
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước ta đã bắt tay
vào công cuộc khôi phục nền kinh tế và xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trong giai đoạn đầu, chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Đảng và
Nhà nước tỏ ra rất có hiệu quả với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng càng
về sau, nó càng bộc lộ những yếu kém, lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển
của thời đại, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt nam. Do đó, để bắt kịp
với xu thế của thời đại, năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách mới,
chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường nhằm hoạt động có hiệu quả hơn.
Sự chuyển đổi này có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết về mặt
lí luận và thực tiễn, từ quản lí vĩ mô đến quản lí vi mô của nền kinh tế. Một
trong những vấn đề cấp bách đó là: phải đảm bảo các thông tin kinh tế qua lại
trong các mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân, thể nhân, trong hoạt động
quản lí vĩ mô và vi mô của Nhà nước về các hoạt động kinh tế xã hội phải đáng
tin cậy, phải có sự đảm bảo về mặt pháp lí và kinh tế đối với độ tin cậy các
thông tin đó.. Đây chính là vấn đề then chốt nhất để hạn chế các mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết vấn đề này, đồng thời với việc chuyển
đổi cơ chế quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hệ thống bộ máy
tổ chức kiểm toán Việt Nam đã ra đời.
Vậy trong hơn một thập kỉ qua, hệ thống bộ máy tổ chức kiểm toán Việt
Nam đã hoạt động ra sao để góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước? Để trả lời cho câu hỏi này, và cũng để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em
đã chọn đề tài: “ Sự hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán
Việt Nam “
1

KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN
1. Bản chất, chức năng, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán.
1.1. Bản chất của kiểm toán
Bản chất của kiểm toán , nếu xét ở góc độ chung nhất, chính là sự kiểm tra
độc lập từ bên ngoài được thực hiện bởi một lực lượng có trình độ kĩ năng
chuyên môn cao, chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp lí và kinh tế đối với
các nhận xét của mình về độ tin cậy của các thông tin được thẩm định. Nhà nước
cũng như xã hội sẽ quản lí và giám sát hoạt động kiểm tra này trên ba mặt chủ
yếu: - Các thông tin công khai phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực chung
được xã hội thừa nhận.
- Hoạt động kiểm toán phải dựa vào các chuẩn mực chung.
- Mọi cá nhân, tổ chức có liên quan đến các sai sót hoặc xuyên tạc các
thông tin công khai để đánh lừa các pháp nhân hoặc thể nhân trong các mối quan
hệ kinh tế xã hội gây ra các thiệt hại thì pháp luật sẽ can thiệp để buộc các cá
nhân tổ chức có hành vi trên phải chịu trách nhiệm của mình cả về kinh tế và
pháp lí đối với sự sai lệch về thông tin và các thiệt hại đó.
Kiểm toán trong giai đoạn đầu của sự phát triển chủ yếu là kiểm tra, xác
nhận độ trung thực của báo cáo tài chính công khai nên có quan điểm cho rằng
kiểm toán là kiểm tra kế toán, tài chính độc lập. Nhưng sự phát triển của nền
kinh tế thị trường đã làm cho hoạt động của kiểm toán không ngừng mở rộng
phạm vi của mình. Từ chỗ chỉ kiểm tra các báo cáo tài chính và cho nhận xét,
kiểm toán đã tiến hành thẩm định và nêu nhận xét về độ tin cậy các thông tin có
liên quan đến cả hiệu quả các hoạt động quản lí cũng như độ tuân thủ các quy
tắc, quy định của các nhà kinh tế - tài chính trong hoạt động của mình ở mức độ
nào. Do đó, khái niệm về kiểm toán được nhiều nhà khoa học thừa nhận, đó là:
“Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập có thẩm quyền thu thập
và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ
chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa
các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực đã xây dựng “
2

1.2. Chức năng của kiểm toán:
Từ bản chất của kiểm toán có thể thấy kiểm toán có chức năng cơ bản là
xác minh và bày tỏ ý kiến.
1.2.1. Chức năng xác minh:
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu,
tính pháp lí của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính.
Xác minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển và
được thể hiện khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán. Đối với kiểm toán
báo cáo tài chính, việc xác minh được thực hiện theo 2 mặt:
- Tính trung thực của các con số.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.
Đối với các thông tin đã được lượng hoá: Thông thường, việc xác minh
được thực hiện trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi
đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các
bảng khai tài chính. Theo đó, kiểm toán trước hết là xác minh thông tin.
Đối với các nghiệp vụ (hoạt động), chức năng xác minh của kiểm toán có
thể được thực hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản phẩm của hoạt
động xác minh này thường là những biên bản. Ở lĩnh vực này, kiểm toán hướng
vào việc thực hiện chức năng thứ hai là bày tỏ ý kiến.
1.2.2. Chức năng bày tỏ ý kiến
Bày tỏ ý kiến là đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung
thực, mức độ hợp lí của các thông tin tài chính kế toán. Chức năng bày tỏ ý kiến
có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp
lí, tư vấn qua xác minh:
- Tư vấn cho quản lí nhà nước trong việc phát hiện sự bất cập của chế độ tài
chính kế toán, qua đó kiến nghị với các cơ quan quản lí nhà nước xem xét,
nghiên cứu, hoàn thiện cho phù hợp.
3

- Tư vấn cho việc quản lí của các đơn vị được kiểm toán. Thông qua việc chỉ
ra những sai sót, yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ, công tác quản lí tài
chính, kiểm toán viên gợi mở, đề xuất các biện pháp khắc phục hoàn thiện đối
với đơn vị. Trong nhiều trường hợp, thông qua kiểm toán, các tổ chức đơn vị
doanh nghiệp đã kịp thời chấn chỉnh hệ thống kiểm soát nội bộ, chế độ quản lí
tài chính ở đơn vị mình. Qua đó khai thác có hiệu quả hơn năng lực tài chính
phát triển đơn vị.
1.3. Ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán trong quản lí:
Kiểm toán không phải là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán sinh
ra từ yêu cầu của quản lí và phục vụ cho yêu cầu của quản lí. Từ đó có thể thấy
rõ ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên nhiều mặt:
Thứ nhất, kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm”. Trong cơ
chế thị trường, có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh
của nó trong tài liệu kế toán, bao gồm:
- Các cơ quan nhà nước
- Các nhà đầu tư
- Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lí khác
- Người lao động
- Khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác.....
Có thể nói việc tạo ra niểm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết
định sự ra đời và phát triển của kiểm toán với tư cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai, kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt
động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị kiểm toán nói chung.
Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính, đều bao gồm những mối quan hệ
đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Tính
phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ
tài chính với lợi ích con người. Trong khi đó, thông tin kế toán là sự phản ánh
của hoạt động tài chính. Ngoài việc chứa đựng những phức tạp của các quan hệ
tài chính, thông tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình xử lí thông tin bằng
phương pháp kĩ thuật rất đặc thù. Do đó, nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng
4

cố nề nếp trong quản lí tài chính càng có đòi hỏi thường xuyên và ở mức độ cao
hơn.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lí. Kiểm
toán không chỉ xác minh rõ độ tin cậy của thông tin mà còn tư vấn về quản lí.
Vai trò tư vấn này được thấy rõ trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lí.
2. Phân loại kiểm toán theo hệ thống bộ máy tổ chức
2.1. Kiểm toán nhà nước ( KTNN )
KTNN là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực hiện các chức
năng kiểm toán tài sản công. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của KTNN là:
- Thực hiện việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu,
số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp, các đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể, các tổ chức xã hội có sử
dụng kinh phí do ngân sách cấp.
- Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán đã được thủ tướng
chính phủ phê duyệt và những nhiệm vụ kiểm toán đột xuất do thủ tướng chính
phủ giao, báo cáo kết quả kiểm toán cho thủ tướng chính phủ, quốc hội và uỷ
ban thường vụ quốc hội, cho các cơ quan nhà nước khác theo quy định của
chính phủ.
- Thông qua việc kiểm toán, thực hiện công tác tư vấn, góp ý kiến với các
đơn vị được kiểm toán sửa chữa, khắc phục sai sót, vi phạm, chấn chỉnh công
tác kế toán của đơn vị để đảm bảo chỉ tiêu tiết kiệm và hiệu quả nhất. Đồng thời
đề xuất với thủ tướng chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lí tài chính kế
toán cần thiết.
2.2. Kiểm toán độc lập ( KTĐL )
KTĐL là quá trình kiểm tra các số liệu, tài liệu của các doanh nghiệp
(DN) do các kiểm toán viên độc lập thực hiện để xác nhận tính trung thực, hợp lí
của các báo cáo tài chính và cung cấp kết quả kiểm toán cho những người trả phí
kiểm toán
Các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị đã được
kiểm tra, xác nhận của KTĐL là căn cứ tin cậy đáp ứng yêu cầu của đơn vị, của
5

