊNH HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ ĐẦU TƯ.

Hội nhập quốc tế về đầu tư là một trong những nội dung quan trọng

của hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Thông qua FDI, nền kinh tế của

các nước gắn kết với nhau ngaỳ càng chặt chẽ hơn. Trong những năm gần

đây và thời gian tới, các nước, trong đó có Việt Nam và các tổ chức quốc tế

đã và sẽ ký kết tham gia các điều ước và định chế quốc tế thuộc lĩnh vực

hội nhập quốc tế về đầu tư. Dưới đây là một số điều ước và định chế Việt

Nam đã hoặc sẽ tham gia và triển khai thực hiện nhằm mở rộng và nâng

cao hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài.

1. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư

Đến nay, Việt Nam đã ký kết 41 hiệp định khuyến khích và bảo hộ

đầu tư song phương với các nước và vùng lãnh thổ, đồng thời cũng là một

bên tham gia hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN. Mục tiêu

của việc ký kết và thực hiện các hiệp định này là tạo ra môi trường đầu tư

hấp dẫn và an toàn hơn cho đầu tư tại Việt Nam và nước tham gia ký kết,

cho cả nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam. Các biện pháp khuyến khích

đầu tư được nêu trong các hiệp định này thường bao gồm: chế độ đối xử

công bằng và thoả đáng; đối xử không kếm thuận lợi hơn sự đối xử dành

cho công dân và công ty bất kỳ nước thứ ba nào (MFN)...Các biện pháp

bảo hộ đầu tư thường là: các cam kết về việc không quốc hữu hoá, không

trưng thu, trưng mua; bồi thường thiệt hại trong trường hợp trưng thu, trưng

mua vì mục đích công cộng; đảm bảo về việc chuyển tiền; cam kết về cơ

chế giải quyết tranh chấp... Nhiều nội dung trong các hiệp định này đã được

quy định trong Luật đầu tư nước ngoài, nhưng vì luật chỉ do quốc hội một

nước đơn phương ban hành và do vậy có thể đơn phương sửa đổi nên vẫn

98

cần phải quy định trong để nâng cao mức độ cam kết, tạo yên tâm cho nhà

đầu tư nước ngoài.

2.Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN

Ngày 30 tháng 7 năm 1998, tại Manila, Philippin, đại diện có thẩm

quyền các nước ASEAN (Bộ trưởng kinh tế) đã ký kết Hiệp định khung về

khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Hiệp định đã chính thức có hiệu lực từ ngày

30 tháng 6 năm 1999 sau khi tất cả các nước thành viên đã phê chuẩn hoặc

phê duyệt hiệp định.

Mục tiêu của Hiệp định là nhằm xây dựng ASEAN thành khu vực đầu

tư có sức hấp dẫn cạnh tranh cao để thu hút nhiều hơn đầu tư của các nhà

đầu tư cả trong lẫn ngoài khu vực. Phạm vi áp dụng của Hiệp định chỉ giới

hạn với các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm các hoạt động đầu

tư gián tiếp và những vần đề đã được các hiệp đinh khác của ASEAN quy

định như Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ.

Để thực hiện mục tiêu trên, các Quốc gia thành viên cam kết cùng

nhau xây dựng và thực hiện các chương trình và kế hoạch hành động sau:

- Chương hợp tác và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Theo đó,

từng nước thành viên có những sáng kiến riêng để thông tin đầy đủ, rõ ràng

luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư của nước mình, đơn giản hoá thủ tục

đầu tư…ASEAN sẽ có những sáng kiến tập thể để thiết lập cơ sở dữ liệu về

các ngành công nghiệp hỗ trợ và các nhà cung cấp công nghệ của các nước

thành viên, về các cơ hội đầu tư ở ASEAN...

- Chương trình xúc tiến đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ tổ

chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung, trao đổi danh mục các ngành và

lĩnh vực khuyến khích đầu tư, trao đổi kinh nghiệm vận động xúc tiến đầu

tư giữa các cơ quan đầu tư ASEAN...

99

- Chương trình tự do hoá đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ

giảm bớt và laọi bỏ những hạn chế đầu tư, thường xuyên hoàn thiện chế độ

đầu tư theo hướng tự do hoá hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên

gia... Để tạo tiền đề cho việc thực hiện chương trình này, điều 7 của hiệp

định đã quy định việc các nước thành viên sẽ mở cửa các ngành nghề và

thực hiện chế độ đối xử quốc gia có điều kiện cho đầu tư của các nhà đầu

tư ASEAN. Cụ thể là, trong vòng sáu tháng kể từ ngày ký kết hiệp định,

mỗi nước thành viên sẽ đưa ra một danh mục loại trừ tạm thờivà một danh

mục nhạy cảm, nếu có, bao gồm bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp đầu tư

nào mà nước đó chưa hoặc không thể mở cửa hoặc dành đối xử quốc gia

cho các nhà đầu tư ASEAN. Ngoại trừ những ngành nghề và biện pháp nêu

trong các danh mục đó thì các nước thành viên sẽ mở ngay lập tức tất cả

các ngành nghề của nước mình cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN,

đồng thời, dành ngay lập tức cho nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ sự

đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư và đầu tư

tương tự của nước mình đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có

tác động đến đầu tư, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận,

thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư.

Tháng 6 năm 1999, sau khi Hiệp định đã được Chủ tịch nước phê

chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ

đã phê duyệt và cho phép gửi Ban thư ký ASEAN danh mục loại trừ tạm

thời và danh mục nhạy cảm của Việt Nam. Theo quy định của hiệp định và

thoả thuận về “Biện pháp táo bạo ”cải thiện môi trường đầu tư được công

bố tại Hội nghị thượng đỉnh VI tổ chức tại Hà nội tháng 12 năm 1998, danh

mục nhạy cảm không mở cửa và không dành chế độ đối xử quốc gia sẽ

được xem xét lại vào tháng 1 năm 2003 và từng giai đoạn tiếp theo do Hội

đồng AIA quyết định; danh mục loại trừ tạm thời chưa mở cửa các ngành

nghề cho các nhà đầu tư ASEAN của Việt Nam sẽ được xem xét lại hai

100

năm một lần và được loại bỏ dần để tiến tới loại bỏ hoàn toàn vào năm

2010 (các nước khác vào năm 2003, Lào 2010).

Như vậy, để thực hiện cam kết về mở cửa thị trường,chúng ta phải xây

dựng lộ trình loại bỏ dần những ngành mà hiện nay còn đang có những hạn

chế đối với nhà đầu tư ASEAN nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung

như đã được liệt kê trong danh mục tạm thời chưa mở cửa cho nhà đầu tư

ASEAN đã gửi cho Ban thư ký ASEAN. Do danh mục nhạy cảm của Việt

Nam đã bao gồm đầy đủ những ngành không mở cửa và những biện pháp

không dành chế độ đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài nên trong

quá trình thi hành hiệp định, Việt Nam hoàn toàn chủ động việc giữ hay

loại bỏ các biện pháp hoặc ngành cụ thể của danh mục này; trước mắt chưa

phải bổ xung sửa đổi pháp luật về FDI.

3.Hiệp định về các biện pháp thương mại liên quan đến đầu tư

của tổ chức Thương mại thế giới (WTO-TRIM).

Nước ta hiện đang đàm phán để gia nhập WTO, đã tham gia ba phiên

họp đàm phán đa biên về giải thích, làm rõ chính sách thương mại của Việt

Nam. Đồng thời với việc ký kết Hiệp ước thành lập WTO, các nước sáng

lập ra tổ chức này đã ký kết Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan

đến thương mại. Theo đó, các nước thành viên không được áp dụng các

biện pháp TRIM không phù hợp với chế độ đối xử quốc gia và nghĩa vụ

loại bỏ các hạn chế về số lượng quy định tại Điều III.4 và Điều XI.1 của

Hiệp định GATT năm 1994. Hiệp định xác định một danh mục minh hoạ

các TRIM không được áp dụng, bao gồm cả các biện pháp bắt buộc là điều

kiện để được phép đầu tư và những biện pháp để được hưởng ưu đãi đầu tư

như:

- Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một lượng nhất định các sản

phẩm trong nước khi sản xuất (yêu cầu nội địa hoá).

101

- Yêu cầu lượng sản phẩm nhập khẩu phù hợp với lượng sản phẩm

xuất khẩu của doanh nghiệp.

- Hạn chế nhập khẩu nói chung hoặc theo lượng sản phẩm xuất khẩu

của doanh nghiệp.

- Hạn chế nhập khẩu của doanh nghiệp bằng cách giới hạn lượng

ngoại tệ được sử dụng trong phạm vi nguồn ngoại tệ mà doanh nghiệp thu

được.

- Hạn chế xuất khẩu theo lượng sản phẩm sản xuất ra.

Các nước thành viên WTO có nghĩa vụ thông báo tất cả các TRIM vi

phạm Hiệp định và loại bỏ chúng trước năm 1997 đối với các nước phát

triển, trước năm 2000 đối với các nước đang phát triển và trước năm 2002

đối với các nước chậm phát triển. Đối với các nước đang xin gia nhập

WTO như nước ta, thời hạn loại bỏ TRIM phụ thuộc vào việc đàm phán

với độ thuyết phục của các luận cứ ta đưa ra. Tuy nhiên, cho đến nay, ngoại

trừ những trường hợp đã được xác định trong danh mục minh hoạ, các

nước vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về những trường hợp vi phạm TRIM

của WTO. Trong vòng đàm phán thứ ba vừa qua, đứng trên lập trường của

nước đang phát triển có thu nhập tính theo đầu người thấp, ta đã chỉ thừa

nhận vi phạm WTO-TRIM liên quan đến chính sách nội địa hoá trong

ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, sản phẩm điện tử dân dụng và đề nghị

cho tiếp tục áp dụng hoặc loại bỏ trong vòng 7 năm kể từ ngày Việt Nam

gia nhập WTO. Tuy nhiên, đoàn Mỹ, Nhật Bản, EU... cho rằng Việt Nam

còn có các biện pháp vi phạm WTO-TRIM như quy định về lĩnh vực đầu tư

phải xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, phải gắn với đầu tư phát triển nguồn

nguyên liệu… Thời gian xác định TRIM không phù hợp với quy định của

WTO phải được xác định và sớm loại bỏ trong quá trình đàm phán gia nhập

WTO hoặc thời gian ngắn sau khi gia nhập WTO.

102

4. Chương trình phát triển quan hệ đầu tư trong hiệp định thương

mại Việt Nam - Hoa kỳ:

Tuy là một chương trong hiệp định thương mại , nhưng chương phát

triển quan hệ đầu tư có hình thức và nội dung tương tự như một hiệp định

song phương hoàn chỉnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước.

Ngoài phần lớn các nội dung tương tự như 41 hiệp định song phương về

khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ta đã ký với các nước khác, chương

đầu tư mà hai bên đã đạt được thoả thuận về nguyên tác có một số điểm

khác biệt chủ yếu đáng lưu ý như sau:

4.1. Về chế độ đối xử quốc gia:

Trừ một số ngoại lệ được quy đinh tại phụ lục kèm theo Hiệp định,

các Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia sự đối xử không kém

thuận lợi hơn sự đối xử đối với nhà đầu tư trong nước trong toàn bộ quá

trình từ thành lập, hoạt động, mở rộng, quản lý điều hành đến thanh lý giải

thể đầu tư (đối xử quốc gia- NT). Quy định này tương tự như quy định của

Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN nêu ở mục 2 trên đây. Tuy

nhiên, nội dung của hai Hiệp định khác nhau ở chỗ, AIA để các nước thành

viên chủ động đưa ra danh mục loại trừ tạm thời, danh mục nhảy cảm chưa

hoặc không áp dụng NT; thì ngược lại, Phụ lục của Dự thảo Hiệp định với

Hoa kỳ quy định củ thể những ngành, lĩnh vực và biện pháp loại trừ vĩnh

viễn, những ngành, lĩnh vực biện pháp loại trừ tạm thời và thời hạn loại bỏ

với một lịch trình cụ thể.

4.2. Về chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư .

Phù hợp với chủ trương của Chính phủ ta và nguyện vọng của nhà đầu

tư về đơn giản hoá thủ tục đầu tư, Hiệp định đã quy định về việc áp dụng

chế độ đăng ký cấp phép đầu tư và lịch trình từng bước mở rộng để rồi sau

9 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực thì ngoại trừ nhữnh dự án lớn, dự

103

án thuộc lĩnh vực nhậy cảm cần phải áp dụng chế độ thẩm định cấp phép

đầu tư sẽ được áp dụng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho tất cả các dự

án còn lại.

4.3. Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại .

Hiệp định đã áp dụng TRIM- WTO như đã nêu ở phần trên để điều

trỉnh vấn đề này,thay vì áp dụng những tiêu chuẩn quá cao của NAFTA,

APEC hoặc Dự thảo hiệp định đầu tư đa biên (MAI) đang được các nước

OECD soạn thảo. Ngoại trừ việc phải bỏ ngay sau khi Hiệp định có hiệu

lực đối với yêu cầu hạn chế nhập khẩu gắn với xuất khẩu hay với nguồn

ngoại tệ có được (Pháp luật hiện hành của Việt Nam không quy định hạn

chế này), Hiệp định quy định thời hạn phải loại bỏ TRIM là 5 năm kể từ

ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc thời hạn mà Việt Nam đạt được khi gia

nhập WTO, tuỳ thuộc vào thời điểm nào sớm hơn.

5.Hội nhập về đầu tư trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Châu á -

Thái Bình Dương (APEC).

Mục tiêu chủ yếu của APEC là tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư

vào năm 2010 đối với nước phát triển và vào năm 2020 đối với nước đang

phát triển. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước APEC sẽ giảm hoặc loại bỏ

những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của WTO,

các nguyên tắc không ràng buộc của APEC, các hiệp định quốc tế khác có

liên quan đến đầu tư và bất cứ hướng dẫn nào được thảo thuận trong nội bộ

APEC, đồng thời tăng cường ký kết các hiệp định đầu tư song phương giữa

các thành viên.

Hội nghị Bộ trưởng kinh tế APEC tổ chức tháng 11 năm 1995 tại Nhật

Bản đã thông qua “Chương trình hành động OSAKA”. Theo đó, các nước

thành viên có nghĩa vụ xây dựng các trương trình hành động riêng của

mình nhằm giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng như hạn

104

chế khác đối với thương mại và đầu tư. Ngoài ra, chương trình hành động

OSAKA cũng xác định 15 lĩnh vực được đưa vào kế hoạch hành động củ

thể chung, trong đó có chương trình tự do hoá đầu tư với cả chương trình

ngắn hạn, trung hạn lẫn dài hạn.

Khác với các tổ chức quốc tế khác như ASEAN, EU, NAFTA…mục

tiêu và nội dung hợp tác của APEC được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc

“tự nguyện”, “không bắt buộc”.

6. Hợp tác đầu tư trong khuôn khổ Hợp tác Á -ÂU (ASEM).

Mục tiêu của chương trình hành động về hợp tác xúc tiến đầu tư Á-

ÂU là nhằm hoàn thiện luật pháp chính sách ở mỗi nước theo hướng tạo

môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ở cả hai khu vực. Theo

đó các nước sẽ thực hiện nguyên tắc đầu tư không ràng buộc với nội dung

chủ yếu là dành chế độ đối xử quốc gia; xoá bỏ hạn chế liên quan đến việc

chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài; thực hiện đối xử công bằng, thoả

đáng và phù hợp với những nguyên tắc của luật quốc tế trong trường hợp

tước quyền sở hữu hoặc trưng thu đầu tư vì mục đính công cộng; xoá bỏ

hạn chế đối với hoạt động thương mại hàng hoá của các dự án đầu tư phù

hợp với quy định của Hiệp định TRIM – WTO; thực hiện cơ chế giải quyết

tranh chấp đầu tư theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế; tăng cường việc ký

kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và các hiệp định tránh

đánh thuế trùng giữa các thành viên...

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục – 1993.

2. Giáo trình Chính sách kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê - 1998.

3. Giáo trình Kinh tế đầu tư.

4. Hội nhập kinh tế Việt Nam – ASEAN, NXB Thống kê - 1999.

5. Tài liệu tham khảo: tình hình hoạt động của liên doanh tại

Việt Nam .

6. Trần Thị Vinh: Quan hệ Việt Nam – Singapore. Nghiên cứu Đông Nam

á 6/99.

7. Phùng Xuân Nhạ: ĐTNN ASEAN. Những vấn đề kinh tế thế giới số

6/98.

8. Nguyễn Trọng Xuân: ĐTTTNN tại Việt Nam thời kỳ 1998 – 1999.

Những vấn đề kinh tế thế giới số 2/2000.

9. GS. TS Nguyễn Mại: Đầu tư nước ngoài, thực trạng và giải pháp. Tài

chính số 7/98.

10. Nghị định 24/2000/NĐ - CP.

11. Báo đầu tư 1997, 1998, 1999, 2000

106

12. Viện nghiên cứu Đông Nam á: Việt Nam – ASEAN, NXB KHXH/96

13. Vũ Anh Tuấn: ảnh hưởng của việc tham gia AFTA đối với cơ cấu sản

xuất. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5/96.

14. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế VN, NXB Thống

kê / 97.

15 Asian Development Outlook Update - 9/2000- ADB

East Asia Brief - 9/2000 World Bank .

World Economic Outlook - 9/2000- IMF.

16. Những nội dung kinh tế - tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại

Việt Nam, NXB Tài Chính - 1999.

17. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - Trường ĐHKTQD- Bộ môn

Kinh tế đầu tư, TS Nguyễn Bạch Nguyệt , NXB Thống Kê - 2000.

18. Thẩm định dự án đầu tư , PGS kinh tế - Trường ĐH Kinh Tế thuộc Đại

học Quốc Gia TP HCM .

NXB TP HCM - 1999.

19. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế - Cơ hội và thách thức , ĐH KTQD-

Khoa KT & KDQT, tháng 2/1999.

20. Báo cáo tổng hợp của Vụ đầu tư Bộ thương mại năm 1999,2000.

21. Báo cáo tổng hợp của Vụ QLDA- Bộ kế hoạch và đầu tư, 1999-2000.

22. Báo đầu tư năm 1998, 1999, 2000, 2001.

107

108