
107
hóa thông tin, y tế và thể dục thể thao 30 chỉ tiêu; (13) Đời sống, bảo hộ lao
động, bảo hiểm và phúc lợi xã hội 22 chỉ tiêu.
Trên cơ sở Hệ thống chỉ tiêu thống kê chính thức gồm 297 chỉ tiêu thuộc
13 chuyên ngành đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ ban hành theo Quyết định
168/TTg này 17/9/1970, Niên giám thống kê năm 1971 đã đƣợc bố trí lại
gồm 310 biểu, in trên 420 trang khổ 13cm x 19cm với 11 phần: (1) Khí tƣợng,
thủy văn 11 biểu; (2) Dân số 6 biểu; (3) Các chỉ tiêu tổng hợp kinh tế quốc dân
22 biểu; (4) Nông nghiệp 50 biểu; (5) Công nghiệp 58 biểu; (6) Xây dựng cơ
bản 21 biểu; (7) Giao thông vận tải, bƣu điện 28 biểu; (8) Nội thƣơng, ngoại
thƣơng 27 biểu; (9) Giáo dục, văn hóa, y tế, đời sống 38 biểu; (10) Số liệu thống
kê miền Nam 10 biểu; (11) Số liệu thống kê nƣớc ngoài 29 biểu. Với kết cấu và
nội dung này, Niên giám thống kê năm 1971 đã đƣợc nâng lên một trình độ
mới. Số phần trong kết cấu đã tăng từ 9 phần trong Niên giám thống kê 1961
lên 11 phần và quan trọng hơn, nội dung của từng phần đã đƣợc bổ sung phong
phú hơn nhiều. Do vậy, số biểu đã tăng từ 169 biểu lên 310 biểu và số trang
tăng từ 147 trang lên 420 trang.
Mặc dù các cuốn Niên giám thống kê biên soạn và phát hành từ năm
1961 đến năm 1976 thƣờng xuyên đƣợc hoàn thiện về kết cấu và bổ sung về
nội dung, nhƣng số liệu của các chỉ tiêu trong các cuốn Niên giám này đều là
số liệu của miền Bắc; số liệu miền Nam nếu có thì chỉ là một phần riêng với
tƣ cách nhƣ một phụ lục tham khảo. Do vậy, ngay sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, đất nƣớc thống nhất, chúng ta đã tiến hành khai thác và thu
thập số liệu để biên soạn Niên giám thống kê 1977, cuốn Niên giám thống kê
đầu tiên mà hầu hết số liệu của các chỉ tiêu đƣợc thu thập và tổng hợp trên
phạm vi cả nƣớc. Tuy nhiên, việc khai thác số liệu cũ và thu thập số liệu mới ở
miền Nam ngày đầu giải phóng gặp nhiều khó khăn nên Niên giám thống kê
năm 1977 chỉ bao gồm 181 biểu, in trên 270 trang khổ 13cm x 19cm với 12
phần: (1) Khí tƣợng, thủy văn 14 biểu; (2) Dân số, lao động 25 biểu; (3) Các
chỉ tiêu tổng hợp 3 biểu; (4) Công nghiệp 25 biểu; (5) Xây dựng 9 biểu; (6)
Nông nghiệp 30 biểu; (7) Nội thƣơng, ngoại thƣơng 11 biểu; (8) Vận tải, bƣu
điện 12 biểu; (9) Đời sống 12 biểu; (10) Văn hóa 6 biểu; (11) Giáo dục 22 biểu;
(12) Y tế 12 biểu.
Từ năm 1986 đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, ngành Thống kê
cũng từng bƣớc tiếp cận với phƣơng pháp nghiệp vụ và hệ thống chỉ tiêu
theo thông lệ quốc tế. Trên cơ sở kết quả một số năm triển khai thử nghiệm