Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Singapo vào
Việt Nam - thực trạng và
giải pháp
1
LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh
chóng và sâu sắc.Việt Nam với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế - thương mại và
toàn cầu : là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký hiệp định
thương mại Việt-Mỹ và đang xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) ... Các nước đánh giá cao vai trò và vị trí của Việt Nam ở khu vực
và thế giới , đồng thời đánh giá cao tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình hoạt động kinh tế
quốc tế ra, đời và phát triển có tính tất yếu, lâu dài cùng với xu thế toàn cầu
về kinh tế. FDI có vai trò vị trí quan trọng, tích cực đối với cả nước tiếp
nhận FDI lẫn nước đi đầu tư. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là nhiệm vụ
của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH . Trong
suốt quá trình này, chúng ta cần nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý. Nên việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài , nhất là các nước
trong cùng khu vực có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, văn hoá, xã hội ...
là rất quan trọng. Một trong những nhà đầu tư nước ngoài có số vốn đầu tư
lớn vào Việt Nam phải kể đến Singapo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Singapo góp phần làm tăng thêm vốn để đầu tư phát triển sản xuất, cung
cấp cho nền kinh tế nước ta những máy móc kỹ thuật và quy trình công
nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng kim ngạch
XK của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần ổn định nền tài chính
tiền tệ quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ năm 1987,
được sửa đổi bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996 và đầu năm 2000 vừa
qua đến nay luật đầu tư nước ngoài đã thông thoáng hơn, tạo nhiều điều
2
kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Sau gần 13 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đến
nay điều được khẳng định chắc chắn : chủ trương thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là đúng đắn và cần thiết của Đảng và Nhà nước ta, góp
phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu và khu vực.
Nhận thấy tính cấp thiết và quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài,
đặc biệt là các nguồn vốn từ các nước trong cùng khu vực nên đề tài “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - thực trạng và giải
pháp” đã được chọn làm nội dung luận văn tốt nghiệp. Luận văn được viết
thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo tại
Việt Nam, giai đoạn 1988-2000.
ChươngIII: Triển vọng quan hệ hợp tác và một số giải pháp đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam.
Trong quá trình làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em xin trân trọng
cảm ơn Ths Đỗ thị Hương, cùng các cô, chú và đặc biệt là giáo sư Hàn
Mạnh Tiến - Giám đốc Công ty TNHH CONCETTI đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Nhưng do khuôn khổ có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế, chuyên đề
này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong được
sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I/KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC CỦA FDI :
1.Khái niệm .
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ ra hay hy sinh một nguồn
lực ở hiện tại nhằm thu được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong
tương lai.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện từ thời kỳ tiền tư
bản và đã có nhiều lý thuyết đề cập về nó. Tuy không có nhiều tranh cãi
nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về đầu tư trực tiếp
nước ngoài được thừa nhận rộng rãi .
Nói một cách khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động
có những đặc điểm sau:
- Có sự thiết lập quyền sỡ hữu về vốn và tài sản của người nước này
ở một nước khác .
- Chủ đầu tư chịu hoàn toàn trách nhiệm về quản lý dự án và hiệu
quả của vốn đầu tư .
- Thường do các cá nhân hay các công ty đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia tiến hành thông qua việc thành lập mới mở rộng các cơ sở
sản xuất hiện có nhằm mở rộng thị trường.
- Thường gắn liền với hoạt động chuyển giao công nghệ.
Như vậy, có thể rút ra một định nghĩa về FDI như sau:
4
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các cá nhân hay
tổ chức kinh tế thực hiện nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và
thị trường ở một nước khác thông qua việc di chuyển vốn, hay bất kỳ hình
thức giá trị nào như máy móc thiết bị, công nghệ và thiết lập quyền sở hữu
về vốn đầu tư của mình tại nước đó .
Một hình thức đầu tư nước ngoài khác tồn tại song song với đầu tư
trực tiếp là đầu tư gián tiếp. Đây là hoạt động đầu tư thường do Chính phủ
các nước hay các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi Chính phủ
(NGOs)cho một nước khác (thường là các nước đang phát triển ) vay vốn.
Theo hình thức này bên nhận vốn trở thành con nợ, họ có toàn quyền quyết
định việc sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, còn bên cho
vay không chịu rủi ro và hiệu quả của vốn vay mà chỉ huởng lãi suất theo
tỷ lệ cho trước của số vốn mà họ cho vay. Đầu tư gián tiếp bao gồm các
khoản viện trợ chính thức (ODA), tín dụng quốc tế, trái phiếu, cổ phần...
Loại hình đầu tư này thường đi kèm với các điều kiện về kinh tế hay chính
trị bất lợi cho nước nhận vốn. Do vậy, loại hình đầu tư này chiếm tỷ trọng
không lớn lắm trong vốn đầu tư quốc tế, nó thường chỉ dành cho các nước
đang phát triển đang có nhu cầu cấp thiết về vốn.
Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, các hình thức đầu tư trực
tiếp phổ biến hơn và có xu hướng ngày càng tăng. Sở dĩ như vậy là do hình
thức đầu tư trực tiếp có mộ số lợi thế hơn hẳn. Đối với các nước đang phát
triển, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế rất lớn trong lúc đó kinh
nghiệm quản lý của họ còn yếu kém nên hiệu quả vốn đầu tư thấp. Bởi vậy,
cho các nước này vay vốn sẽ có nhiều rủi ro, khả năng thu hồi vốn thấp.
Trong hoàn cảnh đó, đầu tư trực tiếp sẽ là giải pháp tốt nhất vì vốn được
mang sang nước họ cùng với công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm sản xuất
nhiều, do đó làm tăng hiệu quả vốn đầu tư. Nước nhận vốn bên cạnh đó còn
tiếp nhận được cả phương thức sản xuất mới hoà nhập vào thị trường quốc
5
tế. Một lợi thế nữa là đầu tư trực tiếp nước ngoài không đưa những nước
nhận vốn đến gánh nặng nợ nần, không bị các ràng buộc về kinh tế và
chính trị bất lợi cho đất nước.Tuy nhiên, hạn chế của nguồn vốn đầu tư trực
tiếp là nếu các nước nhận vốn không có định hướng rõ ràng, không quản lý
tốt thì sẽ dẫn đến sự phát triển kinh tế không cân đối tạo ra một cơ cấu đầu
tư, cũng như cơ cấu kinh tế không phù hợp.
2. Nguồn gốc và bản chất của FDI.
Theo định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trên ta thấy đặc
điểm cơ bản nhất của nó là việc người nước ngoài đưa vốn vào một nước
khác để mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường. Việc sản
xuất hàng hoá tại nước mình rồi xuất sang nước khác như vậy làm cho chi
phí vận chuyển tăng lên. Thay vào đó, chủ đầu tư đưa vốn sang nước khác
để sản xuất và bán ngay tại thị trường nước sở tại thì họ không những giảm
được chi phí vận chuyển mà còn tránh được thuế nhập khẩu hàng hoá vốn
do các nước đặt ra để bảo vệ nền kinh tế của họ. Điều này lý giải tại sao lại
có dòng vốn đầu tư cùng chảy vào và chảy ra tại cùng một nước, tại sao
đầu tư vốn mà không nhập khẩu hàng hoá.
Theo học thuyết của D.Ricardo, mỗi nước có lợi thế riêng về các yếu
tố sản xuất mà ông gọi đó là lợi thế so sánh, ở các nước phát triển đó là lợi
thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất còn ở các nước đang phát
triển đó là lao động rẻ, tài nguyên tại chỗ phong phú, thị trường sơ khai. Do
vậy, khi chi phí sản xuất ở một nước (thường là nước phát triển) cao họ tìm
cách đưa vốn sang nước khác để tận dụng hết lợi thế so sánh của mỗi nước
bằng cách đó họ đã nâng cao được tỷ lệ lợi nhuận biên/chi phí biên.
Mọi nhà kinh doanh đều có xu hướng đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Thiết lập nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ở các nước khác, tức là họ đã
thực hiện mục tiêu của mình một cách hợp lý. Sự thay đổi thường xuyên
6
của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố khiến cho việc di chuyển tư bản trên
phạm vi quốc tế diễn ra mạnh hơn. Chẳng hạn, khi đồng USD tăng giá so
với đồng Việt Nam thì hàng hoá nhập khẩu của Mỹ tại thị trường Việt Nam
trở nên đắt hơn so với trước. Nhưng nếu hàng hoá đó sản xuất tại Việt Nam
sử dụng đầu vào tại chỗ thì nó sẽ không thay đổi về giá cả, thậm chí khi đó
chủ đầu tư còn có lợi nếu xuất khẩu trở lại Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề này có
tính hai mặt tức là khi tỷ giá hối đoái biến động ngược lại thì chủ đầu tư lại
bị thiệt hại.
Trước những năm 1970, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường chỉ diễn
ra ở các nước phát triển với nhau hoặc từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển. Sau đó cùng với sự thịnh vượng của khối OPEC (tổ chức
các nước xuất khẩu dầu lửa) và các nước công nghiệp mới (NICs) thì một
lượng vốn đầu tư lớn do các nước này đưa sang nước phát triển và đang
phát triển khác. Thể hiện rõ nét cho các xu hướng này là đầu tư từ các nước
Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo...sang khu vực Tây Âu và các
nước đang phát triển ngày càng tăng.
Sự phát triển của thương mại và thị trường tài chính quốc tế và các
công ty đa quốc gia đã tạo điều kiện cho FDI phát triển mạnh. Các công ty
đa quốc gia thường là các phương tiện cho việc đi vay và cho vay quốc tế
chiếm 70% từ FDI quốc tế. Công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình
qua các công ty chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, khi nói tới FDI người ta
cũng thường ám chỉ các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty
ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Vì vậy FDI luôn
gắn liền với công ty đa quốc gia ở đó việc chuyển giao vốn không đơn
thuần là sự chuyển giao nguồn lực mà còn là sự mở rộng thị trường mở
rộng sự kiểm soát và quản lý .
7
II. CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA FDI :
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam đầu tư trực tiếp
nước ngoài bao gồm các hình thức chủ yếu sau :
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh .
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên
hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới .
Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên kết kinh
doanh giữa chủ đầu tư trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài theo
từng trường hợp cụ thể, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân
riêng chứ không tạo nên bất cứ một pháp nhân mới nào. Ởđây cũng không
chỉ góp vốn và các phương tiện sản xuất mà còn thoả thuận về nghĩa vụ và
quyền hạn của mỗi bên bằng hợp đồng trong việc tiến hành một công việc
sản xuất kinh doanh và những quyền lợi mà họ được hưởng. Hình thức này
rất đa dạng và phù hợp với những dự án có qui mô nhỏ thời hạn hoạt động
ngắn.
2. Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước
ngoài và Việt Nam cùng góp vốn thành lập liên doanh theo một tỷ lệ đã
thỏa thuận. Theo luật định doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt
Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký hoặc là doanh nghiệp do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc
do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.
8
Doanh nghiệp liên doanh đươc thành lập theo hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.Thời gan
hoạt động của các doanh nghiệp khoảng từ 30-50 năm. Doanh nghiệp hoàn
toàn tự chủ về tài chính vì vốn pháp định do mỗi bên liên doanh góp (mức
góp của bên Việt Nam ít nhất là 30%). Trong quá trình liên doanh, doanh
nghiệp không được giảm vốn nếu muốn tăng vốn phải làm biên bản giải
trình lên Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư để xem xét và giải quuyết.
Thông thường, khi thành lập liên doanh phía Việt nam có lượng vốn
rất nhỏ, vì vậy sẽ dẫn đến tỷ lệ phần quyền lợi rất ít. Do đó, vốn pháp định
của doanh nghiệp liên doanh được qui định luôn nhỏ hơn vốn đầu tư thực
tế để đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam cũng như đảm bảo tỷ lệ chia lãi
hợp lý hơn. Đối với loại hình này, nhà nước đã giành được nhiều ưu đãi mà
cả bên nước ngoài và bên Việt Nam đều được hưởng.
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam (luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập
theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam .Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30%vốn
đầu tư của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không
được giảm vốn pháp định. Các doanh nghiệp này thường ở trong khu chế
xuất hay trong khu công nghệ cao.
Ngoài ra còn có một số hình thức biến dạng khác như :
* Hình thức đầu tư BOT.
BOT là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó nhà
đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian
9
nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước sở tại.
Hình thức BOT ra đời nhằm tạo ra loại hình công việc có chất lượng
ở các nước chậm và đang phát triển khi các nước này không có đủ vốn. Đặc
điểm chung của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ vốn nhiều,
thời gian thu hồi vốn chậm .
Các công ty ký hợp đồng BOT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được hưởng nhiều ưu đãi về thuế, được nhà nước bảo lãnh để tránh rủi ro…
Hình thức hợp đồng BOT là hình thức đầu tư mới xuất hiện ở Việt Nam,
song nó có vai trò to lớn làm thay đổi bộ mặt mặt nền kinh tế. Nhờ nó chất
lượng kết cấu hạ tầng được nâng cao một cách rõ rệt, tạo đà thu hút hơn
nữa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như đáp ứng tốt hơn nhu cầu
tăng lên của nhân dân.
* Hình thức đầu tư BTO.
BTO ( Built-Transfer-Operate) hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh
doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình, sau khi đã xây dựng xong nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước sở tại và được dành quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu
tư và lợi nhuận hợp lý.
* Hình thức đầu tư BT.
BT (Built-Transfer) hợp đồng xây dựng chuyển giao là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây
dựng công trình, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình đó cho nước chủ nhà và tạo điều kiện thực hiện dự án khác nhằm
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
10
III. TÁC ĐỘNGCỦA FDI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ :
1. Đối với quốc gia đi đầu tư.
Thứ nhất, để mở rộng thị trường tiêu thụ, ngay tại nước chủ đầu tư,
nhà đầu tư có thể đã có một vị trí nhất định trên thị trường. Cũng có thể loại
hàng hoá hoặc dịch vụ mà nhà đầu tư có cung cấp đang bị cạnh tranh gay
gắt tại thị trường trong nước. Việc tìm kiếm những thị trường ngoài nước
với những nhu cầu lớn về loại hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà đầu tư sẽ đáp
ứng được việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra,
các chủ đầu tư có thể có lợi thế độc quyền nhờ sở hữu một nguồn lực hay
kỹ thuật mà các đối thủ cạnh tranh của họ không có được ở thị trường sở
tại. Điều này sẽ mang lại cho nhà đầu tư nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ hai là xâm nhập thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Theo lý
thuyết về tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nếu cứ tiếp tục đầu tư vào một dự án
nào đó ở một quốc gia nào đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ tăng đến một mức độ
nhất định rồi sẽ giảm dần. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn chú trọng tìm kiếm
những thị trường đầu tư mới mẻ đề đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Đồng thời, ở các nước công nghiệp phát triển thường có hiện tượng thừa
“tương đối” vốn nên việc đầu tư ra nước ngoài giúp các nhà tư bản nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, sử dụng các yếu tố sản xuất ở nước nhận đầu tư. Do sự phát
triển không đều về trình độ của lực lượng sản xuất, ở các quốc gia khác
nhau chi phí sản xuất là không giống nhau. Giữa các quốc gia có sự chênh
lệch về giá cả hàng hoá, sức lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, vị trí
11
địa lý ... Các nhà đầu tư thường lợi dụng sự chênh lệch này để thiết lập hoạt
động sản xuất ở những nơi có chi phí sản xuất thấp nhằm hạ giá thành sản
phẩm. Đầu tư ra nước ngoài có thể giúp các nhà đầu tư hạ thấp chi phí sản
xuất do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại.
Đồng thời, khi đầu tư sản xuất ở nước sở tại, nhà đầu tư có thể sử dụng
nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất của mình ở chính nước này.
Việc này giảm bớt được chi phí vận tải cho việc nhập nguyên nhiên liệu,
nhất là khi các nhà đầu tư muốn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng ở nước ngoài.
Đối với việc thiết lập nhà máy sản xuất ở các nước Tư bản phát triển
các nhà đầu tư có thể học tập công nghệ tiên tiến của các nước đó. Và
những công nghệ này có thể sẽ được áp dụng ở nhiều nhà máy hay chi
nhánh của công ty ở các nước khác. Những công nghệ hiện đại sẽ góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất để đưa đến mục
đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận cao.
Cuối cùng, đó là tránh được các hàng rào thương mại. Xu thế bảo hộ
mâu dịch trên Thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở các nước công
nghiệp phát triển. Đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập
chiếm lĩnh thị trường và tránh được các hàng rào bảo hội mậu dịch giúp các
chủ đầu tư giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tránh được các trướng ngại cho
việc tiêu thụ hàng hoá hay dịch vụ của mình như tránh được thuế nhập
khẩu, hạn ngạch.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, tích cực trên đây, FDI cũng có thể
chứa đựng những thách thức đối với nước có đầu tư ra nước ngoài. Đó là
các vấn đề quản lý vốn, công nghệ, sự ổn định của đồng tiền, cán cân thanh
toán quốc tế, vấn đề việc làm của lao động trong nước .
- Có khả năng làm lộ các bí quyết kinh doanh: Do CGCN nên nhà
ĐTNN thường phải hướng dẫn, truyền đạt một số kinh nghiệm của mình
12
cho đối tác bên nước sở tại để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho cả
hai bên
- Dễ tạo ra đối thủ cạnh tranh trong tương lai: Trong thời gian
dài của quá trình CGCN, đối tác nước sở tại thường có nhiều cơ hội học
hỏi, hiện đại hoá chính mình và từ đó làm tăng khả năng trở thành đối thủ
mạnh trong tương lai đối với các nhà ĐTNN .
- Chịu nhiều rủi ro và có thể không thu hồi được vốn: Hoạt động
ĐTQT là hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro do sự khác biệt về môi
trường kinh doanh giữa nước này với nước kia và những tác động củ yếu tố
ngoại cảnh.
2. Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những đáp ứng được nhu cầu và
lợi ích của nước chủ đầu tư mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó thể hiện ở những khía cạnh sau
:
Thứ nhất : Đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cho nước sở tại một
nguồn vốn lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Hầu hết các
nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu vốn để thực hiện
công nghiệp hoá và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã thu
hút được một lượng vốn nước ngoài lớn từ đầu tư trực tiếp để giải quyết
khó khăn về vốn và do đó đã thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá đất
nước.
Thứ hai : Cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuât. Qua thực hiện đầu
tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ các chi
nhánh, nhà máy của họ ở nước khác sang nước sở tại. Chuyển giao công
nghệ là kết quả của quá trình nghiên cứu và phát triển nhằm vào việc phát
minh ra sản phẩm hay kỹ thuật sản suất mới hoặc cả hai.Cho nên, nhờ có sự
13
chuyển giao đó mà các nước đang phát triển có điều kiện tốt hơn để khai
thác các thế mạnh sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, tăng sản xuất, sản
lượng và khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thị trường Thế giới
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba : Việc thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước sở tại, chủ đầu tư
cần sử dụng lao động ở chính nơi đây. Sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy
mới, nông trại mới đã thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Hơn thế
nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải đào tạo những người lao động
thành những công nhân lành nghề cho doanh nghiệp của mình. Điều này
góp phần tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động cho
nhân dân nước sở tại, do đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở những nước này.
Thứ tư : FDI đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về
ngoại tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có
thể được bổ xung bằng nguồn vốn FDI.
Khi FDI chảy vào một nước nó có thể làm giảm thâm hụt cán cân
vãng lai. Nó cũng có thể làm triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua thời gian khi
các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng.Thêm nữa
khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà
như công nghệ, kỹ năng sản xuất ...chúng cũng làm nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế của các hãng trong nước do đó có thể làm tăng xuất khẩu góp
phần tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại .
Thứ năm : Tác động giữa FDI và công nghệ được coi như một trong
những nội dung quan trọng trong việc xem xét đầu tư nước ngoài cả cho
nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Lý do của điều này là công nghệ mang
lại những lợi ích cho cả hai đặc biệt là nước nhận đầu tư .Đầu tiên người ta
hy vọng FDI đem đến những công nghệ tiên tiến cho nước sở tại. FDI có
thể mang đến cho nước chủ nhà các bí quyết sản xuất và công nghệ tiên
14
tiến. FDI có thể thúc đẩy quá trình cải tiến công nghệ của các nước đang
phát triển làm tăng năng suất lao động.Thông qua FDI các nước chủ nhà sẽ
có được những tiến bộ trong nền sản xuất và xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp cho nước chủ nhà các kỹ
năng, khả năng quản lý mới thông qua việc đầu tư của mình các nhà đầu tư
nước ngoài mang đến những kinh nghiệm quản lý kỹ năng áp dụng công
nghệ mới thực hiện thông qua các chương trình đào tạo vừa học vừa làm .
Thứ sáu : Do tác động của vốn và khoa học công nghệ, đầu tư trực
tiếp sẽ tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ
cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó,
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện
để mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có
thêm nhiều sản phẩm để không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn để xuất khẩu sang các nước khác và mở rộng quan hệ thương
mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy
sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay nước sở tại làm cho môi
trường đầu tư ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu
cũng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ
nhà. Nó chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn
định, đặc biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của
mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối
với nước nhận đầu tư như :
- Các nước nhận FDI thường không dễ giải quyết mối quan hệ giữa
mở cửa thu hút FDI với việc bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước, thị trường
trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền về kinh tế, an ninh chính trị và ổn
định, an toàn xã hội .
15
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây sự rối ren, mất ổn định cho nền
kinh tế nước sở tại.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử
dụng theo những mục tiêu của họ.
- Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển
thường không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công
nghệ không còn được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời
hạn sử dụng hoặc không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất
lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng
chuyển giao công nghệ nhỏ giọt, từng phần và mất nhiều thời gian.
- Nếu không định hướng và quản lý tốt FDI, nợ quốc gia sẽ tích tụ, tăng
dần , ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thanh toán quôc tế và sự ổn định của
đồng tiền.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học ,
dễ dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột
quá mức.
- Nước sở tại phải đương đầu với chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi
trong kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở
trong luật pháp sở tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước sở tại.
16
Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không
thể phủ nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và
nước nhận đầu tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm
soát đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
IV. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ
TRONG KHU VỰC :
1. FDI luôn phát triển với tốc độ nhanh và trở thành một loại
hình quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng, có tính tất yếu đối với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và hầu hết các quốc gia ; trong đó,
các nước công nghiệp phát triển là lực lượng chi phối chủ yếu .
Từ đầu những năm 1960 đến nay, FDI thế giới luôn tăng nhanh qua
các năm , bình quân khoảng 20%/năm . Nếu như tổng FDI thế giới chỉ là
vài chục tỷ USD/năm trong những năm 70s thì đến những năm 80s đã là
hàng trăm tỷ USD/năm ; đặc biệt là đến năm 1995 đã đạt 315 tỷ USD, năm
1997 đạt 400 tỷ USD, năm 1998 đạt trên 600 tỷ USD, năm 1999 trên 700 tỷ
USD . Hầu hết các nước trên thế giới, bao gồm cả nước công nghiệp phát
triển lẫn nước đang phát triển đều mở cửa thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu như
trong những năm 50s , 60s , FDI tập trung chủ yếu vào các nước đang phát
triển ( khoảng 70%, chỉ có khoảng 30% còn lại vào các nước công nghiệp
phát triển ) thì từ những năm đầu thập kỉ 70s trở lại đây, tình hình đã thay
đổi theo chiều ngược lại. Trong những năm 90s, trung bình khoảng 75%
FDI thế giới chảy vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước này đồng
thời cũng là các nước xuất khẩu FDI lớn nhất, chiếm khoảng 80% FDI toàn
cầu. Dòng vốn FDI trên thế giới lưu chuyển chủ yếu trong nội bộ và giữa
ba trung tâm kinh tế thế giới Bắc Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản và Đông Bắc á .
17
2. Xuất hiện xu hướng đa cực, đa biên và hiện tượng hai chiều hay
lưỡng tính trong FDI ; các công ty xuyên quốc gia trở thành chủ thể
đầu tư quan trọng nhất .
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ và các công ty Mỹ, trước hết
là các công ty xuyên quốc gia (TNC) của Mỹ là nước và lực lượng gần như
độc tôn tiến hành các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo kế hoạch
Marshall. Nhưng sau đó không lâu, các công ty, đặc biệt là các TNC của
các nước Tây Âu, Nhật Bản đã lớn mạnh và tiến hành các hoạt động FDI
cạnh tranh với các công ty của Mỹ. Thị trường FDI ngày nay không còn là
thị trường riêng của các công ty Mỹ và ngược lại có sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt giữa các công ty của nhiều nước khác nhau có đầu tư ra nước
ngoài. Cùng với sự vươn lên của Tây Âu, Nhật Bản và các nước NIC, nhất
là NIC Châu Á , tính “đa biên” , “đa cực” đã xuất hiện và hoàn toàn thay
thế tính đa cực của FDI .
Từ cuối những năm 70s , đầu những năm 80s trở lại đây, đã xuất
hiện hiện tượng “hai chiều” hay “lưỡng tính” trong FDI ; đó là hiện tượng
một nước vừa tiếp nhận FDI vừa đầu tư ra nước ngoài. Mỹ là nước điển
hình nhất về hiện tượng này, vừa là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất,
chiếm khoảng 17% FDI ra thế giới, nhưng cũng là nước thu hút FDI lớn
nhất, chiếm khoảng 30% FDI toàn cầu. Tổng FDI đầu tư ra nước ngoài của
các nước G7 chiếm khoảng 80% tổng FDI toàn cầu, nhưng chính họ lại thu
hút khoảng 70% FDI của thế giới vào nước mình. Tình hình tương tự cũng
diễn ra ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển thuộc nhóm OECD và
các nước NIC. Nhiều nước đang phát triển, trong đó có các nước trong khu
vực, đồng thời với việc chú trọng thu hút FDI, vẫn tiến hành các hoạt động
xuất khẩu FDI.
Hiện nay, các TNC đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh
doanh vào FDI trên thế giới. Kết quả nghiên cứu 100 TNC lớn nhất trên thế
18
giới cho thấy, các TNC này chiếm tới một phần ba FDI toàn thế giới và
tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD, sử dụng tới 72
triệu lao động trong đó có 12 triệu lao động nước ngoài. Thời kỳ 1990 -
1995, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC
Mỹ là 42% ; của các TNC Nhật Bản là 48% ; và của các TNC Châu Âu là
59%. Thời kỳ 1996 - 2000, các TNC tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ra nước
ngoài. Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC
Mỹ sẽ là 55%, của các TNC Nhật Bản, các nước Tây Âu là 63%, và bình
quân chung sẽ là 60%.
Hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) giữa các công ty, đặc biệt là
các TNC trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, hoá chất, dược phẩm, viễn
thông tăng mạnh trong các năm 1997 - 2000 ; nhằm cơ cấu lại và củng cố
vị trí của các TNC trong các lĩnh này. Ngoài ra, các TNC còn đang thực
hiện mục tiêu chiến lược hoặc cơ cấu lại thông qua các hợp đồng giữa các
công ty thành viên trong nội bộ TNC nhằm nâng cao sức cạnh tranh về
công nghệ. Số lượng hợp đồng này đã tăng từ mức trung bình hàng năm
gần 300 vào đầu những năm 80s lên hơn 600 vào giữa những năm90s, chủ
yếu trong những ngành sử dụng nhiều chất xám như thông tin, dược phẩm,
công nghệ sản xuất ô tô .... Hoạt động M&A phát triển cực mạnh từ khi xảy
ra khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực Châu á, trở thành yếu tố quyết
định sự tăng vọt về FDI toàn cầu từ năm 1998 đến nay.
3. Cuộc cạnh tranh thu hut FDI giữa các nước, đặc biệt là giữa
các nước đang phát triển đang diễn ra hết sức gay gắt ; hình thành
nhiều định chế về hợp tác đầu tư ; xuất hiện làn sóng tự do hoá đầu tư
.
19
Nhận thức được vai trò quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh
tế và giải quyết vấn đề việc làm nên cả các nước công nghiệp phát triển lẫn
các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với
việc hình thành NAFTA , EU , AIA ... , môi trường đầu tư ở các khu vực
này trở nên hấp dẫn cạnh tranh hơn do được mở cửa và tự do hoá ở mức
cao hơn. Các nước công nghiệp phát triển đang đàm phán để đi đến ký kết
hiệp định đa biên về đầu tư (MAI) nhằm tự do hoá đầu tư. Nhiều nước
đang tiếp tục nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi cho FDI thông qua các hiệp
định song phương và những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu
vực và từng bước để tạo đà đi lên. Các thoả thuận về hợp tác đầu tư, ở mức
độ khác nhau đều đề cập đến vấn đề mở cửa thị trường và tiến tới tự do hoá
đầu tư .
Trong năm 1997, đã có 151 thay đổi trong qui định về FDI ở 76
nước, 89% những thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI. Nhiều
ngành trước đây được xem như bị đóng cửa đối với FDI như viễn thông
bảo hiểm năng lượng ... đã được mở ra cho FDI và tự do hoá hơn, Trung
Quốc là nước thu hút FDI thành công nhất trong nước đang phát triển. Năm
1998, FDI vào Trung Quốc chiếm 80% tổng FDI vào Châu á và 35% của
toàn bộ FDI vào các nước đang phát triển. Ấn Độ, Hàn Quốc mới chuyển
hướng, chú trọng hơn vào FDI và đang trở thành đối thủ cạnh tranh đáng
gờm của các nước thu hút FDI Châu Á, nhất là trong bối cảnh do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trong khu vực, nguồn cung cấp
FDI từ Châu Á, nhất là từ Nhật Bản, Hàn Quốc giảm đi rõ rệt ( của Nhật ,
giảm từ mức trung bình 33 tỷ USD/năm xuống mức 25 tỷ USD/năm)
20
V. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI .
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yêu tố đối nội,
đối ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội... Có liên quan
đến các hoạt động của các nhà đầu tư. Qua thực tiễn của nhiều nước trên
thế giới cho thấy, một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài phải đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:
1.Sự ổn định về chính trị-xã hội.
Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà đầu
tư. Vì thực tế tình hình chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì
các chính sách, chủ trương của Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững,
đặc biệt là các chủ trương chính sách nhất quán về đầu tư nước ngoài. Qua
kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới, ta thấy rằng ở
các quốc gia luôn xảy ra những biến động về chính trị (mâu thuẫn sâu sắc
giữa các Đảng phái, sắc tộc, đảo chính, nội chiến, chiến tranh biên giới...)
thì rất khó thu hút các dự án đầu tư hoặc đang là quốc gia thu hút nhiều dự
án nhưng bất ngờ xảy ra những biến động kể trên thì ngay lập tức các nhà
đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chuyển vốn về nước hoặc sang
nước khác, còn các nhà đầu tư mới được cấp giấy phép hoặc đang nghiên
cứu tiền khả thi sẽ “lặng lẽ” rút lui. Thực trạng này có thể thấy ở các nước
trong khu vực như: Philipines, Malaixia, Indonexia, Thái Lan... hoặc các
nước khác trên thế giới như CHLB Nga, Brazin... hoặc các nước đi theo
chủ nghĩa cực đoan như Apganistan, Algieri... thì chẳng có một nhà đầu tư
nào giám mạo hiểm thực hiện các dự án của mình.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu những năm 80 (khi ta mới chỉ có
Nghị định của Chính phủ về đầu tư nước ngoài và đất nước mới được giải
phóng) các nhà đầu tư còn thăm dò và chỉ đến khi chính sách của Đảng và
21
Nhà nước ta có nhiều thay đổi căn bản (chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN), có Bộ luật đầu tư nước ngoài khá hoàn
chỉnh và đặc biệt là tình hình chính trị-xã hội ở đất nước ta rất ổn định nên
mới thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể (khoảng 37 tỷ USD)
như ngày nay. Thêm vào đó, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều chuyển
biến tích cực có lợi cho việc mổ rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam nói
chung và của hợp tác đầu tư nói riêng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên
của ASEAN, tham gia APEC, ASEM...đang đàm phán gia nhập WTO, đã
ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, cùng với các chính sách đối ngoại
mềm dẻo trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ đã tạo ra lợi thế so sánh đáng kể của Việt Nam
trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.Sự phát triển về kinh tế.
Sự phát triển kinh tế ở đây được hiểu là sự phát triển đồng bộ về các
mặt: tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch
xuất nhập khẩu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các
loại. Thực tế cho thấy ở các nước phát triển, tốc độ thu hút vốn đầu tư nước
ngoài bao giờ cũng cao hơn các nước đang phát triển. Ở nước ta sự phát
triển về kinh tế chưa được coi là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vì hệ thống
giao thông tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn lộn xộn, hệ thống bưu
chính viễn thông có nhiều tiến bộ nhưng giá cước phí vẫn được xếp vào
hạng nhất nhì thế giới về đắt đỏ, hệ thống ngân hàng và các hoạt động dịch
vụ khác còn nhiều bất cập, chưa thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Nhìn vào
phân bố địa bàn đầu tư ở nước ta, chúng ta nhận ra ngay rằng chỉ ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng. Bà Rịa Vũng Tàu mới có
nhiều dự án hoặc ở các địa phương có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với
các nhà đầu tư như Bình Dương, Đồng Nai mới thu hút được nhiều dự án
22
đầu tư. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái,
Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên Giang, An Giang... Có rất ít thậm
chí không có dự án nào đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu kém, may ít rủi nhiều.
3.Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Đây là một yếu tố không thể thiếu được của môi trường đầu tư. Hệ
thống pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia điều chỉnh hoạt
động đầu tư như Luật đầu tư, các Luật khác có liên quan đến hoạt động đầu
tư, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật (như Nghị
định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị) và Luật quốc tế áp dụng đối với quan
hệ đầu tư như các Hiệp định đa phương (Công ước MIGA, Hiệp định
khung về đầu tư ASEAN) và Hiệp định song phương về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư. Nội dung các quy định của hệ thống pháp luật kể trên phải
đảm bảo hai vấn đề quan trọng, đó là các quy định về ưu đãi khuyến khích
đầu tư (như ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế, quyền hoạt động kinh doanh )
và các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp của
các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về luật...). Ngoài
ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài phải đảm
bảo tính đồng bộ, tính minh bạch, tức là không được mâu thuẫn, chồng
chéo và đặc biệt là phải mang tính ổn định, nhất quán. thực tế cho thấy để
đáp ứng yêu cầu này không hoàn toàn đơn giản đối với các nước đang phát
triển. Ở nước ta, mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy
đủ với nhiều quy định ưu đãi, bảo đảm đầu tư nhưng các văn bản hướng
dẫn thi hành luật lại vô cùng rắc rối, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau.
Đáng ngại hơn là việc áp dụng luật của các cơ quan thi hành pháp luật với
những thủ tục hành chính rườm rà, kém hiệu quả và thái độ nhũng nhiễu
của cán bộ thi hành. Điều này đôi khi dẫn đến tác hại không nhỏ đối với
môi trường đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu tư. Do vậy để cải thiện môi
trường pháp lý về đầu tư, ngoài việc sửa đổi và bổ sung thường xuyên các
23
quy định của pháp luật còn phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành pháp
luật để hạn chế những yếu kém về nghiệp vụ và nâng cao nhận thức của họ.
Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số
yếu tố khác như văn hoá, du lịch... Có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu
tư hấp với các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy ở các quốc gia giầu truyền
thống văn hoá, thái độ hiểu biết, cởi mở của người dân và là đất nước có
nhiều danh lam thắng cảnh thì số dự án đầu tư tăng lên nhiều hơn so với
các quốc gia chỉ có ba yếu tố cơ bản kể trên. Ở Việt Nam mặc dù chúng ta
có lợi thế về văn hoá, du lịch nhưng thực tế chưa khai thác hết thế mạnh
này, ngoài ra chưa kể đến có những lúc thái độ đối với các nhà đầu tư nước
ngoài còn thiếu thiện chí, chưa đánh giá đúng về vai trò của đầu tư nước
ngoài đối với đất nước mình...
Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài
cần phải tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư như đã
phân tích ở trên, đồng thời phải đặc biệt chú ý cải thiện môi trường pháp lý,
môi trường kinh doanh, tiến tới áp dụng một mặt bằng pháp lý và điều kiện
kinh doanh cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước.
Thêm vào đó cần chú trọng cải cách thủ tục hành chính, đào tạo đội ngũ
cán bộ và quan tâm đúng mức đến hoạt động xúc tiến đầu tư để cho mọi
người quan tâm đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có được ấn tướng tốt
đẹp về môi trường đầu tư ở Việt Nam.
24
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CỦA SINGAPO TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000.
I.TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000:
1. Quy mô vốn và tình hình thực hiện dự án đầu tư .
Từ khi luật ĐTNN tại Việt Nam có hiệu lực cho đến năm 2000, Nhà
nước ta đã cấp giấy phép cho 3098 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là
38979,56 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho
238 dự án với mức 2998,43 triệu USD vốn đăng ký (chưa kể các dự án
của Vietsopetro) ( nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Biểu 1: Số dự án và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy
phép qua các năm
(Chưa kể các dự án của Vietsopetro)
Đơn vị: Triệu USD
325 Dù ¸n
370
345
275
343
269
197
332
278
151
108
68
37
9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
8 8 9 1
9 8 9 1
0 9 9 1
1 9 9 1
2 9 9 1
3 9 9 1
4 9 9 1
5 9 9 1
6 9 9 1
7 9 9 1
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
Nguồn: Niên giám thống kê 1998, NXB Thống Kê, Hà Nội 2000
25
Dựa trên số liệu ở biểu 1 ta thấy nhịp độ thu hút ĐTTTNN của ta có
xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng
ký. Riêng năm1996, số dự án đã tăng nhanh một cách đáng kể, nguyên
nhân là do trong năm 1996 có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô
thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án
lớn( hơn 3 tỷ USD/ hai dự án ). Như vậy, xét trong suốt thời kỳ 1988-2000
thì năm 1995 được xem là năm đỉnh cao về thu hút ĐTTTNN của Việt
Nam cả về mặt số dự án , vốn đăng ký cũng như quy mô dự án .
Từ năm 1997, ĐTTTNN vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là
các năm1998,1999 và 2000 thì xu hướng giảm ngày càng thể hiện rõ rệt
hơn: nếu so với năm 1997 số dự án của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm
1999 chỉ bằng 80,58% còn năm 2000 bằng 96,23%. Tuy vậy, xét về mặt số
lượng vốn đăng ký thì năm 1998, 1999 và 2000 có chỉ số lần lượt tương
ứng là 83,83%; 33,01% và 40,09%. Sự suy giảm này phần nào là do sự tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực năm 1997 đối với
hoạt động FDI vào Việt Nam (Khi mà khoảng 60-70% vốn FDI vào Việt
Nam là xuất phát từ các nước trong khu vực ASEAN, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Singapo) và nguyên nhân khác cũng không kém phần quan
trọng đó là sự sút giảm về khả năng hấp dẫn của môi trường ĐTNN tại Việt
Nam trước sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thu hút vốn ĐTNN của
các quốc gia khác trong cùng khu vực và trên thế giới.
Với quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988- 2000 là 11,59 triệu
USD/ dự án thì so với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu
hút FDI, quy mô dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là
không thấp. Nhưng điểm đáng quan tâm là quy mô dự án theo vốn bình
quân của năm 1999 và 2000 lại giảm đi một cách đột ngột và ở mức thấp
nhất từ trước tới nay( năm 1999: 5,52 triệu USD/ dự án ; năm 2000: 5,79
triệu USD/ dự án ) tức là chỉ bằng 43,87% và 46,02% quy mô bình quân
26
của thời kỳ 1988-2000 và chỉ bằng 31,27% và 32,80% quy mô dự án bình
quân của năm 1995 (xem chi tiết bảng 1).
Bảng 1: Quy mô dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm.
( Chưa kể các dự án của Vietsopetro)
STT Năm
1 2 3 Quy mô ( triệu USD/ DA) 10,05 8,57 7,77 1988 1989 1990
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 8,76 11,00 10,78 10,98 17,65 26,15 13,48 14,17 5,52 5,79 150,67 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng
Nguồn :Niên giám thống kê 1998, NXb Thống Kê, HN 2000.
2. Hình thức và cơ cấu đầu tư.
a. Hình thức đầu tư
Liên doanh hiện là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Với 1.047 dự án đang triển khai thực hiện chiếm
39,97% số dự án và tổng vốn đầu tư hơn 21,5 tỷ USD chiếm 62,5% tổng
vốn đầu tư của các dự án còn hiệu lực. Trong khi đó, các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài có nhiều dự án hoạt động hơn ( 1434 dự án ), nhưng
tổng vốn đầu tư lại chỉ đạt 10,5 tỷ USD chiếm 28,99% tổng vốn đầu tư
(xem chi tiết bảng 2). Đặc điểm này phản ánh sự hiểu biết của các nhà đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam còn hạn chế . Do đó, họ thường chọn hình thức
27
liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt
động của liên doanh hiệu quả hơn, thay vì hình thức doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Nhưng sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu
tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã có điều kiện để hiểu biết hơn
về pháp luật, chính sách,phong tục tập quán và các hình thức hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam. Cho nên, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các nhà
đầu tư nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng lên
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư, 1988 -
2000.
( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
Hình thức đầu tư
Số dự
Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định
Vốn thực hiện
án
BOT
4
415,125,000
140,030,000
37,112,500
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
134
3,932,333,053
3,331,320,867
3,214,335,674
DN 100% vốn nước ngoài
1,434
10,553,671,105
4,636,969,393
4,789,122,074
DN Liên doanh
1,047
21,503,053,259
8,311,041,762
9,635,915,087
Tổng số
2,619
36,404,182,417
16,419,362,022
17,676,485,335
Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ngoài hai hình thức trên, đầu tư hợp đồng hợp tác kinh doanh và các
dự án BOT cũng được triển khai ở Việt Nam đạt 138 dự án chiếm 5,2% số
dự án, với vốn đầu tư hơn 4,3 tỷ USD chiếm 11,9% tổng vốn đầu tư.
b. Cơ cấu đầu tư.
28
Qua các năm, cơ cấu đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu
cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng các dự án thuộc các lĩnh vực sản
xuất ngày càng tăng. Nếu trong những năm đầu, vốn đầu tư tập trung chủ
yếu trong các ngành dầu khí (32%) và khách sạn (20,6%), thì từ năm 1991
nhất là trong các năm 1994, 1995 và đầu năm 1996 đầu tư nước ngoài vào
công nghiệp tăng đáng kể (nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Có được kết
quả này là do Chính phủ đã có những chính sách, đường lối đúng đắn nhằm
kích thích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp
như như giảm thuế, đơn giản các thủ tục cấp giấy phép đầu tư … và đặc
biệt là vào năm 1991với chiến dịch mở rộng và nâng cấp các Khu công
nghiệp-Khu chế xuất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành công
nghiệp, góp phần xây dựng sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, 1988 - 2000.
( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
Chuyên ngành Số dự án Vốn đăng ký Tỷ Vốn thực hiện Tỷ
trọng trọng
(%) (%)
Công nghiệp 1,639 19,366,246,780 53,19 11,008,321,116 62,27
Nông,lâm,ngư 343 2,110,402,256 5,79 1,112,070,909 6,29
nghiệp
Dịch vụ 637 14,927,533,381 41,02 5,556,093,310 31,54
Bao gồm: khách
sạn, du lịch, xây
dựng văn phòng,
29
căn hộ cho thuê và
một số dịch vụ khác
Tổng số 2619 36,404,182,417 100 17,676,485,335 100
Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo số liệu bảng 3, ngành công nghiệp với 1.639 dự án đang hoạt
động chiếm 62,58% số dự án, vốn đầu tư đạt 19.366 triệu USD chiếm
53,19% tổng vốn đầu tư, vốn thực hiện 11.008 triệu USD chiếm 62,27%
tổng vốn thực hiện. Lĩnh vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang
chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất công nghiệp của nước ta hiện nay;
các chỉ số thống kê cho thấy, chỉ riêng giá trị của ngành dầu khí với vốn
đầu tư gần 3,3 tỷ USD đã chiếm 17% tổng vốn đầu tư của ngành công
nghiệp. Quy mô đầu tư cho một dự án của ngành công nghiệp và xây dựng
khoảng 12 triệu USD, trong đó lớn nhất là các dự án khai thác dầu khí 93
triệu USD/dự án.(nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tiếp sau là ngành nông, lâm, ngư nghiệp với 343 dự án, chiếm 13,1%
số dự án với vốn đầu tư đạt 2.110 triệu USD chiếm 5,79% tổng vốn đầu tư,
vốn thực hiện đạt 1.112 triệu USD chiếm 6,29% tổng vốn thực hiện. Các
nhà chuyên môn nhận định rằng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong ngành
nông nghiệp đã góp phần không nhỏ đối với việc xây dựng cơ sở vật chất,
nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh và giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành. Được biết, trung bình mỗi năm ngành nông nghiệp tiếp nhận 26 dự
án đầu tư nước ngoài với số vốn 174 triệu USD. Theo báo cáo của Vụ
Quản lý và Quy hoạch-Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, thì trong
điều kiện ngành nông nghiệp còn thiếu vốn đầu tư như hiện nay, đầu tư
nước ngoài đã và sẽ là một nguồn lực quan trọng đối với ngành. Mặt khác,
các sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực nông nghiệp đã góp phần đáng kể trong tổng kim xuất khẩu chung của
30
toàn ngành. Quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong ngành
nông,lâm, ngư nghiệp tương đối thấp so với các ngành khác, trong đó các
dự án đầu tư vào ngành thuỷ sản chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án.
Kế tiếp là ngành dịch vụ với 637 dự án chiếm 24,3% tổng số dự án,
trong đó vốn đầu tư là 14,927 tỷ USD chiếm 41,02% tổng vốn đầu tư, vốn
thực hiện đạt 5,556 tỷ USD chiếm 31,54% tổng vốn thực hiện. Quy mô đầu
tư bình quân cho một dự án của ngành dịch vụ lớn nhất (khoảng 25 triệu
USD/dự án).
c. Cơ cấu đầu tư theo vùng
Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng có điều kiện thuận lợi
về hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, dịch vụ...; còn những vùng kinh tế-xã hội khó
khăn thì tỷ lệ đầu tư nước ngoài còn rất thấp, vì vậy tạo ra sự bất hợp lý về
đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Với mong muốn hoạt động đầu tư nước
ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nên Chính phủ đã có những
chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng
có điều kiện kinh tế khó khăn; miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Bảng 4: Cơ cấu đầu tư theo vùng, 1988 - 2000.
Đơn vị: triệu USD
STT Vùng Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng %
1 Đông Nam Bộ 2 Đồng Bằng Sông Hồng 3 Duyên Hải Nam Trung Bộ 4 Đông Bắc 5 Đồng Bằng Sông Cửu Long 6 7 8 Bắc Trung Bộ Tây Nguyên Tây Bắc
19.343 10.775 2.782 1.623 895 866 58 55 36.404 53,15 29,6 7,65 4,46 2,46 2,38 0,16 0,15 100%
Tổng cộng Nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
31
Số liệu của bảng 4 cho thấy, vùng kinh tế Đông Nam Bộ có ưu thế
vượt trội với hàng loạt khu chế xuất, khu công nghiệp và các cơ sở kinh tế
quan trọng, đầu tầu trong thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong phát
triển kinh tế với tổng vốn đầu tư 19.343 triệu USD, chiếm 53,15% tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Vùng kinh tế này gồm thành phố
Hồ Chí Minh được coi là địa bàn hấp dẫn đầu tư nhất, vì đa số dự án tiếp
nhận mới đều đăng ký hoạt động tại đây với 905 dự án, tổng vốn đầu tư là
9.651 triệu USD chiếm 26,5% tổng vốn đầu tư của toàn vùng. Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tầu đều là các đơn vị đi đầu trong thu hút đầu
tư nước ngoài với số dựa án là 699 và tổng vốn đầu tư 7.937 triệu USD
chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư của toàn vùng (nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế
hoạch và Đầu tư). Đặc biệt đây là vùng kinh tế tập trung hầu như toàn bộ
khu chế xuất, trong đó khu chế xuất Tân Thuận được đánh giá là khu chế
xuất thành công nhất Đông Nam Á và thứ ba Châu Á.
Đứng thứ hai là vùng kinh tế Đồng Bằng Sông Hồng có tổng vốn đầu
tư 10.775 triệu USD, chiếm 29,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam. Trong đó, Hà Nội đứng thứ hai toàn quốc về thu hút đầu tư
có 363 dự án với tổng vốn đầu tư 7.705 triệu USD, chiếm 21,2% tổng vốn
đầu tư của toàn vùng (nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Tiếp theo là vùng kinh tế Duyên Hải Nam Trung Bộ đứng thứ ba toàn
quốc với tổng vốn đầu tư 2.782 triệu USD, chiếm 7,64% tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên nếu không tính nhà máy lọc
dầu Dung Quất thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn kém cả đồng bằng
Sông Cửu Long ( xem chi tiết biểu 2)
32
§«ng Nam Bé §ång b»ng S«ng Hång Duyªn H¶i Nam Trung Bé §«ng B¾c §ång b»ng S«ng Cöu Long B¾c Trung Bé T©y nguyªn T©y B¾c
Biểu 2: Tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng, 1988-2000.
Nguồn: VQLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Còn 5 vùng Đông Bắc, đồng bằng Sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên, Tây Bắc là những vùng kinh tế gặp nhiều khó khăn nên tỷ lệ thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn ở tỷ lệ thấp.
II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA
SINGAPO VÀO VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1988- 2000 :
1. Khái quát về quan hệ hợp tác kinh tế - kỹ thuật - phát triển giữa
Singapo và Việt Nam.
Một biểu tượng thành công của sự hợp tác kinh tế - kỹ thuật giữa hai
nước là dự án xây dựng khu công nghiệp Việt Nam - Singapo (VSIP) ở tỉnh
Bình Dương. Đây là dự án hợp tác giữa chính phủ hai nước. Thủ tướng
Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Singapo Goh Chock Tong đã tham
dự lễ động thổ xây dựng VSIP tháng 05/1996. Khu công nghiệp này được
xây dựng trên một diện tích 500 hecta với tổng số vốn đầu tư xây dựng
trong giai đoạn đầu (1996-1998) là 52,5 triệu USD. Trong giai đoạn này,
trên 70% diện tích đất đai và một nửa số nhà máy, công xưởng đã được xây
33
dựng. Từ năm 1998 VSIP đã bước vào xây dựng ở giai đoạn thứ hai. Tính
đến đầu năm 1999 số vốn đầu tư xây dựng VSIP đã lên đến 85 triệu USD.
Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính đã có những tác động xấu đến
sự phát triển kinh tế trong khu vực, VSIP vẫn đạt được bước phát triển đều
đặn, đúng kế hoạch ban đầu đặt ra. Tính đến tháng 02/1999 VSIP đã thu
hút 33 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư 380 triệu USD. Diện tích cho
thuê của khu công nghiệp hiện nay đạt trên 50% diện tích, thu hút được 52
dự án (50 dự án đầu tư nước ngoài ), đã có 32 dự án đi vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Doanh thu năm1999 đạt 2,04 triệu USD , ước năm 2000
doanh thu đạt 5,67 triệu USD (nguồn Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Cùng với việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp Việt Nam -
Singapo, chính phủ hai nước đã thống nhất về việc thành lập một Trung
tâm đào tạo kỹ thuật Việt Nam - Singapo (VSTTC). Tháng 09/1997,
VSTTC bắt đầu được khởi công xây dựng với kinh phí xây dựng 10 triệu
USD, đánh dấu một giai đoạn mới của sự hợp tác kỹ thuật và đào tạo kỹ
thuật của hai nước. VSTTC có cơ sở hạ tầng hiện đại, thiết bị đào tạo chất
lượng cao, với phương pháp đào tạo kỹ năng thực hành liền tay để đảm bảo
cho học sinh tốt nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật có thể làm
việc cho khu công nghiệp VSIP.
Hai công ty đa quốc gia hàng đầu của Singapo là công ty Festo và
công ty Mitutoyo Asia Pacific đã lắp đặt hai phòng thí nghiệm đặc biệt:
Phòng thí nghiệm đo lường Mitutoyo để giảng dạy cho học sinh những
công nghệ tiên tiến nhất. Đội ngũ giảng viên của VSTTC bao gồm các
chuyên gia Singapo và các chuyên gia Việt Nam được đào tạo tại Viện kỹ
thuật quốc gia Singapo. Tháng 09/1998, VSTTC đã khai giảng khoá học
đầu tiên. Những học viên sau khi tốt nghiệp sẽ được tuyển dụng vào khu
công nghiệp Việt Nam - Singapo và tiến tới sẽ trở thành công nhân lành
nghề cho các khu công nghiệp khác ở nước ta.
34
Bên cạnh đó phải kể đến sự hỗ trợ phát triển chính thức của Singapo
giành cho Việt Nam thông qua các nguồn từ Quỹ hỗ trợ Đông dương.
Chương trình Hợp tác Kỹ thuật song phương và chương trình Hợp tác cho
phát triển bền vững. Ngoài ra, Chính phủ Singapo còn đào tạo cho các cán
bộ Việt Nam thông qua chương trình hợp tác với nước thứ ba. Các chương
đào tạo chủ yếu tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như : Môi trường ,
Năng lượng, Thương mại, Hành chính công , Công nghệ thông tin, Du lịch,
Cơ khí, Giáo dục đào tạo, Giao thông vận tải, Khí tượng thuỷ văn, Y tế,
Bưu chính viễn thông và Ngân hàng-Tài chính.
Trong năm 2000 đã có 203 cán bộ Việt Nam được đào tạo tại
Singapore về các lĩnh vực nói trên, trong đó có 37 cán bộ được đào tạo
trong khuôn khổ Quỹ hỗ trợ Đông dương; 35 cán bộ được đào tạo trong
khuôn khổ Chương trình Hợp tác Kỹ thuật song phương và Chương
trình Hợp tác cho phát triển bền vững; 131 cán bộ được đào tạo trong
khuôn khổ Chương trình hợp tác với nước thứ ba.
Ngoài các suất học bổng nói trên, Chính phủ Singapo còn hỗ trợ cho
Việt Nam ( Tổng cục đo lường, Tiêu chuẩn, Chất lượng )01 dự án hỗ trợ kỹ
thuật về Tiêu chuẩn hoá-Đo lường và Chất lượng với giá trị 437.651USD (
trong khuôn khổ Quỹ hỗ trợ Đông dương ). Đến nay, dự án đã đi vào hoạt
động, triển khai được một số nội dung cụ thể, trong đó một số lớp đào tạo
ngắn hạn đã được tổ chức tại Việt Nam và Singapo .
2.Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo.
Để thu hút FDI, Singapo đã đầu tư nhiều vào giáo dục và rèn luyện
những kỹ năng kỹ thuật, đầu tư vào kết cấu hạ tầng mà các công ty xuyên
quốc gia coi trọng. Khi cần thiết, Singapo đã sử dụng các công ty của
Chính phủ để thúc đẩy chương trình phát triển, mặc dù những công ty này
hoạt động trên cơ sở thương mại là cơ bản.
35
Singapo, đất nước đô thị với nguồn tài nguyên rất hạn chế sẽ phụ
thuộc vào tái xuất khẩu, thế hệ thứ nhất các nhà lãnh đạo Singapo đã ý thức
được đặc thù đó và đã xây dựng chiến lược công nghiệp của họ dựa trên cơ
sở chính sách lao động toàn diện, tức là dựa trên nguồn lực con người. Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất của Singapo đã chú trọng đến giáo dục kỹ thuật,
xây dựng trường học và kế hoạch hoá gia đình. Đó là những nội dung nòng
cốt để tạo ra người lao động trí tuệ. Chương trình hoạt động chính trị bao
gồm việc ban hành Bộ Luật lao động. Bộ Luật đã xây dựng thành hệ thống
những quy định nghề nghiệp trên toàn quốcvà phác họa lợi ích của người
nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, Luật các
quan hệ công nghiệp đã mở đường cho những hiệp định thương lượng 3
năm. “Hội đồng lương quốc gia” là một tổ chức gồm 3 lực lượng xã hội
(kinh doanh, chính phủ và lao động) thành lập năm 1972 nhằm cải tiến tiền
lương dựa trên cơ sở những thành tựu sản xuất và chi phí cuộc sống. Đây là
cơ sơ nhằm bảo đảm tính ổn định và hoà hợp của mọi tầng lớp xã hội.
Đồng thời tiền lương là công nhằm đảm bảo tính cạnh tranh. Nhà nước can
thiệp vào thị trường lao động bằng các chính sách xã hội như: chính sách
nhà ở, nhằm cải thiện điều kiện sống và chính sách giáo dục, đào tạo nhằm
nâng cao năng lực sáng tạo cũng như nâng cao chất lượng và tính phong
phú của đời sống cho người lao động.
Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ đã quyết định
thúc đẩy công nghệ cao. Trong những năm 70, Chính phủ cũng đưa ra một
chính sách tiền lương cao nhằm nhanh chóng loại bỏ những ngành công
nghiệp truyền thống cần nhiều lao động. Chính sách này đã thúc đẩy được
đầu tư trong các ngành công nghiệp điện tử, máy móc, dược phẩm và các
sản phẩm chính xác. Tuy vậy, đến năm 1985 Singapo đã trải qua giai đoạn
khủng hoảng đầu tiên. Để khỏi phải phá giá đồng tiền, Chính phủ đã quyết
định giảm những chi phí lao đông do đóng góp của các chủ doanh nghiệp
36
vào Quỹ tiết kiệm Trung Ương. Việc cắt giảm hoàn toàn 12% lương diễn ra
êm thấm vì phong trào công đoàn đã liên kết với Chính phủ và giới lãnh
đạo chính trị. Để có hiệu lực Chính phủ đã cố gắng đề cao lực lượng lao
động nhằm thu hút các công ty đa quốc gia vào hoạt động, điều chỉnh giá
cả, nâng cao các kỹ năng và sửa đổi các biện pháp khuyến khích tài chính
nhằm thay đổi hình thức thương mại và đi đầu trong cuộc cạnh tranh với
các nước trong khu vực.
Như vậy, thông qua việc can thiệp vào thị trường lao động, Chính phủ
Singapo đã thúc đẩy được sự phát triển của sức sản xuất và thay đổi cơ cấu
kinh tế, tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Singapo
đã xây dựng một số biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông
thoáng hơn, tạo một “sân chơi ” công bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Về hình thức đầu tư, các công ty nước ngoài hoạt động tại Singapo có
thể lựa chọn một trong hai hình thức sau:
Công ty tư nhân trách nhiệm hữu hạn; hoặc
Đăng ký hoạt đông với tư cách là chi nhánh của công ty nước
ngoài.
Mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư nước ngoài có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ
phiếu, trái phiếu và vay tổ chức tài chính trong nước cũng như nước ngoài.
Về nguyên tắc, các công ty nước ngoài chỉ có thể thuê đất. Thời hạn
cho thuê đất lần đầu tối đa là 30 năm và có thể được gia hạn đến 60 năm.
Công ty nước ngoài có thể mua nhà xưởng. Người nước ngoài được phép
mua nhà ở với một số nhất định.
3.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo tại Việt Nam.
37
Đầu tư trực tiếp là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong quan hệ
kinh tế giữa hai nước Việt Nam và Singapo. Trong thập kỷ 70, Singapo đã
bắt đầu thăm dò khả năng đầu tư vào Việt Nam. Tuy vậy, khi xẩy ra vấn đề
của Campuchia, Singapo đã ban hành lệnh cấm vận đầu tư vào Việt Nam.
Năm 1991 sau khi Hiệp định hoà bình về Campuchia được ký kết, Singapo
đã xoá bỏ lệnh cấm vận đầu tư vào Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, từ năm 1991 đầu tư trực tiếp từ Singapo vào Việt Nam tăng lên nhanh
chóng. Đến tháng 10/1993, tức là chỉ trong vòng 2 năm, Singapo đã xếp
thứ 9 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, với tổng số vốn đầu tư
lên tới 225,3 triệu S$. Phần lớn các dự án đầu tư tập trung vào các ngành
như kinh doanh bất động sản, thức ăn,đồ uống đến vật liệu xây dựng.
Đến năm 1994, với 51 dự án được cấp giấy phép và tổng số vốn đầu
tư lên tới 385 triệu USD, Singapo đã trở thành nhà đầu tư thứ 8 trong số 10
nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng như vậy, tính đến ngày 31/12/2000
với các số liệu cập nhập được, Singapo hiện đang dẫn đầu các nước và
vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (hiện còn 58
quốc gia và vùng lãnh thổ hiện còn dự án đầu tư tại Việt Nam) thu hút 236
dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 6.744 triệu USD, vốn pháp định 2.079
triệu USD và đầu tư thực hiện đạt 1,944 triệu USD (Xem chi tiết biểu 3).
Các dự án đầu tư của Singapo đều được triển khai tốt. Đến nay đã có 172
dự án, góp 1.994 triệu USD vào vốn thực hiện, chiếm 29% tổng số vốn đầu
tư của Singapo vào Việt Nam. Trong đó, 126 dự án góp vốn đã đi vào sản
xuất kinh doanh, có tổng doanh thu trong năm 2000 ước đạt 461 triệu USD,
xuất khẩu đạt 50 triệu USD, tạo việc làm cho hơn 20 nghìn lao động trực
tiếp, chưa kể hàng vạn lao động gián tiếp khác trong xây dựng cơ bản và
dịch vụ ( nguồn: Vụ Quản Lý Dự Án Đầu Tư Nước Ngoài).
38
Biểu 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước, 1988 - 2000.
( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
Đơn vị: Triệu USD
236 Dù
618
Vèn ®Çu t
301
260
Vèn ph¸p ®Þnh
208
101
108
34
Vèn thùc hiÖn
40
33
7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
n ¶ B
p ¸ h P
n i g r i
n a o L
n a L µ H
o p a g n i S
i µ §
t Ë h N
c è u Q n µ H
c è u Q h n A
g n « K g n å H
V h s i t i r B
a g N g n a B n ª i L
Nguồn: Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Mặc dù vào Việt Nam tương đối muộn so với các nước khác, nhưng
các doanh nghiệp Singapo đã lần lượt vượt qua Đài Loan, Nhật Bản và Hàn
Quốc để trở thành nước đầu tư lớn nhất với số vốn đăng ký (6.744 triệu
USD) chiếm 23,27% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của 10 quốc
gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (xem chi tiết biểu 4).
Biểu 4: Tỷ trọng vốn đăng ký theo các nước đầu tư vào Việt Nam,
1988-2000.
( Tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
4,01
4,07
5,55
23,27
6,09
6,31
9,28
17,15
10,87
13,4
Singapo §µi Loan NhËt B¶n Hµn Quèc Hång K«ng Ph¸p British Virgin islands Liªn Bang Nga Hµ Lan Anh Quèc
39
Quy mô vốn đầu tư bình quân mỗi dự án khoảng 28,6 triệu USD, cao
nhất trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Singapo có
26 dự án với quy mô vốn đầu tư lớn hơn 40 triệu USD, tập trung vào các
ngành nghề như xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn, văn phòng,
căn hộ và công nghiệp, cụ thể như sau: (Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế
hoạch và Đầu tư)
- Nhà máy bia Việt Nam, sản xuất bia Heineken, đối tác nước ngoài
là Công ty Asia Pacific Breweries Limited-Singapo thuộc tập đoàn
Heineken. Tổng vốn đầu tư 93 triệu USD, vốn pháp định 33,72 triệu USD.
Doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp định, sản phẩm có doanh thu cao, doanh
thu năm 1999 đạt 101 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 89 triệu
USD.
- Công ty liên doanh khách sạn Chains Caravelle, mục tiêu của dự án
là xây dựng, năng cấp khách sạn Caravelle đạt tiêu chuẩn quốc tế 4 sao với
353 phòng, tổng vốn đầu tư 61,5 triệu USD, vốn pháp định 18,57 triệu
USD, vốn đầu tư thực hiện 58 triệu USD. Doanh nghiệp chính thức hoạt
động vào đầu năm 2000, doanh thu7,31 triệu USD, lỗ 3,9 triệu USD.
- Công ty liên doanh căn hộ và văn phòng Sài gòn-Somerset Chancel,
mục tiêu của dự án là xây dưng khu căn hộ và văn phòng cho thuê. Tổng
vốn đầu tư là 42 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 47 triệu USD. Doanh thu
năm 1999 đạt 4,5 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 4,28 triệu USD.
- Công ty quốc tế Hồ Tây, mục tiêu xây dựng khu liên hợp gồm
khách sạn, cửa hàng bán thực phẩm ở số 3 Phó Đức Chính, Hà Nội. Tổng
vốn đầu tư 69,9 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 68,988 triệu USD. Doanh
40
thu năm 1999 đạt 2,32 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 2,2 triệu
USD.
- Xí nghiệp liên doanh trách nhiệm hữu hạn Carnaudmeta Box
Saigon, với mục tiêu sản xuất lon nhôm 2 mảnh và nắp dễ mở, tổng vốn
đầu tư 104,9 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 59,9 triệu USD. Doanh
nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, doanh thu năm 1999 đạt 29,55 triệu
USD; xuất khẩu năm 1999 đạt 1,04 triệu USD. Doanh thu năm 2000 ước
đạt 24,98 triệu USD, xuất khẩu năm 2000 ước đạt 1,49 triệu USD.
- Công ty liên doanh Đại dương, mục tiêu xây dựng khách sạn 5 sao
và văn phòng tại 80 Đông Du, tổng vốn đầu tư 97 triệu USD, vốn đầu tư
thực hiện 96,4 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng
01/1999, đến nay vẫn chưa có doanh thu.
- Công ty liên doanh gạch men Mỹ An, với mục tiêu sản xuất gạch
men, men sứ, bột kaolin, tổng vốn đầu tư 46,4 triệu USD, vốn đầu tư thực
hiện 37,2 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng 01/1996,
hoạt động tốt, doanh thu cao và bắt đầu có lãi từ năm 2000. Doanh thu năm
1999 đạt 15 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 11,1 triệu USD.
- Công ty liên doanh phát triển tiếp vận số 1 với mục tiêu xây dựng
và kinh doanh khu cảng Tân Thuận, tổng vốn đầu tư 53,6 triệu USD, vốn
đầu tư thực hiện 53,6 triệu USD. Công ty đã đi vào hoạt động từ tháng
11/1998, doanh thu năm 1999 đạt 2,28 triệu USD, doanh thu năm 2000 ước
đạt 6,3 triệu USD.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn vườn Hoàng Viên-Quảng Bá, với mục
tiêu xây dựng các công trình căn hộ, khách sạn, biệt thự. Chủ đầu tư là tập
đoàn Keppel Corp Ltd (tập đoàn tài chính lớn nhất của Singapo) với tổng
vốn đầu tư 50,93 triệu USD, đầu tư thực hiện 37,5 triệu USD. Doanh
41
nghiệp đã đi vào hoạt động từ tháng 01/1998, doanh thu năm 1999 đạt 2,8
triệu USD, doanh thu năm 2000 ước đạt 2,76 triệu USD.
- Công ty phát triển khu công nghiệp Long Bình LOTECO, xây dựng
cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Long Bình. Đối tác nước ngoài là công ty
Nissho Iwai Techno Park Holding Pte., Singapo thuộc tập đoàn Nissho
Iwai-Nhật Bản, đối tác Việt Nam là Công ty May 28-Bộ Quốc Phòng. Tổng
vốn đầu tư là 41 triệu USD, đầu tư thực hiện 21 triệu USD.Doanh nghiệp
đã đi vào hoạt động từ tháng10/1997. Doanh thu năm 1999 đạt 295 nghìn
USD, doanh thu năm 2000 ước 384 nghìn USD.
- Công ty liên doanh nhà máy bia Hà Tây, đối tác nước ngoài là Công
ty Asia Pacific Breweries Ltd-Singapo thuộc tập đoàn Heineken. Tổng vốn
đầu tư 190 triệu USD, đầu tư thực hiện 55 triệu USD. Doanh nghiệp đã đi
vào hoạt động từ tháng 04/1999. Doanh thu năm 1999 đạt 18,4 triệu USD,
doanh thu năm 2000 ước đạt 34,5 triệu USD.
a. Hình thức đầu tư của Singapo.
Các dự án đầu tư của Singapo chủ yếu tập trung dưới hình thức liên
doanh với 103 dự án, chiếm 52,5% số dự án. Sau đó đến xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài với 103 dự án, chiếm 43,3% số dự án và số dự án hợp
doanh là rất nhỏ, 10 dự án chiếm 4,2% số dự án (xem bảng 5). Sở dĩ như
vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi
nhiều giấy tờ lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp,
trong khi đó nhà đầu tư Singapo còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế -
xã hội và pháp luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch,
quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có
được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức
thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư
42
Singapo thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo
các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các
nhà đầu tư Singapo có điều kiện để hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách
phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự am
hiểu của họ được nâng lên trong điều kiện các thủ tục cấp phép của Việt
Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn
trước, và cùng với sự xuất hiện các tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện các thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh của các
dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam để tiến
hành các thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng
kể. Không những thế, khi tham gia liên doanh khả năng của phía Việt Nam
thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu
tư Singapo không muốn chia sẻ quyền điều hành doanh nghiệp với bên Việt
Nam trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang
ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Bảng 5: Đầu tư của Singapo vào Việt Nam theo hình thức đầu tư,
1988-2001.
(tính tới ngày 23/02/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Phân ngành Số Tỷ Vốn đăng ký Vốn thực hiện Doanh Lao
43
trọng(%) (triệu USD) thu động
dự án 100% vốn nước ngoài 103 125 Liên doanh 10 Hợp doanh 238 Tổng số 43,3 52,5 4,2 100 (triệu USD) 415 1.562 83 2.060 354 1.855 26 2.235 6.844 12.880 385 20.109
895 5.800 53 6.748 Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Qua số liệu bảng 5, cho thấy tính tới ngày 23/02/2001 Singapo là một
nước hiện đang dẫn đầu về số dự án với 238 dự án, trong đó:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với vốn đăng ký đạt 895
triệu USD chiếm 13,2% tổng vốn đăng ký; vốn đầu tư thực hiện đạt 415
triệu USD, chiếm 46% so với vốn đăng ký; doanh thu 354 triệu USD, đáp
ứng việc làm cho 6.844 lao động. Các dự án như: sản xuất ngọc trai Khánh
Hoà, chế biến thực phẩm tại thành phố HCM, Sơn Nippon, sản xuất đá
granit Bình Dương, công ty trách nhiệm hữu hạn vườn Hoàng Viên -
Quảng Bá... Ngoài ra, còn nhiều dự án tập trung sản xuất hàng tiêu dùng
như: đồ nhôm, nhựa kéo, sản xuất thực phẩm chế biến và đồ uống...
- Doanh nghiệp liên doanh với 125 dự án chiếm 52,5% số dự án;
vốn đăng ký đạt 5.800 triệu USD chiếm 85,9% tổng vốn đăng ký; vốn đầu
tư thực hiện chỉ đạt 27% so với vốn đăng ký (tốc độ giải ngân của các dự
án thuộc liên doanh thấp hơn các dự án thuộc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, trong khi vốn đầu tư cao hơn rất nhiều). Các dự án tập trung
chủ yếu trong lĩnh vực khách sạn, dịch vụ, sản xuất bìa catton để làm bao bì
hàng hoá... doanh thu đạt 1.855 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho
12.880 lao động .
- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với 10 dự án, chiếm
4,2% số dự án, vốn đăng ký đạt 53 triệu USD, vốn thực hiện 83 triệu USD.
Nhưng mới có 20% số dự án đã đi vào hoạt động, doanh thu chỉ dừng lại ở
44
con số khiêm tốn 26 triệu USD, tạo việc làm cho 385 lao động. Số còn lại
xin gia hạn và tiếp tục hoàn thiện thủ tục hành chính (xem chi tiết biểu 4).
Biểu 4: Tỷ trọng vốn đăng ký và vốn thực hiện theo hình thức đầu tư
của Singapo vào Việt Nam, 1988-2000.
(tính tới ngày 23/02/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
100% Vèn níc ngoµi
100% Vèn níc ngoµi
Liªn doanh
Liªn doanh
Hîp doanh
Hîp doanh
a- Tỷ trọng theo vốn đăng ký. b- Tỷ trọng theo vốn thực hiện.
b. Cơ cấu đầu tư.
*Đầu tư theo cơ cấu ngành.
Các dự án của Singapo đã đầu tư vào tất cả các ngành kinh tế quốc dân của Việt
Nam , đặc biệt là các lĩnh vực như xây dựng khu đô thị mới, công nghiệp thực
phẩm, xây dựng căn phòng - căn hộ…
Bảng 6: Đầu tư của Singapo vào Việt Nam phân theo ngành,1988-2000.
(tính tới ngày 31/12/2000 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
45
Chuyên ngành Số dự án Vốn đăng ký Tỷtrọng Vốn thực hiện Tỷtrọng
(%) (%)
Công nghiệp 1,401,724,800 20,78 745,480,935 37,37 96
170,855,469 2,54 95,286,773 4,78 27 Nông,lâm,ngư
nghiệp
Dịch vụ 113 5,172,354,013 76,68 1,154,012,290 57,85
Bao gồm: khách
sạn, du lịch, xây
dựng văn phòng,
căn hộ, cho thuê,
xây dựng khu đô thị
mới và một số dịch
vụ khác
Tổng số 236 6,744,934,282 100 1,994,779,998 100
Nguồn:Vụ QLDA - Bộ KH & ĐT
Theo số liệu bảng 6, ta thấy đầu tư của Singapo tập trung vào lĩnh vực
dịch vụ bao gồm xây dựng khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, du
lịch…với 113 dự án, chiếm 47,88% tổng số dự án đầu tư vào Việt Nam,
vốn đăng ký đạt 5.172 triệu USD chiếm 76,68% tổng vốn đầu tư vào Việt
Nam, vốn thực hiện 1.154 triệu USD chiếm 57,85% tổng vốn thực hiện. Có
được kết quả đó là do xây dựng khu đô thị mới với 2 dự án, vốn đầu tư đạt
2.230 triệu USD chiếm 33% tổng vốn đầu tư, tuy nhiên, vốn thực hiện 394
nghìn USD chỉ đạt 0.02% so với vốn đăng ký-tốc độ giải ngân chậm.
(nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là những vấn
đề nội bộ phát sinh từ phía Việt Nam. Quá trình quy hoạch tổng thể đã
46
được triển khai nhưng quy hoạch bộ phận vẫn chưa được quán triệt đến
từng hộ gia đình. Bên cạnh đó, vấn đề tái định cư cho các hộ dân ở khu vực
cần quy hoạch đang gặp nhiều khó khăn. Một số hộ dân chấp nhận mức
đền bù của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tán thành việc di chuyển
định cư ở nơi khác. Song cũng có không ít hộ gây khó khăn, không chịu
chuyển đi do những lý do về thay đổi thu nhập, ảnh hưởng đến công việc
hàng ngày hoặc không chấp nhận mức đền bù...
Lĩnh vực công nghiệp thu hút 96 dự án, vốn đăng ký 1.401 triệu USD
chiếm 20,78% tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư thực hiện 745 triệu USD,
chiếm 37,37% tổng vốn thực hiện và chiếm 53,13% vốn đăng ký ở ngành
công nghiệp (tốc độ giải ngân khá nhanh), doanh thu đạt 1. 965 triệu USD,
giải quyết hơn 7000 lao động có công ăn việc làm (nguồn: Bộ Kế hoạch và
Đầu tư). Tong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp dầu khí chỉ nhận
được hai dự án đầu tư của Singapo với số vốn đăng ký 56 triệu USD nhưng
vốn thực hiên đạt tới hơn 71 triệu USD ( nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH & ĐT).
Như vậy, tốc độ giải ngân ở ngành dầu khí là rất nhanh. Sở dĩ có được
thành tựu trên bởi vì công nghiệp dầu khí là một ngành đặc trưng có quy
hoạch ngành cụ thể , có nhiều khâu, nhiều nấc như thăm dò, khai thác, lọc
dầu…Cho nên, vốn thực hiện các dự án thuộc ngành chiến lược này là rất
cao. Điều này cũng lý giải phần nào cho tiến trình giải ngân nhanh tại các
ngành công nghiệp nói chung ở Việt Nam .
Trong khi đó, ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp chỉ thu hút được một
lượng đầu tư khiêm tốn từ đối tác Singapo. Nguyên nhân là do đầu tư của
Singapo ở các tỉnh miền núi, nông thôn còn chưa đáng kể. Tuy vẫn là
những địa bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nông-lâm nghiệp
và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng do điều do điều kiện
khó khăn, thiên tai, nguồn nhiên liệu không ổn định nên các dự án đầu tư
nước ngoài của Singapo vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp ở các vùng này vẫn
47
còn hạn chế.Vốn đăng ký 170 triệu USD chỉ chiếm 2,54% tổng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư thực hiện đạt 95 triệu USD chiếm 4,78% tổng vốn thực hiện.
Nhìn chung, tốc độ giải ngân, số lượng dự án của Singapo vào các
ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam là chưa đồng đều. Nếu như tỷ lệ vốn
thực hiện so với vốn đăng ký của các ngành như GTVT - Bưu điện, CN nhẹ
...là 84%, 60% thì ngành Xây dựng, Xây dựng khu đô thi mới... chỉ đạt một
con số khiêm tốn 22%, 0,02%. Hai dự án đối với các ngành CN dầu khí,
Tài chính ngân hàng so với 50 dự án, 24 dự án ở các ngành CN nặng, XD
văn phòng - Căn hộ( nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
* Đầu tư theo địa phương.
Các dự án đầu tư của Singapo đã đầu tư vào 26 tỉnh và thành phố, tập
trung chủ yếu vào các địa phương có cơ sở hạ tầng phát triển tốt như Hà
Nội, TP Hồ Chí Minh; các khu công nghiệp thuộc các tỉnh Bình Dương,
Đồng Nai, Hải Phòng...tạo nhiều công việc cho người lao động.
Bảng 7 : Đầu tư của Singapo vào Việt Nam theo địa phương
1988-2001.
(tính tới ngày 23/02/2001- chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Địa phương Số dự Vốn đăng Vốn thực Doanh Lao
án ký (triệu hiện (triệu thu (triệu động
USD) USD) USD)
Hà Nội 31 2.795 392 74 2.765
TP Hồ Chí Minh 93 1.469 885 1.344 7.757
Bình Dương 41 446 283 188 2.429
Hà Tây 4 355 121 153 1.024
Quảng Ninh 3 62 37 167 657
48
Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Qua số liệu của bảng 7, cho thấy :
Đứng vị trí thứ nhất là Hà Nội với 31 dự án, trong đó vốn đầu tư là
2.795 triệu USD chiếm 41,4% tổng vốn đầu tư của Singapo vào Việt Nam;
vốn đầu tư thực hiện đạt 392 triệu USD, chiếm 14,02% vốn đầu tư, doanh
thu 74 triệu USD và tạo việc làm cho 2.765 lao động.
Vị trí thứ hai thuộc về thành phố Hồ Chí Minh với 93 dự án, trong đó
vốn đầu tư là 1.469 triệu USD chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư của Singapo;
đầu tư thực hiện 885 triệu USD đạt 60% so với vốn đăng ký ; doanh thu
cao nhất với 1.344 triệu USD và giải quyết việc làm cho 7.757 lao động.
Ngoài ra, các tỉnh như Bình Dương cũng đạt 446 triệu USD vốn đầu
tư với 41 dự án, đầu tư thực hiện đạt 283 triệu USD, doanh thu cao và tạo
nhiều việc làm cho người lao động (xem chi tiết bảng 8); Hà Tây, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Đồng Nai, Hải Phòng, Quảng Ninh… cũng nhận được một số
lượng lớn vốn đầu tư của Singapo.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN
1988 - 2000 :
1.Kết quả đạt được .
Hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực
sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền
kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hoá. Âm hưởng
tích cực của loại hình hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan
rộng trên nhiều mặt trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước ta.
Singapo có đầu tư lớn vào Việt Nam, hiện đang đứng đầu các nước và
lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam (như đã nêu trên). Kết quả nảy trước hết là
49
do chính sách hợp tác của Chính phủ Singapo đối với Việt Nam, cũng như
của chính các công ty của Singapo có tiềm năng về tài chính và thị trường,
quan tâm đến thị trường Việt Nam. Nhưng, bên cạnh đó còn có một yếu tố
khá quan trọng là các công ty đa quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam thông
qua chi nhánh của mình ở Singapo (như Coca-Cola, Pepsi...), góp phần
quan trọng đưa tổng vốn đầu tư của Singapo vào Việt Nam tăng cao như
hiện nay.
Thực tế triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo
ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng
ký còn ở mức khiêm tốn. Chuyển giao công nghệ ở mức trung bình hoặc
thấp hơn so với trình độ công nghệ trên thế giới.
Tính đến ngày 23/02/2001, tổng vốn thực hiện của dự án FDI của
Singapo đạt 2.060 triệu USD. Tốc độ giải ngân của Singapo chỉ đạt khoảng
30%. Như vậy, tốc độ giải ngân còn thấp phản ánh tính khả thi của dự án
và năng lực tài chính của chủ đầu tư chưa cao. Nguyên nhân là do các dự
án lớn mới đầu tư 3-4 năm gần đây, thường đầu tư nhiều vào lĩnh vực kinh
doanh bất động sản trong khi tình hình nhu cầu thị trường bất động sản
trong khu vực và Việt Nam giảm sút. Chỉ cần một dự án lớn về bất động
sản (như dự án khu đô thị mới Nam Thăng Long) chưa triển khai được đã
kéo theo tỷ lệ vốn thực hiện chung của các dự án xuống thấp.
Các dự án FDI của Singapo vào Việt Nam chủ yếu là chuyển giao
công nghệ ở tầm trung bình và sử dụng nhiều lao động, rất ít công nghệ
hiện đại điều này rất dễ làm Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ của
Singapo.
Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Singapo đã lại một số kết quả đáng khích lệ. Tính đến ngày 23/02/2001 thì
doanh thu các dự án FDI của Singapo đạt 2.235 triệu USD; tăng thu ngoại
50
tệ cho đất nước thông việc thực hiện nghĩa vụ của chủ đầu tư, tăng kim
ngạch xuất khẩu; giải quyết công ăn việc làm cho hơn 20.000 lao động
(nguồn Vụ QLDA-Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Những kết quả này đã góp
phần đáng kể vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong
hơn 10 năm qua.
Trong năm 2000, nhìn chung các dự án triển khai tốt. Đã có 172 dự án
(chiếm 70%) góp 1.994 triệu USD vào thực hiện, chiếm 20% cam kết ban
đầu. Trong đó 126 dự án góp vốn đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
có tổng doanh thu trong năm 2000 ước đạt 461 triệu USD, xuất khẩu đạt 50
triệu USD, tạo việc làm cho hơn 20 nghìn lao động trực tiếp, chưa kể hàng
vạn lao động gián tiếp khác trong xây dựng cơ bản và dịch vụ. Mặc dù đầu
tư lớn, có nhiều dự án đã di vào hoạt động nhưng các dự án của Singapo
chưa tạo ra doanh thu lớn, vì nguyên nhân chính là các dự án tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực dịch vụ (như khách sạn, du lịch, xây dựng văn phòng căn
hộ, xây dựng khu đô thị mới).
Có nhiều tập đoàn, công ty đa quốc gia (Coca-Cola, Mercedes-Benz,
Heineken...) không đầu tư trực tiếp từ nước mình mà thông qua các chi
nhánh, công ty con ở Singapo đầu tư vào Việt Nam, nên mới biến hòn đảo
Singapo nhỏ bé trở thành quốc gia đứng đầu trong số các nước đầu tư vào
Việt Nam.
2. Những tồn tại và nguyên nhân.
Không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt động đầu tư nước ngoài
cũng đưa lại những kết quả mong muốn và nếu so với mục tiêu mà chúng
ta đặt ra cho đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đâu phải dự án nào cũng đạt
được. Điều này cũng là khó tránh khỏi đối với chúng ta ở giai đoạn đầu.
Tuy nhiên, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm, vừa học. Tiếp đến
là thời kỳ mà nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài còn lớn, kinh nghiệm của
chúng ta trong việc thu hút và sử dụng loại hình này còn ít, các cơ sở cho
51
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu thốn nên chúng ta chưa
có điều kiện để lựa chọn, do đó có những dự án mặc dù chỉ đạt một hoặc
một số mục tiêu nhưng hoàn cảnh buộc chúng ta vẫn phải chấp nhận. Có lẽ,
đã đến lúc đòi hỏi chúng ta cần phải cố gắng khắc phục những hạn chế
được rút ra từ thực tế thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam vừa qua. Những tồn tại đối với các nhà đầu tư nước ngoài của
Singapo nói riêng cũng như các nhà đầu tư nước ngoài nói chung.
a.Công tác xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch thu hút
vốn đầu tư của Singapo còn chậm, thiếu cụ thể, chất lượng chưa cao.
Do quy hoạch chưa hoàn chỉnh, dự báo thiếu chuẩn xác, chưa lường
hết diễn biến phức tạp của thị trường... nên đã dẫn đến tình trạng trong một
số lĩnh vực số dự án được cấp giấy phép có tổng năng lực vượt xa so với
nhu cầu.
Đầu tư của Singapo ở các tỉnh miền núi, nông thôn còn chưa đáng kể.
Do điều kiện khó khăn, thiên tai, nguồn nhiên liệu không ổn định nên các
dự án đầu tư nước ngoài của Singapo vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp ở các
vùng này vẫn còn hạn chế mặc dù là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở
rộng và phát triển nông-lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư
nước ngoài.
Các dự án đầu tư của Singapo thường tập trung chủ yếu vào các địa
phương có cơ sở hạ tầng tốt như Hà Nội , Thành Phố Hồ Chí Minh..., các
khu công nghiệp đã thành lập do thiếu kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, chưa
đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư Singapo. Nhiều khu công nghiệp ở miền Bắc
và miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp.
Về phía các ngành, các địa phương vẫn còn tồn tại hiện tượng cạnh
tranh giữa các ngành, các địa phương trong thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Một số doanh nghiệp Singapo khi đến Việt Nam tìm hiểu các điều
52
kiện đầu tư nhưng qua tiếp xúc với một số địa bàn và lĩnh vực cụ thể, họ có
thể thấy “cách mời chào” khác nhau mặc dù vấn đề đó cùng một điều
khoản trong luật đầu tư. Những hiện tượng “gây nhiễu” như vậy đôi lúc
làm cho nhà đầu tư nước ngoài mất phương hướng, thậm chí còn làm cho
họ giảm mất độ tin cậy vào sự nhất quán trong thực hiện một số điều
khoản, quy định của Việt Nam. Tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch
cũng như cách kêu gọi vốn đầu tư giữa các ngành, địa phương đã trở thành
yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư nước
ngoài theo ngành và vùng lãnh thổ của cả nước.
b. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài của Singapo có một số bất hợp
lý, hiệu quả của khu vực đầu tư chưa cao.
Đầu tư nước ngoài của Singapo thường tập trung nhiều vào các địa
phương có điều kiện thuận lợi và những ngành có dự kiến có thể thu lợi
nhuận nhanh, các dự án nuôi trồng và chế biến nông sản, cơ khí chế tạo còn
rất hạn chế.
Những năm gần đây, xuất khẩu ở khu vực đầu tư của các doanh
nghiệp Singapo tăng nhanh. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là các
mặt hàng gia công, lắp ráp điện tử, giá tri gia tăng thấp, khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới không cao, chưa vững chắc.
Qua phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Singapo, ta có thể đánh giá một số vấn đề (đã bộc lộ hoặc đang tiềm
ẩn), những ý định, mong muốn của các doanh nghiệp Singapo đối với
những sản phẩm do doanh nghiệp của mình sản xuất ra. Có lẽ, khi nghiên
cứu, tìm hiểu các điều kiện của nước ta để tính toán cho dự án đầu tư của
họ nhìn nhận Việt Nam như một thị trường nhiều tiềm năng : số dân đông,
sức mua hiện nay tuy còn ở mức thấp nhưng rất có triển vọng nâng cao
trong tương lai… Họ cho rằng, thay vì việc sản xuất ở nước khác và muốn
nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam thì phải thông qua nhiều điều kiện khó
53
khăn, thuế nhập khẩu cao, bị động trong nắm bắt thị trường tiêu thụ hàng
hoá…bằng đầu tư trực tiếp để sản xuất hàng hoá tại Việt Nam. Điều này
chiếm lĩnh thị trường khi hàng hoá cùng loại chưa có doanh nghiệp nào sản
xuất, hoặc có doanh nghiệp Việt Nam ở trình độ thấp sản xuất với giá thành
cao hiện nay, vừa dành được ưu thế cạnh tranh trong tương lai khi sản
phẩm của họ trở nên quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam .
Xuất phát từ những tính toán như vậy nên khi theo yêu cầu của ta,
nhiều nhà đầu tư Singapo sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy phép
là sản xuất hàng hoá phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Nhưng trong thực tế,
doanh nghiệp Singapo đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đã lấy lý
do gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của khủng hoảng
cũng như một số điều kiện bất khả kháng từ bên ngoài…để hướng sản xuất
của họ vào thị trường Việt Nam , cứ từng bước như vậy, họ cố gắng làm
giảm dần tính hiệu lực của một số điều khoản được ghi trong giấy phép đầu
tư để rồi chuyền hướng từ sản xuất hướng về xuất khẩu sang sản xuất cho
thay thế nhập khẩu.
c. Quan hệ giữa phương thức góp vốn và lợi ích của các đối tác
Singapo.
Về phương thức và thực trạng thực hiện góp vốn là việc góp vốn của
bên Việt Nam thường được thực hiện một lần ngay khi dự án bắt đầu triển
khai xây dựng cơ bản, trong khi đó việc góp vốn của đối tác Singapo
thường thực hiện rải rác trong một thời gian dài...Như vậy, có những thời
kỳ tỷ lệ góp vốn thực tế của bên Việt Nam cao hơn phía Singapo, nhưng
theo quy định vì lợi ích mà hai bên được hưởng cũng như vị thế trong điều
hành hoạt động của liên doanh lại theo tỷ lệ thuận với phần vốn pháp định
đã được ghi trong giấy phép đầu tư. Điều này một mặt gây thua thiệt cho
bên Việt Nam cả về kinh tế lẫn quyền điều hành liên doanh, mặt khác, làm
54
mất đi yếu tố kinh tế để ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài thực hiện
việc góp vốn đầy đủ và đúng tiến độ.
Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trong hoàn cảnh thiếu
thốn các nguồn lực khác, là cách tạo thêm điều kiện kinh tế để chúng ta
tham gia liên doanh, nhưng có nhược điểm là khi cần khuyến khích đầu tư
chúng ta tiến hành giảm giá tiền thuê đất điều này đồng nghĩa với việc
chúng ta chấp nhận giảm quy mô góp vốn của mình. Khi đang chiếm giữ
một diện tích đất đai nào đó, họ sẵn sàng tìm kiếm, mời chào, kêu gọi đầu
tư nước ngoài, bất chấp những dự án mà họ có kinh nghiệm và chuyên môn
hay không. Kết quả, nếu dự án đầu tư trở thành hiện thực thì không những
hoạt động của liên doanh đó rất kém hiệu quả mà cũng rất có thể làm tổn
hại đến lợi ích chung của đất nước.
Trên thực tế vừa qua, việc góp vốn bằng thiết bị, máy móc, nhà
xưởng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công
nghệ, dịch vụ kỹ thuật...bên Việt Nam chỉ mới có một số nhà xưởng, công
trình cũ, số còn lại là của bên nước ngoài. Vì vậy, việc thu hút vốn nước
ngoài, công nghệ, kỹ thuật hiện đại...là rất cần thiết. Nhưng một vấn đề đặt
ra là trình độ kiểm tra chất lượng của các công nghệ đưa vào Việt Nam còn
thấp, điều đó gắn liền với việc Việt Nam trở thành bãi rác thải công nghệ
của các nước cũng như của đối tác Singapo.
d. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện
nên thiếu đồng bộ và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán
trước.
Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao; một số luật pháp,
chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài thay đổi nhiều, một số
trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm
đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều văn bản dưới
55
luật ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ,
ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, đẻ thêm quy trình, dẫn đến tình
trạng “ trên thoáng, dưới chặt”. Một số chính sách mới của Chính phủ chậm
đưa vào cuộc sống.
Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm; thủ tục hành chính
các cấp, nhất là thủ tục sau giấy phép, chậm được cải tiến; hiện tượng sánh
nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng; thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo,
phiền hà. Những việc trên đã làm biến dạng chính sách, làm xấu thêm môi
trường đầu tư.
Chủ trương tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tư nước ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được
khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, do còn
những nhận thức khác nhau dẫn đến lúng túng, thiếu nhất quán trong hoạch
định chính sách, trong xử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến đầu tư nước
ngoài nên đã tạo ra những khó khăn, tiêu tốn thời gian và tiền bạc của các
nhà đầu tư nước ngoài mà điển hình là các doanh nghiệp Singapo.
Nói tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa đầu tư nước
ngoài của Singapo, yêu cầu đặt ra là phải xác định chủ trương, phương
hướng và hệ thống các giải pháp hữu hiệu, tạo dựng một môi trường đầu tư
về tổng thể có sức hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao so với các nước trong
khu vực, giảm thiểu rủi ro để các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói
chung và các doanh nghiệp Singapo nói riêng làm ăn có hiệu quả trên cơ
sở bình đẳng, cùng có lợi.
56
CHƯƠNG III
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ HỢP TÁC VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO VÀO VIỆT NAM.
I.TRIỂN VỌNG QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA HAI CHÍNH PHỦ
VIỆT NAM VÀ SINGAPO :
1.Nhận định chung về tình hình kinh tế của một số nước trong
khu vực Châu Á và Việt Nam.
Kinh tế khu vực được phục hồi với tốc độ khá kinh ngạc bắt đầu từ
quý 3 năm 1999. Tốc độ tăng trưởng của toàn bộ khu vực là 6,4% vào năm
1999 và được các tổ chức tài chính – tiền tệ thế giới như IMF, WB, ADB
dự báo sẽ tăng trên 6,5% trong năm 2000 và 2001.
Thực tế(1)
Nước/Khu vực
Dự báo IMF(3)
ADB(4)
1998
1999
World Bank(2) 2001 2000
2000
2001
2000
2001
Đông Nam á Inđônêxia Malayxia Philipin Thái lan Việt Nam NIEs
-8,5 -13,2 -7,5 -0,5 -10,2 4,4 -2,6
2,9 0,2 5,4 3,2 4,2 4,8 7,4
4,0 6,0 4,5 4,5 4,5
4,0 8,0 4,0 4,5 5,0
4,0 6,0 4,0 5,0 4,5
5,0 6,0 4,5 5,0 5,4
4,7 3,5 7,8 3,8 4,5 6,0 7,9
5,2 5,0 7,0 4,3 4,6 6,5 6,6
Bảng 8: Tăng trưởng GDP của một số nền kinh tế khu vực Đông và Đông Nam á Đơn vị : %
57
3,1 10,7 5,4 5,4 7,1 0,3
-5,3 -6,7 0,4 4,6 7,8 -2,8
8,0 8,8 7,9 6,5 7,5 1,4
4,8 6,5 5,9 6,0 7,3 1,8
4,4 6,5 6,4 5,9 7,5 2,0
8,7 8,5 8,1 6,6 8,0 1,9
8,8 6,0 6,0 6,3 7,2 2,0
8,5 Hồng Kông 8,0 Hàn Quốc 8,0 Singapo 6,8 Đài Loan 7,5 Trung Quốc Nhật Bản 1,5 Nguồn : (1) Asian Development Outlook Update - 9/2000- ADB
(2) East Asia Brief - 9/2000 World Bank .
(3) World Economic Outlook - 9/2000- IMF.
Hai nước có nền kinh tế chuyển đổi là Trung Quốc và Việt Nam đang
trên đà tăng trưởng bền vững từ 5,0- 8,0%.
Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá (NIEs): Đài Loan, Hồng Kông
đều đạt tốc độ tẳng trưởng cao từ 6,6 – 8,7%.
Nhật Bản, Inđônêxia tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ dừng lại ở mức
1,9-4,0 ( xem bảng 9).
2. Tình hình kinh tế Singapo.
Nền kinh tế của Singapo tăng trưởng mạnh trong quý I/2000 ở mức
9,8% so với cùng kỳ năm1999 và chậm lại trong quý II nhưng vẫn ở mức
cao 8%, xu hướng giảm này vẫn tiếp tục giảm trong hai quý sau của năm
2000. Triển vọng ngắn hạn rất tích cực với mức tẳng trưởng mạnh, tăng
trưởng trung bình 8% năm 2000 và giảm còn 6,0- 6,4% năm 2001.
Tiêu dùng của người dân tăng từ 5,0% năm1999 lên khoảng 6,4% năm
2000, phản ánh niềm tin của người tiêu dùng. Tiêu dùng của Nhà nước ở
mức cao hơn: 6,5%. Đồng nội tệ có phần giảm giá so với USD trong hai
quý đầu năm xuất nhập khẩu đã phục hồi. Xuất khẩu, nhập khẩu lần lượt
tăng trên 20% trong năm 2000 so với cùng kỳ năm 1999. Thặng dự thương
mại trên GDP đạt trung bình khoảng 22,6% năm 2000 và 19,7% năm 2001
với giá trị thặng dư sẽ tăng thêm 9,6 tỷ USD trong năm 2000 và 5,1 tỷ
trong năm 2001 (nguồn : Development Outlook Update) Sự phục hồi của
nền kinh tế sẽ phụ thuộc nhiều vào triển vọng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là
58
cú sốc dầu mỏ hiện nay, sự hạ cánh an toàn của nền kinh tế Hoa Kỳ và khả
năng phục hồi của các nước Châu Á.
Bảng 9: Một số chỉ tiêu kinh tế của Singapo
Chỉ số kinh tế (%) 1997 1998 1999 2000 2001
8,4 0,4 5,4 8,0 6,0 Tăng trưởng GDP
2,0 -0,3 0,4 1,5 2,0 Lạm phát
-0,2 -12,1 4,6 3,5 5,3 Tăng trưởng XKHH
0,7 -23,1 8,9 7,9 8,8 Tăng trưởng NKHH
17,9 25,4 Tài khoản vãng lai/GDP 25,3 22,6 19,7
Nguồn: Asia Development Outlook Update – 9/2000 – ADB.
II. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI CỦA VIỆT NAM.
Nhận thức được xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng mở
rộng, đó là quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ xung
cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ
trương lợi dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di
chuyển vốn, mở rộng thụ trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm
quản lý để bổ xung và phát huy có hịu quả các lợi thế và nguồn lực trong
nước”. Để thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ
trương “đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong
đó FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong hoàn cảnh tích lũy nội bộ gần như con số 0, sử dụng viện trợ
59
nước ngoài không có hiệu quả, cơ chế quản lý kém, sản xuất đình trệ, bộ
máy hành chính cồng kềnh, quản lý tiền tệ kém dẫn đén lạm phát liên tục
trong nhiều năm liền. Cuộc cải tổ giá-lương-tiền năm 1981 và năm 1985
kết thúc thất bại thảm hại. Đến giữa những năm 80 hình ảnh của nền kinh
tế Việt Nam thật sự ảm đạm.
Với tình trạng trên để giải quyết những khó khăn kinh tế, buộc chúng
ta phải đổi mới. Tháng 12/1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh
dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới xây dựng kinh tế ở Việt Nam.
Từ việc nhận thức được đầy đủ đặc trưng quan trọng của thời đại hiện nay
là xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhà nước Việt
Nam đã chủ trương mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết
kinh tế ở trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông qua việc mở
rộng quan hệ kinh tế với các nươc trên thế giới-trong đó có hợp tác đầu tư.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với quan điểm “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước” đã tạo điều kiện thật sự cho phát triển
kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng.
Những quan điểm, tư tưởng của Đảng đã được thể chế hóa trong Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1996, gần đây nhất là Luật
đầu tư nước ngoài có sửa đổi và bổ sung ban hành tháng 6 năm 2000. Đây
là bộ luật phản ánh tính khuyến khích, hấp dẫn và thu hút đầu tư nước
ngoài.
Dưới đây là những quan điểm và định hướng cơ bản của Nhà nước
Việt Nam về tác động của FDI đối với kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.
1.Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân.
FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc
gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI
không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của
60
nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng
góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. FDI “là việc tổ chức, cá
nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài
hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc
xí nghiệp 100% vốn nước ngoài...”. Rõ ràng, FDI khác với ODA là không
gây ra tình trạng nợ nần cho thế hệ mai sau. Khi bỏ vốn đầu tư vào Việt
Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền đẻ ra tiền. Trong quan hệ
làm ăn với các đối tác Việt Nam theo nguyên tắc “được cùng ăn, thua cùng
chịu” theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên.
Trong quá trình thu hút FDI phải tránh những quan điểm sai lầm:
Thứ nhất: Coi nhẹ, thậm chí lên án FDI như một nhân tố có hại cho
nền kinh tế độc lập, tự chủ. Những người đi theo quan điểm này hiện nay ở
Việt Nam không nhiều nhưng họ cũng đã cản trở quá trình phát triển của
một nền kinh tế đang khởi sắc, họ không ý thức được mục tiêu của FDI
thực ra là yếu điểm của nước chủ nhà và đồng thời là thế mạnh của nhà đầu
tư nước ngoài. Nhưng FDI vào Việt Nam là một nước có chủ quyền, có
pháp luật phải chịu sự điều hành của pháp luật Việt Nam, những quy định,
kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Bởi vì, tất cả các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài), là pháp nhân Việt Nam. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường có điều tiết của Nhà nước thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là một trong năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Đó là hình thức
CNTB nhà nước. Hơn nữa, FDI ở Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam chỉ được tồn tại và hoạt động trong một thời gian
nhất định (tối đa không quá 50 năm). Hết thời gian quy định trong giấy
phép đầu tư việc gia hạn hay không đó là chủ quyền của Nhà nước Việt
61
Nam. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thuê đất của nhà nước
hoặc là bên Việt Nam góp vào vốn pháp định của liên doanh bằng giá trị
quyền sử dụng đất. Nhà nước ta không bán đất. Ở đây, CNTB nhà nước
không chỉ bao gồm đầu tư nước ngoài theo hình thức xí nghiệp liên doanh
(tư bản nước ngoài và doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước góp vốn) mà
còn bao gồm cả đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài và theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì về bản chất, đó là việc thực hiện chế
độ tô nhượng đối với các nhà tư bản nước ngoài (cho thuê đất đai, nhà
xưởng, thuê quyền khai thác mỏ...) V.I.Lê Nin đã từng nêu rõ: “xét về mặt
quan hệ kinh tế thì tô nhượng là gì ? đó là chủ nghĩa tư bản nhà
nước…Chính quyền Nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu
sản xuất của mình: hầm mỏ, công xưởng, vật liệu; nhà tư bản tiến hành
kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất
XHCN, thu được lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra và nộp cho Nhà nước
XHCN một phần sản phẩm”.
Việc sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước có tính
chất tất yếu khách quan, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển lực
lượng sản xuất của XHCN và do đó, là một hình thức quan hệ sản xuất rất
gần với CNXH. V.I.Lê Nin đã từng nhấn mạnh: “khi du nhập CNTB nhà
nước dưới hình thức tô nhượng, chính quyền Xô Viết tăng cường được nền
sản xuất lớn đối lập với nền sản xuất nhỏ, nền sản xuất tiên tiến đối lập với
nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hóa đối lập với nền sản xuất thủ
công, nó tăng thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó
cũng củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước quy định đối lập với
những tiểu tư sản vô chính phủ”.
Như vậy, FDI không thể là nhân tố tạo nên chệch hướng nếu chúng ta
có chiến lược đúng đắn và có biện pháp quản lý tốt.
Thứ hai: Ảo tưởng về tính “mầu nhiệm” của FDI, gán cho nó một vai
62
trò tích cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời
những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù, nhiều nước trên thế
giới đã coi FDI như một chìa khoá vàng của sự tăng trưởng kinh tế. Thông
qua FDI nhà nước ta có thể nhận được công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp
thu được kinh nghiệp quản lý tốt, tìm kiếm được thị trường bên ngoài Việt
Nam. Ngay cả các nước có trình độ phát triển cao như Mỹ, EU…vẫn cần
đến vốn đầu tư bên ngoài. Nhưng không vì thế mà ỷ lại vào FDI mà không
khai thác tối đa các lợi thế bên trong.
FDI tự nó chưa thể quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển
kinh tế, mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác: ODA,
nguồn vốn huy động rộng rãi trong nước.
2. Nhận thức đúng đắn về “mở” và “che chắn” trong chính sách
thu hút FDI.
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, các mục tiêu của FDI có
đạt được hay không còn phụ thuộc nhiều vào vấn đề đảm bảo an ninh chính
trị, kinh tế và xã hội. Để giải quyết mối quan hệ này, phải bắt đầu từ cách
đặt vấn đề an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trong quá trình thực hiện FDI.
Trong một số trường hợp, vì lợi ích tối đa hóa của đầu tư là lợi nhuận,
người ta bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hóa, xã hội của
dân tộc.
Thông thường, phía nước tiếp nhận FDI mong muốn nguồn FDI hỗ trợ
tối đa cho việc thc hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho việc
phát triển đồng đều ở các cơ sở công nghệ tiên tiến, cho việc khai thác tài
nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường sinh thái...
Nhưng phía chủ đầu tư nước ngoài vì lợi ích tối thượng của họ là lợi
nhuận nên lợi dụng khai thác nhiều mặt sự yếu kém của Chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư và các nhà doanh nghiệp nước sở tại. Trong đó, họ (các
63
chủ đầu tư nước ngoài) thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về
luật lệ, thủ tục và cán bộ.
Những sự khác biệt đó về mục tiêu khi vượt qua mức độ nào đó sẽ
xuất hiện tình trạng thiếu đảm baỏ cần thiết về an ninh chính trị, kinh tế, xã
hội cho quá trình FDI và tất yếu sẽ có hại cho cả hai bên.
Trong thời đại ngày nay, hki chấp nhận nguyên tắc “bình đẳng, hai
bên cùng có lợi” thì vấn đề an ninh trong quá trình FDI cần thiết cho cả hai
phía.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài cần có sự an ninh cho đồng vốn,
cho quá trình thực hiện dự án, an ninh cho người hoạt động đầu tư và
chuyển lợi nhuận về nước.
Đối với nước tiếp nhận FDI, cần có sự an ninh chính trị, kinh tế xã hội
chẳng những cho sự phát triển, mở rộng FDI có hiệu quả mà còn giữ vững
độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng
chính trị-xã hội.
Do đó mở cửa cho bên ngoài vào nhưng không quên những biện pháp
che chắn cần thiết cho an ninh chính trị, kinh tế, xã hội. Tư tưởng trên chi
phối toàn bộ Luật đầu tư nước ngoài và được thể hiện tại nhiều điều khoản
của luật và các văn bản dưới luật.
Một “hành lang” dù rộng rãi đến đâu cũng có khuôn khổ của nó. Do
vậy, bên cạnh những quy định có tính chất rộng rãi, thường có những quy
định có tính chất “che chắn”.
Vấn đề đặt ra trong khi thi hành Luật đầu tư nước ngoài là không để
cho người nước ngoài lợi dụng “rộng rãi” của luật và vượt ra ngoài những
nghĩa vụ mà luật đã quy định. Mặt khác, cũng không thể chỉ quan tâm tới
những biện pháp “che chắn” (thậm chí đặt ra những ràng buộc trái luật theo
kiểu “phép vua thua lệ làng”) làm giảm hoặc triệt tiêu tính hấp dẫn của
chính sách đối với FDI.
64
“Rộng rãi” hay “che chắn” đều phải trên cơ sở tuân theo pháp luật,
tuân theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với thông lệ với tập
quán quốc tế, hợp lý, có sức thuyết phục.
3.Giải quyết hợp lý các mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong
quá trình thu hút FDI.
Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác đầu tư giữa
nước ta với nước ngoài thực chất là tìm “điểm gặp nhau” về lợi ích để cùng
nhau sản xuất kinh doanh và trả giá cho nhau trên nguyên tắc thoả thuận, tự
nguyện bình đẳng và cùng có lợi. Theo nguyên tắc đó, cái trả giá cho nhau
phải:
-Phù hợp với tương quan về nhu cầu và khả năng của bên này và bên
kia trong hợp tác;
-Có lựa chọn, so sánh các giá phải trả cho các đối tác khác nhau trong
cùng một mục tiêu và một thời điểm.
-Có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, bảo đảm phát huy
có hiệu quả lợi ích của mỗi bên (chủ đầu tư nước ngoài, các pháp nhân Việt
Nam tham gia liên doanh và Nhà nước Việt Nam) trong đó, quan trọng nhất
đối với nhà đầu tư nước ngoài là được quyền kinh doanh có hiệu quả và
được đảm bảo an toàn vốn, lợi nhuận của họ.
Hợp tác liên doanh như mối tình dẫn đến hôn nhân giữa các bên tham
gia (bên Việt Nam và bên nước ngoài). Cho nên trong quá trình triển khai
dự án FDI phải chú ý đến những nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn
trong nội bộ liên doanh. Mau thuẫn trong nội bộ liên doanh giữa bên Việt
Nam và bên nước ngoài thực chất là xuất phát từ khác biệt về quan hệ sở
hữu. Bên nước ngoài hầu hết là những công ty, hãng tư nhân, họ là người
sở hữu thực sự tài sản mà họ đem góp vào liên doanh. Cho nên từ quan
niệm, cách nhìn nhận cho đến cách hành động, hoạt động sản xuất kinh
doanh, họ đều thể hiện tính chất tư bản tư nhân. Mục đích tối thượng của
65
họ là lợi nhuận, nên bằng mọi cách để đạt được lợi nhuận tối đa.
Trong khi đó bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước
thuộc sở hữu nhà nước. Bên nước ngoài là công ty xuyên quốc gia nên rất
hùng mạnh về nhiều mặt, ngược lại các công ty quốc doanh Việt Nam lại
rất yếu kém về mọi lĩnh vực.
Trong quá trình thực hiện dự án FDI bên nước ngoài không muốn
thành lập các tổ chức đoàn thể (tổ chức Đảng, công đoàn...) trong liên
doanh, cho nên, các tổ chức này hiện nay rất ít và khó hoạt động.
Nhìn chung, cần tránh một số quan điểm mơ hồ trong quá trình thu hút
FDI:
-Không muốn trả giá, chỉ đứng về lợi ích bên mình, muốn ăn cả. Điều
này trái với nguyên tắc hợp tác đầu tư là “cùng chung trách nhiệm kinh
doanh, cùng ăn chia lợi nhuận”.
Về vấn đề này V.I.Lê Nin nói: “trong vấn đề CNTB Nhà nước, dĩ
nhiên là không phải ngay một lúc mà mọi người đồng ý với nhau...chúng
tôi phải bỏ tiền ra bù vào chỗ lạc hậu, kém cỏi của chúng tôi, phải trả tiền
về điều mà hiện nay chúng tôi đang học, về điều mà chúng tôi cần phải
học. Ai muốn học thì phải trả học phí...Chúng tôi hoàn toàn công khai thừa
nhận, chúng tôi không dấu diếm rằng tô nhượng trong chế độ tư bản chủ
nghĩa là nộp cống vật cho chủ nghiã tư bản. Nhưng chúng tôi tranh thủ
được thời gian có nghĩa là chúng tôi thắng lợi về tất cả các mặt”.
-Hiểu nguyên tắc “bình đẳng, cùng có lợi” một cách máy móc, không
đứng trên quan điểm tổng thể để xác định thoả đáng lợi ích của mỗi bên
phù hợp với lợi thế so sánh.
-Trả giá không tính toán, trả bất cứ giá nào, miễn là tranh thủ được
vốn và công nghệ mà không tính toán đến hậu quả và mặt trái của vấn đề.
4. Hiệu quả kinh tế-xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong
hợp tác đầu tư.
66
Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam
chỉ qua tâm nhiều đến hiệu quả tài chính. Bởi vì đứng về lợi ích riêng của
nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được. Nên họ chú ý đến
những vấn đề thiết thực như doanh thu, chi phí, thuế, tiền thuê đất. Trong
khi đó nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án FDI không chỉ căn cứ
vào hiệu quả tài chính, mặc dù đó là một nhân tố làm tăng thu của Ngân
sách Nhà nước, góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng điều phải
quan tâm nhiều hơn để đánh giá một dự án FDI là hiệu quả kinh tế-xã hội
của nó. Lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương hướng lựa chọn các dự án và tính chất công nghệ. Nhà nước phải
chú ý nhiều hơn nữa đến sự phát triển tổng thể của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, lợi ích mà dự án có thể đưa lại hiệu quả tài chínhlà một
yếu tố của hiệu quả kinh tế-xã hội trong một loạt các nhân tố khác. Không
ít trường hợp có hiệu quả tài chính cao nhưng hiệu quả kinh tế-xã hội thấp,
thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế-xã hội, có lợi ích trước mắt nhưng
lại có hại lâu dài.
Do đó, trong khi thẩm định xem xét một dự án FDI cần phải đạt hiệu
quả kinh tế-xã hội lên trên và coi trong đólà phương hướng cơ bản của
những biện pháp khuyến khích đầu tư.
Trong điều kiện kinh tế của đất nước kém phát triển như hiện nay, chỉ
tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội của FDI nhìn tổng thể phải đáp ứng các yêu
cầu: vốn, công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh;
giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết thị
trường tiêu thụ cho sản phẩm.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu trên đều nhất thiết
phải được hội tụ đủ trong một dự án cụ thể. Trong điều kiện của nước ta,
trước mắt có lẽ nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm. Điều đó có
nghĩa là trong mối tương quan giữa vốn thu hút và vốn công nghệ của FDI
67
thì tạm thời chúng ta phải chấp nhận thực tế là chưa có điều kiện tự do lựa
chọn công nghệ tiên tiến như ý muốn. Hơn nữa, lao động được coi là một
trong hai sức kéo có ý nghiã trong giai đoạn đến năm 2000, tạo ra công ăn
việc làm cũng là biện pháp hữu hiệu tích luỹ vốn cho công nghiệp hóa, cho
mua sắm công nghệ.
5.Đa dạng hóa hình thức FDI.
Thu hút FDI dưới hình thức “hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp
liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng BOT ”, trong đó đặc
biệt khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh (vì có lợi cho bên Việt
Nam trong việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, kiểm soát
hoạt động của xí nghiệp) và hình thức hợp đồng xây dựng-kinh doanh-
chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO)
hoặc hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) đối với các công trình cơ sở hạ
tầng (do nguồn vốn lớn, chậm thu hồi vốn, tỷ suất lợi nhuận thấp nhưng nó
lại là yếu tố rất quan trọng đối với cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp
nước ngoài). Vấn đề lựa chọn hình thức FDI thực chất cũng là vấn đề cơ
cấu vốn, sử dụng vốn trong nước và vốn nước ngoài sao cho có lợi nhất.
Mỗi hình thức FDI quy định trong luật đầu tư nước ngoài đều có mặt mạnh
và mặt yếu, việc chọn hình thức nào còn tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện
của ta và bên đối tác nước ngoài.
6. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và quyền tự
chủ của các doanh nghiệp có FDI.
Cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài cũng dựa vào những nguyên tắc cơ
chế chung. Tuy nhiên, do đặc thù của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, nên bên cạnh sự giống nhau về cơ chế quản lý,đầu tư nước ngoài có
những điểm khác cơ chế chung cần được quan tâm, trong đó, vấn đề quan
trọng nhất là xác định vai trò quản lý của nhà nướcvà quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh của các nhà đầu tư, đảm bảo đầy đủ quyền tự chủ của họ trong
68
khuôn khổ Luật định. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được thể hiện dưới hai khía cạnh:
- Thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một pháp
nhân của Việt Nam;
- Thứ hai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp
có người nước ngoài tham gia nắm quyền sở hữu.
Là một pháp nhân Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, về nguyên tắc các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có quyền hạn và nghĩa vụ như các
phàp nhân khác cuả Việt Nam. Về mặt tổ chức, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn. Điều này cho phép xác đinh rõ quyền hạn, trách nhiệm của nhà đầu tư
trong việc thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Quy mô quyền hạn, trách nhiệm
và quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài trong việc điều hành và quản lý
kinh doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
Do có phần sở hữu tài sản của người nước ngoài, thường là các công
ty đa quốc gia, nên các quyết định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài không hoàn toàn phụ thuộc và theo khuôn khổ pháp lý của Việt Nam.
Phần góp vốn của bên nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên
ngoài càng nhiều. Cho nên sự quản lý của Nhà nước Việt Nam phải làm
cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi phục vụ lợi ích của
họ cũng phải đưa lại lợi ích chính đáng cho Bên Việt Nam và Nhà nước
Việt Nam .
69
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPO VÀO VIỆT NAM .
1.Nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài .
Quy hoạch đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch
tổng thể các nguồn lực chung của cả nước, gồm vốn và các nguồn lực trong
nước,vốn ODA, vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở phát huy nội lực; cái gì
tự đầu tư được thì nhất thiết phải để doanh nghiệp trong nước đầu tư; phải
gắn chặt với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm chủ yếu và đặt
trong chiến lược phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước, gắn với tiến trình hội nhập, năng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của
nền kinh tế.
Đề nghị xây dựng quy hoạch lĩnh vực thu hút FDI của Singapo trong
cả nước, từng địa phương và từng khu công nghiệp. Công bố quy hoạch và
danh mục gọi vốn đầu tư thống nhất, trong đó chú trọng xúc tiến những dự
án có quy mô vừa và nhỏ.
Khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài của Singapo vào các ngành
công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện
tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động.
Cần có chính sách, cơ chế, biện pháp để tạo bước chuyển căn bản hướng
mạnh hơn nữa đầu tư của Singapo hướng vào xuất khẩu, góp phần tích cực
làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội.
2.Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh
doanh.
a. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư.
Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu
tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng
70
hoá, dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ IV. Trong năm
2000 cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá, dịch vụ để
trong 2, 3 năm tới về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất giá, phí cho
các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có quy định cụ thể hợp lý về việc miễn thuế nhập khẩu đối với
nguyên liệu. Cho đến nay, nguyên liệu nhập khẩu được hiểu chỉ bao gồm
các vật tư, phụ liệu, nguyên liệu...trực tiếp cấu thành sản phẩm-chưa bao
gồm bao bì.
Đề nghị quy định các Cơ quan Cấp giấy phép đầu tư chủ động rà soát
và điều chỉnh ưu đãi đầu tư theo quy định mới cho doanh nghiệp mà không
cần có đề nghị của doanh nghiệp.
Đề nghị cần sớm điều chỉnh theo hướng giảm mức thuế thu nhập cá
nhân. Đề nghị miễn thuế nhập khẩu cho tất cả các thiết bị sản xuất không
được sản xuất tại Việt Nam.
Đề nghi bỏ thuế chuyển lợi nhuận và tính toán vào thuế thu nhập để
không có sự khác biệt giữa trong nước và nước ngoài.
Các nhà đầu tư Singapo thường phải chịu giá và phí một số dịch vụ
quá cao như điện, điện thoại... nhưng lại không được cung cấp dịch vụ chất
lượng cao (ví dụ: việc mất điện có thể làm cho doanh nghiệp thiệt hại rất
lớn). Vì vậy, đề nghị trước khi có thể điều chỉnh giảm các loại giá, phí đối
với đầu tư nước ngoài, những cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước cung
cấp các loại dịch vụ này cần nâng cao chất lượng và trách nhiệm đối với
việc cung cấp dịch vụ của mình.
Cần sớm nghiên cứu để công bố lộ trình và kế hoạch cụ thể giảm các
loại giá, dịch vụ như điện, bưu chính viễn thông...tiến tới một mặt bằng
chung giữa trong nước và nước ngoài. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho
71
các doanh nghiệp Singapo tiến hành các hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ
Việt Nam .
b. Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu
tư nước ngoài.
b.1.Đất đai.
Ngoài vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất, cần rà soát lại giá cho thuê
đất, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách
tắc đối với việc triển khai dự án (2 dự án xây dựng khu đô thị mới). Trong
cơ chế liên doanh giũa hai nước, cần nghiên cứu thay thế dần hình thức các
doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để chuyển
sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất đối với các dự án đầu tư nước
ngoài của Singapo.
b.2.Tài chính, tín dụng, ngoại hối.
- Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt
buộc; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với
các giao dịch vãng lai.
- Đề nghị Chính phủ Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài
cũng như các doanh nghiệp Singapo được tiếp cận thị trường vốn; được
vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có
thể bảo đảm bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài. Phát triển mạnh
thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng
các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực hiện cổ
phần hóa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài .
72
- Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp
Singapo; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiêm toán phù hợp với thông lệ
quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; đồng thời đảm
bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
c. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những
lĩnh vực, địa bàn và dự án ta cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Singapo.
Để thu hút được đầu tư nước ngoài của Singapo vào các lĩnh vực, địa
bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một
hệ thống ưu đãi, có sức cạnh tranh cao.
-Thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các
doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ
khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện.
-Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm,
thủy sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội
khó khăn.
-Đối với một số hạn chế của những dự án đặc biệt quan trọng, cần xử
lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết
trong lộ trình hội nhập.
-Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp
hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu (khuyến khích chế biến sâu, sử dụng
nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao).
d. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư của Singapo.
Mỗi hình thức đầu tư (liên doanh, 100% vốn nước ngoài) tuy có vị trí,
73
đặc thù riêng, nhưng đều nằm trong quy hoạch kinh tế-xã hội, quy hoạch
ngành và lãnh thổ, quy hoạch các sản phẩm quan trọng; chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam, sự quản lý, giám sát, kiểm tra của các cơ quan
quản lý Nhà nước. Do đó, ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự
án do yêu cầu an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa, thuần phong
mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh
mục các dự án cho phép nhà đầu tư Singapo được lựa chọn các đầu tư xuất
phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh họ .
Đối với các liên doanh giữa hai bên hiện nay hoặc trong tương lai gần
làm ăn có lãi và những liên doanh quan trọng cần phải duy trì. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, giải quyết dứt
điểm các vấn đề phát sinh, cho vay tín dụng để doanh nghiệp Việt Nam
trong liên doanh với Singapo nâng dần tỷ lệ góp vốn, tăng cường cán bộ có
năng lực góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trong liên doanh.
Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh liên doanh với doanh nghiệp Singapo, đồng thời đa dạng hơn nữa
hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới. Hiện nay, luật
pháp ta cũng quy định doanh nghiệp Việt Nam được quyền mua cổ phần
của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài quan trọng. Chính phủ cũng đã có
chủ trương thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài, trong đó có các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đề nghị chính
phủ sớm triển khai chủ trương mở rộng và đa dạng hoá hình thức tổ chức
doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được cổ phần hoá, chuyển đổi thành Công ty cổ phần được phép phát hành
cổ phiếu.
Bên cạch đó, một số nhà đầu tư nước ngoài cũng đề nghị Chính phủ
nên coi việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (theo quy định
NĐ51) là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
74
e. Mở rộng thu hút FDI của Singapo vào khu công nghiệp, khu chế
xuất.
Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư của Singapo vào các khu công
nghiệp đã được thành lập.
Ngoài các khu công nghiệp nhỏ, các cụm công nghiệp đã giãn mật độ
và dịch chuyển các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ
việc thành lập các khu công nghiệp mới. Trước mắt cần rà soát các khu
công nghiệp không đủ yếu tố khả thi, chỉ thành lập khu công nghiệp mới
khi hội đủ điều kiện.
Để tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài của Singapo vào
khu công nghiệp, cần thực hiện nghiêm túc thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp Singapo ở khu công nghiệp; đảm
bảo các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên
lạc) đến tận hàng rào của các khu công nghiệp; ưu đãi ở mức cao nhất các
dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với khu công nghiệp (nhà ở cho
công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở chữa khám bệnh, thương
mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế).
Bổ sung quy định chế độ báo cáo với Ban Quản lý Khu công nghiệp
(hiện nay các báo cáo trong khu công nghiệp chỉ gửi về cơ quan quản lý
đầu tư ở TW và địa phương).
Quy hoạch Khu công nghiệp cần gắn với quy hoạch Khu dân cư. Đề
nghị có chính sách ưu đãi cần thiết đối với việc xây dựng các công trình
ngoài hàng rào, nhà ở cho công nhân, chuyên gia của hai nước.
Đề xuất Phương án về việc cho thuê đất và công trình hạ tầng trong
Khu công nghiệp, theo đó, công ty phát triển hạ tầng chỉ cho thuê công
trình hạ tầng; doanh nghiệp trực tiếp thuê đất của Nhà nước. Cần có đại
diện của các cơ quan công an, hải quan tại Khu công nghiệp, Khu chế xuất,
đồng thời có chính sách miễn các loại chi phí đối với các cơ quan công an,
75
hải quan nằm trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Đơn giản hoá thủ tục
cấp phép của Ban Quản lý Khu công nghiệp đối với những dự án đặc biệt
ưu đãi, không có những vấn đề phức tạp về môi trường, hoặc đối với những
dự án đã có tiền lệ.
3. Hoàn thiện pháp luật.
a. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài.
Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo phải được
xây dựng trên một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh
cao so với các nước trong khu vực. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan,
với các yêu cầu:
-Bảo đảm một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn
định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với
các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng lên mức các quy định của Luật, các
chính sách, quyết định của Chính phủ đã được kiểm nghiệm qua thực tế.
-Phù hợp đồng bộ với tiến trình xây dựng và hoàn thiện khung khổ
pháp Luật chung của nước ta, trước hết là Luật doanh nghiệp, Luật khuyến
khích đầu tư trong nước… nhằm tạo mặt bằng ưu đãi bình đẳng giữa các dự
án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
-Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước
ngoài, thực hiện nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng
đồng các nhà đầu tư nước ngoài.
-Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các
cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập kinh tế.
b. Sửa đổi một số điều khoản trong các văn bản pháp luật liên quan
đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp Singapo.
-Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn với
76
giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam (Ngân
hàng Việt Nam, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài)
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn.
-Các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong
nước thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị,
máy móc để tạo tài sản cố định.
-Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm
việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài để khuyến
khích sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ
chốt.
4.Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Sau khi xây dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông
thoáng, hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều
hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ, việc nghiêm túc
thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ
quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư
nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng Cơ quan quản lý
Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bảo đảm thực hiện đúng và đủ vai trò là
cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, giúp Chính phủ quản lý
thống nhất hoạt động đầu tư nước ngoài, là đầu mối phối hợp giữa các Bộ,
các ngành và địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh tronh hoạt
động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các Bộ, ngành và địa
phương thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài theo đúng chức
năng, thẩm quyền đã quy định theo Luật Đầu tư nước ngoài, các Nghị định
của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các Ban quản lý Khu công
77
nghiệp được phân cấp, uỷ quyền quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài
trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu,
chính sách, cơ chế quản lý; tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra của các
Bộ, ngành trung ương; nâng cao kỷ cương và kỷ luật thực hiện để vừa phát
huy sức mạnh chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở, vừa tránh phá
vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lý
Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn,
tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, giúp đỡ các doanh nghiệp giải
quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; giám sát, kiểm
tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp,
chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời xử lý các cán bộ cóhành vi
tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực.
Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà
nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá các quan
hệ kinh tế của doanh nghiệp; đồng thời vẫn đảm bảo giám sát được các
doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các
doanh nghiệp.
Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch
các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời
hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến
căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài;
duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu
tư.
Áp dụng cơ chế đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với những dự án có
quy mô nhỏ, tính chất đơn giản, đã được xác định trong các quy hoạch về
ngành, địa bàn, thị trường.
78
Tiếp tục tăng cường phân cấp uỷ quyền cho địa phương và Ban quản
lý Khu công nghiệp (Hải Phòng đề nghị phân cấp đến 10 triệu USD) để
tăng tính chủ động cho địa phương trong việc thu hút đầu tư. Đặc biệt đối
vơi những dự án đã có tiền lệ, không có những vấn đề phức tạp về môi
trường thì nên bỏ cơ chế trước khi cấp giấy phép đầu tư phải thoả thuận với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư .
Cải tiến mạnh các thủ tục đầu tư theo hướng tiến tới áp dụng rộng rãi
chế độ đăng ký đầu tư-thay thế dần chế độ cấp giấy phép đầu tư. Đề nghị
các Bộ, ngành cần xử nhanh những khó khăn của doanh nghiệp như về hải
quan, thuế và hoàn thuế, đồng thời nghiên cứu để giảm thiểu một số thủ tục
hành chính hiện nay còn rất phức tạp, dặc biệt là các thủ tục liên quan đến
thuế đất, xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, xuất nhập cảnh, xuất nhập
khẩu.
Tiếp tục phân cấp cho các địa phuơng trong việc miễn thuế nhập khẩu
đối với nguyên liệu. Quy định việc lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường được thực hiện sau khi cấp giấy phép đầu tư nhằm đơn giản hoá hồ
sơ dự án cũng như giảm thiểu thời gian và chi phí cho nhà đầu tư trong quá
trình hình thành dự án.
5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và
phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có
hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến
thương mại, là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của các
Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Ngân sách Nhà
nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc
tiến đầu tư.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để
79
tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các
nhà đầu tư truyền thống ở Châu Á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh
nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất
khẩu ... cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm
tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng
công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án
kêu gọi đầu tư được phê duyệt; các ngành, các địa phương cần chủ động
tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng
dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng .
Bộ Kế hoạch và Đầu tư , Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối
hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các
nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và công ty lớn để có chính
sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu Luật pháp, chính sách,
biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời
có các đối sách thích hợp.
Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư Singapo hiện
đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là
biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức
thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần hỗ trợ mạnh mẽ các địa phương trong
công tác xúc tiến đầu tư như: tăng cường các hoạt động trao đổi thông tin;
làm đấu mối giới thiệu dự án, đối tác; hỗ trợ xây dựng các trương trình
hành động xúc tiến đầu tư của địa phương; xây dựng các tài liệu tuyên
truyền vận động đầu tư; xây dựng mạng thông tin điện tử để xúc tiến đầu
tư. Nghiên cứu khả năng xây mô hình quỹ xúc tiến đầu tư. Mục tiêu của
quỹ xúc tiến đầu tư là nhằm hỗ trợ trong việc xây dựng quy hoạch, xây
80
dựng cơ sở dữ liệu về FDI.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cần thiết lập
quan hệ trực tiếp với cơ quan đại diện ngoại giao các nước và tăng cường
đối thoại thường xuyên với các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng một tổ chức xúc tiến đầu tư chuyên trách ở
trung ương và địa phương; xây dựng chương trình, chiến lược quốc gia về
xúc tiến đầu tư.
Bố trí ngân sách Nhà nước phù hợp với hoạt động xúc tiến đầu tư,
khắc phục tình trạng ngân sách xúc tiến đầu tư vẫn nằm trong danh sách
hành chính thông thường như hiện nay.
6.Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức
đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, công tác cán bộ đặc biệt quan
trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng
pháp luật, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt
động đầu tư nước ngoài. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam,
của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh
nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến
công tác đào tạo năng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ
chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ và
lao động Việt Nam đi đôi với việc củng cố và năng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức đoàn thể (Đảng, công đoàn,…) trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có chính sách đầu tư thích hợp để đầu tư phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu hợp tác đầu tư với nước ngoài ở các địa phương như
việc đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo nghề nhằm đảm bảo cung cấp một
81
đội ngũ lao động tại chỗ có chất lượng cao. Trước hết trong khuôn khổ dự
án đầu tư Đông Dương, tăng cường hợp tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và
ESCAP để tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và xúc tiến
đầu tư.
Đề nghị bỏ cơ chế tuyển dụng lao động thông qua cơ quan cung ứng
lao động, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động, trong
đó ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương.
Với 6 giải pháp cụ thể đã nêu trên, phần nào đã làm an tâm các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và cũng tạo điều kiện kinh doanh cho các doanh
nghiệp Singapo đầu tư vào Việt Nam, để các doanh nghiệp Singapo áp
dụng vào công việc kinh doanh của họ một cách có hiệu quả và nó cũng thể
hiện mối quan tâm của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường
đầu tư ngày càng trở nên tốt hơn.
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp của Singapovào Việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, thời gian
qua đầu tư trực tiếp của Singapo vào Việt Nam đã góp phần đáng kể
82
trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao
động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với
các nước ASEAN của Singapo để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế
này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và
nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng
thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử
dụng vốn đầu tư.
Có thể nói quan hệ với Singapo là cần thiết cho sự nghiệp phát
triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó,
để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy
tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất
hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các
nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Singapo nói riêng.
Quan hệ Việt Nam - Singapo đang phát triển, chắc chắn trong tương
lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Singapo sẽ tiến triển hơn nữa nhất là
trong lĩnh vực đầu tư.
PHỤ LỤC 1.
HIỆP ĐỊNH
83
GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM VÀ CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA SINGAPO
VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ.
Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính Phủ
Cộng Hoà Singapo (mỗi chính phủ sau đây được gọi là “Bên ký kết” ).
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác kinh tế
giữa hai nước, đặc biệt cho những đầu tư của các công dân và cônh ty
của nước này trên lãnh thổ của nước kia trên cơ sở nguyên tắc bình
đẳng và cùng có lợi.
Nhận thấy rằng, việc khuyến khích và bảo hộ những đầu tư đó sẽ
ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích sáng kiến kinh doanh và
làm tăng sự thịnh vượng ở cả hai quốc gia.
Đã thoả thuận như sau:
ĐIỀU 1
ĐỊNH NGHĨA
Với mục đích của Hiệp định này:
84
1.Thuật ngữ “đầu tư ” nghĩa là mọi loại hình tài sản được mỗi Bên ký
kết thừa nhậnphù hợp với luật pháp và những quy định của Bên ký kết đó,
bao gồm chủ yếu:
a) Động sản,bất động sản và các quyền sở hữu khác như cầm cố,thế
chấp hoặc thế nợ;
b) Cổ phiếu, chứng khoán, phiếu ghi nợ và các quyền lợi tương tự
trong các công ty;
c) Chứng quyền về tiền hoặc về các hợp đồng có giá trị kinh tế;
d) Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, (bằng sáng chế, nhãn
hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp), bí quyết, phương pháp kỹ thuật,
tên thương mại và đặc quyền kế nghiệp;
e) Tô nhượng thương mại theo luật định hoặc theo hợp đồng về thăm
dò, nuôi trồng, chiết suất hoặc khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
2.Thuật ngữ “thu nhập” nghĩa là những khoản thu nhập từ đầu tư bao
gồm lợi nhuận, lãi, các khoản tăng vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền hoặc
phí.
3.Thuận ngữ “công dân” nghĩa là:
a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thể nhân là công dân
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật Việt Nam .
85
b)Về phía Cộng Hòa Singapo, bất kỳ công dân nào của Cộng Hòa
Singapo theo Hiến pháp của Cộng Hòa Singapo.
4.Thuật ngữ “Công ty” nghĩa là:
a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một công ty hoặc
một pháp nhân được hợp nhất hay thành lập trên lãnh thổ của Việt Nam
theo pháp luật Việt Nam.
b)Về phía Cộng hoà Singapo, bất kỳ công ty, hãng, hiệp hội hoặc tổ
chức có hay không có tư cách pháp nhân được hợp nhất, thành lập hoặc
ĐIỀU 2
đăng ký theo pháp luật hiện hành của Cộng hoà Singapo.
ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH
1.Hiệp định sẽ chỉ áp dụng:
a)Về đầu tư trên lãnh thổ công hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
những đầu tư do công dân và công ty của Công hoà Singapo thực hiện, đã
được cơ quan có thẩm quyền do Chính phủ Việt Nam chỉ định chuẩn y rõ
ràng bằng văn bản và theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp
ứng, nếu có.
b)Về đầu tư trên lãnh thổ Singapo, những đầu tư do công dân và công
ty của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, đã được cơ quan có
thẩm quyền do Cộng hoà Singapo chỉ định chuẩn y rõ ràng bằng văn bản và
theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp ứng, nếu có.
86
2.Các quyđịnh nói trên sẽ áp dụng đối với những đầu tư do công dân
và công ty của một Bên ký kết thực hiện trên lãnh thổ của Bên ký kết kia,
không phân biệt đã thực iện trước hay sau khi Hiệp định này có hiệu lực.
ĐIỀU 3
KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ
1.Mỗi Bên ký kết khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các
công dân và công ty của Bên ký kết kia thực hiện trên lãnh thổ của mình
những đầu tư phù hợp với chính sách kinh tế chung của mình.
2.Những đầu tư đã được chuẩn y theo Điều 2 được hưởng sự đối xử
công bằng, thoả đáng và sự bảo hộ phù hợp với Hiệp định này.
87
ĐIỀU 4
QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TỐI HUỆ QUỐC
Không Bên ký kết nào đối xử với những đầu tư trên lãnh thổ của mình
đã được chấp nhận phù hợp với quy định theo Điều 2 hoặc với những thu
nhập của công dân và công ty của Bên ký kết kia những điều kiện kém
thuận lợi hơn so với những điều mà Bên ký kết đó giành cho công dân và
công ty của bất kỳ nước thứ ba nào.
ĐIỀU 5
TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
1.Các quy định của Hiệp định này liên quan đến việc đối xử không
kém thuận lợi hơn so với những điều dành cho công dân và công ty của bất
kỳ nước thứ ba nào, không bắt buộc một Bên ký kết phải giành cho công
dân và công ty Bên ký kết kia những ưu đãi hoặc đặc quyền ghi trong:
a)Bất kỳ sự thoả thuận nào về hải quan, tiền tệ, về các vấn đề thuế
hoặc thương mại (kể cả khu vực mậu dịch tự do) hoặc bất kỳ hiệp định nào
trong tương lai về một thoả thuận như vậy.
88
b)Bất kỳ sự thoả thuận nào với một nước thứ ba hoặc với các nước
cùng khu vực địa lý nhằm xúc tiến sự hợp tác khu vực trong các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, công nghiệp hoặc tiền tệ trong khuôn khổ các dự án cụ thể.
2.Các quy định của Hiệp định này sẽ không áp dụng đối với các vấn
đề thuế trên lãnh thổ của các Bên ký kết. Các vấn đề thuế sẽ được điều
chỉnh theo Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa hai Bên ký kết và luật
quốc gia của mỗi Bên ký kết.
ĐIỀU 6
TƯỚC ĐOẠT QUYỀN SỞ HỮU
1.Không Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ một biện pháp nào về
tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc các biện pháp khác có hậu quả
tương tự đối với những đầu tư của công dân và công ty của Bên ký kết kia,
trừ khi các biện pháp đó được thực hiện vì một mục đích được luật cho
phép, trên cơ sở không phân biệt đối xử, phù hợp với pháp luật của mình và
phải được bồi thường, việc bồi thường sẽ được thực hiện một cách có hiệu
quả và không chậm chễ nếu không có lý do chính đáng. Sự bồi thường tuân
theo pháp luật của mỗi Bên ký kết và trị giá vào thời điểm ngay trước khi
quyền sở hữu bị tước đoạt, quốc hữu hoá hoặc các biện pháp có hậu quả
tương tự. Khoản bồi thường sẽ được tự do chuyển đổi và chuyển về nước.
2.Khi một bên ký kết tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc thực
hiện các biện pháp có hậu quả tương tự đối với những tài sản của một công
ty được sát nhập hay thành lập theo luật hiện hành ở bất kỳ nơi nào trên
lãnh thổ nước mình và trong đó các công dân hoặc công ty của Bên ký kết
89
kia có cổ phần, bên đó sẽ đảm bảo sự bồi thường đối với những công dân
hoặc công ty của Bên ký kết kia mà họ là chủ sở hữu của cổ phần đó.
ĐIỀU 7
BỒI THƯỜNG DO BỊ THIỆT HẠI
Công dân hoặc công ty của Bên ký kết là những người có đầu tư trên
lãnh thổ của Bên ký kết kia bị thiệt hại do chiến tranh hoặc do các xung đột
vũ trang, tình trạng khẩn cấp quốc gia, khởi nghĩa, bạo loạn sẽ được Bên ký
kết kia đối xử bằng việc bồi thường, hoàn trả, hoặc các giải pháp khác nếu
có không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử giành cho công dân hoặc công
ty bất kỳ nước thứ ba nào.
ĐIỀU 8
CHUYỂN VỐN VỀ NƯỚC
Mỗi Bên ký kết sẽ đảm bảo cho các công dân hoặc công ty của Bên ký
kết kia việc tự do chuyển các khoản vốn, thu nhập từ bất kỳ đầu tư nào trên
cơ sở không phân biệt đối xử, bao gồm:
a) Lợi nhuận, lãi về vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền, lãi và các thu nhập
khác phát sinh từ bất kỳ đầu tư nào.
b) Các khoản thu từ thanh lý toàn bộ hoặc từng phần của bất kỳ đầu tư nào.
c) Các khoản thanh toán theo các Hiệp định vay nợ liên quan đến các đầu tư.
d) Lệ phí giấy phép liên quan đến các vấn đề nêu ở Điều 1, khoản 1, mục d.
90
e) Các khoản thanh toán liên quan đến sự trợ giúp kỹ thuật, dịch vụ kỹ
thuật và lệ phí quản lý.
f) Các khoản thanh toán liên quan đến các dự án ký hợp đồng.
g) Các khoản thu nhập của công dân của Bên ký kết kia làm việc cho dự
án đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết này.
ĐIỀU 9
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Sự chuyển tiền nêu ở Điều 6 đến Điều 8 của Hiệp định này sẽ được
thực hiện theo tỷ giá thị trường vào ngày chuyển bằng đồng tiền chuyển
đổi. Trong trường hợp không có tỷ giá thị trường sẽ áp dụng tỷ giá chính
thức.
ĐIỀU 10
LUẬT ÁP DỤNG
Để tránh nghi ngờ, cần khẳng định tất cả các đầu tư theo Hiệp định
này phải tuân theo pháp luật hiện hành trên lãnh thổ của Bên ký kết mà
những đầu tư đó được thực hiện.
ĐIỀU 11
91
ĐIỀU CẤM VÀ HẠN CHẾ
Các quy định của Hiệp định này không hạn chế quyền của mỗi Bên ký
kết áp dụng những điều cấm hoặc hạn chế nào hay tiến hành bất cứ hoạt
động nào, khi những điều cấm hoặc hạn chế đó liên quan đến:
a) Sự bảo hộ quyền lợi cơ bản về an ninh.
b) Việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân hoặc
c) Phòng chống dịch bệnh và côn trùng cho động vật và cây cối.
ĐIỀU 12
SỰ THẾ QUYỀN
1.Trong trường hợp một trong hai Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ
quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) đã thanh toán cho
công dân và công ty của mình theo khiếu nại của họ trong khuôn khổ Hiệp
định này, để thực hiện đền bù một khoản đầu tư hoặc một phần của khoản
đầu tư đó, thì Bên ký kết kia công nhận rằng, Bên ký kết (hoặc hãng, tổ
chức, cơ quan do pháp luật quy định hay công ty được uỷ quyền) được
hưởng sự thế quyền để thực hiện các quyền và quyền khiếu nại của công
dân và công ty của mình. Quyền và quyền khiếu nại được thế quyền này sẽ
không lớn hơn quyền và quyền khiếu nại ban đầu cuả nhà đầu tư.
2. Bất kỳ thanh toán nào do một Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ
quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) thực hiện cho công
dân và công ty của mình sẽ không ảnh hưởng đến quyền của công dân và
công ty đó được khiếu nại Bên ký kết kia theo Điều 13.
92
ĐIỀU 13
TRANH CHẤP VỀ ĐẦU TƯ
1.Bất kỳ tranh chấp nào giữa công dân hoặc công ty của một Bên ký kết với
Bên ký kết kia về đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, sẽ cố gắng hòa
giải bằng thương lượng giữa các Bên tranh chấp. Bên có ý định giải quyết
tranh chấp thông qua thương lượng sẽ gửi thông báo đến Bên kia về ý định
của mình.
2.Nếu việc tranh chấp không giải quyết được như đã nêu trong khoản (1)
của Điều này trong vòng 6 tháng kể từ ngày có thông báo như nêu dưới
đây, Bên ký kết và nhà đầu tư có liên quan sẽ đưa vụ tranh chấp ra hòa giải
theo các nguyên tắc về hòa giải năm 1980 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về
Luật thương mại quốc tế hoặc đưa ra trọng tài theo các nguyên tắc về trọng
tài năm 1976 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế theo
những điều khoản dưới đây:
a- Về các thủ tục hòa giải, sẽ có 2 thành viên hòa giải do mỗi Bên chỉ
định một người, và
b- Về các thủ tục trọng tài, sẽ áp sụng theo các điều khoản sau:
i) Toà án trọng tài gồm 3 trọng tài viên. Mỗi Bên sẽ chọn một
trọng tài viên, hai trọng tài viên này trên cơ sở cùng thoả thuận sẽ chỉ định
công dân của một nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với các Bên tranh
chấp làm Chủ tịch. Các trọng tài viên này sẽ được chỉ định trong vòng hai
tháng kể từ ngày một trong các Bên thông báo cho Bên kia về ý định đưa
vụ tranh chấp ra Tòa án trọng tài trong khoảng thời gian 6 tháng như đã
quy định tại khoản (2) của Điều này.
93
ii) Phán quyết của Toà án trọng tài sẽ được thực hiện theo các
điều khoản của Hiệp định này phù hợp với luật quốc gia có liên quan, kể cả
các nguyên tắc về luật xung đột trên lãnh thổ của Bên ký kết xảy ra tranh
chấp về đầu tư, cũng như những nguyên tắc được công nhận rộng rãi của
luật quốc tế.
iii)Nếu các sự chỉ định cần thiết không được thực hiện trong
khoảng thời gian nêu ở khoản 2(b) (i) và không có sự thoả thuận nào khác,
thì một trong các Bên yêu cầu Tổng thư ký của Trung tâm quốc tế về giải
quyết tranh chấp đầu tư thực hiện sự chỉ định cần thiết.
iv)Toà án trọng tài sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.
v)Quyết định của Toà án trọng tài sẽ là cuối cùng và bắt buộc
các Bên phải tuân theo các quy định của phán quyết đó.
vi)Toà án trọng tài sẽ tuyên bố những cơ sở của quyết định
của mình và tuyên bố những lý do theo yêu cầu của một trong các Bên.
vii)Mỗi Bên liên quan sẽ chịu chi phí cho trọng tài của mình
và các đại diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch trong
việc thực hiện chức năng trọng tài của mình và các chi phí còn lại của Toà
án trọng tài sẽ do các Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án trọng tài
có thể quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn, và quyết định
này sẽ là bắt buộc đối với hai Bên.
3.Những quy định của Điều này sẽ không ảnh hưởng bất lợi đến các
Bên ký kết trong việc áp dụng nhuững thủ tục được quy định ở Điều 14 khi
việc tranh chấp liên quan đến việc hiểu hoặc áp dụng Hiệp định này.
ĐIỀU 14
94
TRANH CHẤP GIỮA CÁC BÊN KÝ KẾT
Bất kỳ tranh chấp nào giữa các Bên ký kết liên quan đến việc hiểu và
áp dụng Hiệp định này, trong chừng mực có thể, sẽ được giải quyết bằng
con đường ngoại giao.
1.Nếu vụ tranh chấp đó không được giải quyết thì theo yêu cầu của một
trong các Bên ký kết, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Toà án trọng tài. Toà án
trọng tài (sau đây được gọi là “Toà án”) gồm có ba trọng tài viên, mỗi bên
ký kết chỉ định một người và người thứ ba sẽ do hai Bên ký kết thoả thuận
chỉ định làm Chủ tịch Toà án.
2.Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu về trọng tài,
mỗi Bên ký kết sẽ chỉ định một trọng tài viên và trong vòng hai tháng kể từ
khi chỉ định các trọng tài viên đó, các Bên ký kết sẽ thoả thuận chỉ định
trọng tài thứ ba.
3.Nếu Toà án không được thiết lập trong thời hạn bốn tháng kể từ khi
nhận được yêu cầu về trọng tài, thì một trong các Bên ký kết sẽ mời Chủ
tịch của Toà án trọng tài quốc tế chỉ định một trọng tài viên hoặc các trong
tài viên còn thiếu nếu không có bất kỳ thoả thuận nào khác. Nếu Chủ tịch là
công dân của một trong các Bên ký kết hoặc không thể thực hiện được việc
đó thì sẽ mời Phó Chủ tịch. Nếu Phó Chủ tịch là công dân của một trong
các Bên ký kết hoặc cũng không thể thực hiện được việc đó thì thành viên
cao cấp tiếp theo của Toà án quốc tế không phải là công dân của một trong
các Bên ký kết được mời để thực hiện sự chỉ định cần thiết.
4.Toà án sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.
5.Quyết định của Toà án sẽ là cuối cùng và các Bên ký kết phải tuân
theo các quy định của phán quyết đó.
95
6.Mỗi Bên ký kết sẽ chịu chi phí cho trọng tài viên của mình và các đại
diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch Toà án và các
chi phí còn lại sẽ do hai Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án có thể
quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn và quyết định này là bắt
buộc đối với cả hai Bên.
7.Ngoài những điều nêu trên, Toà án sẽ quy định những thủ tục riêng.
ĐIỀU 15
Các nghĩa vụ khác
Nếu pháp luật của một trong các Bên ký kết hoặc các nghĩa vụ quốc tế
hiện có hoặc được xây dựng sau này giữa các Bên ký kết để bổ sung cho
Hiệp định này, cho phép những đầu tư của các công dân Bên ký kết kia
được hưởng sự đối xử thuận lợi hơn so với những đối xử nêu trong Hiệp
định này, những quy định như vậy sẽ không bị Hiệp định này chi phối.
Ngoài những cam kết nêu ở Hiệp định này, các công dân hoặc công ty của
mỗi Bên ký kết sẽ tôn trọng bất cứ cam kết nào liên quan tới những đầu tư
của họ phù hợp với luật pháp của mình.
ĐIỀU 16
HIỆU LỰC, THỜI HẠN VÀ KẾT THÚC
1.Mỗi Bên ký kết sẽ thông báo cho Bên ký kết kia về việc hoàn thành
các thủ tục pháp lý cần thiết để việc thực hiện Hiệp định này có hiệu lực.
Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ ngày có thông báo của
Bên ký kết kia.
96
2.Hiệp định này có hiệu lực trong thời gian 10 năm và tiếp tục có hiệu
lực sau đó, trừ khi trước thời hạn kết thúc 10 năm đầu, một trong hai Bên
ký kết thông báo bằng văn bản cho Bên ký kết kia về ý định kết thúc Hiệp
định này. Thông báo về kêt thúc sẽ có hiệu lực một năm sau khi Bên kia
nhận được thông báo đó.
3.Liên quan tới những đầu tư được thực hiện trước ngày thông báo kết
thúc Hiệp định này thì các điều khoản từ Điều 1 đến Điều 15 sẽ tiếp tục có
hiệu lực thêm 10 năm nữa kể từ ngày Hiệp định này hết hiêụ lực.
Những người có tên dưới đây được Chính phủ các Bên uỷ quyền ký
Hiệp định này.
Hiệp định này được làm thành hai bản tại Singapo ngày 29 tháng 10
năm 1992 bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nam, cả hai bản có giá trị như
nhau. Trong trưòng hợp có sự hiểu khác nhau giữa hai bản, thì sẽ căn cứ
vào bản tiêng Anh.
Thay mặt Chính phủ Thay mặt Chính phủ
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Cộng hoà Singapo
Nam Lim Boon Heng
Đậu Ngọc Xuân Bộ trưỏng cấp cao
Bộ trưỏng, Chủ nhiệm Bộ công thưong
Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư
(đã ký)
(đã ký)
97
PHỤ LỤC 2.
ĐỊNH HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ ĐẦU TƯ.
Hội nhập quốc tế về đầu tư là một trong những nội dung quan trọng
của hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Thông qua FDI, nền kinh tế của
các nước gắn kết với nhau ngaỳ càng chặt chẽ hơn. Trong những năm gần
đây và thời gian tới, các nước, trong đó có Việt Nam và các tổ chức quốc tế
đã và sẽ ký kết tham gia các điều ước và định chế quốc tế thuộc lĩnh vực
hội nhập quốc tế về đầu tư. Dưới đây là một số điều ước và định chế Việt
Nam đã hoặc sẽ tham gia và triển khai thực hiện nhằm mở rộng và nâng
cao hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài.
1. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 41 hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư song phương với các nước và vùng lãnh thổ, đồng thời cũng là một
bên tham gia hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN. Mục tiêu
của việc ký kết và thực hiện các hiệp định này là tạo ra môi trường đầu tư
hấp dẫn và an toàn hơn cho đầu tư tại Việt Nam và nước tham gia ký kết,
cho cả nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam. Các biện pháp khuyến khích
đầu tư được nêu trong các hiệp định này thường bao gồm: chế độ đối xử
công bằng và thoả đáng; đối xử không kếm thuận lợi hơn sự đối xử dành
cho công dân và công ty bất kỳ nước thứ ba nào (MFN)...Các biện pháp
bảo hộ đầu tư thường là: các cam kết về việc không quốc hữu hoá, không
trưng thu, trưng mua; bồi thường thiệt hại trong trường hợp trưng thu, trưng
mua vì mục đích công cộng; đảm bảo về việc chuyển tiền; cam kết về cơ
chế giải quyết tranh chấp... Nhiều nội dung trong các hiệp định này đã được
quy định trong Luật đầu tư nước ngoài, nhưng vì luật chỉ do quốc hội một
nước đơn phương ban hành và do vậy có thể đơn phương sửa đổi nên vẫn
98
cần phải quy định trong để nâng cao mức độ cam kết, tạo yên tâm cho nhà
đầu tư nước ngoài.
2.Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN
Ngày 30 tháng 7 năm 1998, tại Manila, Philippin, đại diện có thẩm
quyền các nước ASEAN (Bộ trưởng kinh tế) đã ký kết Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Hiệp định đã chính thức có hiệu lực từ ngày
30 tháng 6 năm 1999 sau khi tất cả các nước thành viên đã phê chuẩn hoặc
phê duyệt hiệp định.
Mục tiêu của Hiệp định là nhằm xây dựng ASEAN thành khu vực đầu
tư có sức hấp dẫn cạnh tranh cao để thu hút nhiều hơn đầu tư của các nhà
đầu tư cả trong lẫn ngoài khu vực. Phạm vi áp dụng của Hiệp định chỉ giới
hạn với các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm các hoạt động đầu
tư gián tiếp và những vần đề đã được các hiệp đinh khác của ASEAN quy
định như Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ.
Để thực hiện mục tiêu trên, các Quốc gia thành viên cam kết cùng
nhau xây dựng và thực hiện các chương trình và kế hoạch hành động sau:
- Chương hợp tác và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Theo đó,
từng nước thành viên có những sáng kiến riêng để thông tin đầy đủ, rõ ràng
luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư của nước mình, đơn giản hoá thủ tục
đầu tư…ASEAN sẽ có những sáng kiến tập thể để thiết lập cơ sở dữ liệu về
các ngành công nghiệp hỗ trợ và các nhà cung cấp công nghệ của các nước
thành viên, về các cơ hội đầu tư ở ASEAN...
- Chương trình xúc tiến đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ tổ
chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung, trao đổi danh mục các ngành và
lĩnh vực khuyến khích đầu tư, trao đổi kinh nghiệm vận động xúc tiến đầu
tư giữa các cơ quan đầu tư ASEAN...
99
- Chương trình tự do hoá đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ
giảm bớt và laọi bỏ những hạn chế đầu tư, thường xuyên hoàn thiện chế độ
đầu tư theo hướng tự do hoá hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên
gia... Để tạo tiền đề cho việc thực hiện chương trình này, điều 7 của hiệp
định đã quy định việc các nước thành viên sẽ mở cửa các ngành nghề và
thực hiện chế độ đối xử quốc gia có điều kiện cho đầu tư của các nhà đầu
tư ASEAN. Cụ thể là, trong vòng sáu tháng kể từ ngày ký kết hiệp định,
mỗi nước thành viên sẽ đưa ra một danh mục loại trừ tạm thờivà một danh
mục nhạy cảm, nếu có, bao gồm bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp đầu tư
nào mà nước đó chưa hoặc không thể mở cửa hoặc dành đối xử quốc gia
cho các nhà đầu tư ASEAN. Ngoại trừ những ngành nghề và biện pháp nêu
trong các danh mục đó thì các nước thành viên sẽ mở ngay lập tức tất cả
các ngành nghề của nước mình cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN,
đồng thời, dành ngay lập tức cho nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư và đầu tư
tương tự của nước mình đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có
tác động đến đầu tư, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận,
thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư.
Tháng 6 năm 1999, sau khi Hiệp định đã được Chủ tịch nước phê
chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt và cho phép gửi Ban thư ký ASEAN danh mục loại trừ tạm
thời và danh mục nhạy cảm của Việt Nam. Theo quy định của hiệp định và
thoả thuận về “Biện pháp táo bạo ”cải thiện môi trường đầu tư được công
bố tại Hội nghị thượng đỉnh VI tổ chức tại Hà nội tháng 12 năm 1998, danh
mục nhạy cảm không mở cửa và không dành chế độ đối xử quốc gia sẽ
được xem xét lại vào tháng 1 năm 2003 và từng giai đoạn tiếp theo do Hội
đồng AIA quyết định; danh mục loại trừ tạm thời chưa mở cửa các ngành
nghề cho các nhà đầu tư ASEAN của Việt Nam sẽ được xem xét lại hai
100
năm một lần và được loại bỏ dần để tiến tới loại bỏ hoàn toàn vào năm
2010 (các nước khác vào năm 2003, Lào 2010).
Như vậy, để thực hiện cam kết về mở cửa thị trường,chúng ta phải xây
dựng lộ trình loại bỏ dần những ngành mà hiện nay còn đang có những hạn
chế đối với nhà đầu tư ASEAN nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung
như đã được liệt kê trong danh mục tạm thời chưa mở cửa cho nhà đầu tư
ASEAN đã gửi cho Ban thư ký ASEAN. Do danh mục nhạy cảm của Việt
Nam đã bao gồm đầy đủ những ngành không mở cửa và những biện pháp
không dành chế độ đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài nên trong
quá trình thi hành hiệp định, Việt Nam hoàn toàn chủ động việc giữ hay
loại bỏ các biện pháp hoặc ngành cụ thể của danh mục này; trước mắt chưa
phải bổ xung sửa đổi pháp luật về FDI.
3.Hiệp định về các biện pháp thương mại liên quan đến đầu tư
của tổ chức Thương mại thế giới (WTO-TRIM).
Nước ta hiện đang đàm phán để gia nhập WTO, đã tham gia ba phiên
họp đàm phán đa biên về giải thích, làm rõ chính sách thương mại của Việt
Nam. Đồng thời với việc ký kết Hiệp ước thành lập WTO, các nước sáng
lập ra tổ chức này đã ký kết Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại. Theo đó, các nước thành viên không được áp dụng các
biện pháp TRIM không phù hợp với chế độ đối xử quốc gia và nghĩa vụ
loại bỏ các hạn chế về số lượng quy định tại Điều III.4 và Điều XI.1 của
Hiệp định GATT năm 1994. Hiệp định xác định một danh mục minh hoạ
các TRIM không được áp dụng, bao gồm cả các biện pháp bắt buộc là điều
kiện để được phép đầu tư và những biện pháp để được hưởng ưu đãi đầu tư
như:
- Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một lượng nhất định các sản
phẩm trong nước khi sản xuất (yêu cầu nội địa hoá).
101
- Yêu cầu lượng sản phẩm nhập khẩu phù hợp với lượng sản phẩm
xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Hạn chế nhập khẩu nói chung hoặc theo lượng sản phẩm xuất khẩu
của doanh nghiệp.
- Hạn chế nhập khẩu của doanh nghiệp bằng cách giới hạn lượng
ngoại tệ được sử dụng trong phạm vi nguồn ngoại tệ mà doanh nghiệp thu
được.
- Hạn chế xuất khẩu theo lượng sản phẩm sản xuất ra.
Các nước thành viên WTO có nghĩa vụ thông báo tất cả các TRIM vi
phạm Hiệp định và loại bỏ chúng trước năm 1997 đối với các nước phát
triển, trước năm 2000 đối với các nước đang phát triển và trước năm 2002
đối với các nước chậm phát triển. Đối với các nước đang xin gia nhập
WTO như nước ta, thời hạn loại bỏ TRIM phụ thuộc vào việc đàm phán
với độ thuyết phục của các luận cứ ta đưa ra. Tuy nhiên, cho đến nay, ngoại
trừ những trường hợp đã được xác định trong danh mục minh hoạ, các
nước vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về những trường hợp vi phạm TRIM
của WTO. Trong vòng đàm phán thứ ba vừa qua, đứng trên lập trường của
nước đang phát triển có thu nhập tính theo đầu người thấp, ta đã chỉ thừa
nhận vi phạm WTO-TRIM liên quan đến chính sách nội địa hoá trong
ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, sản phẩm điện tử dân dụng và đề nghị
cho tiếp tục áp dụng hoặc loại bỏ trong vòng 7 năm kể từ ngày Việt Nam
gia nhập WTO. Tuy nhiên, đoàn Mỹ, Nhật Bản, EU... cho rằng Việt Nam
còn có các biện pháp vi phạm WTO-TRIM như quy định về lĩnh vực đầu tư
phải xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, phải gắn với đầu tư phát triển nguồn
nguyên liệu… Thời gian xác định TRIM không phù hợp với quy định của
WTO phải được xác định và sớm loại bỏ trong quá trình đàm phán gia nhập
WTO hoặc thời gian ngắn sau khi gia nhập WTO.
102
4. Chương trình phát triển quan hệ đầu tư trong hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa kỳ:
Tuy là một chương trong hiệp định thương mại , nhưng chương phát
triển quan hệ đầu tư có hình thức và nội dung tương tự như một hiệp định
song phương hoàn chỉnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước.
Ngoài phần lớn các nội dung tương tự như 41 hiệp định song phương về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ta đã ký với các nước khác, chương
đầu tư mà hai bên đã đạt được thoả thuận về nguyên tác có một số điểm
khác biệt chủ yếu đáng lưu ý như sau:
4.1. Về chế độ đối xử quốc gia:
Trừ một số ngoại lệ được quy đinh tại phụ lục kèm theo Hiệp định,
các Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử đối với nhà đầu tư trong nước trong toàn bộ quá
trình từ thành lập, hoạt động, mở rộng, quản lý điều hành đến thanh lý giải
thể đầu tư (đối xử quốc gia- NT). Quy định này tương tự như quy định của
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN nêu ở mục 2 trên đây. Tuy
nhiên, nội dung của hai Hiệp định khác nhau ở chỗ, AIA để các nước thành
viên chủ động đưa ra danh mục loại trừ tạm thời, danh mục nhảy cảm chưa
hoặc không áp dụng NT; thì ngược lại, Phụ lục của Dự thảo Hiệp định với
Hoa kỳ quy định củ thể những ngành, lĩnh vực và biện pháp loại trừ vĩnh
viễn, những ngành, lĩnh vực biện pháp loại trừ tạm thời và thời hạn loại bỏ
với một lịch trình cụ thể.
4.2. Về chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư .
Phù hợp với chủ trương của Chính phủ ta và nguyện vọng của nhà đầu
tư về đơn giản hoá thủ tục đầu tư, Hiệp định đã quy định về việc áp dụng
chế độ đăng ký cấp phép đầu tư và lịch trình từng bước mở rộng để rồi sau
9 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực thì ngoại trừ nhữnh dự án lớn, dự
103
án thuộc lĩnh vực nhậy cảm cần phải áp dụng chế độ thẩm định cấp phép
đầu tư sẽ được áp dụng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho tất cả các dự
án còn lại.
4.3. Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại .
Hiệp định đã áp dụng TRIM- WTO như đã nêu ở phần trên để điều
trỉnh vấn đề này,thay vì áp dụng những tiêu chuẩn quá cao của NAFTA,
APEC hoặc Dự thảo hiệp định đầu tư đa biên (MAI) đang được các nước
OECD soạn thảo. Ngoại trừ việc phải bỏ ngay sau khi Hiệp định có hiệu
lực đối với yêu cầu hạn chế nhập khẩu gắn với xuất khẩu hay với nguồn
ngoại tệ có được (Pháp luật hiện hành của Việt Nam không quy định hạn
chế này), Hiệp định quy định thời hạn phải loại bỏ TRIM là 5 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc thời hạn mà Việt Nam đạt được khi gia
nhập WTO, tuỳ thuộc vào thời điểm nào sớm hơn.
5.Hội nhập về đầu tư trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Châu á -
Thái Bình Dương (APEC).
Mục tiêu chủ yếu của APEC là tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư
vào năm 2010 đối với nước phát triển và vào năm 2020 đối với nước đang
phát triển. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước APEC sẽ giảm hoặc loại bỏ
những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của WTO,
các nguyên tắc không ràng buộc của APEC, các hiệp định quốc tế khác có
liên quan đến đầu tư và bất cứ hướng dẫn nào được thảo thuận trong nội bộ
APEC, đồng thời tăng cường ký kết các hiệp định đầu tư song phương giữa
các thành viên.
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế APEC tổ chức tháng 11 năm 1995 tại Nhật
Bản đã thông qua “Chương trình hành động OSAKA”. Theo đó, các nước
thành viên có nghĩa vụ xây dựng các trương trình hành động riêng của
mình nhằm giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng như hạn
104
chế khác đối với thương mại và đầu tư. Ngoài ra, chương trình hành động
OSAKA cũng xác định 15 lĩnh vực được đưa vào kế hoạch hành động củ
thể chung, trong đó có chương trình tự do hoá đầu tư với cả chương trình
ngắn hạn, trung hạn lẫn dài hạn.
Khác với các tổ chức quốc tế khác như ASEAN, EU, NAFTA…mục
tiêu và nội dung hợp tác của APEC được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc
“tự nguyện”, “không bắt buộc”.
6. Hợp tác đầu tư trong khuôn khổ Hợp tác Á -ÂU (ASEM).
Mục tiêu của chương trình hành động về hợp tác xúc tiến đầu tư Á-
ÂU là nhằm hoàn thiện luật pháp chính sách ở mỗi nước theo hướng tạo
môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ở cả hai khu vực. Theo
đó các nước sẽ thực hiện nguyên tắc đầu tư không ràng buộc với nội dung
chủ yếu là dành chế độ đối xử quốc gia; xoá bỏ hạn chế liên quan đến việc
chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài; thực hiện đối xử công bằng, thoả
đáng và phù hợp với những nguyên tắc của luật quốc tế trong trường hợp
tước quyền sở hữu hoặc trưng thu đầu tư vì mục đính công cộng; xoá bỏ
hạn chế đối với hoạt động thương mại hàng hoá của các dự án đầu tư phù
hợp với quy định của Hiệp định TRIM – WTO; thực hiện cơ chế giải quyết
tranh chấp đầu tư theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế; tăng cường việc ký
kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và các hiệp định tránh
đánh thuế trùng giữa các thành viên...
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục – 1993.
2. Giáo trình Chính sách kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê - 1998.
3. Giáo trình Kinh tế đầu tư.
4. Hội nhập kinh tế Việt Nam – ASEAN, NXB Thống kê - 1999.
5. Tài liệu tham khảo: tình hình hoạt động của liên doanh tại
Việt Nam .
6. Trần Thị Vinh: Quan hệ Việt Nam – Singapore. Nghiên cứu Đông Nam
á 6/99.
7. Phùng Xuân Nhạ: ĐTNN ASEAN. Những vấn đề kinh tế thế giới số
6/98.
8. Nguyễn Trọng Xuân: ĐTTTNN tại Việt Nam thời kỳ 1998 – 1999.
Những vấn đề kinh tế thế giới số 2/2000.
9. GS. TS Nguyễn Mại: Đầu tư nước ngoài, thực trạng và giải pháp. Tài
chính số 7/98.
10. Nghị định 24/2000/NĐ - CP.
11. Báo đầu tư 1997, 1998, 1999, 2000
106
12. Viện nghiên cứu Đông Nam á: Việt Nam – ASEAN, NXB KHXH/96
13. Vũ Anh Tuấn: ảnh hưởng của việc tham gia AFTA đối với cơ cấu sản
xuất. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5/96.
14. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế VN, NXB Thống
kê / 97.
15 Asian Development Outlook Update - 9/2000- ADB
East Asia Brief - 9/2000 World Bank .
World Economic Outlook - 9/2000- IMF.
16. Những nội dung kinh tế - tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam, NXB Tài Chính - 1999.
17. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - Trường ĐHKTQD- Bộ môn
Kinh tế đầu tư, TS Nguyễn Bạch Nguyệt , NXB Thống Kê - 2000.
18. Thẩm định dự án đầu tư , PGS kinh tế - Trường ĐH Kinh Tế thuộc Đại
học Quốc Gia TP HCM .
NXB TP HCM - 1999.
19. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế - Cơ hội và thách thức , ĐH KTQD-
Khoa KT & KDQT, tháng 2/1999.
20. Báo cáo tổng hợp của Vụ đầu tư Bộ thương mại năm 1999,2000.
21. Báo cáo tổng hợp của Vụ QLDA- Bộ kế hoạch và đầu tư, 1999-2000.
22. Báo đầu tư năm 1998, 1999, 2000, 2001.
107
108