
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Nhận định chung cho rằng thế kỷ XIX là thế kỷ của than, thế kỷ XX là thế
kỷ của dầu mỏ và trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chắc chắn loại
nhiên liệu không thể tái sinh được này vẫn chưa thể bị thay thế bởi khí đốt,
than, thuỷ điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt, bởi
hơn 80% năng lượng hiện nay được tạo ra bởi dầu mỏ.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt hàng dầu thô (dầu mỏ
chưa qua tinh chế) là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, luôn chiếm vị trí số
một về giá trị kim ngạch xuất khẩu (tổng trị giá xuất khẩu của toàn bộ nền
kinh tế Việt Nam tính từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2004 là 21331 triệu USD
thì xuất khẩu dầu thô đạt 4600 triệu USD - tương đương 39,26% tổng trị giá
kim ngạch xuất khẩu). Dự báo trong những năm tới mặt hàng dầu thô sẽ là
một trong những mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam. Việc khai thác và xuất
khẩu hiệu quả mặt hàng này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh
nghiệp Việt Nam, tăng doanh thu xuất khẩu cho đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thị trường dầu thô thế giới biến động
không ngừng do nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy làm ảnh hưởng rất
nhiều tới tình hình xuất khẩu dầu thô của Việt Nam. Giá dầu trên thế giới
biến động lúc tăng, lúc giảm tạo ra những thuận lợi và cả những khó khăn
cho hoạt động xuất khẩu dầu của Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Những biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới và ảnh hưởng của nó tới
hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam” để tận dụng những thuận lợi,
khắc phục khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu dầu thô một cách
hiệu quả nhất là một tất yếu khách quan.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới, nguyên
nhân của những biến động, đồng thời chỉ ra những thuận lợi và khó khăn mà
biến động đó tạo ra cho hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam. Từ đó
đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là thị trường dầu mỏ thế giới, đặc điểm cũng như
những biến động trên thị trường này; những thuận lợi và khó khăn của xuất
khẩu dầu mỏ Việt Nam do sự biến động này tạo ra.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam từ năm
1991 trở lại đây, đặc biệt là trong những năm gần đây: 2003 và 2004.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với
thống kê, phân tích để từ đó rút ra các kết luận làm cơ sở đưa ra các giải
pháp làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, đề tài gồm những phần
sau:
Chương I: Tổng quan chung về dầu mỏ và thị trường dầu mỏ
Chương II: Tác động của sự biến động thị trường dầu mỏ thế giới đối với
hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
Chương III: Các giải pháp nâng cao híệu qủa hoạt động xuất khẩu dầu mỏ
của Việt Nam trước biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ DẦU MỎ VÀ
THỊ TRƯỜNG DẦU MỎ
I. Dầu mỏ và ngành công nghiệp dầu mỏ
1. Khái niệm dầu mỏ
Dầu mỏ là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho
con người. So với các khoáng sản khác như: than đá, đồng, chì, nhôm,
sắt…thì dầu mỏ được con người biết đến và sử dụng tương đối muộn hơn.
Dầu mỏ là hợp chất hydrocacbon được khai thác lên từ lòng đất, thường ở
thể lỏng và thể khí. Ở thể khí, chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng
hành. Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng
khoan bao gồm cả khí ẩm và khí thô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong
các vỉ dầu dưới dạng mũ khí hoặc khí hoà tan và được khai thác đồng thời với
dầu thô. Trong bảng tuần hoàn Menđêleep, các nguyên tố cacbon và hydro có
đặc tính kỳ diệu là trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất khác nhau chúng
kết hợp và tạo thành những hợp chất hydrocacbon khác nhau. Loài người đã
sớm biết sử dụng đặc tính quý giá này để phục vụ nhu cầu cuộc sống của
mình.
Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ. Theo lý thuyết tổng
hợp sinh học được nhiều nhà khoa học đồng ý, dầu mỏ phát sinh từ những xác
chết của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong đất. Khi
thiếu khí ôxy, bị đè nén dưới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu cơ trong
các sinh vật này được chuyển hoá thành các hợp chất tạo nên dầu. Dầu tích tụ
trong các lớp đá xốp, do nhẹ hơn nước nên dầu đã chuyển dần dần lên trên
cho đến khi gặp phải các lớp đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đấy và tạo
thành mỏ dầu.Cuối thế kỷ XIX, nhà hoá học người Nga Menđêleep đã đưa ra
lý thuyết vô cơ giải thích sự hình thành của dầu mỏ. Theo lý thuyết này, dầu
mỏ phát sinh từ phản ứng hoá học giữa cacbua kim loại với nước tại nhiệt độ

cao ở sâu trong lòng đất tạo thành các hiđrôcacbon và sau đó bị đẩy lên trên.
Các vi sinh vật sống trong lòng đất qua hàng tỷ năm đã chuyển chúng thành
các hỗn hợp hiđrocacbon khác nhau. Lý thuyết này là một đề tài gây nhiều
tranh cãi trong giới khoa học.
Dầu mỏ là loại khoáng sản năng lượng, có tính “linh động” cao. Sau nữa,
chúng có bản chất sinh thành, di cư và tích tụ gần giống nhau. Giống như
nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu mỏ được hình thành do kết quả
quá trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hoá học, địa
chất, sinh học…trong vỏ trái đất. Thông thường dầu mỏ sau khi khai thác có
thể xử lý, tàng trữ và xuất khẩu ngay.
2. Vai trò của dầu mỏ
Dầu mỏ cùng với các loại khí đốt được coi là “Vàng đen”, đóng vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế toàn cầu. Đây cũng là một trong những
nguyên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng
là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa dầu mỏ
cũng được sử dụng trong công nghiệp hoá dầu để sản xuất các chất dẻo và
nhiều sản phẩm khác.
Dầu mỏ mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho các quốc gia và dân tộc trên thế
giới đang sở hữu và tham gia trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên trời cho
này.
Hiện nay, trong cán cân năng lượng, dầu mỏ vẫn giữ vai trò quan trọng
nhất so với các dạng năng lượng khác. Cùng với than đá, dầu mỏ cùng các
loại khí đốt khác chiếm tới 90% tổng tiêu thụ năng lượng toàn cầu.
Không ít các cuộc chiến tranh, các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị có
nguyên nhân sâu xa từ các hoạt động cạnh tranh sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực dầu mỏ. Không phải ngẫu nhiên mà giá cổ phiếu của các công ty sản
xuất kinh doanh dầu mỏ biến động tuỳ thuộc rất lớn vào những kết quả tìm

kiếm thăm dò của chính các công ty đó trên thế giới. Lợi dụng hiện tượng
biến động này, không ít các những thông tin không đúng sự thật về các kết
quả thăm dò dầu mỏ được tung ra làm điêu đứng những nhà đầu tư chứng
khoán trên lĩnh vực này, thậm chí làm khuynh đảo cả chính sách của các quốc
gia.
Đối với nước ta, vai trò và ý nghĩa của dầu khí nói chung trong đó có dầu
mỏ càng trở nên quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Không chỉ là vấn đề thu nhập kinh tế đơn thuần, trong
những năm qua dầu mỏ đã góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia, làm cân
đối hơn cán cân xuất nhập khẩu thương mại quốc tế, góp phần tạo nên sự phát
triển ổn định nước nhà trong những năm đổi mới đất nước.
Hơn thế nữa, với sự ra đời của dầu mỏ đã giúp chúng ta chuyển sang thế
chủ động trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp, tiếp thu công nghệ hiện đại
của nước ngoài, phát triển ngành nghề dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm.
Đồng thời, dầu mỏ có thể chủ động đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho các
ngành kinh tế quốc dân, cung cấp nhiên liệu cho các ngành công nghiệp khác.
3. Ngành công nghiệp dầu mỏ
Thứ nhất, ngành công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính tổng hợp và
đa dạng cao. Ngành này cũng đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, rủi ro nhiều và lợi
nhuận cao. Thông thường, khi đầu tư vào một lô tìm kiếm thăm dò, các công
ty phải bỏ ra hàng trăm triệu đôla Mỹ. Nếu kết quả tìm kiếm, thăm dò không
đạt kết quả (thường xác suất xảy ra điều này rất cao), số tiền đầu tư coi như
mất trắng. Các sự cố trong khi khai thác, vận chuyển dầu thường gây những
tổn thất vô cùng lớn. Sự cố chìm giàn khoan dầu P - 36 ngoài khơi Braxin
tháng 3 - 2001 vừa qua đã gây tổn thất tới 450 triệu đôla Mỹ cho Công ty
Petrobras. Vì vậy các công ty dầu mỏ thường liên minh để giảm thiểu rủi ro
và một khi phát hiện dòng dầu công nghiệp, thì họ càng khai thác càng nhanh
càng tốt để sớm thu hồi vốn đầu tư.

