1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN VĂN QUYỀN
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC TÀY
Ở HUYỆN VÕ NHAI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN VĂN QUYỀN
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC TÀY
Ở HUYỆN VÕ NHAI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN - NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Lêi c¶m ¬n
Tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới người hướng dẫn
khoa học là PGS. TS Đàm Thị Uyên. Người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ
trong suốt thời gian qua để tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử-
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đặc biệt là thầy giáo - nhà dân tộc
học Hoàng Hoa Toàn. Người đã đóng góp những ý kiến rất quý báu và bổ ích
cho tác giả trong qua trình tiến hành luận văn.
Tác giả cũng xin cảm ơn Thư viện trường Đại học sư phạm Thái
Nguyên, Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các phòng ban
chuyên môn của huyện Võ Nhai; Sở Văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên;
Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, … đã góp phần cung cấp thông tin
giúp tác giả hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tác giả xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp, là anh Nông Ngọc
Toản giáo viên trường THPT Võ Nhai, anh Nông Ngọc Châu bí thư đoàn xã
Vũ Chấn cùng đông đảo bạn bè và đặc biệt là gia đình, người thân đã quan
tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2010. Tác giả
TRẦN VĂN QUYỀN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................................................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................................................................................................... 8
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài. ..................... 10
3.1. Mục đích ................................................................................................................................................................................................ 10
3.2. Đối tượng nghiên cứu. .................................................................................................................................................... 11
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................................................. 11
3.4. Nội dung nghiên cứu của đề tài ....................................................................................................................... 11
4. Nguồn tư liệu ............................................................................................................................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................................................................................... 12
6. Đóng góp của đề tài .......................................................................................................................................................................... 12
7. Cấu trúc của đề tài .............................................................................................................................................................................. 13
CHƢƠNG 1 ...................................................................................................................................................................................................................... 15
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN ................................................................ 15
1.1. Lịch sử hành chính huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ................................................... 15
1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ........................................................................................................................ 16
1.2.1. Vị trí địa lý ................................................................................................................................................................................... 16
1.2.2. Điều kiện tự nhiên ........................................................................................................................................................... 17
1.3. Khái quát về kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai ..................................................................... 21
1.4. Dân cư và các dân tộc trên địa bàn huyện ............................................................................................. 23
1.4.1. Dân cư ................................................................................................................................................................................................. 23
1.4.2. Các dân tộc ở Võ Nhai ............................................................................................................................................. 25
CHƢƠNG 2 ...................................................................................................................................................................................................................... 29
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI TÀY .............................................................................................................. 29
Ở HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN ................................................................................................................ 29
2.1. Tên gọi và không gian sinh tồn ............................................................................................................................... 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc tên gọi của làng bản ........................................................................... 29
2.1.2. Không gian sinh tồn...................................................................................................................................................... 37
2.2. Cơ cấu tổ chức .................................................................................................................................................................................... 56
2.2.1. Các tổ chức quản trị ...................................................................................................................................................... 56
2.2.2. Tổ chức dòng họ ................................................................................................................................................................. 62
2.2.3. Các tổ chức có tính chất xã hội .................................................................................................................. 66
2.2.4. Kiến trúc công cộng và các hoạt động cộng đồng ...................................................... 70
2.3. Những đặc trưng và vai trò của làng bản trong lịch sử .................................................... 79
2.3.1. Tính chất đặc trưng của làng bản cổ truyền của người Tày ở Võ Nhai .... 79
2.3.2 Vai trò của làng bản ........................................................................................................................................................ 80
CHƢƠNG 3 ...................................................................................................................................................................................................................... 85
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA LÀNG BẢN NGƢỜI TÀY Ở VÕ NHAI................................................... 85
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY .................................................................................................. 85
3.1. Nguyên nhân biến đổi ............................................................................................................................................................. 85
3.2. Diễn biến và những biểu hiện .................................................................................................................................... 86
3.2.1. Những biến đổi về không gian sinh tồn ....................................................................................... 86
3.2.2. Những biến đổi trong nền kinh tế .......................................................................................................... 94
3.2.3. Sự biến đổi trong cơ cấu tổ chức ............................................................................................................. 99
3.3. Một vài kiến nghị .......................................................................................................................................................................104
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................................................107
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................................................................113
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN .............................................109
PHỤ LỤC ẢNH .................................................................................................................................................................................................115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Đó là mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng” trong triết học.
Nghiên cứu lịch sử một địa phương, một tộc người sẽ góp phần quan trọng
làm sáng tỏ bức tranh vốn đã rất phong phú và phức tạp của lịch sử dân tộc.
Việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức của làng xã cổ truyền là chiếc chìa khoá
để tìm hiểu và lý giải tất cả sự phong, phú rộng lớn và bao quát của vấn đề
làng xã. Làng xã trong tiến trình lịch sử Việt Nam có vai trò hết sức to lớn mà
chúng ta không thể phủ nhận. Nghiên cứu làng xã, chúng ta sẽ làm sáng tỏ
nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc cũng như những truyền thống, phẩm chất của
con người Việt Nam nói chung.
Vấn đề nghiên cứu làng xã cổ truyền Việt Nam càng trở nên bức thiết và
có ý nghĩa hơn khi hiện nay vấn đề: Nông nghiệp – nông dân – nông thôn
ngày càng nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Đảng đề
ra mục tiêu là phải đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Loại bỏ những gì,
giữ lại và phát huy những gì là vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc xây
dựng nông thôn mới hiện nay. Điều đó chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta
có những hiểu biết sâu sắc qua sự nghiên cứu nghiêm túc về làng xã cổ
truyền.
Tầm quan trọng rất lớn của vấn đề về cả lý luận và thực tiễn là như vậy
nhưng những nghiên cứu về làng xã Việt Nam hiện nay mới chỉ là bước đầu,
còn đơn sơ và chưa đáp ứng được nhu cầu nhận thức cũng như thực tiễn. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá X ngày 5/8/2008 đã chỉ ra “Nhận thức về vị trí, vai trò của nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành
một cách có hệ thống, các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; cơ chế chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ,
thiếu tính đột phá, một số chủ trương chính sách không hợp lý, thiếu tính khả
thi nhưng chậm điều chỉnh, bổ sung kịp thời…”
Trong bối cảnh đó, việc đi sâu nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức của
chúng ta về vấn đề làng xã Việt Nam cổ truyền và hiện đại có ý nghĩa rất lớn
trước khi đưa ra và thực hiện có hiệu quả những chính sách phát triển nông
nghiệp - nông thôn – nông dân.
Nghiên cứu những vấn đề làng bản cổ truyền của các dân tộc thiểu số
cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng vì đồng bào các dân tộc thiểu số
là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam.
Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, đồng bào các dân tộc
nơi đây đã có những đóng góp rất lớn cho cách mạng trong lịch sử. Đến nay,
điều kiện kinh tế vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc
trong Huyện còn ở mức thấp. Trong các dân tộc thiểu số ở đây, người Tày có
số lượng lớn nhất và có quá trình định cư lâu dài nhất.
Việc nghiên cứu làng bản cổ truyền của người Tày sẽ góp một phần rất
quan trọng vào việc tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về lịch sử xây dựng và
phát triển của vùng đất Võ Nhai. Kết quả nghiên cứu còn góp thêm cơ sở
khoa học cho chính quyền địa phương các cấp trong việc đề ra và thực hiện
những chính sách và biện pháp đúng đắn nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá cũng như nhằm bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của
người Tày nói riêng và nhân dân các dân tộc trong huyện Võ Nhai nói chung.
Xuất phát từ bối cảnh và lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề
“Làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng và rộng lớn của vấn đề mà đề tài làng xã Việt Nam
nói chung đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học
ở cả trong và ngoài nước trong những giai đoạn gần đây.
Tuy nhiên, trong lịch sử, nhất là thời kỳ phong kiến và trước đó, vấn đề
làng xã rất ít được “đoái hoài” đến. Lịch sử trong giai đoạn đó chỉ là lịch sử
của giai cấp thống trị và của những nhân vật kiệt xuất. các nhà sử học phong
kiến rất ít khi có những ghi chép về nông thôn, làng xã. Chúng ta chỉ có thể
góp nhặt được những ghi chép ít ỏi về làng xã trong một số bộ sử và địa chí
thời phong kiến nước ta như: Đại Việt thông sử, Dư địa chí, Đại Nam thực
lục, Đại Nam nhất thống chí, Đồng khách dư địa chí,… Trong đó, tác phẩm
“Vũ trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ là có giá trị tư liệu hơn cả.
Từ thế kỷ thứ XVI – XVII trở đi, làng việt là đối tượng điều tra nghiên
cứu của các thương nhân và giáo sĩ phương Tây. Mục đích lớn nhất của họ là
phục vụ cho công cuộc xâm lược và đô hộ Việt Nam. Vì vậy, những nghiên
cứu đó chưa được hệ thống và khách quan. Tất nhiên, đây cũng là nguồn tư
liệu không thể bỏ qua trong quá trình nghiên cứu làng xã cổ truyền.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, việc nghiên cứu làng Việt được mở
rộng hơn trước. Một số tác giả người Pháp đã có những tác phẩm chuyên
khảo về làng Việt. Nhưng, cách nhìn nhận và lý giải của họ vẫn không được
khách quan. Lúc này đã có một số tác giả người Việt tham gia nghiên cứu,
tiêu biểu nhất là Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục, Nguyễn Văn Huyên
với một số chuyên khảo bằng tiếng Pháp.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong vùng kiểm soát của
thực dân Pháp và sau đó là chính quyền Ngụy Sài Gòn, ở miền Nam có một
số tác phẩm tiêu biểu như: Kinh tế làng xã Việt Nam của Vũ Quốc Thúc (Hà
Nội, 1951). Làng xã Việt Nam của Toan Ánh (Sài Gòn, 1968).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Cuốn sách đầu tiên nghiên cứu làng xã Việt Nam theo quan điểm macxit
là cuốn “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh và Vân Đình (tức Trường Chinh và
Võ Nguyên Giáp) do Đức Cường xuất bản năm 1937. Vấn đề làng xã chỉ thực
sự được giới sử học Việt Nam ở miền Bắc đặc biệt quan tâm nghiên cứu kể từ
sau Cải cách ruộng đất và phong trào tập thể hoá ở nông thôn. Trong đó, cuốn
sách nghiên cứu về làng xã Việt được coi là cơ bản và sâu sắc nhất tính đến
trước đổi mới là cuốn “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ” của
tác giả Trần Từ, (Hà Nội 1984).
Từ khi đổi mới đến nay là thời kỳ nở rộ của những công trình nghiên cứu
về làng xã, điều này được biểu hiện ở:
- Sự ra đời của rất nhiều những đầu sách, những công trình nghiên cứu
về làng xã Việt Nam của những học giả cả trong và ngoài nước.
- Có khá nhiều chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu như: Nguyễn Từ Chi,
Nguyễn Hải Kế, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc,…
- Ngày càng nhiều những học viên, nghiên cứu sinh ở cả trong và ngoài
nước chọn làng xã là đối tượng học tập, nghiên cứu của họ.
Mặc dù có những mục đích và quan niệm không giống nhau nhưng các
nhà nghiên cứu đã cung cấp thêm những tư liệu mới, đưa ra những nhận định
mới, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức về làng xã Việt Nam truyền
thống và hiện đại. Tuy nhiên, đó mới chỉ được coi là những thành quả bước đầu.
Nhưng một thực tế mà khi tìm hiểu chúng tôi thấy, đó là chưa hề có
chuyên đề hay những công trình đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức làng bản
của các dân tộc thiểu số ở nước ta, trong khi làng xã cổ truyền của người Việt
ở đồng bằng Bắc bộ lại được rất nhiều các học giả quan tâm. Có thể nói đây là
một mảng tối trong việc nghiên cứu đề tài làng xã cổ truyền.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta là bộ phận không thể tách rời
của dân tộc Việt Nam. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
đề đại đoàn kết dân tộc. Tất cả những chính sách về dân tộc thiểu số của Đảng
ta đều xoay quanh 3 nguyên tắc: Đoàn kết, Bình đẳng, Tương trợ, nhằm làm
sao từng bước vững chắc nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của
đồng bào, làm sao cho miền núi tiến kịp miền xuôi. Đồng bào các dân tộc
thiểu số tiến kịp với trình độ phát triển của người Kinh. Vì vậy, việc nghiên
cứu làng bản của người dân tộc thiểu số cũng có ý nghĩa quan trọng không
kém vấn đề làng xã cổ truyền của người Việt.
Những nhà dân tộc học hàng đầu ở nước ta như: Nguyễn Văn Huyên, Bế
Viết Đẳng, Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, Tấn Quỳnh, Đặng Văn lung,
Hoàng Nam, Phan Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn,… đã dày công nghiên cứu một
cách toàn diện về nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những nghiên cứu của
họ thường miêu tả khái quát văn hoá các tộc người. Trong đó, cơ cấu tổ chức
làng bản của các dân tộc chỉ được họ đề cập đến như một khía cạnh, chưa
phải đi sâu nghiên cứu mang tính chất chuyên đề. Những nghiên cứu về dân
tộc Tày cũng vậy.
Đặc biệt, vấn đề “ Làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở huyện Võ Nhai
tỉnh Thái Nguyên” chưa có ai nghiên cứu và công bố. Chính vì vậy, đề tài
nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung làm rõ vấn đề này. Những công trình
nghiên cứu của các học giả đi trước sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để
chúng tôi tham khảo, học tập cho việc hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Qua việc nghiên cứu và phân tích cơ cấu làng bản cổ truyền của người
Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, đề tài sẽ góp phần vào việc tái hiện
lại một số hiện tượng lịch sử, văn hoá xã hội, quá trình xây dựng và phát triển
của địa phương này, cũng như lịch sử vốn phong phú, đa dạng và phức tạp
của tộc người nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Cụ thể hơn, tác giả mong muốn làm phong phú hơn những hiểu biết của
khoa học về bản sắc văn hoá của dân tộc Tày vốn đã có nhiều nét đặc trưng
trong đời sống vật chất, văn hoá tinh thần và tổ chức xã hội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhận thức rõ hơn một cơ cấu
xã hội truyền thống, lâu đời của miền núi nước ta. Qua đó, tác giả đề tài mong
muốn đóng góp vào quá trình xây dựng nông thôn mới, làng bản văn hoá ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh
Thái Nguyên nói riêng trong cuộc sống xã hội hiện đại.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kết cấu làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Kết cấu tổ chức đó bao gồm các loại hình
tổ chức và các hình thức tập hợp người, các quy chế vận hành của nó. Đề tài
cũng nghiên cứu những ảnh hưởng của kết cấu tổ chức đó lên đời sống vật
chất, tâm lý và truyền thống của người Tày ở nơi đây.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu quá trình ra đời, phát triển và biến
đổi của làng bản người Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên theo diễn tiến
của lịch sử.
Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu làng bản của dân tộc Tày trên địa
giới huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày nay (tập trung vào các xã phía
Bắc, nơi có người Tày cư trú với tỷ lệ cao).
3.4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Khái quát về huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên: Vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, dân số, các thành phần dân tộc, lịch sử hành chính của huyện…
Kết cấu tổ chức làng bản của dân tộc Tày, ảnh hưởng của kết cấu đó lên
hoạt động kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần và những truyền thống trong
đời sống văn hoá của họ; so sánh với làng Việt truyền thống và một số dân tộc khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Nêu lên những nét đặc trưng cổ truyền trong văn hoá làng bản của đồng bào.
4. Nguồn tƣ liệu
Đề tài làng xã cổ truyền nói chung và làng bản cổ truyền của người dân
tộc thiểu số nói riêng hầu như không được bất kỳ một cuốn chính sử của một
vương triều phong kiến nào đề cập đến. Tuy nhiên, khi tham khảo kỹ một số
bộ sử cũ như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục,… chúng tôi cũng đã
tìm được một số thông tin liên quan nhằm phục vụ cho đề tài của mình.
Chúng tôi cũng tiếp cận được với khá nhiều các tác phẩm, tài liệu, kỷ
yếu, đề tài nghiên cứu, các chuyên khảo hoặc có liên quan đến làng xã cổ
truyền và các dân tộc thiểu số Việt Nam, đặc biệt là về dân tộc Tày.
Hệ thống văn bản về chính sách đối với các dân tộc thiểu số của Đảng,
Nhà nước và các cấp chính quyền cũng rất quan trọng với đề tài này.
Đặc biệt quan trọng hơn cả là tư liệu điền dã, khảo sát thực địa. Ngoài ra
một số hương ước, gia phả, tộc phả và địa bạ cũng được chúng tôi lưu tâm tới
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng và kết hợp một số
phương pháp sau đây: Điền dã, miêu thuật, hồi cố, thống kê, so sánh, tự sự
lịch sử, liên ngành,… nhằm làm sao những thông tin có được là chính xác
nhất và khách quan nhất, chất lượng đề tài tốt nhất trong khả năng có thể.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu về tổ chức làng bản cổ truyền
của người Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức của mọi người về dân tộc Tày nói
chung và dân tộc Tày ở địa bàn huyện Võ Nhai nói riêng. Qua đó, kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ góp thêm cơ sở khoa học cho việc thực hiện các
chính sách của chính quyền địa phương các cấp nhằm nâng cao đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
vật chất cũng như tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số và sự phát triển của
địa phương.
Một đóng góp quan trọng nữa của đề tài là sẽ góp phần tôn tạo, giữ gìn
những giá trị truyền thống trong bản sắc văn hoá của dân tộc Tày ở Võ Nhai,
Thái Nguyên nói riêng và các dân tộc thiểu số trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói
chung. Đề tài ở một mức độ nào đó sẽ nâng cao ý thức tự giác của mỗi người
chúng ta trong việc biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của người Tày cũng như các dân tộc thiểu số khác.
Cuối cùng, đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo cho việc học tập và
nghiên cứu lịch sử địa phương, dân tộc học, văn hoá học…
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được chia làm 3 phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
+ Chương 1. Khái quát về huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
+ Chương 2. Làng bản của người Tày ở huyện Võ Nhai.
+ Chương 3. Những biến đổi của người Tày ở Võ Nhai từ Cách mạng
tháng Tám đến nay.
- Phần kết luận.
Ngoài ra, đề tài còn có các mục: Tài liệu tham khảo và phụ lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Lịch sử hành chính huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
Do điều kiện không cho phép nên chúng tôi chỉ nghiên cứu làng bản cổ
truyền của dân tộc Tày trên địa bàn thuộc địa giới huyện Võ Nhai ngày nay
nhưng chúng tôi cũng xin phác qua ở đây quá trình hình thành và sự thay đổi
của địa giới hành chính huyện qua các thời kỳ lịch sử.
Theo các tác giả trong Địa chí Thái Nguyên và nhà sử học Nguyễn Xuân
Minh (chủ biên) trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai thì thời thuộc
Đường, vùng đất Võ Nhai có tên là huyện Vũ Lễ, thời Lý, Trần có tên gọi là
châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (đầu thế kỷ XV), châu Vạn Nhai lại đổi tên
thành châu Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê (đời Lê Thuận Thiên), châu Vũ Lễ đổi
thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình do phiên thần họ Ma nối đời cai
quản. Đến thời Nguyễn (từ 1802) vẫn theo như thế. Đến năm Minh Mệnh thứ
16 (1836), huyện Võ Nhai có 8 tổng, gồm 29 xã, trại, cai trị theo chế độ lưu
quan. Đời Đồng khánh (1886- 1888), huyện Võ Nhai vẫn gồm 8 tổng và 29
xã, trại. 8 tổng ở Võ Nhai lúc này gồm: Lâu Thượng, Lâu Hạ, Tràng Xá, Bắc
Sơn, Nhất Thể, Quỳnh Sơn, Tân Tri, Vĩnh Yên.
Huyện lỵ thời trước đặt ở xã Lâu Thượng, đến đời Đồng Khánh chuyển
vào xã Tràng Xá [19, tr. 987, 10, tr. 7].
Năm 1894, thực dân Pháp cắt các tổng Bắc Sơn, Nhất Thế, Quỳnh Sơn,
Tân Lưu, Vĩnh Yên ra khỏi huyện Võ Nhai để lập thành châu Bắc Sơn, thuộc
tỉnh Lạng Sơn. Huyện Võ Nhai được đổi thành châu Võ Nhai gồm 6 tổng:
Lâu Thượng, Tràng Xá, Phương Giao, Cúc Đình, Thương Nung, Văn Lãng
với 22 xã, 1phố, 5 trại. Từ đó đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn
giữ nguyên như thế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Ngày 25/2/1948, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ký sắc lệnh số 148/SL bỏ các đơn vị hành chính cấp phủ, châu, quận, tổng.
Châu Võ Nhai đổi thành huyện Võ Nhai gồm 17 xã.
Ngày 22/12/1949, theo Nghi định số 224/ttg của Thủ tướng Chính phủ,
thôn Sảng Mộc, xã Yên Hân, huyện Bạch Thông, Bắc Kạn được sát nhập vào
xã Nghinh Tường, huyên Võ Nhai.
Ngày 1/6/1985, theo Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, bốn xã: Tân
Long, Hoà Bình, Quang Sơn và Văn Lăng của huyện Võ Nhai được cắt về
huyện Đồng Hỷ.
Ngày 25/10/1990, theo Quyết định số 454/TCCP của Ban Tổ chức Chính
phủ, thị trấn Đình Cả được thành lập [ 19, tr.987].
Ngày nay, huyện Võ Nhai gồm 14 xã, 01 thị trấn với tổng số 170 xóm và
02 tổ dân phố. 14 xã gồm: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Vũ Chấn, Thượng
Nung, Thần Sa, Cúc Đường, Lâu Thựơng, La Hiên, Tràng Xá, Liên Minh,
Phương Giao, Dân Tiến và Bình Long. 01 thị trấn Đình Cả.
Như vậy, ta có thể thấy, châu Vạn Nhai, hoặc huyện Võ Nhai trong lịch
sử có địa giới rộng hơn rất nhiều so với ngày nay, bao gồm cả huyện Bắc Sơn,
Lạng Sơn ngày nay và một phần huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.2.1. Vị trí địa lý
Sách Đại Nam nhất thống chí có chép: Huyện Võ Nhai cách phủ 82 dặm
về phía bắc, đông- tây cách nhau 124 dặm, nam- bắc cách nhau 152 dặm, phía
đông đến địa giới huyện Hữu Lũng tỉnh Bắc Ninh 35 dặm, phía tây đến địa
giới huyện Cảm Hoá 89 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Văn Quảng tỉnh
Lạng Sơn 70 dặm [6, tr. 158].
Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng đặc
biệt khó khăn nằm ở phía đông bắc của tỉnh. Huyện nằm dọc theo quốc lộ 1B
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
từ Thái Nguyên đi Lạng Sơn. Võ Nhai có toạ độ địa lý 21036 đến 210 56 vĩ độ Bắc và 1050 45 đến 1060 17 kinh độ Đông. Phía bắc huyện Võ Nhai giáp
huyện Na Rì - Bắc Kạn, phía đông bắc giáp huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn, phía
nam giáp huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên và Yên Thế - Bắc Giang, phía tây
giáp huyện Đồng Hỷ và Phú Lương - Thái Nguyên. Tổng diện tích tự nhiên
của toàn huyện theo địa giới hành chính là 845.1 km2.
Thị trấn Đình Cả là huyện lỵ, trung tâm kinh tế - xã hội của huyện cách
thành phố Thái Nguyên khoảng 40km về phía đông bắc, cách thị trấn Đồng
Đăng - Lạng Sơn khoảng 80km về phía tây.
Với vị trí như vậy, ta có thể thấy Võ Nhai có một vị trí chiến lược quan
trọng trong những thời kỳ có chiến tranh, là nơi dụng binh hiểm yếu “tiến khả
dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Từ Võ Nhai, người ta có thể dễ dàng qua Thái
Nguyên về Hà Nội, hoặc lên phía bắc qua Lạng Sơn để ra nước ngoài. Ngoài
trục giao thông 1B, ở phía tây và tây nam huyện còn có con đường mòn chay
từ miền rừng núi Bắc Sơn qua Võ Nhai xuống vùng trung du và về xuôi.
1.2.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình đất đai: điểm nổi bật của địa hình Võ Nhai là núi cao, dãy
Ngân Sơn chạy từ Bắc Kạn theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và dãy Bắc Sơn
chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Vì vậy, huyện có địa hình phức tạp.
Vùng núi dốc và núi đá vôi chiếm 92% diện tích tự nhiện. Núi đá vôi tập
trung ở phía bắc huyện, còn xuống phía nam, độ cao giảm dần. Phần phía nam
huyện phổ biến là những núi đất thấp, đặc trưng của vùng trung du.
Toàn huyện có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 100 – 800m,
đất sản xuất nông nghiệp phân bố ở độ cao 100 – 450m, nhìn chung những
vùng đất bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, tập
trung chủ yếu theo các khe suối, dọc các triền và thung lũng của vùng núi đá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
vôi. Căn cứ vào địa hình, địa mạo và đất đai, huyện được chia làm 3 tiểu vùng
như sau:
Tiểu vùng I: Bao gồm các xã, thị trấn dọc Quốc lộ 1B: Thị trấn Đình Cả,
các xã La Hiên, Lâu Thượng và Phú Thượng. Đây là vùng thấp nhất của
Huyện, có địa hình tương đối bằng phẳng hơn các vùng còn lại, tạo nên bởi
những thung lũng chạy dọc theo quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi có độ dốc lớn.
Tiểu vụng II: gồm 5 xã phía Nam: Tràng Xá, Liên Minh, Phương Giao,
Dân Tiến và Bình Long. Địa hình đồi núi bát úp, bị chia cắt bởi nhiều khe,
suối, xen kẽ núi đá vôi. Các bãi soi bằng phẳng phù hợp với phát triển cây
công nghiệp, cây lương thực và chăn nuôi đại gia súc.
Tiểu vùng III: Vùng núi cao bao gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc,
Thượng Nung, Vũ Chấn, Thần Sa và Cúc Đường. Diện tích vùng phần lớn bị
chiếm bởi những dãy núi đá vôi hùng vĩ, nhiều khe suối, cảnh đẹp tự nhiên.
Vùng này thuận lợi hơn cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp,
du lịch sinh thái và di tích lịch sử văn hoá.
Với diện tích đất tự nhiên là 845,1 km2, Võ Nhai có 561,27 km2 đất lâm
nghiệp, 77,24 km2 đất nông nghiệp, 1,55 km2 đất nuôi trồng thuỷ sản, 22,13
km2 đất phi nông nghiệp và 182,92 km2 đất chưa sử dụng. Có thể thấy dù là
một huyện có diện tích rộng lớn nhất tỉnh Thái Nguyên nhưng tiềm năng đất
đai ở Võ Nhai không lớn, lại bị chia cắt mạnh. Đất dành cho phát triển đô thị
và giao thông trở nên khan hiếm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân
bố lại dân cư, khu cụm công nghiệp trong tương lai. Đất đai dành cho nông
nghiệp ở Võ Nhai nhìn chung không có độ phì nhiêu lớn và đang bị suy thoái mạnh.
Dù diện tích đất lâm nghiệp lớn nhưng hiện nay tài nguyên rừng ở Võ
Nhai còn lại rất nghèo, phần lớn là rừng non mới phục hồi, mới trồng, trữ
lượng còn thấp. Nhưng với sự hỗ trợ của nhà nước và sự tích cực của người
dân, trong tương lai gần, tài nguyên rừng vẫn sẽ trở thành thế mạnh trong phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
triển kinh tế của Võ Nhai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt tại khu vực 6 xã
phía bắc huyện.
Khoáng sản: Võ Nhai nằm trong tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng sinh
khoáng Đông Bắc - Việt Nam thuộc vành đai sinh khoáng tây Thái Bình
Dương. Do vậy, huyện có nguồn tài nguyên khá phong phú về chủng loại và
trữ lượng.
Kim loại mầu: chì, kẽm tìm thấy ở Thần Sa, vàng cũng tìm thấy ở Thần
Sa nhưng chủ yếu là vàng sa khoáng với hàm lượng thấp.
Khoáng sản phi kim: Phôtphorit ở La Hiên có trữ lượng được đánh giá
vào loại khá (khoảng 60.000 tấn).
Toàn huyện có những dải núi đá kéo dài, chạy dọc huyện, đây là nguồn
cung cấp vật liệu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, đá xây dựng, đất
sét,… đặc biệt có sét xi măng ở Cúc Đường có trữ lượng lớn và chất lượng tốt.
Tuy nguồn khoáng sản có trữ lượng lớn nhưng đến nay, việc khai thác
vẫn chưa đáng kể. Tài nguyên khoáng sản vẫn nằm ở dạng tiềm năng là chính.
Nhưng, nguồn tài nguyên này sẽ là một thế mạnh rất lớn của Võ Nhai trong
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nếu được khai thác và sử dụng hợp lý.
Khí hậu: Khí hậu Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi
Bắc bộ chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Võ Nhai nằm trong
vùng lạnh nhất của tỉnh Thái Nguyên. Nhiệt độ trung bình năm trên 22,4 độ
C. Tháng nóng nhất là tháng 7 có nhiệt độ trung bình là 27,8 độ C. Tháng lạnh
nhất là tháng 1 có nhiệt độ trung bình là 14,9 độ C. Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối là 3 độ C. Biên độ ngày và đêm là 7 độ C. Chế độ nhiệt và địa hình như trên
tạo cho Võ Nhai lợi thế để phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới
như: hồng, táo, na, cam, quýt, vải, nhãn,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
Chịu ảnh hưởng chế độ mưa vùng núi Bắc bộ, mùa mưa Võ Nhai thường
diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Lượng mưa trung bình hàng năm 1.941,5mm và phân bố không đều, chủ yếu
tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765mm (chiếm 91% lượng mưa
cả năm). Lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8, trung bình khoảng
372,2mm [19, tr. 985].
Mưa lớn và tập trung gây xói mòn đất, lũ lụt ảnh hưởng tới cây trồng, độ
phì nhiêu của đất và các công trình thuỷ lợi, đặc biệt là ở tiểu khu III và I, nơi
có địa hình phức tạp, độ dốc cao và bị chia cắt nhiều.
Bên cạnh đó các tháng mùa khô có lượng mưa không đáng kể, lượng bốc
hơi nước lại rất lớn, gây nên tình trạng khô hạn nghiêm trọng cho cây trồng,
nhất là với cây trồng hàng năm.
Nói chung, tuy có phần khắc nghiệt nhưng khí hậu Võ Nhai vẫn tương
đối thuận lợi cho phát triển, sản xuất nông – lâm nghiệp.
Thuỷ văn: Võ Nhai là huyện miền núi, có địa hình bị chia cắt nhiều bởi
các dãy núi đá nên huyện có nguồn nước khá phong phú. Ngoài nguồn nước
mặt từ những sông suối còn có những nguồn nước khác từ các hang động
trong núi đá vôi hiện đã và đang được sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt. Trên
địa bàn Võ Nhai có hai hệ thống sông nhánh trực thuộc hệ thống sông Cầu và
sông Thương được phân bố ở hai vùng là phía bắc và phía nam huyện, cung
cấp hầu hết nước tưới cho diện tích sản xuất nông nghiệp của hai vùng này.
Sông Nghinh Tường là sông lớn nhất, chảy qua phía bắc huyện, là nhánh
của sông Cầu, bắt nguồn từ dãy vòng cung Bắc Sơn, có chiều dài 46km và lần
lượt chảy qua các xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa và
đổ ra sông Cầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
Sông Rong chảy qua phía nam huyện là nhánh của sông Thương, bắt
nguồn từ xã Phú Thựơng chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng Xá, Dân Tiến,
Bình Long và chảy vào tỉnh Bắc Giang.
Các nhánh sông suối trên địa bàn phân bố khá đồng đều và có nước
quanh năm rất thuận lợi sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa
bàn huyện có khá nhiều hồ đập lớn nhỏ khác nhau: 11 hồ chứa nhỏ, 50 phai
đập kiên cố, 12 trạm bơm và 122 kênh mương do nhà nước hỗ trợ và nhân
dân đóng góp xây dựng.
Tuy nhiện những năm gần đây do nạn chặt phá rừng gần như không được
kiểm soát làm nguồn tài nguyên nước của huyện đang bị suy thoái, lũ lụt xảy
ra nhanh và nhiều hơn, có cả lũ ống và lũ quét. Đây là điều đáng lo ngại, biện
pháp cấp bách là phải trồng và bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn để nhằm
điều tiết nguồn nước và lưu lượng chảy.
1.3. Khái quát về kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai
Trong thời kỳ diễn ra hai cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân
Võ Nhai với truyền thống yêu nước và cần cù lao động đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong sản xuất và đóng góp cho cách mạng. Tuy nhiên, nền
kinh tế của huyện chậm chuyển biến, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn, thiếu thốn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế Võ Nhai có nhiều chuyển biến tích cực
và nhanh chóng nhưng đến nay trong huyện thành phần kinh tế nông – lâm -
nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cơ cấu kinh tế.
Trong nông nghiệp của huyện, nét nổi bật trong những năm gần đây là có
sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ theo hướng phát
triển hàng hoá gắn với thị trường, đa dạng hoá cây trồng. Do vậy, năng suất
và sản lượng đều đạt kết quả cao. Diện tích gieo cấy từ 3981 ha năm 1973
tăng lên 45761 năm 2006. Năng suất từ 20.98 tạ/ha tăng lên 42,79ha năm 2003.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
Các loại cây ăn quả và rau màu ngày càng tăng lên về số giống và diện tích.
Cây chè đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp
của huyện.
Ngành chăn nuôi của huyện phát triển tương đối ổn định: đàn trâu tăng từ
11.231 con năm 1975 lên 13.113 con năm 2006. Cùng giai đoạn đó đàn lợn
tăng từ 10.851 con lên 29.124 con.
Với diện tích đất tự nhiên lớn và chủ yếu là đồi núi nên nghề rừng từ lâu
vẫn là một thế mạnh của Võ Nhai. Hiện nay, rừng nguyên sinh trên địa bàn
huyện không còn, các loại gỗ quý và thú rừng quý hiếm cũng còn lại không
đáng kể nhưng việc phát triển trồng mới và bảo vệ rừng được đặc biệt quan tâm.
Năm 2003, diện tích trồng rừng mới là 456,43 ha, tăng 1,4% so với năm 2002.
Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp trên địa bàn
huyện đang rất được quan tâm khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, sự phát
triển đó chưa tương xứng với tiềm năng lớn của huyện này.
Nói chung, trong những năm vừa qua, kinh tế Võ Nhai có sự chuyển biến
tích cực. Năm 2002, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm 43,6%, nông
nghiệp còn 38,3%, dịch vụ là 18,1% kinh tế của huyện. Tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm cao (≈ 12% năm). Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh (năm 2009
còn 25,2%).
Những chuyển biến đó là rất đáng khen ngợi với một huyện vùng cao
như Võ Nhai. Huyện đang từng bước thoát khỏi những khó khăn, tồn tại và
vươn lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo xu thế chung của cả nước.
Cùng với kinh tế, văn hoá – xã hội huyện Võ Nhai cũng ngày càng có
những bước phát triển đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực.
Đến nay, trên địa bàn huyện 100% xã được phủ sóng phát thanh truyền
hình, trên 70% số hộ có máy thu thanh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
Cuộc vận động “ Xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, cơ quan văn
hoá” phát triển mạnh. Đến năm 2006, toàn huyện có 7569 gia đình văn hoá,
77 xã, bản văn hoá và 47 cơ quan văn hoá" [19, tr.995].
Sự nghiệp y tế - giáo dục được đặc biệt quan tâm ở huyện vùng cao này.
Hệ thống trường lớp được mở rộng, xây mới, chất lượng giáo dục được nâng
lên. Năm 2003, Huyện có trường tiểu học Phú Thượng được công nhận là
trường đạt chuẩn quốc gia, có 04 xã được công nhận hoàn thành phổ cập
trung học cơ sở và có 08 lớp dạy nghề.
Năm 2006, Võ Nhai có 121 cán bộ y tế, trong đó có 35 bác sỹ hoạt động
trong 18 cơ sở y tế gồm 140 giường bệnh.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ
vững. Mạng lưới an ninh nhân dân, tổ an ninh thôn xóm được kiện toàn, công
tác kiểm tra, trấn áp bọn tội phạm được thực hiện tốt.
Nhân dân các dân tộc trong huyện Võ Nhai có truyền thống yêu nước,
đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất, cần cù, chịu khó trong lao động
sản xuất. Điều đó cộng với những tiềm năng to lớn về tài nguyên, tự nhiên, về
truyền thống lịch sử văn hoá là những thế mạnh quan trọng, là cơ sở để huyện
phát triển, giầu mạnh đi lên hội nhập cùng xu thế công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của tỉnh Thái Nguyên và của cả nước.
1.4. Dân cƣ và các dân tộc trên địa bàn huyện
1.4.1. Dân cƣ
Những phát hiện của khảo cổ học tại di chỉ Thần Sa đã khẳng định địa
bàn Võ Nhai là một trong những cái nôi của người nguyên thuỷ. Những người
nguyên thuỷ sống bằng nghề săn bắt hái lượm. Trải qua một quá trình lâu dài
hàng nghìn năm, dân số tăng lên, nguồn thức ăn cạn dần, họ đi dọc theo các
triền sông, khe suối, mở rộng địa bàn cư trú. Ngược lại, cũng có những bộ
phận khác di cư tới sinh sống, trở thành chủ thể của vùng đất này [19, tr.988].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Càng về sau, dân số Võ Nhai càng tăng dần do những đợt di cư của đồng
bào Tày, Nùng từ phía bắc xuống. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp, nhiều hộ gia đình từ các tỉnh miền xuôi tản cư đến sinh sống, cùng tham
gia các hoạt động kháng chiến, sản xuất với nhân dân địa phương và coi đây
là quê hương thứ hai của mình. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, theo chủ
trương của Đảng và Chính phủ, huyện Võ Nhai tiếp nhận 11.931 nhân khẩu ở
miền xuôi lên tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá. Những nơi
có đồng bào Kinh từ miền xuôi di cư đến và sinh sống nhiều nhất là thị trấn
Đình Cả, xã La Hiên, xã Tràng Xá. Dân số toàn huyện Võ Nhai tính đến thời
điểm cuối năm 2009 là 66.376 người thuộc 8 thành phần dân tộc khác nhau:
Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Chay (Cao Lan, Sán Chí), H’Mông, Mường, Hoa.
Mật độ dân số trung bình ở huyện Võ Nhai là thấp nhất tỉnh Thái Nguyên với 76,1 người/km2. Nơi có mật độ cao nhất Huyện là Thị trấn Đình Cả và xã La Hiên, nơi thấp nhất là xã Sảng Mộc chỉ có 21,2người/km2.
Đến năm 2007, dân số trong độ tuổi lao động của Võ Nhai là 35.057
người chiếm 54,3%. Trong đó, có 30.452 lao động nông nghiệp, lao động phi
nông nghiệp là 4.605 người (7,14% dân số toàn huyện). Qua đó, ta thấy cơ
cấu giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp chênh lệch rất lớn. Chứng
tỏ nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn huyện chưa
phát triển. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá các ngành nghề và dịch
vụ ở Võ Nhai tiến triển chậm. Hơn 80% số lao động trong toàn huyện là lao
động phổ thông chưa được qua đào tạo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2007
chỉ đạt 10,87%. Việc tạo công ăn việc làm còn gặp nhiều khó khăn. Thế mạnh
của huyện là có dân số trẻ, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn, giá nhân
công rẻ. Đây là ưu điểm của huyện khi kêu gọi đầu tư phát triển các ngành
kinh tế trên địa bàn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Nói chung, dù thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau, phong tục tập
quán có nhiều nết khác nhau, trình độ phát triển cũng không đồng đều nhưng
do điều kiện tự nhiên ở Võ Nhai có phần khắc nghiệt cũng như do truyền
thống tương trợ nên nhân dân các dân tộc trong huyện luôn đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau trong một cộng đồng thống nhất.
1.4.2. Các dân tộc ở Võ Nhai
Dân số và thành phần dân tộc ở huyện Võ Nhai thể hiện qua bảng sau:
STT Dân tộc Số khẩu Tỷ lệ (%) Ghi chú
01 Kinh 22.993 36,64
02 Tày 13.910 22,16
03 Nùng 12.313 19,62
04 Dao 8.299 13,22
05 H’Mông 2.578 4,1
Sán Chay 06 2.517 4,01
Sán Dìu 07 81 0,13
54 0,12 08 Các dân tộc khác Hoa, Mường
( Nguồn: số liệu điều tra dân số năm 2004, Phòng Thống kê huyện Võ Nhai).
Dân tộc Kinh: Theo bảng thống kê trên, ta thấy dân tộc Kinh chiếm
36,64%, đông nhất trong các dân tộc ở Võ Nhai. Theo số liệu mới thì đến
tháng 2/2010, tỷ lệ người Kinh ở đây còn chiếm 34.17%. Người Kinh ở Võ
Nhai cư trú ở hầu hết các xã, thị trấn nhưng tập trung đông nhất là ở thị trấn
Đình Cả, xã Phương Giao, Tràng Xá, La Hiên. Người Kinh có mặt ở Võ Nhai
khá muộn. Sau khi đánh chiếm xong Thái Nguyên, thực dân Pháp thiết lập bộ
máy cai trị và ráo riết tiến hành công cuộc khai thác nơi dây. Võ Nhai là vùng
đất khá giàu tài nguyện. Khi tiến hành khai thác những mỏ đồng ở Sảng Mộc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
mỏ kẽm ở Bắc Lâu, mỏ chì ở Vũ Chấn… Pháp đã đưa một số lượng đáng kể
công nhân là người Kinh từ dưới xuôi lên, một phần đáng kể trong số họ đã
lưu lại và định cư ở đây. Đến thời kỳ miền Bắc xây dựng Xã hội chủ nghĩa,
thực hiện chính sách khai hoang của Đảng và Nhà nước nhằm mở mang
những vùng kinh tế mới, một bộ phận người Kinh đã di cư từ các tỉnh miền
xuôi lên làm ăn và định cư luôn ở nơi này.
Võ Nhai là huyện miền núi cao nhưng ở đây, người Kinh chủ yếu sinh
sống và lập nghiệp ở những vùng đất thấp và bằng phẳng. Đặc biệt là dọc khu
vực quốc lộ 1B. Hoạt động kinh tế của họ cũng đa dạng hơn các dân tộc khác,
ngoài làm nông - lâm nghiệp, họ tham gia chủ yếu vào các hoạt động dịch vụ
và thương nghiệp trên địa bàn huyện. Điều đó cộng với những kinh nghiệm
làm ăn phong phú đã làm cho đời sống kinh tế, vật chất của họ phát triển và
ổn đinh hơn các dân tộc khác.
Dân tộc Nùng: Người Nùng ở Võ Nhai gồm ba nhóm: Nùng Cháo,
Nùng Inh và Nùng Phàn Slình. Người Nùng ở đây chủ yếu di cư từ Lạng Sơn
sang và từ mạn Cao Bằng, Bắc Kạn xuống. Họ cư trú nhiều nhất ở các xã Lâu
Thượng, Phú Thượng, La Hiên và các xã phía Nam Huyện. Phong tục tập
quán cũng như kinh tế vật chất của người Nùng có nhiều nét tương đồng với
người Tày. Dân tộc Nùng ở Võ Nhai chủ yếu sống bằng nông – lâm nghiệp và
chăn nuôi. Hiện nay, có một số gia đình Nùng đã chuyển sang kinh doanh
buôn bán do sống gần đường hoặc các trung tâm dân cư, nhưng ít hộ làm kinh
doanh chuyên nghiệp, chưa bỏ hẳn được nông – lâm nghiệp.
Dân tộc Dao: Chiếm tỷ lệ khá lớn ở Võ Nhai với 13.22%. Người Dao ở
đây có lịch sử định cư chưa được lâu, họ di cư từ phía Bắc xuống và xa xôi
hơn, tổ tiên của họ từ phía nam Trung Quốc sang. So với các dân tộc khác thì
Người Dao định cư ở những vùng cao hơn thành những bản riêng biệt. Ví dụ
như: xã Vũ Chấn có 10 bản thì có 5 bản người Tày và 5 bản người Dao biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
lập. Ở Võ Nhai, người Dao cư trú đông nhất ở các xã Vũ Chấn, Nghinh
Tường, Liên Minh. Nói chung, đời sống của đồng bào Dao ở Võ Nhai còn
gặp nhiều khó khăn do vấn đề giao thông, tập quán làm ăn của đồng bào vẫn
chưa được cải thiện nhiều.
Dân tộc H’Mông: cũng như người Dao, người H’Mông cũng chưa có
lịch sử định cư lâu đời tại Võ Nhai. Họ thường cư trú trên những vùng núi
cao. Cuộc sống dựa chủ yếu vào làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc và khai
thác lâm thổ sản. Đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn. Tuy di cư đến muộn
nhưng họ không tạo ra những sự xáo trộn và sống khá hoà thuận với các dân
tộc khác. Người H’Mông ở Võ Nhai sống chủ yếu ở các xã Dân Tiến, Bình
Long và Thượng Nung.
Dân tộc Tày: Tính chung trong phạm vi cả nước, người Tày có số dân
đông nhất trong các dân tộc thiểu số, ở Võ Nhai cũng vậy. Dân tộc Tày ở Võ
Nhai tập trung đông nhất ở các xã phía Bắc. Cúc Đường là xã có tỷ lệ người
Tày cao nhất. Cũng như người Kinh và người Nùng, đồng bào Tày thường
chọn những nơi thấp trong thung lũng, gần sông suối, giao thông tương đối
thuận lợi để định cư. Đời sống kinh tế vật chất và kể cả sinh hoạt cộng đồng
của họ có nhiều nét giống với người Kinh. Trình độ thâm canh lúa nước của
họ tương đối cao. Ngoài ra, người Tày cũng tham gia khá tích cực vào hoạt
động thương mại dịch vụ trên địa bàn huyện. Họ cũng nắm bắt khá nhanh và
vận dụng tốt những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy đời sống
của họ phát triển và ổn định hơn nhiều dân tộc khác.
Những vấn đề cụ thể về các mặt của đời sống kinh tế - vật chất và văn
hoá tinh thần của dân tộc Tày sẽ được chúng tôi trình bày và phân tích rõ hơn
ở chương 2, trọng tâm của luận văn này.
Ngoài các dân tộc kể trên là có số dân đông hơn cả, ở Võ Nhai còn có
các dân tộc khác như: Sán Chay (Cao Lan và Sán Chí), Sán Dìu, Mường, Hoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
có số dân ít hơn nhiều. Riêng các dân tộc Sán Dìu, Hoa, mường đều có số
người dưới 100 (tính đến hết năm 2005). Họ có mặt ở Võ Nhai chủ yếu do
quan hệ hôn nhân hoặc vừa mới di cư đến.
Có thể nói, Võ Nhai là huyện có nhiều thành phần dân tộc, các dân tộc có
nguồn gốc lịch sử khác nhau, phong tục tập quán khác nhau, trình độ không
đồng đều, nhưng đồng bào các dân tộc trong huyện luôn gắn bó, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau trong một cộng đồng thống nhất. Tình trạng xung đột giữa
các dân tộc không hề xảy ra. Sách Đồng Khánh dư địa chí chép rằng: “Trong
huyện, người Kinh, người Thổ (Tày), người Mường sống xen kẽ nhau. Người
dân thì quê mùa, tập tục thì thuần phác”.[9, tr.82]. Đó là yếu tố quan trọng
đưa đến sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
CHƢƠNG 2
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI TÀY
Ở HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Tên gọi và không gian sinh tồn
2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc tên gọi của làng bản
Theo Từ điển tiếng Việt, bản là “đơn vị dân cư nhỏ nhất ở một số vùng
dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, nó tương đương với làng” [25, tr.30].
Mỗi bản lại có một tên gọi, nguồn gốc và ý nghĩa rất khác nhau. Các bản
của người Tày nói chung và người Tày ở Võ Nhai nói riêng cũng giống như
các làng xã người Kinh ở vùng đồng bằng, rất phong phú về hệ thống tên gọi.
Chỉ tìm hiểu về một tên gọi của một bản nhất định ta cũng có thể hiểu được
rất nhiều vấn đề như: lịch sử, quá trình hình thành của bản, điều kiện địa lý tự
nhiên, nghề nghiệp, quan niệm, phong tục,… Các tác giả cuốn: "Tên làng xã
Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra)", đã định nghĩa
tên làng xã của huyện hay một khu vực địa lý, lịch sử văn hoá như sau: là
tổng thể các tên riêng đặt ra để gọi các đơn vị địa lý tự nhiên hay nhân văn
của khu vực ấy. Đồng thời đó còn là những chứng tích về ngôn ngữ và có thể
cả về văn tự mà cộng đồng đã đặt, đã dùng và lưu lại trên địa bàn cư trú phát
triển của mình. Thời gian định cư càng lâu dài, trình độ sinh hoạt càng cao,
cảnh quan địa lý càng đa dạng, thành phần tộc người càng đông, điều kiện
phát triển thuận lợi… thì tên làng xã càng dồi dào và phức tạp về số lượng,
càng phong phú, sâu sắc về nội dung [21, tr.11].
Như vậy có thể nói, tên gọi của mỗi bản hay một khu vực địa lý là chiếc
chìa khoá đầu tiên để mở ra cánh cửa tìm hiểu tất cả sự phong phú đa dạng
của văn hoá tinh thần cũng như đời sống kinh tế vật chất của bản đó cũng như
của một vùng văn hoá hay một khu vực địa lý. Bản thân những tên gọi mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
trong mình nó rất nhiều ý nghĩa hay mang tính thông báo một số thông tin
nhất định. Ý thức được tầm quan trọng đó của địa danh nên trong quá trình đi
điền dã, tìm hiểu và sưu tầm tư liệu, chúng tôi đã rất quan tâm và coi đây là
vấn đề đầu tiên trong việc nghiên cứu làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở
Võ Nhai.
Qua khảo sát và thu thập số liệu từ các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban Nhân dân huyện Võ Nhai, chúng tôi thấy rằng: người Tày có mặt ở hầu
hết các xã, thị trấn trong huyện. Nhưng họ tập trung với tỷ lệ cao nhất ở các
xã sau: Nghinh Tường, Vũ Chấn, Cúc Đường, Sảng Mộc, Thần Sa, Thượng
Nung (đều là các xã phía bắc) và xã Phú Thượng. Vì thế chúng tôi chủ yếu
thực hiện điền dã ở tại những xã này nhằm làm nổi bật những nét văn hoá Tày
đặc trưng còn được bảo tồn trong các làng bản nơi đây. Các tên làng bản Tày
làm ví dụ minh hoạ cũng sẽ được lấy từ những khu vực này.
Theo Địa chí Thái Nguyên, phần về huyện Võ Nhai thì:
Xã Nghinh Tường gồm 11 xóm bản là : Na Hấu, Bản Nhàu, Thâm Thạo,
Bản Trang, Bản Nưa, Bản Rãi, Nà Giàm, Na Lẹng, Bản Cái, Thượng Lương,
Hạ Lương.
Xã Sảng Mộc gồm 10 xóm bản: Bản Chương, Nà Ca, Phú Cốc, Khuổi
Mèo, Bản Chấu, Nà Lay, Khuổi Chạo, Tân Lập, Khuổi Uốn, Nghinh Tác.
Xã Vũ Chấn gồm 10 xóm bản: Na Mấy, Đồng Đình, Na Rang, Khe Rạc,
Cao Sơn, Na Đồng, Khe Rịa, Na Cà, Khe Cái, Khèn Nọi.
Xã Thượng Nung gồm 7 xóm bản: Tân Thành, Trung Thành, Lục Thành,
An Thành, Lũng Hoài, Lũng Cà, Lũng Luông.
Xã Thần Sa gồm 9 xóm bản: Trung Sơn, Kim Sơn, Hạ Sơn Tày, Hạ Sơn
Dao, Xuyên Sơn, Ngọc Sơn 1, Ngọc Sơn 2, Tân Kim, Thượng Kim.
Xã Cúc Đường gồm 5 xóm bản: Tân Sơn, Trường Sơn, Lam Sơn, Bình
Sơn, Mỏ Trì.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Xã Phú Thượng gồm 11 xóm bản: Mỏ Gà, Phượng Hoàng, Đồng Mó, Nà
Pheo, Na Phài, Ba Nhất, Cao Biền [19, tr. 987].
Đây đều là tên gọi ngày nay của các xóm bản. Có những tên đã có từ rất
lâu đời gắn với lịch sử định cư rất sớm của người Tày nơi đây, nhưng cũng có
những tên mới xuất hiện cách nay vài chục năm, thậm chí vài năm. Những tên
bản lâu đời thường là những bản độc người Tày cư trú hoặc đa số là người
Tày. Những tên bản này xuất phát từ tiếng Tày, phần lớn mang những tiền tố
như: Nà, Bản, Lũng.
Trong đó, tên gọi mang tiền tố “nà” ( na) xuất hiện nhiều nhất:
Na Hấu
Nà Giàn
Nà Lẹng
Nà Ca
Nà Lay
Na Mấy
Na Rang
Na Đồng
Na Cà
Nà Pheo
Na Phài
Na Kháo.
Theo tiếng Tày, “nà” có nghĩa là ruộng, đồng.
Điều này cho ta thấy, cuộc sống của đồng bào nơi đây gắn với đồng
ruộng. Do có lịch sử định cư khá lâu đời và thường cư trú ở những vùng thấp,
thung lũng khá bằng phẳng, gần nguồn nước nên người Tày đã biết canh tác
lúa nước từ rất sớm. Đồng bào nơi đây ít làm nương rẫy do địa hình chủ yếu
là núi đá vôi hiểm trở, nguồn lâm sản thì ngày càng cạn kiệt do rừng ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
càng ít đi, nên nguồn sống chính của họ từ xưa đến nay vẫn là từ cây lúa
nước. Vì vậy, truyền thống trọng nông từ xưa đã tồn tại trong cộng đồng Tày.
Kinh nghiệm sản xuất của họ cũng khá cao do qúa trình đúc rút kinh nghiệm
lâu dài. Từ truyền thống trọng nông nghiệp, đặc biệt là canh tác lúa nước như
vậy mà những tên gọi của các bản Tày mang tiến tố “nà” đã ra đời một cách
rất tự nhiên và với tần xuất lớn ở khu vực này.
Những tên gọi mang tiền tố “nà” thường là những tên gọi cổ xưa nhất
còn được bảo lưu đến ngày nay. Trong những bản đó, kể cả các cụ cao niên
nhất cũng không nhớ nổi rằng tên gọi của bản mình có từ đời nào, chỉ biết
rằng nghe nó thật thân thuộc như vốn nó đã tồn tại. Những tên gọi đó thật đơn
giản nhưng đầy ý nghĩa, gần gũi với đời sống sinh hoạt của đồng bào.
Xã Vũ Chấn có tất cả 10 bản thì có 5 bản Tày và 5 bản Dao phân bố gần
như biệt lập. Trong 5 bản Tày đó thì có 4 bản có tên gọi mang tiền tố “nà”
(na): Na Mấy, Na Rang, Na Đồng, Na Cà đều nằm dọc cánh đồng hẹp cành
con suối có tên là suối Luông. Na Mấy có thể được đọc chệch của từ “nà
vầy” - ruộng cháy. Theo người dân trong bản, nhất là các cụ cao niên nghe
truyền lại thì họ cũng không biết tên gọi đó có từ bao giờ, “chỉ nghe loáng
thoáng” rằng đã lâu lắm rồi “ hình như” ở khu vực đó đã từng xảy ra hoả hoạn
làm cháy những ruộng lúa và những ngôi nhà sàn lợp lá. Hay như bản Na
Rang, có thể được đọc chệch của từ “nà chang” trong tiếng Tày, sở dĩ có tên
gọi đó là vì khu vực này được coi là “ruộng ở giữa”. Bản này ngày nay là
trung tâm của xã Vũ Chấn.
Cũng với quy luật đặt tên đó, xã Nghinh Tường có bản Nà Hấu (ruộng tốt)
vì bản này có nhiều chân ruộng tốt rất thuận lợi cho cây lúa nước phát triển,...
Nhìn rộng ra các khu vực cư trú lâu đời của người Tày ngoài huyện Võ
Nhai, chúng ta cũng thấy rất nhiều những địa danh làng bản thậm chí xã,
huyện có tên gọi mang tiền tố “nà”, như các bản: Nà Gà, Nà Đóng, Nà Pế, Nà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
Luông, Nà Rạc, Nà Ngân, Nà Cốc, Nà Bon, Nà Háng, Nà Lăng,...(ở tỉnh Cao
Bằng). Các huyện như: Nà Hang (Tuyên Quang); Na Rỳ (Bắc Kạn)... Tác giả
Đàm Nam Điền trong luận văn cử nhân khoa học: Tên làng xã huyện Hoài
An, tỉnh Cao Bằng trước năm 1945 đã khảo sát và đưa ra con số thống kê như
sau: “tên gọi với tiền tố nà (ruộng) có số lượng nhiều nhất: 159/512, chiếm tỷ
lệ 31,05%"[8].
Như vậy, tên gọi mang tiền tố “ nà” gắn liền với ruộng đồng của dân tộc
Tày đã ra đời từ rất sớm, có thể nói các địa danh này ra đời ngay từ lúc người
Tày biết sống định canh, định cư và biết canh tác ruộng lúa nước. Những tên
gọi tuy đơn giản, không mang tính khái quát và trừu tượng nhưng đầy ý
nghĩa. Vì vậy, nó có sức sống dai dẳng và tồn tại đến tận ngày nay. Đó là một
trong những nét đẹp đặc trưng của đồng bào Tày nơi đây nói riêng và trên
phạm vi cả nước nơi có dân tộc này sinh sống nói chung. Điều đó cho thấy
những người Tày tha thiết yêu những ruộng lúa, những cánh đồng và nghề
nông truyền thống của họ. Họ yêu quý và trân trọng nơi họ cư trú, rộng ra là
yêu quê hương, đất nước.
Cùng với tên các bản mang tiền tố “nà”, chúng ta thấy xuất hiện những
bản có các tên gọi được đặt theo địa lý tự nhiên và phong cảnh sản xuất như
khuổi, lũng...
“Khuổi” theo tiếng Tày có nghĩa là suối, gắn liền với nguồn nước. Chúng
ta đã biết đồng bào Tày thường chọn địa điểm cư trú, sản xuất gần những
nguồn nước, nhất như các khe, rãnh, suối, sông để vừa thuận tiện cho sinh
hoạt vừa thuận lợi cho canh tác lúa nước. Từ đó, những tên gọi mang tiến tố
“khuổi” cũng ra đời. Trải qua thời gian những tên gọi đó ăn sâu vào tiềm thức
của họ và được truyền từ thế hệ này qua thế qua thế hệ khác. Những nguồn
nước đó theo thời gian có thể thay đổi nhưng những tên gọi đó thì vẫn còn
mãi. Tác giả Nguyễn Văn Âu trong cuốn “Địa danh Việt Nam” đã nêu: “Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
địa danh sông ngòi thường rất cổ và sông ngòi là những đối tượng địa lý gắn
liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân trong quá trình sản xuất cũng như
sinh hoạt, trong suốt thời gian lịch sử lâu dài của dân tộc, các địa danh này
cũng lại được bảo lưu khá bền vững, ít bị thay đổi do các biến động của xã
hội” [1, tr. 51].
Các bản Tày ở Võ Nhai cũng hầu hết được tập trung ở những nơi có
nguồn nước, hầu hết là các dòng suối lớn, nhỏ. Con sông Nghinh Tường (một
nhánh quan trọng của sông Cầu) chảy qua hầu hết các xã phía Bắc Huyện.
Dọc hai bờ sông là những bản người Tày khá đông đúc.
Ở xã Sảng Mộc, chúng ta thấy có những tên bản như:
Khuổi Mèo
Khuổi Chạo
Khuổi Uốn
Điều này cho thấy, nguồn nước có ý nghĩa hết sức quan trọng với đời
sống cũng như hoạt động sản xuất của đồng bào. Không chỉ riêng dân tộc
Tày, ở Võ Nhai dân tộc Dao cũng có thói quen đặt tên khu vực cư trú của họ
gắn liền với nguồn nước như: Khe Rạc, Khe Rịa, Khe Cái, Khèn Nọi (xã Vũ
Chấn),...
Với tiền tố “lũng” – thung lũng, ta cũng thấy xuất hiện một số tên bản tại
xã Thựơng Nung như: Lũng Hoài (thung lũng trâu).
Lũng Cà (thung lũng cỏ tranh).
Lũng Luông (thung lũng lớn).
Với vùng núi đá vôi hiển trở như Võ Nhai, nơi định cư và canh tác của
đồng bào Tày thường là ở những thung lũng khá bằng phẳng, xung quanh là
những dãy núi. Ở những nơi đó, đồng bào thường làm nhà tựa lưng vào núi,
hướng nhà xoay xuống dưới, thấp hơn thường là những ruộng bậc thang. Vì
thế tên gọi mang tiền tố “ lũng” ra đời cũng dễ giải thích.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
Cùng với “nà”, “khuổi”, “ lũng” là tên gọi mang tiền tố “ bản”. Những
tên gọi này thường phản ánh đặc trưng nơi cư trú của đồng bào Tày như: vị trí
địa lý, địa hình, phong tục tập quán...
Bản Nhàu
Bản Trang
Bản Nưa
Bản Rãi
Bản Cái
Bản Chương
Bản Chấu
Cùng với những tên gọi mang các tiền tố đã nêu trên, những tên gọi
mang tiền tố “bản” cũng đã có từ lâu đời, gắn bó với quá trình đấu tranh với
thiên nhiên, định cư và phát triển của đồng bào.
Những tên gọi bản không phổ biến ta cũng thấy khá nhiều ở vùng dân tộc
Tày Võ Nhai, điển hình và có từ lâu đời nhất là những tên bản như: Mỏ Gà
(xã Phú Thượng), Bản Cúc, Bản Nhò (xã Cúc Đường)... Những tên gọi này
theo các cụ cao niên ở địa phương thì có nguồn gốc khác nhau, đôi khi khá
thú vị. Ví dụ: Bản Cúc là bản Tày gốc lâu đời nhất tại xã Cúc Đường gắn với
tên đình Cúc nổi tiếng một thời gian dài. Sau này khi có sự di cư của người
H’Mông, người Kinh đến đây cộng với sự gia tăng dân số đã dẫn đến sự chia
tách và xác lập thêm những xóm bản mới, những tên cổ như Bản Cúc, Bản
Nhò không còn nữa. Ở xã Phú Thượng có một địa danh nổi tiếng nữa là Mỏ
Gà (suối Mỏ Gà, đình Mỏ Gà và xóm Mỏ Gà). Tên Mỏ Gà ra đời một cách
khá hy hữu. Nhân dân nơi đây truyền nhau rằng từ xa xưa lắm rồi có một trận
mưa rất lớn và một trận lũ lịch sử đã xảy ra. Tại một miệng hang của khe đá
nơi nước lũ tuôn ra ào ào và có trôi ra theo rất nhiều lồng gà không biết nguồn
gốc từ đâu. Địa danh Mỏ Gà xuất hiện từ đó và tồn tại đến tận ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
Ngày nay ở Võ Nhai, những xóm bản Tày còn mang rất nhiều tên mới,
thường nhũng tên này có yếu tố Hán Việt.
Tân Sơn.
Trường Sơn.
Lam Sơn.
Bình Sơn.
Trung Sơn.
Kim Sơn.
Hạ Sơn.
Xuyên Sơn.
Ngọc Sơn.
Phượng Hoàng.
Tân Thành.
Trung Thành.
Lục Thành.
An Thành
……………
Đây đều là những tên gọi mới xuất hiện cách nay chỉ khoảng vài chục
năm. Những bản Tày gốc do sự phát triển dân số, chia tách bản, sự di cư của
các dân tộc khác mới đến thường không duy trì được những tên cũ. Trường
hợp bản Cúc đã nêu trên là một ví dụ. Nhân dân nơi đây còn lưu truyền câu
nói: “Nhất thôn, nhất xã, nhất đình môn”- một thôn, một xã, một đình.
Những tên gọi ngày nay ở Cúc Đường có từ khi người H’Mông, người Dao và
một số dân tộc khác di cư đến cộng với sự phát trển dân số nội tại đã buộc
chính quyền địa phương phải chia tách, thành lập các bản mơi nhằm thuận lợi
cho công tác quản lý hành chính. Có thể nói, những tên mới này mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
“hiện đại” và trừu tượng hoá hơn nhưng thường nó vẫn xuất phát từ cách đặt
tên gắn liền với địa lý, điều kiện tự nhiên,… của xóm bản đó.
Trong quá trình điền dã thực đia, chúng tôi không thể có điều kiện đến và
điều tra tất cả các địa danh có người Tày sinh sống ở Võ Nhai, thông tin cũng
chưa được đầy đủ. Vì vậy, những tên xóm bản được lấy làm ví dụ ở trên, một
vài trong số đó có thể là những bản của người Nùng, Dao, H’Mông. Nhưng
dù sao, các xã phía Bắc huyện Võ Nhai cũng có đa số người Tày sinh sống.
Nền văn hoá Tày bao trùm toàn bộ khu vực này.
Như vậy, qua việc tìm hiểu dù chỉ ở mức độ sơ lược những tên gọi của
các bản người Tày, chúng ta cũng đã thấy ẩn trong đó những vấn đề rất đáng
quan tâm và rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu tổng quát thiết chế của làng
bản người Tày, kể cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Tình yêu của cư dân Tày đối
vơi khu vực cư trú của họ, rộng ra là với quê hương đất nước được thể hiện
ngay trong cách đặt tên nhưng làng bản, dù đơn giản nhưng trong đó là cả sự
gửi gắm và một niềm tin mãnh liệt. Phần lớn những tên gọi đã có từ rất lâu
đời đó tồn tại dai dẳng và có tính bảo lưu rõ rệt. Chúng đã thân thiết và trở
nên gần gũi với họ từ lâu đời. Đó là một nét đẹp trong nền văn hoá Tày phong
phú đa dạng và giàu bản sắc.
2.1.2. Không gian sinh tồn
“Làng bản trước hết đó là không gian sinh tồn được phân định và được
các cộng đồng làng bản khác thừa nhận. Trong không gian sinh tồn đó có đất
đai để lập bản làng với những ngôi nhà được cất dựng theo những quy cách
riêng, có đất canh tác gồm ruộng nương hoặc nương rẫy, những khoảnh rừng
dự phòng, rừng cấm, rừng đầu nguồn nơi con người có thể săn bắt, hái
lượm…có đất đai để làm nghĩa địa, có bãi chăn thả gia súc, có dòng suối để
phục vụ sản xuất và sinh hoạt, để đánh bắt cá….” [4, tr. 227].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
Vậy nói đến “không gian sinh tồn” của một cộng đồng dân cư là chúng ta
xét đến vị trí địa lý, cảnh quan tổng thể, khung cảnh sản xuất, kết cấu hình
thể, những hoạt động kinh tế của dân cư,… trong tổ chức dân cư đó. Không
gian sinh tồn của người Tày nói chung và người Tày ở Võ Nhai nói riêng có
những đặc trưng nhất định.
2.1.2.1. Vị trí địa lý và địa vực của bản Tày
Các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về nguồn gốc của dân tộc Tày ở Việt
Nam đều thống nhất rằng tổ tiên của họ là cư dân bản địa. Họ là một bộ phận
dân cư thuộc cộng đồng Bách Việt đông đảo. Cùng với các nhóm trong cộng
đồng Bách Việt, người Tày từ rất sớm đã biết canh tác ruộng lúa nước. Đối
với họ nguồn nước là sự sống còn. Gần nguồn nước là tiêu chí đầu tiên trong
việc chọn đất dựng bản của người Tày.
Người Tày ở Võ Nhai thường tụ cư ở những vùng giáp ranh giữa rừng và
ruộng, gần đó thường có những con suối hay sông nhỏ chảy qua. Nguồn nước
từ sông, suối không những được dùng cho sinh hoạt, ăn uống, tắm giặt mà
quan trọng hơn cả nó là yếu tố tiên quyết trong việc canh tác cây lúa nước.
Theo tư liệu qua điền dã, chúng tôi thấy được, dọc những con suối ở Võ Nhai,
đặc biệt là sông Nghinh Tường là san sát các bản của người Tày. Ví dụ dọc
con suối có tên là suối Luông thuộc xã Vũ Chấn thì lần lượt là các bản: Na
Mấy, Na Rang, Na Đồng, Na Cà.
Cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác ở phía Bắc, làng bản của người
Tày thường được toạ lạc trên những khu đất cao, tựa lưng vào núi, hướng
xuống thung lũng hoặc nơi thoáng đãng, thấp hơn là những cánh đồng cạnh
những con suối lớn, nhỏ. Khu vực cư trú của đồng bào thường không tách
khỏi khu vực sản xuất. Nhà, ruộng, nương thường liền kề nhau. Điều này có
khác so với các dân tộc có truyền thống đốt nương làm rẫy. Khu cư trú của họ
thường cách xa nương rẫy nhằm tránh nguy cơ hoả hoạn khi đốt nương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Người Tày thuộc một trong những dân tộc đã sống định cư từ lâu đời.
Các làng bản của họ thường cố định, chỉ chọn một lần. Ngoài yếu tố gần
nguồn nước là tiêu chí đầu tiên để chọn đất dựng bản, đồng bào còn quan tâm
đến nhiều yếu tố khác khi chọn nơi định cư. Địa hình dựng bản, dựng nhà cửa
của họ thường là những thung lũng tương đối bằng phẳng nhưng vẫn đảm bảo
sự cao ráo, thoáng đãng. Xung quanh hoặc không xa nơi cư trú phải có đất
canh tác làm ruộng, làm nương. Người Tày là những cư dân sống ở vùng
thấp. Chúng ta không thấy ở đâu những làng bản người Tày đặt treo leo trên
những vùng rẻo cao. Điều này là một truyền thống khác biệt so với dân tộc H’Mông, Dao và một số dân tộc ít người khác. Cây lúa nước đã tồn tại gắn
liền với quá trình phát triển của dân tộc Tày. Ngoài ra yếu tố phong thuỷ và
tôn giáo cũng được đồng bào để ý tới trong việc chọn đất lập bản làng, dựng nhà.
Mỗi bản Tày cũng như nhiều dân tộc khác sống ở vùng núi thường có địa
vực cư trú riêng bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả
gia súc…Ranh giới giữa các bản thường được xác định tương đối theo đường
phân thuỷ, eo núi, sông suối hoặc đường xá. Từ đời này qua đời khác các thế
hệ cư dân truyền cho nhau biết về cương vực của làng bản mình. Mọi người
dân trong làng vì thế mà nhận rõ ranh giới phân định bản mình với các bản
xung quanh. Trước kia, người Tày thường ít khi sống xen cư với các dân tộc
khác, các bản thường ở những khu biệt lập cách xa nhau. Vì vậy ý thức về
ranh giới của người dân trong bản được thể hiện rõ ràng. Đối với họ, đó là của
chung, cùng có quyền lợi được ở, được canh tác, săn bắn và cùng có nghĩa vụ
bảo vệ. Ý thức về một địa vực cư trú góp phần hình thành nên ý thức về dân
tộc, về cộng đồng chung, một cộng đồng dân cư có tổ chức ổn định.
2.1.2.2. Quy mô của các làng bản Tày ở Võ Nhai
Người Tày đã có mặt ở Việt Bắc nói chung và ở Võ Nhai nói riêng hàng
ngàn năm. Các tài liệu đã chững minh họ tham gia tích cực vào các sự kiện,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
biến cố lịch sử xảy ra trong lịch sử ở khu vực vùng này như: Cuộc kháng
chiến chống Tống thế kỷ XI và Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhà
Minh thế ký XV. Người Tày nằm trong những những nhóm cư dân đầu tiên
khai phá vùng đất này. Các bản Tày cũng ra đời sớm cùng với quá trình định
cư của dân tộc này ở Võ Nhai. Tuy nhiên lúc đó quy mô mỗi bản là rất nhỏ,
thường là dưới 10 nóc nhà, cá biệt chỉ có 02- 03 nhà một bản. Những bản trên
30 nhà đã được coi là lớn. Đến đầu thế kỷ thứ XX, quy mô các bản Tày vẫn
chưa được cải thiện nhiều. Ví dụ: bản Trường Sơn (xã Cúc Đường) ngày nay
nằm ở trung tâm xã, dân cư đông đúc nhưng vào những năm 1930 - 1940 (lúc
đó có tên là bản Cúc), bản chỉ có 05 hộ Tày gốc. Theo lời kể của cụ Nông
Tiến Hỷ - 87 tuổi thì họ Nông định cư đầu tiên ở đây, đến nay đã được
khoảng trên dưới 10 đời. Cả một vùng thuộc xã Cúc Đường ngày nay trước
năm 1945 chỉ có người Tày cư trú với 02 bản là bản Cúc và bản Nhò, mỗi bản
chưa đến 10 nóc nhà. Xóm Mỏ Gà (trước có tên là Làng Hang), xã Phú
Thựơng vào năm 1937 cũng chỉ có khoảng 07 – 08 nhà, Bản Na Đồng - xã Vũ
Chấn ngày nay là bản đông nhất xã với hơn 80 hộ dân tộc Tày, nhưng trước
năm 1945 bàn này cũng chỉ có 08 – 09 hộ dân.
Điều này không chỉ có ở Võ Nhai mà tại những địa phương có tỷ lệ rất
cao dân tộc Tày sinh sống như Lạng Sơn, Cao Bằng theo số liệu thống kê còn
giữ được “thì những bản nhỏ nhất chỉ có 02 hoặc 03 nhà, những bản trên 30
nhà đã được coi là những bản lớn. Tài liệu thống kê 16 xã của Châu Cao Lộc
- Lạng Sơn vào năm 1938 cho thấy trong 117 thôn bản thì có 10 bản, tức
8,5% trên 30 nhà và 15 bản, tức 12,8% dưới 5 nhà. Cá biệt có điểm cư trú chỉ
có 01 nhà” [23, tr.152 - 153]. Ngoài ra các dân tộc ít người khác ở Việt Nam
trong những bản làng truyền thống của họ cũng thường chỉ có dưới 10 hộ gia đình.
Quy mô lớn hay nhỏ của mỗi bản Tày thường do mức độ ít hay nhiều của
ruộng đất canh tác quyết định. Những thung lũng lớn và tương đối bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
phẳng cạnh sông suối thường có một hoặc vài bản đông đúc cùng định cư.
Những bản tại đó, dân cư sống tập trung và quây quần hơn, bởi đó là những
địa điểm tụ cư lý tưởng của người Tày. Những nơi có điều kiện khó khăn hơn
về địa hình, diện tích đất canh tác ít, đất lại không màu mỡ thường quy mô
của mỗi bản rất nhỏ, có vài gia đình. Những gia đình trong bản lại sống rải rác
thành vài xóm. Có khi mỗi gia đình ở một quả đồi hay một khe núi riêng biệt.
Trong quá trình định cư và khai phá đất đai của người Tày ở nơi đây, xu
hướng tách lập thành những bản mới liên tục diễn ra. Một hoặc hai gia đình,
có khi cả một dòng họ với mong muốn tìm đến định cư ở những nơi có điều
kiện tự nhiên thuận lợi hơn cho sinh sống, làm ăn, lâu dần những nơi đó trở
thành bản mới với tên gọi riêng. Quá trình định cư, khai phá, dân số tăng cộng
thêm những thành phần cư dân khác di cư đến làm cho những bản nhỏ này
ngày càng có quy mô lớn dần. Điều này diễn ra liên tục trong quá trình phát
triển của dân tộc Tày ở Võ Nhai nói riêng và dân tộc Tày trên toàn lãnh thổ
Việt Nam nói chung.
Đó là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến việc hình thành những bản mới.
Ở người Tày hầu như không có hiện tượng cả bản cùng nhau chuyển hẳn đi
một nơi định cư khác, bởi truyền thống định canh, định cư đã có từ rất lâu đời
ở dân tộc có cuộc sống gắn liền với cây lúa nước này. Như đã ví dụ ở trên, xã
Cúc Đường ngày nay có tất cả 05 xóm bản nhưng giai đoạn đầu thế kỷ XX
chỉ có 02 bản Tày gốc là bản Cúc và bản Nhò. Những cư dân ở các bản mới
hầu hết có nguồn gốc từ hai bản này cùng với số cư dân các dân tộc khác di
cư đến.
Bản người Tày phổ biến được cấu thành từ những gia đình phụ quyền
thuộc các dòng họ khác nhau “Cộng đồng bản là một xã nông thôn độc lập,
lấy đơn vị nhà làm nền tảng” [23, tr.152]. Là một xã nông thôn nên quan hệ
láng giềng là quan hệ chủ đạo trong mỗi bản. Mỗi bản Tày dù quy mô lớn hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
nhỏ cũng thường chỉ có 02 - 03 dòng họ trở lên, cũng có bản lớn trên dưới 10
họ. Trong bản thường có một hoặc vài dòng họ có số nhân khẩu đông hơn, có
vị thế và tiếng nói có trọng lượng hơn so với các dòng họ khác. Những họ đó
thường là những cư dân đầu tiên của bản, có công khai phá, lập bản làng.
Thường thì những phần ruộng tốt thuộc về họ và đương nhiên, các chức vị
quan trọng trong bản do người của họ giữ. Ví dụ: bản Na Đồng (Xã Vũ Chấn)
theo thống kê có tới gần 10 họ khác nhau, có số hộ và nhân khẩu đông hơn cả,
lần lượt là các họ Hoàng, Ma, Lý, Nguyễn. Họ Hoàng và họ Ma đã định cư ở
bản này lâu đời nhất. Xóm Mỏ Gà (xã Phú Thượng) có họ Hoàng, họ Nông là
những họ lớn đã định cư rất lâu đời ở đây. Một bộ phận người Tày trong đó
có họ Lành đã di cư từ Lộc Bình, Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn) đến đây do phải
chạy Nhật vào những năm 40 - Thế kỷ XX. Dân tộc Nùng và Kinh chuyển
đến đã làm cho dân số và số họ trong bản tăng lên đáng kể. Bản Trường Sơn
(xã Cúc Đường) cũng có gần 10 họ. Họ Hoàng, Nông, Nguyễn, Lương định
cư ở đây lâu nhất, có số hộ đông nhất.
Trong quá trình sưu tầm tư liệu điền dã, tuy không thể đến hết các bản
Tày ở Võ Nhai do điều kiện, nhưng chúng tôi thấy rằng không thể tìm thấy ở
Võ Nhai bản nào của người Tày chỉ có duy nhất một dòng họ. Điều này theo
suy luận logíc là có thể có nơi như chúng tôi trình bày ở trên thì sự thành lập
những bản mới bắt đầu 01 - 02 gia đình hoặc cả một dòng họ có nhu cầu tìm
đất định cư và canh tác ở một nơi thuận lợi hơn chỗ cũ của họ. Những bản
mới đó hoàn toàn có thể chỉ có một họ trong một thời gian nhất định. Điều
này chúng ta thấy điển hình ở Bản Chu, xã Hùng Sơn, huyện Tràng Định,
Lạng Sơn vốn chỉ có một dòng họ Nguyễn lên đây khai phá định cư
[23,tr.157].
Những bản có nhiều dòng họ thường là bản lớn, có số nhân khẩu đông và
đã được lập từ rất lâu. Ngược lại, những bản có một đến hai họ là những bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
nhỏ hơn hoặc bản mới thành lập. Từ những năm giữa thế kỷ XX trở lại đây,
trong mỗi bản Tày,số họ và số nhân khẩu tăng lên nhanh chóng. Người Tày
trong lịch sử không có thói quen sống xen cư với các dân tộc khác, trừ với
người Nùng do cùng nguồn gốc và có rất nhiều nét tương đồng, nhưng khi có
các dân tộc khác di cư đến thì họ cũng rất hoà thuận với dân tộc này. Người
Kinh từ dưới xuôi lên với hình thức làm con nuôi, lên theo chính sách khai hoang của Đảng; Người H’Mông, người Dao từ Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang xuống được người Tày nhượng đất đai và hoà vào cộng đồng Tày nơi
đây. Văn hoá giữa các dân tộc có sự giao lưu, bổ trợ nhưng văn hoá Tày
truyền thống vẫn được bảo lưu cơ bản trong các dòng họ Tày gốc và trong
những bản mà người Tày đã định cư từ trước.
2.1.2.3. Kết cấu hình thể của làng bản
Vùng cư trú của người Tày ở Võ Nhai không có những cánh đồng lớn,
những thung lũng cũng không rộng. Vì vậy các bàn Tày nơi đây thường phân
bố rải rác. Mỗi bản cũng thường chia ra làm vài chòm xóm nhỏ, phân bố
tương đối biệt lập nhưng đều hướng ra cánh đồng hoặc đường giao thông.
Điều này rất khác so với làng Việt ở Đồng bằng Bắc bộ. Cổng làng là yếu tố
rất đặc trưng ở làng Việt thì không có ở bản Tày và các dân tộc thiểu số khác.
Điều kiện tự nhiên, địa hình ở đây khác xa so với đồng bằng.
Giữa các bản với nhau và giữa các xóm trong một bản được phân định
bởi những yếu tố địa lý tự nhiên như: quả núi, con suối, cánh đồng...thậm chí
những ranh giới đó chỉ tồn tại trong ý thức của dân bản. Các làng bản người
Tày ở Võ Nhai không có luỹ tre xanh hay những hàng cây, những yếu tố nhân
tạo bao bọc. Làng bản ở đây cũng không được bố trí theo tính chất phòng thủ
như một số bản Tày vùng giáp biên của Cao Bằng, Lạng Sơn hay như các dân
tộc vùng Thượng ở Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến. Đây là những bản
làng mở, người ta không rào giậu xung quanh bản làng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
Như đã trình bày, các bản làng người Tày thường ở vùng thấp, gần
nguồn nước và đường giao thông chính có thể chạy qua giữa các bản hoặc
cạnh đó. Nếu đi dọc theo con đường từ La Hiên lên xã Nghinh Tường, chúng
ta sẽ đi qua rất nhiều làng bản Tày và hai bên ven đường dọc thung lũng cũng
vậy. Những bản này thường có lịch sử khá lâu đời.
Mỗi xóm trong bản thường có vài gia đình. Những xóm này được nối với
nhau và nối với đường giao thông chính bằng những con đường đất, đường đá
do đồng bào tự làm. Điều kiện giao thông từ xưa đến nay tại vùng này còn rất
khó khăn.
Làng bản người Tày trong truyền thống thường dựa lưng vào núi, mặt
hướng ra thung lũng, cánh đồng. Các ngôi nhà trong bản thường theo một
hàng lối nhất định. Hướng nhà có điều chỉnh chút ít dựa vào tuổi của gia chủ.
Đây là nguyên tắc truyền thống trong việc dựng nhà của người Tày. Người ta
tránh những ngọn núi có hình thù quái dị đứng trước bản, những con sông,
suối đâm thẳng vào bản.
Ở người Tày khu vực cư trú và canh tác không biệt lập với nhau mà tuỳ
thuộc vào yếu tố tự nhiên. Người ta không quan niệm đâu là khu vực để làm
nhà và đâu là khu vực để riêng làm ruộng nương, chăn thả,...
2.1.2.4. Hoạt động kinh tế truyền thống
Môi trường sinh thái tự nhiên trong không gian sinh tồn với ba yếu tố
quan trọng nhất là nước, đất và rừng có ảnh hưởng quyết định đến định hướng
kinh tế của đồng bào Tày ở Võ Nhai. Nghành kinh tế quan trọng nhất của họ
từ xưa đến nay là canh tác lúa nước. Kết quả của mỗi vụ lúa là nguồn sống
chính của họ. Ngoài cây lúa nước, đồng bào cũng rất chú trọng việc làm
nương rẫy, làm vườn với đa dạng các loại rau quả. Kinh tế tự nhiên cũng có
vai trò quan trọng. Ngoài ra, họ còn có những ngành kinh tế phụ trợ khác như:
chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, đánh cá,... Đặc điểm nổi bật nhất trong nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
kinh tế của người Tày Võ Nhai đó là mang nặng tính tự cung, tự cấp, thương
mại dịch vụ kém phát triển.
Về trồng trọt:
Dân tộc Tày là một trong những nhóm cư dân thuộc nền văn hoá thung
lũng, cư trú ở vùng thấp, họ là những cư dân trồng trọt. Địa bàn Võ Nhai
không có những cánh đồng bằng phẳng rộng lớn mà chủ yếu là những thung
lũng hẹp, dài được bao bọc bởi những núi đá vôi dựng đứng. Đồng bào đã dày
công khai phá, cải tạo. Những thung lũng dọc sông, suối ở đây đã tạo thành
những mảnh ruộng nước tương đối mầu mỡ thuận lợi cho cây lúa nước phát
triển. Vì sinh sống ở vùng núi nên các loại ruộng của đồng bào khá đa dạng
gồm: ruộng nước, ruộng cạn chờ mưa, ruộng lầy thụt. Dù là ruộng tốt hay xấu
trước đây đồng bào chỉ trồng một vụ lúa, cùng lắm là thêm một vụ hoa mầu
một năm. Vài chục năm trở lại đây, ở những chân ruộng tốt nhất đồng bào
mới cấy hai vụ lúa.
Trong việc trồng cấy lúa nước, người Tày có truyền thống làm đất rất kỹ.
Trước khi cấy, ruộng được cày bừa rất nhiều lần. Làm như vậy, theo đồng bào
là để cho đỡ cỏ dại, lúa tốt và quan trọng hơn cả là cày bừa thật kỹ thì ruộng
mới giữ được nước cho cây lúa phát triển. Công cụ làm đất của đồng bào gần
giống những công cụ làm đất của người Kinh.
Ruộng cấy đã vậy, ruộng mạ còn được làm kỹ hơn nhiều. Ruộng làm mạ
thường được chọn là những chân ruộng ở cao, dễ thoát nước, vậy mạ mới dễ
nhổ. Theo kinh nghiệm “khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen” nên ruộng làm mạ
thường được dùng cố định qua nhiều vụ. Sau khi cày vỡ, họ dọn bờ, bón lót
phân chuồng, thêm phân xanh, cày bừa thêm nhiều lần cho đất thật nhuyễn,
tháo sạch nước sau đó dùng cày san phẳng, đánh thành luống rồi gieo mạ.
Quá trình chăm sóc lúa của đồng bào từ lúc mới còn là cây mạ cho đến
lúc được thu hoạch diễn ra với nhiều công đoạn cẩn thận như: bón lót, bón
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
thúc, làm cỏ nhiều lần. Nước trong ruộng luôn được giữ ở mức độ thuận lợi
nhất cho cây lúa phát triển.
Để đảm bảo cho việc thâm canh lúa nước ở những địa bàn thung lũng,
người Tày ở Võ Nhai cũng như ở đồng bào Tày ở các khu vực khác từ xa xưa
đã rất quan tâm chú ý đến việc làm thuỷ lợi. Đặc biệt, hệ thống dẫn thuỷ nhập
điền cổ truyền với mương, phai, cọn nước khá hoàn thiện. Phai là những chiếc
đập ngắn, nước từ sông suối đi qua một hệ thống mương máng rồi chảy vào
ruộng. Phai thường được làm ở đầu nguồn nước của cánh đồng. Nguyên liệu
để đắp phai chủ yếu từ tự nhiên: cây, que, dây rừng, đất,... vì thế tuổi thọ của
những phai là không lớn, thường qua một mùa mưa lũ là đồng bào lại phải gia
cố, có khi làm lại. Xưa kia công việc làm mương phai được coi là việc chung
của bản. Mỗi nhà cử ra một hai người mang theo dụng cụ và góp nguyên liệu
để đắp phai, làm mương máng. Hệ thống phai, mương ngày nay ở vùng này
phần lớn chưa được đầu tư kiên cố hoá nên mọi quy trình gần như vẫn được
thực hiện theo lối cũ. Tại những chân ruộng cao hơn bề mặt đường chảy, lại ở
cạnh suối, đồng bào dùng “cọn” (guồng xe nước) để đưa nước lên ruộng. Cọn
hình bánh xe, đường kính từ 2-5m tuỳ theo độ cao của ruộng và độ sâu của
nước. Cọn là một trong những điển hình trong việc lợi dụng sức nước, làm
chủ địa hình canh tác của đồng bào. Ngày nay, tại các bản Tày ở Võ Nhai
người ta vẫn thấy lác đác những cọn nước.
Nói chung việc canh tác lúa nước của đồng bào ở đây gặp nhiều khó
khăn vất vả hơn nhiều so với vùng đồng bằng nhưng nó cũng cho thấy sự sáng
tạo cũng như tình yêu đặc biệt của đồng bào cho những ruộng lúa của họ.
Ngoài lúa nước, người Tày ở Võ Nhai cũng phát nương làm rẫy. Vùng
cư trú chủ yếu của đồng bào Tày là vùng núi đá vôi, với những vách đá dựng
đứng, ít núi đất nên đồng bào ở đây cũng có không nhiều nương rẫy. Canh tác
nương rẫy của đồng bào tuân theo một quy trình nghiêm ngặt: phát đốt, làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
đất, trồng tỉa, làm cỏ, chăm bón, thu hoạch. Theo kinh nghiệm chọn đất
nương của đồng bào thì loại nương tốt nhất là được khai phá từ rừng già, có
mầu cây lá xanh thẫm. Đối với nương mới phát trong 2, 3 năm đầu đồng bào
thường trồng lúa vì còn tốt, sau đó chuyển sang các loại hoa mầu khác như:
Ngô, khoai, săn, đỗ... sau khi canh tác vài năm thấy bạc mầu họ thường chủ
động bỏ hoang một vài năm rồi mới khai thác lại. Quy trình khai thác theo chế
độ này vừa tận dụng được quỹ đất, giữ được rừng, chống được xói mòn.
Những nương mới, đồng bào không phải bón phân mà sau khi đốt đợi mưa
xuống là chọc lỗ, tra hạt bởi vì đây là những mảnh nương có độ dày mùn cao,
đất rất tốt. Những nương cũ họ phải cuốc hoặc cày lần lượt và phải có phân
bón do đất bị xói mòn, bạc mầu. Người Tày ở Võ Nhai còn canh tác một loại
nương rất đặc biệt gọi là nương hốc đá (“rầy thin”). Loại này canh tác rất khó
nhưng có thể làm được lâu dài do có đá che chắn, không bị xói mòn, giữ ẩm
tốt. Hiện nay, những mảnh nương, rẫy gắn với núi đá, đồng bào đã chuyển
sang trồng một số cây ăn quả dài ngày, tiêu biểu là cây na.
Từ xưa, phần lớn các gia đình Tày đều có vườn nhưng có thể nói kinh tế
vườn chưa có vị trí đáng kể đối với họ. Vườn thường hẹp, không bằng phẳng.
Trong vườn, người Tày thường trồng đủ các loại rau quả, gia vị, nhằm phục
vụ cho nhu cầu của gia đình. Điều này thể hiện rõ tính chất tự cung, tự cấp
trong kinh tế của đồng bào.
Chăn nuôi:
Với tính chất của nền kinh tế truyền thống là tự nhiên, tự cung tự cấp nên
đồng bào Tày có đa dạng các ngành nghề kinh tế. Chăn nuôi là bộ phận khá
quan trọng, tập quán truyền thống của đồng bào trong chăn nuôi là chăn thả.
Các loại vật nuôi cũng khá đa dạng đủ cả gia súc, gia cầm. Nhưng nhiều nhất
vẫn là trâu, lợn, gà, vịt và thả cá ruộng. Vì là cư dân gắn với đồng ruộng nên
đồng bào rất coi trọng con trâu vì “con trâu là đầu sức kéo”. “Tậu trâu, lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
vợ, làm nhà” được coi là ba việc quan trọng nhất trong cả cuộc đời người đàn
ông dân tộc Tày. Con trâu có ý nghĩa quan trọng lớn lao đối với họ như vậy
nên việc chọn trâu được đồng bào rất quan tâm. Ở các bản Tày, trâu chủ yếu
được thả rông vào rừng, ở đồng ruộng sau khi thu hoạch. Trước kia có bản có
luật tục quy định khu rừng riêng dành cho chăn thả trâu, bò. Việc chăn thả
trâu chủ yếu do người già, phụ nữ, trẻ em đảm trách. Sáng họ lùa đàn trầu vào
rừng, tối lại đón về, có khi trâu tự về. Có nơi người ta để mặc trâu trong rừng
cả tháng, chỉ thỉnh thoảng vào chăm nom. Trâu được lùa về chủ yếu được
nhốt dưới gầm sàn. Ngày nay thì chuồng trâu đã được đồng bào làm ra một
khu biệt lập do nhận thức về vệ sinh và tập quán đã thay đổi.
Các loại gia súc, gia cầm cũng được đồng bào chăn nuôi chủ yếu theo
hình thức thả. Lợn, gà, ngan, vịt, dê đều được thả rông tự kiếm thức ăn. Buổi
tối chúng mới được cho ăn thêm bằng các loại nông sản như: cám, gạo, ngô,
sắn... Tập quán nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm sàn của đồng bào trước đây
chủ yếu nhằm tránh thú dữ.
Có thể nói, chăn thả tự nhiên là một ngành kinh tế phụ gia đình trong các
bản Tày truyền thống ở Võ Nhai. Các gia đình có khá đa dạng các loại vật
nuôi nhưng mục đích chính vẫn là nhằm tận dụng các loại phụ phẩm nông
nghiệp và phục vụ cho nhu cầu của gia đình, làng bản là chính, năng suất và
lợi nhuận thấp.
Tiểu thủ công nghiệp:
Khi mà thương nghiệp và trao đổi ở vùng này chưa phát triển thì đồng
bào buộc phải tự sản xuất ra hầu hết các sản phẩm thủ công để phục vụ cho
cuộc sống của chính họ. Đó là lý do để cho các nghề thủ công truyền thống
phát triển khá đầy đủ và đa dạng trong các làng bản người Tày. Ở người Tày
Võ Nhai những nghề thủ công không thể thiếu đối với họ là: đan lát, dệt, mộc,
chế biến một số nông lâm sản (nấu nượu, làm đậu, ép mía đường, ép dầu thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
vật),... Các sản phẩm thủ công này chỉ được sản xuất nhỏ, lẻ theo quy mô gia
đình, chưa được coi là hàng hoá. Ở Võ Nhai chưa thấy có làng bản Tày nào
mà người dân sống bằng thủ công nghiệp là chính.
Kinh tế tự nhiên:
Sống ở vùng cao, gắn với những cánh rừng và sông suối nên kinh tế tự
nhiện từ lâu đã là một mảng kinh tế không thể thiếu và có vai trò quan trọng
trong việc cải thiện đời sống thường nhật của đồng bào.
Trong đời sống kinh tế truyền thống của đồng bào: săn bắn, hái lượm,
chiếm đoạt các sản vật sẵn có trong tự nhiện để sinh sống là hoạt động không
thể thiếu. Các loại muông thú, rau, củ, quả sẵn có trong rừng là nguồn cung
cấp thực phẩm cho các bữa ăn, dược liệu để chữa bệnh. Không những thế,
việc đánh bẫy, săn bắn còn có ý nghĩa ngăn chặn sự phá hoại của muông thú,
bảo vệ mùa màng. Hoạt động chiếm đoạt tự nhiên của họ diễn ra quanh năm.
Có hai hình thức săn: săn cá nhân và săn tập thể. Vũ khí săn là súng kíp,
dao, lao, tên nỏ, và các loại cạm bẫy. Dụng cụ đánh bắt cá gồm có: Chài lưới,
câu, đó, ... Săn bắn là công việc của đàn ông, còn hái lượm các loại rau, củ,
quả trong rừng là công việc của phụ nữ. Công việc này diễn ra quanh năm
nhưng họ đều tranh thủ khi nông nhàn. Vào mùa xuân – hè, kiếm các loại rau,
măng, nấm, mộc nhĩ. Mùa thu – đông thì các loại củ, quả sẵn có trong rừng là
nguồn cung cấp thực phẩm cho các bữa ăn, dược liệu để chữa bệnh.
Trao đổi buôn bán:
Ở Võ Nhai người Tày cư trú nhiều tại 6 xã phía Bắc nơi mà điều kiện
giao thông gặp quá nhiều khó khăn, bị ngăn cách bởi những dãy núi song
song và dựng đứng. Đó là một thiệt thòi lớn và hạn chế sự giao lưu kinh tế,
trao đổi buôn bán của đồng bào nơi đây.
Trước năm 1985 cả 6 xã phía Bắc đều không có chợ. Đồng bào phải đi
chợ huyện tận Đình Cả hoặc chí ít cũng phải ra La Hiên thì mới có chợ. Họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
phải đi bộ cả chục cây số, leo ngược dốc mới đến được chợ. Vì vậy, đi chợ
phải mất đến 2-3 ngày và đôi khi phải ngủ trọ nhà người quen. Dù khó khăn
vất vả như vậy mỗi khi đi chợ đồng bào coi là một thú vui rất lớn và nó đã trở
thành một nét văn hoá. Tại những buổi chợ phiên đó người ta không chỉ trao
đổi buôn bán mà còn có dịp được gặp gỡ, giao lưu với những người đồng bào của
mình và với những dân tộc khác. Nam nữ coi đây là dịp tốt để tìm hiểu nhau.
Ở những buổi chợ phiên đó, đồng bào thường mang bán những thứ nông
lâm thổ sản, gia súc do mình làm ra và mua về những nhu yếu phẩm như:
mắm muối, dầu đèn và rất nhiều thứ hàng tiêu dùng khác. Những thứ hàng
này là của những tiểu thương người Kinh gồng gánh từ dưới xuôi lên. Hàng
hoá được tính theo đơn vị đo lường trong vùng: gà, vịt tính con, rau tính mớ,
củi tính bó, thóc gạo tính bằng ống... Việc dùng cân kilô cũng đã khá phổ
biến. Tiền đã được dùng làm đơn vị trao đổi, tuy nhiên hiện tượng vật đổi vật
cũng vẫn còn.
Từ năm 1985 khi chợ Cúc Đường được thành lập thì việc buôn bán và
trao đổi hàng hoá của đồng bào dân tộc Tày cũng như các dân tộc khác tại 6
xã phía Bắc Võ Nhai đã dễ dàng hơn nhiều. Ngày nay, tại mỗi xóm bản đều
có một vài cửa hàng tạp hoá bán đủ các loại nhu yếu phẩm phục vụ cho nhu
cầu của bà con. Chợ Nghinh Tường cũng được lên kế hoạch xây dựng sẽ là
điều kiện tốt cho thương mại nợi đây.
Nói chung kinh tế truyền thống của người Tày ở Võ Nhai lấy cây lúa
nước và hoạt động sản xuất nông nghiệp làm trung tâm. Ngoài ra kinh tế tự
nhiên có vai trò đáng kể và vẫn luôn được duy trì. Tiểu thủ công nghiệp của
đồng bào cũng chưa có thế mạnh, chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu nội tại. Trao
đổi buôn bán gặp rất nhiều khó khăn do địa hình. Ngày nay, tình hình kinh tế
của đồng bào đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, việc đầu tư cho hệ
thống giao thông trong vùng là việc cần làm ngay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
2.1.2.5. Các loại hình nhà cửa
Nhà cửa của người Tày ở Võ Nhai cơ bản giống với các loại hình nhà
cửa của người Tày các khu vực khác. Theo các tác giả trong cuốn Các dân tộc
Tày - Nùng ở Việt Nam thì “nhà ở của người Tày, Nùng có hai loại chính:
nhà sàn và nhà đất” [23, tr.110]. Về văn hoá vật chất nói chung và nhà cửa
của người Tày nói riêng thì trong hầu hết các công trình nghiên cứu của các
tác giả về dân tộc Tày đều được trình bày một cách khá kỹ lưỡng. Ở đây,
chúng tôi trên cơ sở tiếp thu, kế thừa cùng với tư liệu điền dã có được chỉ xin
trình bày một cách sơ lược do điều kiện cũng như đây không phải là trọng tâm
của đề tài. Qua đó, chúng tôi cố gắng giới thiệu những đặc trưng của nhà cửa
của người Tày ở Võ Nhai.
Nhà sàn: “Sống ở vùng núi, mưa lắm, nắng nhiều, độ ẩm cao, lại nhiều
côn trùng, thú giữ, trong dòng chảy chung của lịch sử, người Tày đã làm nhà
sàn là ngôi nhà ở đầu tiên của mình. Sự thật hiển nhiên là bao đời nay, người
Tày vẫn ở nhà sàn, còn ở nhà đất cách đây chưa đầy thế kỷ. Việc người Tày ở
nhà sàn từ xa xưa còn được ghi nhận trong các câu chuyện cổ tích...” [18, tr. 91].
Không riêng gì người Tày mà rất nhiều các dân tộc thiểu số sống ở miền núi
nước ta đã ở nhà sàn. Người Việt cổ cũng từng ở nhà sàn. Đó là đặc điểm
chung của nhiều nhóm cư dân ở Đông Nam Á trong lịch sử.
Các nhà nghiên cứu thường lấy mặt bằng hoặc cấu tạo phần mái làm cơ
sở để phân loại các kiểu dạng nhà sàn truyền thống của người Tày. Cấu trúc
bộ sườn cũng được lấy làm cơ sở để phân loại. Bộ sườn của ngôi nhà bao gồm
các vì kèo. Mỗi một vì được tạo nên bởi sự liên kết giữa kèo và các hàng cột.
Thông qua kết cấu vì kèo, chúng ta biết được các kiểu dạng của nhà. Có hai
kiểu dạng cơn bản của nhà sàn Tày truyền thống là kiểu vì bốn và sáu hàng
cột, kiểu năm và bảy hàng cột. Trong đó kiểu nhà sàn sáu hàng cột là phổ biến
hơn cả trong các vùng Tày ở Võ Nhai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
Về đại thể: Kiểu vì sáu hàng cột có kỹ thuật dựng giống kiểu vì bốn hàng
cột; kiểu bẩy hàng cột giống với kiểu vì năm hàng cột. Hai kiểu vì sáu và vì
bẩy được coi là phức tạp và cũng hoàn thiện nhất của nhà sàn truyền thống Tày.
Việc xây dựng một ngôi nhà sàn đòi hỏi không ít thời gian và nhân công.
Riêng việc chuẩn bị nguyên vật liệu đã mất vài năm, thậm chí đến cả chục
năm. Tuy nhiên, việc chuẩn bị nguyên vật liệu không được tiến hành thường
xuyên mà chỉ diễn ra trong thời kỳ nông nhàn. Gỗ mang về thường được
ngâm dưới ruộng, dưới ao cho đến khi dùng đến. Trong quá trình lựa chọn và
chuẩn bị nguyên vật liệu, người ta cũng quan tâm và chuẩn bị ngay mặt bằng
để dựng nhà. Ở Võ Nhai, người Tày muốn có mặt bằng phù hợp để dựng một
ngôi nhà sàn thường phải mất nhiều công sức xẻ núi, san nền. Rất ít có những
ngôi nhà được dựng trên những mặt bằng sẵn có vì địa hình đặc trưng miền
núi ở nơi đây.
Dụng cụ làm nhà sàn của người Tày khá phong phú và chủ yếu do đồng
bào tự chế tạo và trao đổi như: cưa, đục, búa, dao, rìu,...
Việc làm nhà, bên cạnh sự giúp đỡ đông đảo của anh em họ hàng còn có
sự hỗ trợ của những người thợ chuyên nghề là người đồng tộc ở trong hoặc
ngoài bản. Những người thợ được đón tiếp rất chu đáo bắt đầu từ lúc đi mời
cho đến khi hoàn thành ngôi nhà và tiễn đưa. Họ thường được mời tham gia
những công đoạn quan trọng, từ khi đặt viên đá kê cột cho đến việc treo
thượng lương cài sào, đôi khi nhóm bếp lửa... Ngày vào nhà mới cũng không
thể thiếu họ. Việc dựng nhà sàn của người Tày ở Võ Nhai từ trước đến nay
không thấy sự xuất hiện của những tay thợ chuyên nghiệp người Kinh từ dưới
xuôi lên. Điều này thường có ở các vùng Tày ở Tuyên Quang hay Ba Bể, Bắc
Kạn...Ở những nơi này kỹ thuật dựng nhà sàn đã được lai tạo từ kỹ thuật dựng
nhà của người Kinh do họ đã từng thuê những tốp thợ người Kinh đến dựng
nhà. “Nhà sàn làm theo kỹ thuật của người Việt vững chắc, thoáng mát, sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
sủa và vệ sinh nhờ tách bếp ra khỏi nhà chính”[18]. Đó là những ưu điểm nổi
bật. Hiện nay kiểu nhà này đang trở thành xu thế ở một số nơi và cũng có thể
làm thay đổi đôi chút kỹ thuật làm nhà sàn của người Tày ở Võ Nhai.
Nhà sàn Tày ở Võ Nhai thường lợp rạ, cỏ tranh, ngói âm dương. Gỗ
dựng nhà thường là các loại gỗ rất tốt như nghiến, lim, táu, lát nên ít nhất là
sử dụng được vài chục năm, thậm chí hàng trăm năm.
Cách bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà sàn ở các gia đình Tày khá
thống nhất. Nhà thường có một cửa chính ra vào và một cửa phụ, có hai hoặc
ba cửa sổ, một hoặc hai bếp. Trong nhà có sự quy định rõ ràng nơi để đồ đạc
và nơi ngủ của các thành viên trong gia đình. Bàn thờ được bố trí ở nơi trang
trọng nhất, thường ở gian giữa. Hướng bàn thờ có thể không đồng nhất với
hướng chính của ngôi nhà và thường được chọn theo tuổi của gia chủ. Về
cách bố trí mặt bằng sinh hoạt ở tầng sàn, cửa chính ra vào thường mở ở phía
đầu hồi trước, có cầu thang. Đầu hồi phía sau nhà thường không có cửa phụ.
Hầu hết các ngôi nhà đều có sàn gác, sàn gác có thể được đặt ở hầu hết các
gian (trừ gian có đặt bàn thờ). Nó thường được sử dụng để đặt bồ, dậu, đựng
các sản phẩm trồng trọt, dụng cụ dệt vải....Gầm sàn có thể để trống hoặc được
rào lại bằng tre, gỗ để nhốt gia súc, tránh thú dữ bảo vệ gia súc hoặc là nơi để
nông cụ và nhiều vật dụng khác. Việc nhốt gia súc dưới gầm sàn hiện nay
không còn phổ biến do nhận thức của đồng bào về vấn đề vệ sinh đã khác
trước rất nhiều.
Xung quanh nhà sàn của người Tày ở Võ Nhai thường người ta thường
rào rậu khá chắc chắn nhằm tránh thú dữ làm hại đến người và gia súc. Có
nhà, gia chủ hay trồng những hàng cây xung quanh. Các ngôi nhà thường ở
biệt lập, thoáng đãng, xung quanh là ruộng vườn, đồi nương. Những nơi có
mật độ nhà sàn dầy, liền nhau thường là nơi có địa thế bằng phẳng, rộng. Nhà
nọ liền kề, sát vách nhà kia và họ thường là người cùng một dòng họ, có quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
hệ ruột thịt. Hai đại gia đình của các cụ Nông Tiến Hỷ và Nông Tiến Thịnh ở
bản Trường Sơn - xã Cúc Đường là vì dụ điển hình.
Nói chung, nhà sàn truyền thống là một nét văn hoá vật chất đặc trưng
tiêu biểu của dân tộc Tày nói chung và người Tày ở Võ Nhai nói riêng.
Những nhà sàn truyền thống của người Tày chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều
ở các xã phía bắc huyện Võ Nhai như Cúc Đường, Vũ Chấn, Nghinh Tường,
Sảng Mộc, Thượng Nung. Đa số các bản Tày ở đây nhà ở 100% là nhà sàn.
Càng ở vùng sâu, vùng xa, yếu tố truyền thống của nhà sàn càng được bảo lưu
đậm nét. Nhà sàn Tày truyền thống là một đề tài thú vị và rất đáng được
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn. Ở đây trong khuôn khổ là một phần của
một luận văn, chúng tôi không có đủ điều kiện làm việc đó.
Nhà đất: Loại hình nhà nền đất của người Tày mới xuất hiện cách nay
khoảng vài chục năm, nhất là từ sau khi đổi mới. Hiện nay loại hình này
chiếm một tỷ lệ đáng kể và đang ngày càng trở thành một xu thế. Ví dụ: ở bản
Mỏ Gà, Phượng Hoàng (xã Phú Thượng) trước những năm 1950, 100% là nhà
sàn thì đến nay mỗi bản chỉ còn 03 - 04 chiếc. Nguyên nhân chính của việc
người Tày đang có xu thế chuyển sang ở nhà nền đất là vì thiếu nguyên liệu
để làm nhà sàn, rừng hầu như không còn để khai thác nữa. Nguyên vật liệu dự
trữ không thể đáp ứng hết nhu cầu dựng nhà sàn của người dân do dân số
ngày một tăng. Những gia đình Tày ở vùng thấp, ven đường hiện nay thường
làm nhà nền đất, gần đây đã được bê tông hoá nhiều. Nhà nào có điều kiện
kinh tế khá giả lắm mới nghĩ đến chuyện mua đủ gỗ dựng được một ngôi nhà
sàn. Rõ ràng người Tày vẫn thích ở nhà sàn hơn, việc chuyển sang xây dựng
và ở nhà nền đất là một sự bắt buộc đối với họ. Nhà nền đất của người Tày
phổ biến ở các xã vùng thấp hơn như Phú Thượng, Thị trấn Đình Cả, trung
tâm xã Cúc Đường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
Cấu trúc nhà nền đất của người Tày ở đây có đặc điểm là hầu hết đều
được dựng khá cao “Có lẽ đây là một trong những thói quen sống ở nhà sàn
thoáng mát vẫn còn lưu lại trong tâm trí của đồng bào, nên khi chuyển xuống
ở nhà nền đất cũng cần đảm bảo sự cao ráo, có đủ ánh sáng” [19, tr. 158].
Nhà nền đất của người Tày so với nhà sàn thường nhỏ về quy mô, đơn
giản về kết cấu bộ sườn, bố cục bên trong nhà cũng đổi khác. Nhìn chung kỹ
thuật làm mái dựng vì kèo hầu hết là đục mông, ngoạm, nấc và tạo lỗ khi làm
tường. Bộ sườn của ngôi nhà vách vắt đất phần tre, nứa khác với những nhà
xây gạch, mộc hay trình tường. Việc chuẩn bị làm một ngôi nhà nền đất
thường chỉ mất 02 - 03 năm.
Nhà đất của đồng bào chủ yếu có hai mái chính. Nguyên liệu để lợp mái
chủ yếu là rơm rạ, cỏ tranh, thân tre. Những nhà được xây dựng sau này
thường lợp ngói.
Đối vời nhà nền đất, mặt bằng sinh hoạt có phần khác hơn so với nhà
sàn, vì diện tích sử dụng chỉ có một tầng, còn phần gác xép chủ yếu để cất giữ
thóc, ngô và một số loại đồ đạc quan trọng của gia đình. Về cơ bản cách bố trí
mặt bằng vẫn có nhiều yếu tố tương đồng với tầng sàn của ngôi nhà sàn, cụ
thể là cách bố trí bàn thờ, gian khách, cửa phụ, buồng ngủ của các thành viên
trong gia đình. Điểm khác của cửa chính được mở ở gian giữa, không mở ở
phía đầu hồi. Hơn nữa, do nhu cầu thoáng mát và nhiều ánh sáng nên nhà nền
đất được mở khá nhiều cửa sổ. Tuy nhiên hầu hết các ngôi nhà nền đất của
người Tày hiện nay đều có một đặc điểm là nhà bếp đã được bố trí riêng, tách
ra khỏi nhà chính.
Những ngôi nhà nền đất của người Tày ở Võ Nhai và nhiều nơi khác đặc
biệt là ở gần thị trấn, đường giao thông, có kết cấu kỹ thuật giống như nhà của
người Việt, biểu hiện rõ ở các kiểu vì kèo. Rất dễ hiểu những kiểu vì kèo này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
là do quá trình giao lưu trong kỹ thuật xây dựng hoặc do các thợ người Việt
trực tiếp làm.
Không gian sinh tồn của người Tày ở Võ Nhai như đã trình bày ở trên
bao gồm điều kiện địa lý tự nhiên, khung cảnh sản xuất, cách bố trí làng bản,
nhà cửa và các hoạt động kinh tế truyền thống. Điều kiện đó đã gắn với cuội
sống của đồng bào hàng trăm năm nay. Nó có tác động quan trọng tới cơ cấu tổ
chức, các hoạt động cộng đồng và cả văn hoá, tâm lý, tín ngưỡng của người dân.
2.2. Cơ cấu tổ chức
2.2.1. Các tổ chức quản trị
Làng Việt cổ truyền trong suốt một thời gian dài trước thời kỳ của vua
Lê Thánh Tông đã mang tính chất tự trị, tự quản đậm nét, nó là một đơn vị
độc lập. Về điểm này, các làng bản miền núi trong đó có các bản của dân tộc
Tày càng rõ ràng hơn. Vì khu vực cư trú của họ thường rất xa kinh thành,
trung tâm quyền lực của nhà nước phong kiến. Pháp luật của Nhà nước và
quyền hành của nhà vua thường ít vươn tới được những khu vực này.
Trong điều kiện như vậy “Cộng đồng bản là một công xã nông thôn độc
lập, lấy đơn vị nhà làm nền tảng” [23, tr.152]. Trong lịch sử ở các vùng
người Tày đã từng có một tổ chức xã hội truyền thống cao hơn bản đó là
Mường. Tổ chức xã hội ở cấp này khoảng trên dưới 50 năm trở lại đây đã
không còn nữa. Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, trên các bản Tày có
các thiết chế quan phương như châu, tổng, xã. Đôi khi những bản lớn cũng
được cấu trúc thành một xã trong bộ máy nhà nước với người đứng đầu là lý
trưởng. Câu “Nhất thôn, nhất xã, nhất đình môn” đã phản ánh điều này ở
vùng thuộc xã Cúc Đường ngày nay. Tuy vậy ở thời kỳ nào, có những biến
động gì xảy ra thì bản vẫn là một đơn vị cơ bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
Với tính độc lập và tự quản cao như vậy, rõ ràng các bản của người Tày
cần một bộ máy “lập pháp” và “hành pháp” riêng. Trong bộ máy đó, hội
đồng già làng và trưởng bản có vị trí và vai trò quan trọng nhất.
Hội đồng già làng, trƣởng Bản: cũng như đa số các làng việt cổ truyền
ở vùng đồng bằng bắc bộ, bản của người Tày có hội đồng già làng (miền xuôi
có nơi gọi là hội đồng kỳ mục). Tuy nhiên chúng tôi hầu như chưa tiếp cận
được tư liệu nào có giới thiệu đầy đủ tổ chức đã từng tồn tại này của người
Tày nói chung cũng như người Tày ở Võ Nhai. Nền văn hoá Tày được liệt
vào một trong những nền văn hoá thung lũng. Đời sống đồng bào gắn liền với
việc canh tác cây lúa nước. Tư tưởng trọng nông đã có từ lâu đời mà trong các
xã hội nông nghiệp truyền thống như thế người ta luôn luôn tôn trọng người
có tuổi và rất cần kinh nghiệm của họ. Theo tư liệu điền dã, chúng tôi thấy
rằng hội đồng già làng ở các bản của người Tày thường có tổ chức không chặt
chẽ và quy củ. Hoạt động của hội dựa trên ý thức của các thành viên là chủ yếu.
Các thành viên nam giới trong bản khi đã đến tuổi được coi là cao niên
được dân bản kính trọng và tự nguyện, tự nhiên được gia nhập vào hội đồng
già làng. Hội đồng này tuy có quy chế không chặt chẽ (như hội đồng kỳ mục
ở các làng Việt cổ truyền) nhưng là “cơ quan” quan trọng nhất trong bản thể
hiện ở chỗ: bàn bạc đi đến thống nhất và quyết định lập ra các quy định riêng
của bản, bổ sung, sửa đổi các luật tục.
Ngoài ra, hội đồng già làng còn giám sát việc thi hành những luật tục đó.
Họ cũng đứng ra phân xử những tranh chấp nếu có giữa các thành viên hoặc
các gia đình trong cộng đồng bản... Sự tồn tại và hoạt động của hội đồng già
làng ít được ghi chép và nghiên cứu đầy đủ. Qua quá trình điền dã, chúng tôi
thấy rằng sự tồn tại của nó chỉ còn được loáng thoáng trong trí nhớ của những
người cao tuổi. Nhưng vai trò của tổ chức này với tư cách là một tổ chức quản
trị thực sự trong các cộng đồng bản độc lập tự trị thì cần phải được khẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
định. Ngày nay hội đồng này được thay bằng chi hội người cao tuổi, một tổ
chức mang tính chất xã hội thuần tuý. Tuy nhiên những tàn dư của hội đồng
già làng vẫn còn đó khi truyền thống đặc biệt kính trọng người cao tuổi vẫn
được duy trì trong cộng đồng bản.
Như đã giới thiệu, hội đồng già làng và trưởng bản có vai trò rất quan
trọng trong mọi mặt đời sống của người dân trong bản. Trưởng bản là người
đứng đầu một bản, là đàn ông, tuổi trung niên trở lên. Trưởng bản là người có
uy tín, có năng lực giải quyết các công việc chung của bản thường được hội
đồng già làng đề cử và dân bản tín nhiệm bầu ra. “Về chức năng, trưởng bản
là đại diện cho thiết chế tự quản, thể hiện ý chí của cộng đồng, thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại. Đối với thôn bản và cấp trên, từ một hình
thức phi quan phương, trưởng bản ở hầu hết các thôn bản người Tày đã trở
thành một chức quan phương, một thành phần trong bộ máy cai trị của giai
cấp phong kiến”[19, tr.516]. Tuy nhiên, khi xảy ra xung đột giữa cơ chế tự
quản của làng bản với các cấp chính quyền trên bản thì trưởng bản luôn ưu
tiên bảo vệ quyền lợi của cư dân trong bản cũng như quyền lợi chung của bản.
Chức vị trưởng bản đã từng có vai trò và vị trí như vậy trong lịch sử,
nhưng đến thời kỳ hợp tác hoá lại hầu như bị xoá bỏ. Quyền điều hành các
hoạt động chung của thôn bản được trao vào tay các chủ nhiệm hợp tác xã hay
các đội trưởng sản xuất. Điều này tác động rất mạnh đến cơ chế tự quản làng
bản của người Tày. Có thể nói đây là một thiếu sót của lịch sử. Trong một
thời gian dài chúng ta đã cho rằng tiến lên xã hội chủ nghĩa, việc đầu tiên là
xoá bỏ hết những “tàn tích” phong kiến, những phong tục tập quán “cổ hủ,
lạc hậu”. Điều đó xuất phát từ việc nhận thức chưa đầy đủ các vấn đề của bản
làng và ý nghĩa vô cùng to lớn của những giá trị truyền thống. Uy tín đặc biệt
lớn của các già làng, trưởng bản và những ưu điểm của cơ chế tự quản của
làng bản các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Tày đã được thực dân Pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
duy trì và khai thác trong suốt quá trình “bảo hộ”. Tất nhiên, mục đích của
chúng là tiêu cực với bản làng và nền văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào.
Đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, với việc kiện toàn lại các tổ chức
kinh tế trong khu vực nông nghiệp - nông thôn, Đảng và Nhà nước lại chủ
trương tăng cường công tác quản lý cơ sở, chức trưởng bản được phục hồi với
những chức năng và nhiệm vụ mới. Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VII) chỉ
rõ: “Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy ước thích hợp về chức năng và
vai trò cấp thôn, ấp, bản phù hợp với tình hình từng vùng” [Trích theo 16].
Hiện tại, mỗi xóm bản đều có một trưởng xóm, bản. Đó là việc làm rất đúng
đắn và cần thiết nhằm phục vụ chủ trương xây dựng nông thôn mới trong
vùng dân tộc Tày cũng như các dân tộc thiểu số khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Luật tục: Tập quán pháp, tục pháp, luật lệ dân gian, luật pháp không
thành văn là những chuẩn mực xã hội được nẩy sinh trong đời sống tộc người.
Mục đích của nó là để điều chỉnh các mối quan hệ trong đời sống dân tộc người.
“Nó xuất hiện từ buổi sơ khai của xã hội nguyên thuỷ. Đặc điểm
của nó là do hồi bấy giờ chưa có chữ viết, nên truyền miệng từ đời này
sang đời khác. Một nội dung căn bản, chủ yếu của nó là việc giáo dục
con người để trở thành người lớn, một thành viên bình đẳng của xã hội,
nghĩa là trước khi qua tuổi vị thành niên, trước khi trải qua tục thành
đinh nguyên thuỷ, trai gái đều phải được giáo dục rất đầy đủ về đạo lý
làm người và cách xử thế thông qua giáo dục luật tục của cộng đồng.
Trong các giai đoạn kế tiếp theo của xã hội nguyên thuỷ, luật tục được
hoàn thiện dần. Khi xã hội đã phân hoá giai cấp, khi đã xuất hiện chữ
viết thì nó được ghi chép lại, đây là loại luật tục tồn tại ở giai đoạn
muộn, không chỉ truyền miệng mà còn ghi lại thành văn, tuy nhiên nó
chưa phải là luật pháp, của xã hội văn minh đã hình thành Nhà nước
quốc gia. Nói chung luật tục có sức sống dai dẳng, tồn tại trong các xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
hội tiền Tư bản chủ nghĩa….Ở các dân tộc miền núi nước ta, trước năm
1945 vẫn tồn tại luật tục” [4, tr.240].
Như vậy, luật tục là một hiện tượng phổ biến trong đồng bào các dân tộc
thiểu số ở nước ta trước cách mạng. Dân tộc Tày nói chung cũng không ngoại
lệ. Luật tục được lập ra gồm những chuẩn mực nhằm hướng dẫn và điều hành
sự tồn tại và phát triển của xã hội truyền thống. Tuy nhiên ngày nay, việc sưu
tầm và nghiên cứu luật tục của người Tày cũng như của các dân tộc khác chưa
được coi trọng và cũng chưa có mấy kết quả.
Về đại thể, qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng luật tục của đa số các bản
của người Tày ở Võ Nhai đều quy định khá cụ thể về các vấn đề liên quan
trực tiếp tới mọi người dân trong bản như:
Những quy định và nghĩa vụ của mọi người trong việc bảo vệ môi trường
sinh thái chung của bản, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ rừng cấm. Rừng núi đất đai
của họ nào, nhà nào thì nhà đó mới được sử dụng, không được xâm phạm. Mọi
người làm ruộng, phát nương phải tránh khu vực rừng đầu nguồn, rừng cấm.
Những quy định trong việc bảo vệ mùa màng như: Không được ăn cắp
hoa màu; trong thời vụ không ai được thả rông trâu bò,… Ai vi phạm đều
phải bị phạt và bồi thường cho người bị hại.
Khi trong bản có người chết, mọi người có trách nhiệm giúp đỡ gia chủ
trong đám tang theo khuôn khổ của phường phe.
Trong khi săn bắn phải thấy rõ thú rừng mới được bắn.
Những quy định trong việc bảo vệ trị an xóm bản như: Có kẻ trộm, kẻ
cướp tới bản thì mọi người đều phải có trách nhiệm đuổi bắt.
Không ai được phép gieo cấy trước lễ hội lồng tồng.
Không được loạn luân trong dòng họ.
………………………………………..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
Cư trú ở những vùng xa xôi so với trung tâm quyền lực của Nhà nước
phong kiến trong những bản độc lập mang tính tự nguyện cao, luật tục là
không thể thiếu và chắc hẳn là có vai trò rất to lớn trong mọi mặt đời sống của
đồng bào. Những lệ làng, hương ước ở miền xuôi của đồng bào Kinh cũng có
ý nghĩa tương tự.
Khi mà luật pháp của triều đình còn chưa vươn tới các làng bản cộng với
quyền lực hành chính rất yếu ớt ở đây, người dân chỉ biết đến luật tục và sống
theo những quy định của nó. Luật tục quy định và điều chỉnh tất cả các vấn đề
của cộng đồng bản như: Sử dụng và bảo vệ tài sản công cộng, ma chay, cưới
xin, thờ cúng, lễ hội, các quan hệ làng bản...Như vậy, luật tục “là thuộc phạm
trù ý thức xã hội và kiến trúc thượng tầng.” [4, tr. 941].
Thuộc phạm trù ý thức xã hội nên luật tục mang trong nó những yếu tố
tích cực nhưng cũng không thiếu những yếu tố tiêu cực. Mặt tích cực của luật
tục như: khuyến khích lao động, bảo đảm tính kỷ cương của bản làng, đề cao
tính thật thà, ngay thẳng, cần cù, chăm chỉ, khuyến khích và duy trì các mối
quan hệ tốt đẹp, đạo lý làm người... Mặt hạn chế chủ yếu là sự lỗi thời của nó
so với sự phát triển của cộng đồng, bảo lưu tính cục bộ,...Với cả hai mặt như
vậy, luật tục tồn tại dai dẳng trong cộng đồng làng bản. Sau Cách mạng, nó
vẫn phát huy vai trò với từng bản.
Luật tục là của mỗi làng bản nên khi tìm hiểu về luật tục chúng ta có thấy được
tính đặc trưng và sự khác biệt của mỗi bản, mỗi vùng trong cộng đồng Tày.
Vì không đủ tài liệu làm cơ sở và quá trình điền dã chưa thu được nhiều
kết quả nên chúng tôi buộc phải dừng việc giới thiệu về vấn đề này ở đây.
Luật tục của dân tộc Tày nói chung cần thêm sự nghiên cứu nghiêm túc và
sưu tầm đầy đủ hơn bởi ý nghĩa thực tiễn của nó trong công cuộc xây dựng
nông thôn làng bản mới hiện nay để làm sao loại bỏ phần tiêu cực, chắt lọc
lấy phần tích cực, cải biến nó, nâng cao nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Về vấn đề này, ngày 11/5/1998, Chính phủ đã ra quy chế thực hiện dân
chủ ở xã trong đó có phần khẳng định: “Thôn, làng, ấp, bản xây dựng hương
ước, quy ước về công việc thuộc nội bộ cộng đồng dân cư, kế thừa và phát
huy thuần phong mỹ tục của cộng đồng, phù hợp với quy định của pháp luật
nhằm bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, xây dựng nông thôn mới
giàu đẹp, văn minh. Hương ước do nhân dân xây dựng, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã đề nghị và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt hương
ước, quy ước đó” [Trích theo 16, tr.99].
Ngày nay, những thôn bản của người Tày trên cơ sở phát huy, chắt lọc
những luật tục cũ đều đã xây dựng được những quy chế xây dựng thôn bản
văn hoá mới theo chủ trương của Đảng.
2.2.2. Tổ chức dòng họ
Đối với dân tộc Tày hay với nhiều dân tộc khác, dòng họ là tổ chức xã
hội truyền thống, tổ chức này có ảnh hưởng to lớn đến tất cả các lĩnh vực của
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng dân tộc. Do đó tìm hiểu về
dòng họ giúp chúng ta hiểu rõ hơn đời sống của một tộc người.
Như đã giới thiệu, mỗi bản của người Tày thường có vài họ cùng sinh
sống, bản ít có hai đến ba họ, nhiều có trên dưới mười họ. Không có bản Tày
nào ở Võ Nhai mà chỉ có một dòng họ sinh sống (điều này là có thể có trong
lịch sử). Những bản có quy mô lớn, dân đông thường có nhiều dòng họ, bản
đó thường được lập từ sớm (như trường hợp bản Na Đồng, Na Rang xã Vũ
Chấn). Ngược lại, những bản mới lập, nhỏ có ít họ, ít gia đình và nhân khẩu
hơn. Hệ thống tộc danh của người Tày ở Võ Nhai khá phong phú. Các họ điển
hình có số nhân khẩu đông hơn cả như Hoàng, Ma, Nông, Lý, Nguyễn,
Lương,...
Các dòng họ trong mỗi bản thường có những dòng họ lớn chiếm ưu thế.
Họ có uy tín và có ảnh hưởng lớn đến tất cả các mối quan hệ trong bản. Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
Họ Ma, họ Hoàng ở Na Đồng (xã Vũ Chấn), Họ Nông ở Trường Sơn (xã Cúc
Đường),... Đó là những họ có công khai phá đất đai, lập bản làng. Ở những
nơi đó ít nhiều có tính cục bộ dòng họ.
Về mặt tâm lý và tình cảm, người Tày rất trọng mối quan hệ gia tộc,
dòng họ. Tuy nhiên, từ lâu các mối quan hệ đã giữ vai trò chủ đạo theo kiểu
“bán anh em xa mua láng giềng gần”. Những gia đình trong họ thường ở gần
nhau, họ giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, sản xuất, bênh vực nhau trong quan hệ
xã hội. Trong thôn bản, những mối quan hệ thôn tộc và thích tộc chằng chịt
lẫn nhau. Hầu hết những người trong bản nhất là những bản không lớn lắm
đều có mối quan hệ thân thích với nhau hoặc gần, hoặc xa. Nếu không cùng
một họ thì cư dân trong họ còn có các mối quan hệ thân thích khác thông qua
hôn nhân, nhận con nuôi hay từ việc “mai mối”. Người ta thường rất ngại gây
ra những xung đột, xích mích trong những mối quan hệ, đặc biệt là những
người có họ hàng với nhau. Vì thế trong bản làng thường hoà thuận, ít xô xát,
cãi vã. Lợn, gà thả rông phá phách vườn rau, trâu bò ăn ngô lúa, phá hoại hoa
màu, người ta chỉ xua đuổi, rất ít to tiếng với nhau.
Tuy nhiên, từ lâu bên cạnh mối quan hệ họ hàng rất được coi trọng,
người Tày cũng đặc biệt coi trọng tình làng nghĩa xóm. Quan hệ láng giềng
vẫn được coi là quan hệ chủ đạo trong các làng bản Tày từ rất lâu. Bất kể
những công việc quan trọng của mỗi người, mỗi nhà dù thuộc dòng họ nào
như: làm nhà mới, cưới xin, tang ma,...đều được coi là công việc chung của cả
cộng đồng. Mỗi khi như vậy, dân bản thường xúm lại, mỗi người một việc để
giúp gia chủ và với trách nhiệm cao như khi làm những công việc của nhà họ.
Nói vậy để thấy rằng, trong các làng bản người Tày không chỉ có các mối
quan hệ thân tộc, thích tộc là được người ta coi trọng và vun vén. Đó là những
nét đẹp truyền thống mà không phải nơi nào cũng có được. Điều đó góp phần
quan trọng vào việc xây dựng nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Tổ chức dòng họ của người Tày có nơi chặt chẽ nhưng đa số nơi lại tỏ ra
lỏng lẻo. Ở một số dòng họ người Tày có ghi gia phả ghi lại các mối quan hệ
theo phả hệ và công tích của tổ tiên. Ví dụ như dòng họ Lành ở bản Mỏ Gà,
xã Phú Thượng. Giả phả này cho biết dòng họ đã phải di chuyển chỗ ở từ
huyện Lộc Bình, Lạng Sơn xuống Mỏ Gà vào những năm 40 - Thế kỷ XX do
phải chạy Nhật. Gia phả của họ này ghi bằng chữ Quốc ngữ, cách ghi khá đơn
giản, chủ yếu ghi các thành viên nằm trong dòng họ về năm sinh, năm mất.
Qua điền dã, chúng tôi thấy rằng một số dòng họ Tày nổi tiếng ở vùng Vũ
Chấn, Cúc Đường như.....cũng đều không có chép lại gia phả. Các dòng họ có
gia phả thì đa số đều không giữ được vì bị thất truyền trong chiến tranh hay
các cuộc cải cách xã hội trước đó. Nói chung dù có gia phả hay không thì các
gia đình trong họ vẫn truyền nhau về mối quan hệ huyết thống và tôn trọng
các mối quan hệ này. Trước đây, trong các dòng họ người Tày đều có người
trưởng họ hay trưởng tộc được họ hàng và cộng đồng tôn trọng. Trưởng tộc là
những người có uy tín lớn, họ đại diện cho dòng họ của mình trong quan hệ
với các dòng họ khác trong và ngoài bản. Vì vậy họ thường có tiếng nói quyết
định trong các mối quan hệ nội bộ dòng họ. Những người trưởng tộc cũng
thường tham gia vào bộ máy tự quản của làng bản. Ngày nay, ở hầu hết các
dòng họ Tày không còn duy trì người trưởng họ. Quyền hành thường thuộc về
những người gia trưởng trong từng gia đình. Ở các dòng họ của người Tày Võ
Nhai thường không thấy có từ đường riêng, ruộng hương hoả do vậy mà có lẽ
cũng không tồn tại.
Trong các dòng họ Tày ngày nay không có cúng giỗ, nhưng việc tập hợp
các thành viên trong họ, hoặc xa, hoặc gần như ở người Kinh, ngày mất của
ông bà tổ tiên nếu nhớ ra hoặc tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình mà họ
thường thắp hương tại gia. Họ thường làm lễ hoặc giỗ chung khi xem và thấy
có “động”. Mặc dù tổ chức dòng họ của người Tày nhìn về hình thức có vẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
mờ nhạt, lỏng lẻo, nhưng thực chất mối quan hệ giữa các thành viên trong họ
vẫn được duy trì một cách bền chặt.
Mỗi dòng họ thường có những quy định riêng mang tính đặc trưng,
nhưng không đáng kể. Những quy định riêng của các dòng họ phải tuân thủ
luật tục của làng bản. Những nét chung nhau thường phổ biến hơn, ví như:
Người cùng một, họ không kể bao nhiêu đời nếu cùng thờ tổ tiên thì tuyệt đối
không được lấy nhau. Người Tày có câu: “Lục ca, lục noóng ảu cẳn hắm hải
lục ca, lục noóng ảu cẳm đay kỉn” (con anh, con em lấy nhau chém chết, con
chị, con em lấy nhau được ăn). Các họ đều quy định và cũng là tục lệ hằng
năm vào tết Thanh minh (3/3 âm lịch), mỗi nhà cử một người lập thành đoàn
đi đắp mộ tổ và mồ mả riêng của cha ông từng gia đình. Mỗi họ thường có
một khu nghĩa địa chung được các gia đình trong họ cùng đóng góp xây dựng
và bảo vệ. Khi dọn dẹp và khấn vái xong, họ cùng nhau thụ lộc, đấy là dịp ôn
lại truyền thống dòng họ. Dù có hay không người trưởng họ thì mỗi khi có
công việc chung, mọi người trong họ lại họp với nhau do tộc trưởng hoặc
những người già nhất trong họ chủ trì.
Nói chung, tổ chức dòng họ của người Tày cũng như phần lớn các dân
tộc khác được cố kết chặt chẽ giữa các thành viên với nhau bởi nguồn gốc tổ
tiên chung, gia phả cũng như những quy định và truyền thống của dòng họ.
Sự vận hành của nó dựa vào luật tục, tình cảm, ý thức,… của các thành viên
trong dòng họ. Tổ chức dòng họ của người Tày ở Võ Nhai ngày nay nói riêng
và của dân tộc Tày nói chung vẫn chưa có biểu hiện giảm sút vai trò. Mặt tích
cực của nó là rất lớn trong việc cố kết các thành viên trong cộng đồng cũng
như trong việc bảo lưu nhiều nét văn hoá tốt đẹp của dân tộc Tày. Đây là điều
rất đáng lưu tâm với các cấp chính quyền trong việc khuyến khích và chỉ đạo
soạn thảo các quy chế chung của làng bản nhằm xây dựng nông thôn mới
trong vùng đồng bào dân tộc Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
2.2.3. Các tổ chức có tính chất xã hội
Tổ chức xã hội được coi là điển hình và có tổ chức chặt chẽ nhất trong
các bản người Tày từ xưa đến nay là phường đám ma. Phường này, người Tày
gọi là phường phe, chuyên lo việc tang ma giúp gia chủ trong những ngày có
tang. Phường phe đã có từ lâu đời trong các bản Tày (cả các bản của người
Nùng). Người Tày quan niệm việc con cái báo hiếu cho cha mẹ là vô cùng hệ
trọng. Con cái phải lo việc an nghỉ cuối cùng cho cha mẹ mình hết sức chu
đáo thì mới được cộng đồng yêu quý và tôn trọng. Vì vậy, một đám ma người
Tày tốn kém và phức tạp hơn bất kỳ một công việc nào của mỗi gia đình.
Phường phe ra đời, hoạt động và có vai trò lớn cũng là vì thế.
Khác với ở nhiều nơi, phường phe của người Tày ỏ Võ Nhai thường phụ
thuộc vào đơn vị bản. Một bản dù lớn hay nhỏ cũng đều có một phe. Ở những
bản có hơn một dân tộc cùng cư trú thì phe cũng kết nạp cả những thành viên
từ các dân tộc đó, miễn là họ tự nguyện xin vào. Ví dụ, phường phe ở các bản
Mỏ Gà, Phượng Hoàng, xã Phú Thượng ngoài người Tày còn bao gồm cả
những thành viên là người dân tộc Kinh, Nùng cư trú tại hai bản đó. Các phe
thường không bao giờ kết nạp các thành viên là người của bản khác vào tổ
chức của mình. Phường phe ở đây có tính chất mở nhưng cũng đóng kín một
cách nghiêm ngặt.
Tổ chức phường phe ở Võ Nhai cũng như của người Tày ở nhiều nơi
khác có quy chế hoạt động rõ ràng, có nơi thành văn. Ví dụ: Những quy định
về việc đóng góp bao nhiêu gạo, tiền, rượu cho mỗi đám; quy định về việc xử
lý các thành viên vi phạm; quy định về việc phạt những người đã đủ điều kiện
tham gia mà cố tình không tham gia vào phe. Những quy định này thường có
những điểm khác nhau, tuy không lớn giữa các phe ở các bản khác nhau.
Điểm giống nhau phần lớn giữa các phe đó là các hình thức kỷ luật và xử phạt
thường rất nghiêm khắc. Quy chế hoạt động của phe thường quy định mỗi gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
đình dù lớn hay nhỏ cũng phải cử 1 người tham gia vào phe. Gia đình nhỏ
mới tách ra ở riêng của những cặp vợ chồng mới cưới không quá 3 năm sau
phải tham gia vào phe. Nếu sau 3 năm mà họ cố tình không tham gia vào phe
thường bị phường phe “để ý” và nếu họ muốn tham gia vào phe thì sẽ bị phạt.
Chậm càng lâu thì bị phạt càng nặng. Có phe còn phạt những gia đình như thế
cả một con lợn để phe “ăn vạ”, và rõ ràng là không gia đình nào muốn điều
đó. Nếu không hoặc chưa kịp tham gia vào phe mà gia đình có tang thì gia
chủ sẽ rất vất vả trong tang lễ. Người ta sẽ chỉ đến phúng viếng chứ không hộ
gia chủ bất cứ một việc gì. Vì vậy, họ thường tự nguyện và nhanh chóng tham
gia vào phe khi đủ điều kiện. Các thành viên trong phe thường sợ nhất là vi
phạm và bị phạt với hình thức cao nhất là bị trục xuất ra khỏi tổ chức này. Đối
với họ đó là một tai hoạ, không những khi nhà có tang mà còn cả vấn đề danh
dự với làng bản nữa. Tuy nhiên, điều này đặc biệt hiếm khi xảy ra. Nghe các
cụ cao niên truyền lại thì chưa có trường hợp nào như vậy ở trong các phe.
Người ta thường tự giác chấp hành mọi công việc được phân công với ý thức
rất cao.
Tổ chức phường phe của người Tày ở Võ Nhai đặc biệt chỉ tham gia vào
công việc tang lễ. Ở một số nơi, các phường phe ngoài việc tham gia giúp đỡ
tang chủ trong tang lễ là chính thì họ còn kiêm thêm một vài nhiệm vụ khác
như: cũng tham gia vào các đám cưới, dựng nhà hoặc tham gia hoà giải khi
các thành viên có xích mích riêng tư. Phe ở Võ Nhai không như vậy. Người
Tày ở Võ Nhai quan niệm nhắc đến phường phe là có chuyện không hay. Vì
vậy, người ta coi chuyện nhắc đến tổ chức này là những điều kiêng kỵ thậm
chí cấm kỵ. Phe ở đây thường không có quỹ riêng, không có ngày họp ấn
định. Các thành viên chỉ có mặt đông đủ khi làng bản có đám. Dù bận đến
mấy họ cũng không vắng mặt, bất đắc dĩ lắm họ phải nhờ họ hàng, anh em đi
giúp mình việc của phe. Mỗi dịp có đám như vậy là điều kiện để phe họp lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
bàn bạc, rút kinh nghiệm, nhắc nhở những việc làm chưa tốt và những thành
viên không hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đó cũng là lúc phe bầu ra những ông
trùm mới.
Điều hành tất tất thảy mọi hoạt động của phe là một hoặc hai (mà ở Võ
Nhai thường là 2) người đứng đầu gọi là trùm trưởng hoặc trùm phe, một
trùm trưởng và một trùm phó. Đặc biệt, ở bản Na Đồng, xã Vũ Chấn từ lâu đã
có hai ông trùm nhưng đều là trưởng. Bản này có hai khu cách biệt nhau qua
một con suối, khi có đám ở khu nào thì ông trùm ở đó làm trưởng. Tuy gọi là
được bầu nhưng người ta quan niệm “ thôn lần, xã lượt” luân phiên nhau, đến
lượt là phải làm khi được tín nhiệm. Điều kiện để làm trùm phe không có gì
đặc biệt, họ chỉ cần là những hội viên. Tuy nhiên, người ta thường ưu tiên bầu
trùm phe là những người cao tuổi, có uy tín và biết tổ chức. Nhiệm kỳ của
mỗi trùm phe là “ba ca” (ba đám tang), hết ba ca người ta lại bầu ông trùm
khác. Vì vậy, có những ông trùm “mát tay” khi làm cả vài năm mà vẫn chưa
đủ ba đám tang trong bản, chưa hết nhiệm kỳ. Ngược lại, có những ông trùm
“sát” có khi chỉ một tháng đã mãn nhiệm.
Khi nhà có đám thì ngay lập tức gia chủ sẽ báo cho ông trùm. Trùm phe
sẽ có trách nhiệm thông báo cho hết thảy các thành viên. Khi chuẩn bị vào
công việc, ông trùm sẽ tập hợp mọi người dưới sàn và điểm danh từng nhà,
sau đó cắt đặt phân công công việc cụ thể cho từng tổ nhóm, thậm chí từng
người từ lấy củi, làm bếp, đào huyệt,... Ở những phe có hai ông trùm hoặc có
trùm trưởng và trùm phó thì thường là một người phụ trách chung tại nhà gia
chủ, một người phụ trách chung ngoài đồng. Mỗi người đều phải chịu trách
nhiệm về công việc mà họ đã được phân công. Trùm phe có sổ sách ghi tất cả
những quy định riêng của phe, tên các thành viên và quan trọng hơn là ghi rõ
đóng góp của mỗi thành viên trong các đám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Trong các đám tang, quyền lực của trùm phe và ý chí của các thành viên
có khi còn lấn át cả quyền của tang chủ, mọi việc trong đám tang, tang chủ
thường phải hỏi ý kiến của trùm phe, kể cả việc để người chết trong nhà mấy
ngày. Ví dụ: nếu trùm phe và các thành viên quyết định chỉ tổ chức đám tang
02 ngày mà gia chủ lại muốn để trên 02 ngày thì phải thống nhất. Gia chủ tự
quyết định mà không theo ý kiến của trùm phe thì sẽ phải tự lo trong những
ngày còn lại. Nói chung, trùm phe là người quyết định hầu hết và điều hành
mọi việc trong đám tang, các thành viên khác làm mọi công việc, tang chủ chỉ
việc hành lễ và tạ lễ. Phe sẽ lo tất cả.
Có một điều đặc biệt trong tổ chức phường phe của người Tày ở Võ Nhai
là dù đám tang có diễn ra mấy ngày thì các thành viên cũng chỉ được ăn tại
đám một bữa, thường là bữa khi đã đưa đám xong. Sau mỗi đám như vậy, các
thành viên đều không có công cán gì. Trùm phe, tuỳ theo quy định của mỗi
phe mà được gia chủ “trả công” bằng quà biếu có khi ½ kg thịt lợn, một chiếc
chân giò hoặc đĩa xôi và thịt gà...
Tổ chức phường phe của dân tộc Tày không khác gì mấy so với dân tộc
Nùng. Người Kinh và một số dân tộc khác cũng có những tổ chức tương tự,
tuy nhiên khác về tên gọi, quy chế và phạm vi hoạt động.
Có thể nói, phường phe là một tổ chức thuần tuý mang tính chất xã hội,
phi chính trị, phi quan phương nhưng có tổ chức chặt chẽ nhất và có vai trò
quan trọng nhất trong những đám hiếu nói riêng và trong việc cố kết tinh thần
cộng đồng nói chung trong các bản Tày. Nó ra đời và tồn tại đến tận ngày nay
là xuất phát từ nhu cầu muốn làm một đám hiếu thật chu đáo trong những
điều kiện còn khó khăn của đồng bào. Nó cũng xuất phát và có nền tảng từ
truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái đã có từ lâu đời trong cộng đồng.
Mọi thứ trong những làng bản Tày đều đã ít nhiều thay đổi, nhưng phường
phe vẫn còn đó và hoạt động hiệu quả hơn. Nó vẫn giữ nguyên vai trò của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
mình trong các bản Tày. Chúng ta cần phải nhận thấy đó là một nét đẹp vừa
đặc trưng, vừa mang tính chất truyền thống của đồng bào. Nó cần được giữ
gìn và phát huy. Muốn nuôi dưỡng, thực hiện quy chế xây dựng làng bản văn
hoá cũng như xây dựng nông thôn mới trong việc có người Tày cư trú thì
ngoài những hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ hoà giải và các tổ
chức đoàn thể khác trong vùng này còn phải tính đến, tôn trọng và phát huy
vai trò tích cực của tổ chức phường phe.
Ngoài phường phe là tổ chức có tính chất xã hội điển hình như đã giới
thiệu thì trong các làng bản người Tày ở Võ Nhai hầu như không thấy tồn tại
những hội tương trợ khác. Ngoài đám tang, những công việc lớn khác của mỗi
gia đình dù không có hội tương trợ, nhưng dân làng nếu được gia chủ nhờ tới
cũng giúp đỡ rất nhiệt tình như công việc của nhà họ. Tình làng, nghĩa xóm
sâu nặng là một nét đẹp nữa trong các bản của người Tày. Ngày nay, trong
các bản Tày đều tồn tại các hội đoàn thể. Những hội này góp phần làm khăng
khít thêm tinh thần cộng đồng, cũng như tiếp tục phát huy tính đoàn kết,
tương thân, tương ái trong các bản làng.
2.2.4. Kiến trúc công cộng và các hoạt động cộng đồng
2.2.4.1. Kiến trúc công cộng: Trong các dạng nhà công cộng của người
Tày ở Võ Nhai phổ biến nhất là đình bản và miếu thờ thổ công
Đình là nơi để thờ Thành hoàng, thờ những người có công lập và bảo vệ
bản làng, thờ cả anh hùng dân tộc. Trong các bản Tày xưa ở Võ Nhai hầu như
bản nào cũng có Đình. Có khi vài bản chung một đình. Những ngôi đình nổi
tiếng chúng ta có thể kể đến ở vùng này là: Đình Mỏ Gà (bản Mỏ Gà- Xã Phú
Thượng) được xây dựng trước năm 1938, được vua Khải Định ban sắc phong.
Đình thờ ba vị thần là: Đức ông Tăng Đạo, Đức ông Hoàng minh Đại vương,
và Đức vua Thần nông. Đình Cúc (bản Cúc – Xã Cúc Đường) thờ năm vị
thành hoàng. Đình Thượng Nung ( xã Thượng Nung ); Đình Na Đồng (Đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
Đầu – Xã Vũ Chấn) đều là những ngôi đình được cấp sắc phong. Trong đó
đình Thượng Nung được coi là lớn và đẹp nhất. Điểm chung của những ngôi
đình lớn ở khu vực 6 xã phía Bắc Võ Nhai là ngoài thờ Thần nông và các vị
thành hoàng khác thì đề có thờ cả anh hùng dân tộc, thần Dương Tự Minh
được rước từ đền Đuổm sang.
Qua điều tra chúng tôi thấy được những ngôi đình bản của người Tày ở
đây chủ yếu được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có
ngôi được dựng sớm hơn nữa. Việc xây dựng đình là công việc chung của
bản, mỗi nhà đều phải cử người tham gia đóng góp ngày công, tuỳ theo suất
đình mà số lượng gỗ, vật liệu đóng góp để dựng đình có thể ít hay nhiều.
Ngoài ra, họ cũng phải góp tiền để thuê thợ dựng đình. Thợ chính xây dựng
hầu hết là người Kinh thuê từ dưới xuôi lên.
Việc xây dựng đình khá công phu và phải qua nhiều giai đoạn: chọn đất,
chọn địa điểm dựng đình do thầy mo, thầy địa lý đảm nhiêm. Theo quan niệm
truyền thống của đồng bào thì hướng đình tốt nhất là hướng Đông – Tây, có
sông suối uốn mình là rất tốt, hay sông, suối núi trùng điệp bao quanh lại càng
tốt hơn. Dựng đình phải tránh nơi có con suối chạy thẳng vào đình rồi đột
ngột rẽ đi, tránh vách núi đứng thẳng ngay trước mặt đình. Nhìn chung, đình
bản được dựng ở những nơi thoáng đãng, rộng rãi, thường là giữa cánh đồng,
có cây cổ thụ và mặt bằng thuận lợi cho việc tổ chức vui chơi, lễ hội. Ví dụ
như: Đình Na Đồng, còn gọi là Đình Đầu được dựng ở giữa cánh đồng 40
mẫu. Đình Cúc được dựng tại hung lũng bằng phẳng nay là cánh đồng trung
tâm xã Cúc Đường. Đình Mỏ Gà cũng toạ lạc giữa một vùng đồng rộng. Ngày
khởi công dựng đình được chọn rất cẩn thận và đều phải là những ngày tốt,
mỗi ngôi đình bản của người Tày thường phải dựng trong vòng vài tháng
mới xong.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Đình thường có kết cấu bốn mái và bị ảnh hưởng lớn bởi kỹ thuật dựng
nhà sàn cùng với kỹ thuật dựng đình của người Việt. Các ngôi đình thường
được lợp bằng gianh, lá cọ và cả ngói âm dương. Gỗ để dựng đình thường
được chọn rất cẩn thận, chủ yếu là những loại gỗ quý trong vùng như: nghiến,
lát, táu... Ví như đình lớn nhất vùng là đình Thượng Nung, nhân dân ở đây
còn truyền lại rằng Đình có tới 60 cột to một người ôm không xuể, các cột
đều bằng nghiến rất tốt. Cột là cột tròn được bào nhẵn, không chôn mà kê đá
tảng. Nội thất của đình được trang hoàng lộng lẫy bằng sơn son thiếp vàng,
những câu đối bằng chữ Hán, hình rồng chầu... Suốt hàng thế kỷ, đình này là nơi
sinh hoạt văn hoá cộng đồng nổi tiếng và là niềm tự hào của cư dân trong vùng.
Về kết cấu mặt bằng, đình được lát bằng gỗ ván cách mặt đất 30-40 cm,
chỉ trừ một nửa gian giữa vì đấy là đường tiến vào khi hành lễ. Sân đình ở hai
bên dành cho những già bản và người có chức vị ngồi. Đây là những dấu vết
đậm nét của ngôi nhà sàn truyền thống được đưa vào đình. Ở những ngôi đình
lớn như đình Thượng Nung và đình Cúc thì chính giữa là cung đường có quy
mô lớn, gian giữa là nơi làm lễ. Điện thờ có đủ các tượng thần. Tổng thể
chiều dài của một ngôi đình có thể lên đến trên 20m.
Trong các bản Tày, đình là trung tâm của các hoạt động cộng đồng: thờ
cúng, tín ngưỡng, vui chơi, hội họp, bàn bạc... Đình bản và những sinh hoạt
tại đó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc cố kế mối quan hệ tình làng
nghĩa xóm giữa những người dân, những gia đình và dòng họ trong bản. Việc
thờ cúng chung và sinh hoạt văn hoá cộng đồng là những nét cơ bản nhất
trong tính chất của đình bản ở người Tày.
Đình bản cũng là ví dụ điển hình và là biểu trưng cho sự gần gũi văn hoá
giữa người Kinh và người Tày ở nơi đây. Văn hoá của người Kinh đã ảnh
hưởng khá mạnh ở vùng này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Đình thì hầu hết bản nào cũng có, nhưng chùa thờ Phật thì lại vắng bóng
ở khu vực này.
Ngoài đình bản thì ở vùng này bản nào cũng có miếu thờ thổ công chung,
dù là bản lớn hay bản nhỏ, lâu đời hay mới thành lập. Miếu thờ thổ công đều
do những người đầu tiên dựng bản lập nên.
Về quy mô, miếu không lớn bằng đình. Miếu thường được làm bằng gỗ
hoặc tường trình, mái lợp gianh hoặc ngói máng. Miếu dựng bằng gỗ có hình
dáng giống như những ngôi nhà sàn thu nhỏ. Phần sàn chính là bệ thờ. Miếu
là nơi gắn liền với những nghi lễ tôn giáo- tín ngưỡng truyền thống của người
Tày nơi đây cũng như dân tộc Tày ở các địa phương khác.
Miếu được coi là nơi linh thiêng thường đặt tại đầu bản, dưới những gốc
cây cổ thụ, thường là cây đa (như miếu thổ công ở bản Cúc) xung quanh là
rừng cấm, không ai dám tới chặt nên rậm rạp (miếu bản Na Đồng và nhiều
bản khác ).
Nói chung về những kiến trúc công cộng thì người Tày gần giống với
người Nùng và một số dân tộc khác cùng ngữ hệ. Đình bản thì phổ biến hơn
người Nùng và chịu ảnh hưởng mạnh của văn hoá đình làng của người Kinh.
Tuy nhiên tính đến thời điểm này, những ngôi đình bản Tày ở Võ Nhai hầu
hết không còn tồn tại, chỉ còn vài ngôi với quy mô và vai trò khác trước nhiều
như: đình Thượng Nung, đình Mỏ Gà. Miếu thổ công cũng còn rất ít ở vùng
này. Người ta thờ thổ công tại những ban, miếu nhỏ được lập tại nhà là chủ
yếu. Những kiến trúc quan trọng nhất với sinh hoạt văn hoá cộng đồng truyền
thống của người Tày nơi đây đang đứng trước nguy cơ mất hẳn. Về vấn đề
này chúng tôi xin được trình bày kỹ hơn tại phần những biến đổi của bản Tày
từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
Như vậy, đình bản và miếu thờ thổ công chung là hai công trình kiến trúc
quan trọng nhất trong các làng bản Tày truyền thống. Chúng có mối quan hệ
mật thiết với các hoạt động thờ cúng chung và lễ hội của cộng đồng.
2.2.4.2. Các hoạt động cộng đồng
Trong các bản người Tày ở Võ Nhai, những hoạt động cộng đồng đáng
chú ý nhất là thờ cúng chung và lễ hội. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào
giới thiệu hai vấn đề này với những nét đặc trưng và điển hình cho những
hoạt động cộng đồng của làng bản.
Thờ cúng và lễ hội (lễ và hội) ở vùng dân tộc Tày cũng như nhiều dân
tộc khác luôn gắn liền với nhau. Lễ và hội bổ sung, hoà quyện với nhau càng
làm cho những sinh hoạt cộng đồng có ý nghĩa tưng bừng hơn. Là cư dân
nông nghiệp lúa nước từ bao đời, lễ hội của các làng bản người Tày ở Võ
Nhai thể hiện rõ tín ngưỡng nông nghiệp. Nó gắn với nhịp điệu mùa màng ở
nơi đây. Người ta thường tổ chức cúng thần và lễ hội vào những dịp “thong
thả dân gian nghỉ việc đồng”, những thời điểm “ xuân thu nhị kỳ”.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng với quy mô
không thể to lớn hơn so với bất kỳ hình thức sinh hoạt văn hoá nào trong
truyền thống. Lễ hội người Tày chắc chắn cũng như của nhiều dân tộc
khác, có nguồn gốc từ sinh hoạt tín ngưỡng, đến một thời điểm văn hoá
tương đối phát triển. Từ hạt nhân có ý nghĩa hội tụ lòng tin hư ảo, con
người tiến lến biểu dương sức sống mãnh liệt của mình dưới hình thức cả
cộng đồng. Phần “Hội” ngày càng phát triển phức tạp trên cơ sở gắn bó
chặt chẽ với các nghi thức đặc thù được toàn thể cộng đồng chấp nhận.
Khi hội gắn liền với lễ, yếu tố tín ngưỡng chỉ còn là một động lực. Con
người giữa cộng đồng đến với lễ hội có một phần hấp dẫn theo cái động
lực ấy để cùng bày tỏ những mơ ước, khát vọng con người trong niềm
cộng cảm thiêng liêng: cầu khoẻ mạnh, sống lâu con đàn cháu đống (cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
mình và cộng đồng mình), cầu cây trái bông to, quả mập hạt (ngũ cốc),
cầu gia cầm gia súc sinh sôi...con người đến với lễ hội còn với động lực
khác:sự cộng sinh, sự hoà hợp đem lại cho họ niềm sức mạnh,niềm hân
hoan vui sướng. Trong tâm lý tràn đầy hứng khởi, con người hơn lúc nào
hết có dịp để phô diễn khả năng, sức lực và vẻ đẹp của mìn. Chính vì lẽ
đó, ở lễ hội người ta sống hết mình trong những hành động có tính quy
ước của cả cộng đồng, đã trở thành truyền thống có tính dân tộc. Ở lễ
hội, người ta có dịp “thăng hoa” một vẻ đẹp của cộng đồng dưới dạng
kết tinh, mọi người đều cùng môt ý nghĩ: Mặc đẹp nhất; nói hay nhất;
múa khéo nhất; ăn ngon nhất; vui chơi thoải mái nhất. Trong không khí
trống chiêng động trời, mầu cờ sắc áo rực rỡ chan hoà không gian trở
nên bao la, lòng người trở nên náo nức, người ta thi tài, thi khoẻ, chọn
bạn trăm năm, cầu được ước thấy. Lễ hội ở miền xuôi đã vậy, ở miền núi
càng như vậy. Giữa thảm xanh đại ngàn, người Tày ra khỏi nhà gặp
suối, ra khỏi ngõ gặp rừng, họ tìm đến hội găp tính (tức đàn tính). Nói
như vậy đủ biết lễ hội có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong đời sống
tinh thần của đồng bào [18].
Lễ hội quan trọng nhất trong năm của người tày ở Võ Nhai là hội xuống
đồng (theo tiếng Tày là “lồng tồng”) được tổ chức vào tháng giêng âm lịch
hàng năm. Ngoài ra, không thấy tồn tại các lễ hội khác. Lễ hội được tổ chức
tại khuôn viên khu vực đình bản. Ngày tổ chức hội trong khu vực của những
bản khác nhau thường được bố trí lệch nhau vài ngày, ít khi trùng nhau. Đình
Cúc tổ chức hội vào ngày 12 tháng giêng. Đình Mỏ Gà 18 tháng giêng, ...
Người ta tổ chức như vậy cốt để mời đươc đông khách thâp phương, những
người đồng tộc, đồng bào ở những khu vực lân cận tới dự hội của bản mình.
Trong các đình bản Tày ở Võ Nhai có chức danh được gọi là “Ông xôn’’
trông coi, cai quản đình. Ông được dân bản bầu ra với nhiệm kỳ 3 năm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
thường là luân phiên giữa các người già trong bản. Chuẩn bị lễ hội, ông xôn
có trách nhiệm cùng với trưởng bản và những người cao tuổi trong bản lên kế
hoạch. Ông cũng là người kiểm tra các mâm cỗ trong ngày hội do từng gia
đình mang đến.
Cỗ trong lễ hội lồng tồng được chia ra làm 2 loại là cỗ chung và cỗ riêng.
Cỗ chung, còn được gọi là cỗ “tam sinh” phải đủ 3 món thịt trâu, lợn, gà hoặc
lơn, dê, vịt. Phần cỗ riêng là trách nhiệm đóng góp của mỗi gia đình. Theo
luật tục của các bản thì cỗ riêng được quy định là một xuất đinh phải góp một
mâm. Các món trong những mâm cỗ riêng của mỗi gia đình thường được quy
định tối thiểu ít nhất thường có thịt gà, gạo nếp, một vài loại bánh và một chai
rượu. Tuy được coi là trách nhiệm nhưng các gia đình thường coi đây là
quyền lợi thiêng liêng của mình và rất vui vẻ chuẩn bị. Người ta cố gắng làm
mâm cỗ nhà mình sao cho càng to, càng thịnh soạn càng tốt, nhằm được “mát
mặt” với dân bản và tuyệt đối không muốn bị nhắc nhở, cảnh cáo sau khi ông
xôn kiểm tra mâm cỗ nhà mình. Phần cỗ riêng của mỗi gia đình mang đến
đóng góp này, sau khi chủ tế làm lễ xong được ngả ra ăn ngay tại đình, mọi
người dù là dân bản hay khách thập phương đến đều được ăn cỗ bình đẳng và rất
vui vẻ. Hội càng đông khách đến dự càng đông vui và được coi là thành công.
Ngoài làm cỗ, công tác chuẩn bị còn có các công việc như: làm mặt bằng
để tổ chức các trò chơi, làm quả còn, vòng khuyên,... và rất nhiều công viêc
khác như thu quỹ để trao giải trong các trò chơi. Những công việc này đều
được phân công cụ thể cho các gia đình, thậm chí đến từng thành viên. Những
hội lồng tồng truyền thống trong khu vực thường được tổ chức làm sao cho
năm sau lớn hơn năm trước. Ý thức tự giác, tự trọng và tự tôn được người dân
trong mỗi bản thể hiện rõ qua những lễ hội này. Dù đang bận rộn cộng việc
đến đâu thì mọi người dân và gia đình trong bản cũng sẵn sàng gác lại với
một tâm lý rất háo hức chuẩn bị và đón chờ ngày hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
Công tác chuẩn bị đã xong và người ta thường tổ chức lễ hội trong 2
ngày. Nghi thức đầu tiên trong lễ hội là lễ tế thần nông. Người phụ trách việc
tế lễ trong lễ hội thường là các thầy Tào. Mục đích là cầu cho mưa thuận gió
hoà, việc đồng áng được thuận lợi, mùa màng trong năm được bội thu, mọi
người được khoẻ mạnh sống lâu. Vì vậy, lễ hội tế thần và nghi thức rước thân
nông được tổ chức rất long trọng và cẩn thận. Sau nghi lễ đó, có thể tuỳ theo
bản sẽ có một lão nông có kinh nghiệm và thành quả làm ăn tốt được mời để
hạ một đường cày tượng trưng có ý nghĩa khai vụ tại mảnh ruộng gần đình bản.
Phần lễ kết thúc, ông chủ tế sẽ tuyên bố mọi người được phá cỗ vui vẻ và
chơi rất nhiều trò chơi trong dân gian. Các trò trong những ngày lễ hội lồng
tồng của vùng này phổ biến gồm: thi đấu cờ người, kéo co, thi bắn, hát lượn,
đấu vật,.... Trong đó quan trọng nhất và không bao giờ thiếu trong những dịp
lễ hội này là trò chơi tung còn. Nó mang đậm tín ngưỡng phồn thực, đồng
thời cũng hết sức vui vẻ nên thu hút rất nhiều thanh niên nam, nữ tham gia.
“Họ quan niệm “pỏng còn” tức là cây mai uốn ngọn là cây vũ trụ, quả còn là
vật giao duyên, những hạt bông, hạt thóc trong quả còn đã trở thành vật
thiêng sau một hành động giao phối âm, dương tượng trưng. Mỗi mâm cỗ có
bầy 2 quả còn là đủ đôi. Quả còn là những hạt mầm sống trong đó đã được
truyền hơi ấm của 2 người, giữa ngày xuân vạn vật sinh sôi nảy nở. Ý niệm và
hành động lễ thức phồn thực ở trò chơi tung còn thật sâu sắc và tế nhị”
[18, tr.240- 242].
Qua điền dã, chúng tôi thấy môt điều đặc biệt trong lễ hội lồng tồng của
người Tày ở Võ Nhai là cùng với các trò chơi dân gian phong phú thì có thêm
cả hát “Nhà tơ” (hát ca trù) và hát chèo. Ở các đình Thượng Nung và đình
Cúc thì các đội hát nhà tơ, chèo thường được thuê từ dưới xuôi lên, tại các xã
như Nghinh Tường, Vũ Chấn thì trong ngày hội những đội hát nhà tơ được
thuê từ Lạng Sơn xuôi xuống. Hát nhà tơ và hát chèo được tổ chức tại đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
cho dân bản xem, còn hát sli, lượn chỉ được tổ chức tại các gia đình. Hình
thức này thêm một lần nữa cho thấy sự giao lưu văn hoá Tày-Kinh và ảnh
hưởng của văn hoá đình làng Việt là lớn như thế nào đối với người Tày ở
vùng này. Ngoài ra, người dân nơi đây cũng rất chuộng hát then, thường nhà
nào cũng có đàn tính.
Dù xét theo khía cạnh nào thì lễ hội lồng tồng cũng mang rất nhiều ý
nghĩa đối với người Tày, nó thắt chặt quan hệ cộng đồng, tình làng nghĩa
xóm, phát huy ý thức tự giác và tinh thần cộng đồng của người dân. Trong lễ
hội, người ta không phân biệt người của họ này hay họ kia, người của gia đình
nào, dân gốc hay người mới nhập cư vào bản. Mọi người cùng đoàn kết, cùng
chung sức và có nghĩa vụ, quyền lợi như nhau trong việc tạo ra và hưởng thụ
những gì mà lễ hội mang lại. Đó thực sự là một nét đẹp truyền thống của họ.
Lễ hội lồng tồng kết thúc cũng báo hiệu những ngày thong thả vui chơi
của dân bản cũng tạm thời chấm dứt. Mọi người bắt tay vào công việc với
những vụ mùa mới và lại hẹn nhau vào ngày hội năm sau.
Thật đáng tiếc là khoảng vài chục năm trở lại đây, khi mà những ngôi
đình bản vì nhiều lý do đã vắng bóng thì hội lồng tồng cũng gần như không
còn tại vùng này. Nếu không được khôi phục, nó sẽ chỉ còn tồn tại trong trí
nhớ mơ hồ của các cụ cao niên trong vùng. Vấn đề này, chúng tôi xin được
tiếp tục trình bày trong chương cuối cùng của luận văn.
Lễ hội ở vùng Tày Võ Nhai không được phong phú như ở vùng Cao
Bằng, hay Định Hoá, Đại Từ. Nhưng, những nghi thức cúng tế liên quan đến
mùa màng, nông nghiệp thì cũng thấy có khá đầy đủ.
Ngoài lễ hội Lồng Tồng thì hàng năm theo chu kỳ tại đình bản và miếu
người ta thường tổ chức các dịp cúng vào tháng 4 (lễ cầu mưa), tháng 7, tháng
8 và tháng chạp âm lịch. Người Tày không có vị thần chung của toàn dân tộc.
Ở võ nhai người Tày phổ biến thờ thần nông, thần thổ công, có thờ cả anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
hùng dân tộc (Dương Tự Minh), cũng có nơi thờ linh vật, người dân vùng Mỏ
Gà, Phượng Hoàng thờ Thần núi 1 và nhiều vị thần khác: Thần nước, Thần
sông, Thần lửa,...
Các dịp cúng tế vào các tháng kể trên cũng vẫn thường được tổ chức tại
đình bản, miếu. Dân bản cũng phải đóng góp lễ vật, hoặc tiền mua cả một con
lợn để giết thịt làm lễ. Người chủ tế vẫn là những thày tào. Mỗi gia đình cử
một người tham gia, lễ xong thường tổ chức ăn uống ngay tại đình. Còn tại
miếu thờ thổ công chung của bản thường thì người ta tổ chức cúng tế vào dịp
cuối năm. Các gia đình cử người tham gia dọn dẹp, sửa sang lại miếu và cũng
đóng góp lễ vật để cúng tế. Thày tào làm lễ xong thì mọi người mang lễ vật về
nhà ông xôn ăn uống. Thường thì người ta ít tổ chức cúng tế và động đến
miếu trừ khi có những việc bất trắc: Bệnh tật, tai hoạ gì đó thì họ mới mang lễ
vật đến cúng tế với mong muốn nhờ thần thổ công bảo vệ, che chở.
Ngày nay khi những ngôi đình không còn thì những lễ cúng tế chung như
vậy cũng vắng bóng. Các ngôi miếu thờ thổ công chung cũng không thấy còn
tồn tại nhiều. Văn hoá tín ngưỡng của người Tày ở vùng này đang bị mai một
nhanh chóng nếu không có những tác động tích cực từ phía chính quyền địa
phương và từ ý thức của người dân.
2.3. Những đặc trƣng và vai trò của làng bản trong lịch sử
2.3.1. Tính chất đặc trƣng của làng bản cổ truyền của ngƣời Tày ở Võ Nhai
Qua việc tìm hiểu về không gian sinh tồn, hoạt động kinh tế, cơ cấu tổ
chức cũng như các hoạt động văn hoá tinh thần trong các làng bản Tày ở Võ
Nhai, chúng ta thấy nổi lên những nét đặc trưng mang tính chất truyền thống
như sau:
1) Đất - nước - rừng là ba yếu tố sinh thái tự nhiên cơ bản và tạo ra định
hướng cho nền kinh tế truyền thống của cư dân trong làng bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
2) Các làng bản Tày ở Võ Nhai trong lịch sử đều là những làng bản thuần
nông. Nguồn sống chính của họ là kết quả của những vụ mùa lúa nước. Cư
dân tuyệt đại đa số là nông dân.
3) Làng bản có cơ cấu tổ chức thống nhất, hội đồng già làng, trưởng bản
có vai trò quan trọng, luật tục rõ ràng. Công việc quản lý làng bản vì vậy mà
được điều hành thống nhất.
4) Trong mỗi làng bản thường có nhiều dòng họ. Quan hệ dòng họ có
một vị trí quan trọng trong cuộc sống của cư dân. Mỗi làng bản là một công
xã nông thôn nhưng mang tính chất mở.
5) Cư dân trong làng bản có sự thống nhất về văn hoá: Tín ngưỡng, lễ
hội, phong tục tập quán,… Điều này vừa mang tính chất chung của cả tộc
người, vừa có tính chất đặc trưng địa phương.
Đây là những yếu tố đặc trưng cơ bản mang tính chất truyền thống của
làng bản người Tày ở Võ Nhai trong lịch sử. Những yếu tố này còn đậm nét
đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20.
2.3.2 Vai trò của làng bản
"Làng bản không những là cộng đồng kinh tế tự cung tự cấp khép kín mà
còn là một cộng đồng về văn hoá, mặt thể hiện rõ nhất là tín ngưỡng, lễ nghi
liên quan đến ma bản và những lễ hội, sinh hoạt cộng đồng trong năm" [4, tr. 228]
Làng bản của người Tày vẫn luôn là một tổ chức xã hội cơ sở. Trong thời
kỳ phong kiến và thực dân, ở vùng Tày đã từng tồn tại những thiết chế hành
chính trên bản như xã, tổng, châu hay huyện. Những thiết chế hành chính này
thường phụ thuộc vào chính quyền trung ương mà luôn được thay đổi về mặt
địa giới, khi nhập nơi này, khi tách nơi khác, nhưng hạt nhân cư trú cơ bản là
bản thì vẫn tồn tại mãi. Sức sống dẻo dai của tổ chức làng bản của dân tộc
Tày đã được chứng minh trong lịch sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
Mang bản chất là một tổ chức xã hội cơ sở, làng bản của dân tộc Tày là
một cộng đồng xã hội tự quản, vận hành theo luật tục. Bộ máy điều hành của
nó do dân bầu ra. Tính chất dân chủ ít nhiều đã tồn tại trong làng bản và
những tổ chức xã hội trong đó. Tuy nhiên, đó mới chỉ là hình thức dân chủ sơ
khai khi người ta bầu bán vẫn còn dựa nhiều vào tình cảm và sự nể trọng lẫn
nhau. Nhưng, như đã giới thiệu, khi mà luật pháp của chính quyền trung ương
còn chưa xác lập được địa vị ở đây thì bộ máy vận hành làng bản và luật tục
có vai trò tối quan trọng đối với người dân trong bản và sự tồn tại, phát triển
của mỗi làng bản. Trong hàng trăm năm, người dân Tày chỉ quen tuân thủ
theo những luật tục riêng trong bản của họ với ý thức tự giác và với lòng tự
trọng cao. Luật tục quy định và điều chỉnh mọi vấn đề, mọi mối quan hệ trong
bản: Quy định về tài sản công cộng, những công việc chung của bản, quy định
về các vấn đề khác như ma chay, cưới xin…Luật tục có thể nói như “luật
pháp riêng” của từng bản. Nó điều hành và điều chỉnh các mối quan hệ, cách
ứng xử của người dân theo những quy chuẩn riêng. Luật tục là tác nhân quan
trọng tạo nên tính đặc trưng của mỗi làng bản.
Làng bản Tày với những luật tục của nó là một cỗ máy tổ chức và điều
hành các công việc chung từ kinh tế cho đến các hoạt động văn hoá, tín
ngưỡng như: Lễ hội, thờ cúng chung, xây đình, lập miếu, đắp phai đập, đào
mương, săn bắn, đuổi thú dữ, chống trộm cướp,… Người ta nhìn vào luật tục,
nhìn sang người láng giềng cùng bản, dưới sự điều hành của người đứng đầu
hay của các già bản mà cùng nhau đoàn kết cố gắng hoàn thành tốt những
công việc chung đó. Làng bản vì vậy mà có vai trò quan trọng trong việc củng
cố sức mạnh cộng đồng, làm cho cộng đồng cư dân vượt qua những thách
thức trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên và đấu tranh xã hội, chống
ngoại xâm giúp cho dân tộc sống còn và phát triển. Mặt khác, làng bản là
cộng đồng giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, chống lại mọi sự đồng hoá từ bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
ngoài. Có thể nói, làng bản cổ truyền có tầm quan trọng đặc biệt và có vai trò
lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc Tày nói riêng và của Đại gia đình các
dân tộc Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, không phải như vậy mà tổ chức làng bản cổ truyền của dân
tộc Tày không mang trong mình nó những mặt tiêu cực, không phù hợp với
xã hội hiện tại. Yếu tố tiêu cực ở đây chính là tính chất đóng kín của mỗi làng
bản, đó là tính biệt lập địa phương của nó. Tính chất khép kín của các làng
bản người Tày không mang tính chất đặc trưng như làng Việt truyền thống
nhưng nó cũng rất đáng kể. Tính chất đóng kín và biệt lập ở đây thể hiện ở
chỗ nó là cộng đồng của một nhóm cư dân nhỏ bé, có quan hệ chặt chẽ về
huyết thống (theo dòng cha hoặc mẹ) và quan hệ láng giềng giữa những người
đồng tộc. Làng bảng chỉ bớt khép kín hơn vào những dịp lễ hội khi mà người
ta đến dự hội, giao lưu với các bản khác và nồng nhiệt đón chào những vị
khách từ những vùng lân cận đến dự hội tại bản mình. Tính biệt lập cũng ít
hơn ở những nơi trao đổi, buôn bản phát triển hơn. Ngày nay, theo đường lối
đổi mới của Đảng ta cũng như xu thế hội nhập mạnh mẽ về kinh tế và văn hoá
thì tính đóng kín biệt lập của làng bản cổ truyền phải vượt ra khỏi khuôn khổ
truyền thống để hoà nhập vào cộng đồng lớn hơn, từ bản làng đến quốc gia và
quốc tế, từ quan hệ huyết thống trong một tộc người đến quan hệ láng giềng
với các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Xét về mọi khía cạnh thì làng bản truyền thống của người Tày và vai trò
của nó có những nét tương đồng đặc biệt với tổ chức làng bản của người
Nùng anh em. Với tính chất là một tổ chức xã hội cơ sở, làng bản của người
Tày cũng có nhiều nét giống với làng xã cổ truyền của người Việt. Nó cố kết
tinh thần cộng đồng, bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của
tộc người nhưng tính biệt lập của nó đã ít nhiều tạo nên sự trì trệ và cần được
cải tạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
Qua những biến động xã hội của các thời kỳ lịch sử thì vai trò của tổ
chức làng bản, người Tày đã phải trải qua khá nhiều những thử thách. Thời kỳ
mà hợp tác xã nông nghiệp được triển khai ở cấp độ cao ở vùng dân tộc Tày
thì vai trò và chức năng của làng bản bị hạ xuống thấp nhất. Ban chủ nhiệm
hợp tác xã đã tập trung vào tay họ những chức năng quan trọng của cộng
đồng. Nguyên nhân sâu sa của việc này là do chúng ta chưa hiểu được đúng
đắn và đầy đủ thực chất của bản sắc văn hoá các dân tộc, do chưa nhận thức
và chưa giải quyết được tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. “Như
vậy nguyên nhân của sự phá vỡ tổ chức bản làng là do chưa nhận thức được
rằng ta hiện đại hoá là từ di sản truyền thống, không thấy rằng nền văn hoá
xóm làng, văn hoá nông nghiệp không cản trở cho sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước, không cần, và không được giải thể nó, mà phải cải
tạo nó để đi lên trong bước đường phát triển của đất nước" [4, tr.230]. Cũng
như ở nhiều vùng dân tộc khác thì từ năm 1986 khi Đảng ta quyết định đi theo
đường lối đổi mới, hộ nông dân được làm chủ thể sản xuất thì phần nào thiết
chế làng bản của người Tày đã được củng cố trở lại, đời sống trong bản làng
đang được khởi sắc từng ngày.
Hiện nay vấn đề bảo vệ rừng và môi trường sống đang được đặt ra gay
gắt hơn lúc nào hết, nhất là tại các xã phía Bắc huyện Võ Nhai - nơi có những
cánh rừng đầu nguồn thì sở hữu công cộng của làng bản có ý nghĩa khẳng
định chủ nhân sử dụng rừng, rẫy, sông suối của bản làng đó. Bản sẽ đứng ra
quản lý, điều hoà và phân phối sao cho hợp lý, tránh tình trạng đất vô chủ.
Bởi vậy, làng bản phải được coi như một người chủ sở hữu và sử dụng đất
đai, rừng núi, góp phần hạn chế phá rừng, bảo vệ môi trường sống và phát
triển tài nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
Khi thực hiện chủ trương giao đất khoanh rừng cho dân, địa phương nên
lấy bản làng làm đơn vị giao đất. Sau đó, từng bản tự tổ chức giao đất cho dân
bản thực hiện. Làm như vậy sẽ đạt được kết quả tốt hơn.
Đó là một vài ví dụ cho thấy tổ chức làng bản vẫn có vai trò và vị trí
quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Muốn phát huy hơn nữa mặt tích cực này
phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để tổ chức làng bản có thể làm tròn các chức
năng đa dạng của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
CHƢƠNG 3
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA LÀNG BẢN NGƢỜI TÀY Ở VÕ NHAI
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY
3.1. Nguyên nhân biến đổi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một mốc son chói lọi và là bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Cuộc cách mạng này đã tạo ra sự thay đổi
về chất vô cùng lớn lao trong xã hội Việt Nam. Đó cũng là một bước ngoặt
tạo ra những sự biến đổi trong các làng bản của người Tày ở Võ Nhai vốn đã
là vùng đất tự do, là căn cứ địa của cách mạng. Người dân ở Võ Nhai được
hưởng cuộc sống tự do sớm hơn các vùng khác.
Cuộc cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp
thêm một lần nữa làm cho cơ cấu tổ chức cũng như vai trò của mỗi làng bản
về kinh tế và văn hoá có những biến đổi rất đáng kể.
Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII của Đảng đã khẳng định tầm quan
trọng của vấn đề: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đó có nông thôn
miền núi. Ở Võ Nhai, vùng đồng bào Tày cư trú nhiều nhất là các xã phía Bắc
của huyện, nơi mà điều kiện mọi mặt của đồng bào còn vô cùng khó khăn, đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và các cấp, ngành địa
phương với nhiều chính sách thiết thực với cuộc sống của đồng bào. Đó là tác
nhân quan trọng và tích cực làm thay đổi diện mạo của làng bản và đời sống
của mỗi gia đình, mỗi người dân.
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ
nghĩa thì sự giao lưu giữa các vùng miền và giữa các tộc người ngày một diễn
ra mạnh mẽ. Điều đó góp phần làm thay đổi từ kinh tế đến văn hoá, tín
ngưỡng, tâm lý,… của đồng bào Tày nơi đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
Còn nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng theo chúng tôi đó là những
nguyên nhân cơ bản làm cho cơ cấu tổ chức cũng như đời sống kinh tế, vật
chất và văn hoá của các bản Tày ở Võ Nhai biến đổi. Trong những sự biến đổi
đó, phần tích cực là chủ yếu. Bên cạnh đó cũng còn những điều đòi hỏi chúng
ta phải nghiêm túc nhìn nhận lại và uốn nắn kịp thời.
3.2. Diễn biến và những biểu hiện
3.2.1. Những biến đổi về không gian sinh tồn
Vùng núi phía Bắc huyện Võ Nhai, nơi mà tỷ lệ người Tày ngày nay
chiếm tới trên 60% thì giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX còn là vùng
đất hoang vu, rừng cây rậm rạp, dân cư rất thưa thớt. Trên phạm vi mỗi xã
ngày nay thường chỉ có từ 2 đến 3 bản của người Tày cư trú. Dân số ngày
càng gia tăng, sự di cư của đồng bào H'Mông, Dao từ phía Bắc xuống và số ít
người Kinh cũng như các dân tộc khác đến đây đã làm cho số nhân khẩu và số
bản gia tăng khá nhanh chóng. Xã Cúc Đường trước năm 1945 chỉ có 2 bản là
bản Cúc và bản Nhò với 100% người Tày cư trú thì nay đã có 5 bản, trong đó
có 1 bản người H'Mông. Xã Vũ Chấn trước kia cũng chỉ có 2 bản thì nay có
tất cả là 10 xóm bản, 5 bản Tày và 5 bản Dao. Người H'Mông và người Dao
di cư đến khu vực này từ khoảng thập niên 80 - 90 TK XX, họ đa số từ các
tỉnh Cao Bằng, Hà Giang và Lạng Sơn xuống do tập quán du canh du cư tìm
đất sản xuất và một phần do chiến tranh biên giới Việt - Trung. Khi di cư đến
đây, họ đốt rừng làm nương, mua lại một phần ruộng đất của người Tày và
lập thành những bản riêng biệt. Đó là nguyên nhân quan trọng, làm tăng số
bản, tăng dân số vùng này. Tập quán đó của đồng bào H'Mông và Dao đã làm
cho diện tích rừng ở đây bị thu hẹp nhanh chóng. Hiện nay rừng nguyên sinh
ở khu vực này gần như không còn, kể cả tại khu bảo tồn sinh thái Thần Sa -
Phượng Hoàng. Do các mối giao lưu kinh tế văn hoá, học hỏi kinh nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
sản xuất lúa nước của người Tày cũng như rừng đã bị thu hẹp nhiều nên
người H'Mông và Dao đã sống định cư và canh tác lúa nước như người Tày.
Ở các xã phía Bắc huyện Võ Nhai thường có rất ít đồng bào Kinh di cư
tới. Người Kinh ở miền xuôi lên Võ Nhai chủ yếu lao động và rồi định cư tại
các xã vùng thấp hơn như La Hiên, Đình Cả, Tràng Xá. Xã Cúc Đường ngày
nay cũng có một bộ phận nhỏ người Kinh, họ chủ yếu đến và định cư ở đây
bằng hình thức nhận làm con nuôi, lấy vợ, lấy chồng. Dấu ấn của người Kinh
ở khu vực phía bắc huyện là không rõ nét.
Như vậy, sự di cư của một số dân tộc đến khu vực này đã làm cho không
gian sinh tồn của người Tày bị thu hẹp, rừng không còn nhiều. Họ phải chia
sẻ ruộng đất, lâm thổ sản địa phương với những người không đồng tộc. Tuy
nhiên đó là quá trình tất yếu trong lịch sử phát triển của mỗi vùng đất.
Trong những năm qua, sự phát triển của dân số đã làm cho quy mô của
mỗi bản ngày càng lớn. Như đã trình bày trước năm 1945, mỗi bản Tày gốc
thường có không quá 10 nóc nhà như bản Mỏ Gà, bản Cúc, bản Na Rang, Na
Đồng,…Ngày nay, những bản Tày trung bình cũng phải có khoảng 50 nhà, cá
biệt có bản lớn như Na Đồng - Xã Vũ Chấn có trên 80 nhà. Dân cư ngày càng
đông đúc, tuy diện tích đất rộng, mật độ dân số là thưa nhất huyện Võ Nhai và
tỉnh Thái Nguyên nhưng diện tích đất canh tác lại có hạn. Núi đá vôi chiếm
phần lớn khu vực này. Nên vấn đề đất sản xuất nông nghiệp cho đồng bào
không phải là không đáng quan tâm. Bình quân đất cây lúa của đồng bào chỉ
được khoảng trên dưới 2 sào Bắc bộ/1 người. Đất đai đã ít lại còn bị xé nhỏ
một cách rất manh mún. Trong những năm qua hiện tượng tranh giành đất đai
sản xuất đã có xảy ra ít nhiều đã làm xáo trộn nông thôn và ảnh hưởng tới các
mối quan hệ truyền thống tốt đẹp trong cộng đồng.
Tuy số hộ và số nhân khẩu tăng nhưng số dòng họ trong mỗi bản của
người Tày lại ít tăng. Sự di cư của người Tày trong nội bộ vùng là ít xảy ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
Họ lại ít khi sống cùng một bản với các dân tộc mới di cư đến. Kết quả là số
họ gốc vẫn còn nhưng các họ mới ít thấy xuất hiện. Bản Na Đồng, Na Rang,
xã Vũ Chấn và bản Trường Sơn, Tân Sơn, xã Cúc Đường có số họ gần như
không thay đổi. Điều đó cho thấy quá trình định cư khá ổn định của đồng bào.
Làng bản đã trở nên đông đúc hơn nhưng kết cấu hình thế của các làng
bản cũng chưa có sự thay đổi nhiều so với trước kia. Hình thức cư trú rải rác
từng xóm hoặc từng nhà riêng biệt vẫn thấy phổ biến. Tuy rằng lối cư trú mật
tập đã nhiều hơn. Điều này do địa hình và địa thế nơi đây quyết định chủ yếu.
Thường thì các bản Tày vẫn không có trục giao thông chạy qua giữa bản như
làng của người Kinh. Nối giữa các xóm và các nhà với nhau vẫn là những con
đường mòn đất đá, mùa mưa thì lầy lội, mùa khô lại bui bặm. Đó là những
con đường do từng nhà tự làm hoặc do sức lao động tập thể của người dân
trong bản.
Hiện tại, 6 xã phía bắc huyện Võ Nhai, chỉ có xã Cúc Đường là có đường
nhựa đến trung tâm xã. Được nhà nước quan tâm đầu tư nên hai tuyến đường
nhựa liên xã từ Cúc đường lên Thần Sa, Thương Nung và từ Cúc Đường lên
Vũ Chấn, Nghinh Tường đang được đầu tư xây dựng. Nói chung, hệ thống
giao thông trong mỗi bản, liên bản và liên xã nơi đây vẫn đang có chất lượng
rất thấp. Đó là nguyên nhân chính làm cho kinh tế ở vùng này gặp rất nhiều
khó khăn. Vấn đề bức thiết này đòi hỏi càng được giải quyết sớm càng tốt.
Ngoài đường giao thông, do đều là các xã vùng cao, đặc biệt khó khăn
nên đồng bào nơi đây đang được hưởng những chính sách thiết thực từ Trung
ương và địa phương. Mỗi xã đều đã được đầu tư xây dựng những hạng mục
cơ sở hạ tầng cơ bản phục vụ cho các nhu cầu dân sinh như: Điện lưới, trường
học và trạm xá kiên cố, trạm bơm phục vụ nhu cầu nước sạch của nhân
dân…Ví dụ như xã Vũ Chấn đã có tới trên 50% số hộ được sử dụng nước
sạch từ nhà máy nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
Trong các làng bản Tày ở đây từ xưa đến nay, người ta vẫn ít có thói
quen bố trí nhà cửa, ngõ xóm theo hàng lối. Điều này là tùy thuộc vào từng
gia chủ và không có quy định chung. Hiện nay những gia đình gần trục đường
chính thường làm nhà quay ra mặt đường. Nếu hướng đó không hợp với tuổi
của chủ nhà thì họ sẽ tính đến chuyện quay hướng bàn thờ sao cho phù hợp
với tuổi. Như đã trình bày ở giai đoạn trước, xung quanh mỗi gia đình người
Tày đều có rào giậu bằng các loại tre, nứa, gỗ ván nhằm ngăn chặn thú dữ làm
hại đến người và bắt gia súc thì nay do rừng còn ít và thú dữ đã hết thì người
ta không còn giữ thói quen này. Họ thường chỉ trồng xung quanh nhà những
hàng cây nhỏ làm rào để ngăn gia cầm. Không gian xung quanh ngôi nhà sàn
thường được mở ra 4 phía thoáng đãng.
Trong phần trình bày về các loại hình nhà cửa của người Tày ở Võ Nhai,
chúng tôi đã chỉ ra một thực tế rằng, nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của
người Tày và hầu hết các gia đình Tày đều làm nhà sàn và thích ở nhà sàn.
Đồng bào chọn làm nhà sàn để ở vì lý do an toàn và thoáng mát. Ngày nay khi
mà mối đe doạ từ thú dữ không còn thì đồng bào vẫn thích ở nhà sàn như một
thói quen đã trở thành truyền thống. Tại các bản người Tày ở phía bắc huyện
Võ Nhai, chúng ta vẫn thấy gần như 100% các gia đình ở nhà sàn. Tại vùng
này, những nét truyền thống trong ngôi nhà sàn còn được bảo lưu khá rõ rệt.
Cũng vẫn là nhà sàn nhưng kỹ thuật dựng nhà và cách bố trí không gian
trong nhà cùng các công trình phụ đã cõ những nét mới. Kiểu nhà sàn 3 hoặc
4 vì kèo đã gần như bị thay thế bởi các kiểu 5, 6 và 7 vì kèo. Trong đó, kiểu 6
vì kèo là phổ biến hơn cả. Kiểu này có lẽ là ra đời muộn nhất trong những
kiểu kết cấu nhà sàn của dân tộc Tày ở Võ Nhai. Kiểu 6 vì kèo vừa tốn ít gỗ
hơn mà không gian dành cho sinh hoạt trong nhà cũng được rộng rãi, thoải
mái hơn. Cùng với sự thịnh hành của kiều nhà sàn 6 vì kèo là sự thay thế cột
tròn bằng các cột vuông. Trong nhiều năm gần đây, người Tày ở Võ Nhai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
thường không đặt bếp trong ngôi nhà chính của họ. Bếp và các công trình phụ
thường được làm tách ra nhưng vẫn liền kề với nhà chính. Họ thường dựng
một trái nhà riêng làm bếp. Nhà bếp này cũng là một dạng nhà sàn nhỏ với chỉ
2 hoặc 3 vì kèo. Đó là nơi vừa có bếp lửa dùng để nấu nướng thức ăn, sưởi ấm
vào mùa đông, là chỗ diễn ra các bữa cơm thường ngày của gia đình và cũng
là nơi đặt bếp nấu thức ăn cho gia súc, nấu rượu…Chuồng gia súc đã được
làm tách biệt khá xa so với nhà chính. Điều này cho thấy nhận thức của đồng
bào về vấn đề vệ sinh đã tốt hơn trước rất nhiều. Và cũng bởi nguyên nhân
nữa là gia súc ngày nay không còn bị đe doạ bởi thú dữ. Riêng gia cầm thì
cũng có gia đình vẫn để ngủ tự do dưới gầm sàn. Gầm sàn ngày nay đa số
đồng bào vẫn để thoáng, nhưng cũng có không ít gia đình che chắn lại hoặc
xây tường bao xung quanh. Đó thường là nơi để những vật dụng, nông cụ,
phương tiện đi lại. Vấn đề vệ sinh và cảnh quan xung quanh ngôi nhà đã được
các gia đình quan tâm hơn rất nhiều. Gầm sàn đã khô thoáng hơn, mương
rãnh thoát nước xung quanh ngôi nhà đảm bảo điều đó.
Hiện nay do điều kiện kinh tế đã khá hơn, giao thông thuận tiện hơn đôi
chút và việc sản xuất nguyên vật liệu làm nhà đã khá phát triển thì những ngôi
nhà sàn của đồng bào rất ít còn được lợp bằng lá và thay vào đó là ngói vừa
sạch đẹp, trang nhã hơn lại tránh được nguy cơ hoả hoạn. Đó là những tiến bộ
đáng kể trong nếp nhà của họ.
Tại những vùng xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là các xã phía bắc thì nhà sàn
còn chiếm tỉ lệ ưu thế nhưng tại những vùng thấp hơn gần đường giao thông
lớn, gần các trung tâm buôn bán, có sự giao lưu nhiều với người Kinh thì nhà
nền đất đã được xây dựng khá nhiều và đang trở thành một xu thế tất yếu
trong quá trình phát triển của nhà cửa người Tày. Một nguyên nhân quan
trọng dẫn đến việc này đó là nguyên liệu gỗ, đặc biệt là các loại gỗ tốt truyền
thống, dùng để dựng nhà sàn ngày càng trở nên rất khan hiếm do rừng già
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
không còn và do chính sách bảo vệ rừng của nhà nước. Muốn có đủ gỗ dựng
một ngôi nhà sàn, họ phải vào những khu rừng rất sâu, thậm chí lên tận địa
phận tỉnh Bắc Kạn, công khai thác và vận chuyển là quá tốn kém và vất vả.
Số ít gia đình đã tích luỹ và giữ được gỗ từ những giai đoạn trước đủ để dựng
nhà cho các con trai khi họ ra ở riêng. Đồng bào cũng thường tiến hành trao
đổi mua bán gỗ và các vật liệu khác trong phạm vi một bản và các bản lân cận
để có đủ số gỗ. Những việc này đều đang bị chính sách bảo vệ các loại gỗ đặc
biệt quý hiếm của Nhà nước ngăn trở. Việc khai thác buôn bán, vận chuyển
các loại gỗ quý như đinh, sến, nghiến, táu…là vi phạm pháp luật. Vì nhiều lý
do như vậy, nên hiện nay những gia đình người Tày ở vùng thấp phải là khá
giả mới tính đến chuyện dựng nhà sàn. Nhu cầu nhà ở của đồng bào ngày một
gia tăng do dân số phát triển; nguyên vật liệu tự nhiên ngày càng khan hiếm;
ngành sản xuất nguyên vật liệu để xây nhà chưa phát triển kịp ở các xã phía
bắc Võ Nhai; giao thông vận chuyển chưa thực sự thuận tiện đang là những
vấn đề thực tế cấp bách đặt ra cho vấn đề nhà ở của đồng bào tại các xã vùng
cao đặc biệt khó khăn này. Trong bối cảnh đó, việc các gia đình chọn làm nhà
nền đất là một tất yếu.
Số nhà nền đất chiếm tuyệt đại đa số trong đồng bào Tày ở những xã
vùng thấp, nơi gần đường giao thông và những nơi có sự xen cư giữa hai dân
tộc Tày - Kinh. Hiện nay, tại 2 bản Mỏ Gà và Phượng Hoàng, xã Phú Thượng
chỉ còn 3 -4 ngôi nhà sàn mỗi bản. Tại trung tâm xã Cúc Đường, chúng ta
cũng thấy rất nhiều nhà nền đất, tại các xã cao hơn như Vũ Chấn, Nghinh
Tường, nhà nền đất cũng đã thấy lác đác xuất hiện. Những ngôi nhà nền đất
của đồng bào ngày nay có kỹ thuật xây dựng và bố trí không gian không khác
gì mấy nhà của người Kinh và phần lớn đều được bê tông hoá. Điều đó cũng
cho thấy sự giao lưu và hội nhập nhanh của người Tày với nền văn hóa
phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
Cùng với những thay đổi trên, cách bố trí và sử dụng không gian trong
ngôi nhà cũng thấy có những nét mới. Dù ở nhà sàn nhưng vẫn thấy nhiều gia
đình có kê giường, tủ, bàn ghế giống như nhà nền đất. Gác xép thấy ít gia
đình làm và sử dụng hơn. Trong ngôi nhà người ta cũng ít quy định khắt khe
chỗ ăn ngủ của mỗi thành viên. Duy trì có bàn thờ là vẫn luôn được đặt ở gian
chính với vị trí trang trọng nhất. Đó là một nét thay đổi nữa trong tư duy ăn ở
của đồng bào.
Nhìn vào những ngôi nhà của người Tày ở Võ Nhai ngày nay ta vẫn thấy
còn đậm nét những nét truyền thống, những ưu điểm của nhà sàn. Nhưng quá
trình phát triển và giao lưu kinh tế, văn hoá cũng như môi trường tự nhiên
thay đổi đã làm cho ngôi nhà của đồng bào ít nhiều thay đổi, hội nhập và phù
hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại.
Cùng với sự thay đổi ít nhiều của ngôi nhà thì những công trình kiến trúc
công cộng cũng thay đổi nhưng mạnh mẽ và dễ nhận thấy hơn rất nhiều. Nếu
như trước năm 1945 thì các bản Tày đều có đình bản. Nhưng dần dần do
nhiều nguyên nhân, những ngôi đình này lần lượt mất đi. Các nguyên nhân
chính có thể kể ra ở đây là do chiến tranh tàn phá; trải qua một thời gian dài
các ngôi đình không được quan tâm, tôn tạo, văn hoá đình ngày càng đi vào dĩ
vãng; các cuộc cải cách xã hội những năm 50 - 60, thế kỷ XX với tư tưởng "tả
khuynh", quay lưng lại với văn hóa tâm linh truyền thống đã làm cho đình bản
và những thiết chế văn hoá bản làng trở thành đối tượng bị xử lý, cải tạo, cấm
đoán. Đình Thượng Nung là ngôi đình lớn và nổi tiếng nhất vùng thì nay gần
như chỉ còn lại phần nền móng, vẫn chưa được tôn tạo. Đình Cúc, nay thuôc
xã Cúc Đường bị thực dân Pháp đốt năm 1947. Đình Na Đồng cũng không
còn tồn tại từ năm 1961 do bị bỏ bẵng và dột nát trong một thời gian dài. Hiện
nay, số lượng đình bản của người Tày còn tồn tại ở Võ Nhai là không đáng
kể. Trong số rất ít đó có thể kể đến đình Mỏ Gà thuộc xã Phú Thượng. Đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
đã được vua Khải Định cấp sắc phong vào năm 1938. Sau một thời gian quá
dài không được quan tâm, đình này hầu như bị hư hỏng hết. Năm 2007, đình
Mỏ Gà mới được tôn tạo lại, nay đã tìm thấy sắc phong gốc và đang đề nghị
được công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Số phận của đình Mỏ Gà còn may
mắn hơn rất nhiều so với đại đa số những ngôi đình bản đã từng tồn tại ở Võ
Nhai. Ví dụ về trường hợp đình Mỏ Gà ở trên cho thấy việc tôn tạo và khôi
phục phần nào ngôi đình cũng như những hoạt động văn hoá tín ngưỡng công
cộng liên quan đến ngôi đình dù muộn nhưng vẫn còn tốt hơn rất nhiều nếu
chúng ta làm ngơ cho văn hoá đình bị mất hẳn tại khu vực này.
Cùng với sự mất đi lần lượt của những ngôi đình bản thì những ngôi
miếu chung, nơi thờ thổ công của từng bản người Tày cũng hầu như không
còn tồn tại nữa. Thời gian mất đi của đa số những ngôi miếu thổ thần này
thường là ở thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XX. Khi miếu không còn thì văn hoá
tín ngưỡng như thờ thổ thần chung hay các lễ hội cầu mùa cũng không còn
nữa. Người dân trong các bản ngày nay hay thờ thổ công của riêng gia đình
họ bằng cách lập những ban thờ cạnh nhà.
Ngày nay công trình kiến trúc công cộng đáng kể nhất và được xây dựng
khá phổ biến ở các làng bản Tày Võ Nhai là nhà văn hoá xóm bản. Những
nhà văn hoá này do nhân dân trong bản tự đóng góp xây dựng là theo chủ
trương xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư. Đó là những điểm hội
họp nhằm bàn những việc bản, việc xóm của cư dân.
Trong các làng bản người Tày hiện nay, sở hữu công cộng của cộng đồng
ngày càng được thu hẹp do nhiều nguyên nhân trong đó quan trọng nhất là
quá trình tư nhân hoá trong việc sở hữu tư liệu sản xuất đang ngự trị đã nảy
sinh từ lâu và nay đang chiếm ưu thế tuyệt đối. Ngoài những công trình công
cộng như nhà văn hoá, đường xá, cầu cống, phai đập, kênh mương thì tất cả
đều được tư nhân hoá từ rừng núi, ruộng đất đến các tư liệu sản xuất. Mọi thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
đều thuộc về từng gia đình riêng trong bản. Những gì được coi là "của chung"
trong không gian sinh tồn đó còn lại không đáng kể. Chủ trương giao đất, giao
rừng và công nhận gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập được Nhà nước thực
hiện sau Khoán 10 và đặc biệt là những năm gần đây.
Như vậy, không gian sinh tồn của người Tày ở Võ Nhai do nhiều nguyên
nhân như đã phân tích đã có nhiều biến đổi đáng chú ý, tích cực có và tiêu cực
cũng có nhiều. Diện mạo vật chất của làng bản cũng đang cho thấy những tín
hiệu đáng mừng. Đi đôi với đó là diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp nhanh
chóng; môi trường sinh thái có nguy cơ mất cân bằng; ruộng nương bình quân
ngày càng ít do dân số tăng nhanh, xóm bản ngày một thêm đông đúc, chật
chội; những công trình kiến trúc công cộng có vai trò quan trọng trong lịch sử
mất đi, khi cùng với đó là những thiết chế văn hoá đi kèm,… đó là những vấn
đề đang đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách vĩ mô hợp lý của nhà nước và
địa phương cho vùng này.
3.2.2. Những biến đổi trong nền kinh tế
Những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, nhà nước qua các
thời kỳ từ sau cách mạng tháng Tám cũng như những biến đổi về mặt không
gian sinh tồn là những nguyên nhân cơ bản nhất làm cho kinh tế và đời sống
vật chất của người Tày ở Võ Nhai có những thay đổi khá nhanh chóng so với
giai đoạn đầu thế kỷ XX trở về trước.
Trước khi xét những chuyển biến trong kinh tế và đời sống vật chất của
đồng bào, chúng ta hãy tìm hiểu về những quan hệ sản xuất đã được xác lập
và thay đổi trong cộng đồng Tày từ năm 1954 đến nay. Bởi vì nó có ảnh
hưởng quan trọng đến đời sống kinh tế, vật chất cũng như các quan hệ trong
làng bản. Năm 1954 là mốc đánh dấu miền Bắc nước ta được giải phóng và
tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Theo chủ trương lúc đó, tiến lên chủ
nghĩa xã hội trong nông nghiệp, việc quan trọng là phải dần xoá bỏ nền kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
tế tiểu nông gia đình. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp được phát động,
thực hiện trên toàn miền Bắc. Gia đình mất dần vai trò là một đơn vị kinh tế
độc lập. Mỗi bản được biên chế thành vài đội sản xuất nhỏ, rồi một bản thành
một đội sản xuất. Khi phong trào hợp tác hoá đạt đến đỉnh cao thì hợp tác xã
liên bản ra đời gồm vài bản gần nhau. Bản lúc này trở thành một đội sản xuất
thuộc hợp tác xã. Mọi tư liệu sản xuất đều được công hữu hoá. Làng bản
không còn chức năng điều tiết với mọi vấn đề của cộng đồng. Cơ cấu kinh tế
của đồng bào do vậy đã thay đổi rõ rệt. Các nghề thủ công gia đình bị mai
một nhiều. Có thể nói mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã tỏ ra không mấy
phù hợp với trình độ sản xuất của đồng bào. Nó kìm nén phần nào sức sản
xuất của nông thôn vùng Tày.
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra tại Đại hội VI (1986) và nhất là
chính sách Khoán 10 đã mang lại luồng gió mới cho kinh tế của người Tày ở
Võ Nhai. Gia đình được xác lập lại như một đơn vị kinh tế tự chủ và nó đã
nhanh chóng phát huy được vai trò truyền thống của mình. Xu hướng tư hữu
hoá công cụ sản xuất và các tư liệu sản xuất khác ngày càng phát triển. Tư
liệu sản xuất gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Các công cụ cơ bản do
hợp tác xã quản lý trở về thuộc quyền quản lý của các gia đình. Các gia đình
tích cực đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại như: Máy cày mini,
máy kéo, máy xay xát…đã có một số nơi có sự liên doanh tự nguyện giữa các
hộ gia đình chủ yếu là cùng dòng tộc. Họ hùn vốn để làm kinh doanh dịch vụ.
Cũng như nhiều vùng nông thôn trên cả nước, nền kinh tế tiểu nông được tái
lập và đang là chủ đạo trong vùng dân tộc Tày ở Võ Nhai. Nó phù hợp với
trình độ phát triển của đồng bào và là động lực cho sự thay đổi diện mạo nông
thôn nơi đây.
Trải qua rất nhiều những thăng trầm về kinh tế, văn hoá nhưng đến nay
kinh tế nông nghiệp lúa nước vẫn là ngành kinh tế chủ đạo của người Tày ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
Võ Nhai. Các ngành nghề khác vẫn chỉ mang tính chất phụ trợ, nông nghiệp
lúa nước của đồng bào tính đến nay đã đạt được những tiến bộ rất đáng kể về
tất cả các mặt như: tư liệu lao động, cơ cấu giống lúa, năng suất và chất lượng
lúa gao.
Như đã trình bày, chính sách Khoán 10 được thực hiện từ năm 1988 đã
tác động tích cực tới nông nghiệp nông thôn trong vùng Tày ở Võ Nhai. Các
gia đình được tự chủ về kinh tế nên phát huy tối đa khả năng lao động sáng
tạo, trước nhất là trong nông nghiệp. Cơ cấu giống lúa và giống cây trồng nói
chung có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Tỷ lệ các giống lúa lai có năng suất cao
ngày càng được người dân đưa vào sản xuất. Cây chè được trồng mới ở một
số nơi, cây thuốc lá vẫn được đồng bào ưa trồng. Các loại rau màu và một số
cây ăn quả đều tăng cả về diện tích và sản lượng. Hiện nay trong các bản Tày
như ở xã Vũ Chấn và Cúc Đường thì hầu hết các gia đình đã sắm được máy
cày mini để phục vụ sản xuất nông nghiệp, thay cho sức trâu bò. Việc mua
sắm máy móc của đồng bào được nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ cho vay vốn.
Ngoài ra các lớp tập huấn về kỹ thuật cho đồng bào được tổ chức thường
xuyên và miễn phí tại trung tâm các xã vùng cao.
Rừng và nghề rừng vẫn là thế mạnh của các xã vùng cao ở Võ Nhai.
Chương trình 327 của Chính phủ được triển khai với kế hoạch giao đất, giao
rừng tới từng hộ nông dân đã góp phần thúc đẩy kinh tế nghề rừng phát triển.
Các loại cây lấy gỗ như keo, mỡ, bạch đàn được trồng nhiều, thêm vào đó là
những loại cây công nghiệp như: trám, hồi…Điều này vừa bảo vệ được rừng,
lấy lại được cân bằng sinh thái và cũng góp phần đáng kể tăng thêm thu nhập
cho mỗi hộ gia đình. Tuy nhiên, do hiện trạng giao thông chưa được cải thiện
nên sản phẩm nông lâm nghiệp do đồng bào làm ra có giá thành rất thấp và lại
khó tiêu thụ. Đó là một thiệt thòi rất lớn cho người dân ở khu vực này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
Ngành kinh tế chăn nuôi của người Tày những năm gần đây có nhiều nét
mới so với chăn nuôi truyền thống của họ. Địa bàn chăn nuôi bị thu hẹp và sự
xuất hiện của những chiếc máy cày mini, máy kéo đã làm cho đàn trâu trong
các bản Tày suy giảm nhanh về số lượng. Tuy chưa có số liệu cụ thể nhưng
qua khảo sát ở vài nơi, chúng tôi thấy có rất ít gia đình còn nuôi trâu. Nếu có
thì số lượng cũng ít, thường nhà có cũng chỉ từ 1 - 2 con. Đồng bảo chủ yếu
nuôi với mục đích bán thịt thương phẩm. Phương thức chăn thả trâu đàn cũng
gần như không còn. Việc tậu trâu không được coi là việc hệ trong đời đối với
người dân như trước đây. Tuy nhiên với tiềm năng chăn nuôi của vùng còn
khá thì việc chăn nuôi trâu như vậy là không tương xứng. Lợn, gà và một số
loại vật nuôi khác đã thấy có sự tăng trưởng về số lượng trong vùng. Nhưng
phương thức chăn nuôi tập trung chưa thấy phổ biến. Kỹ thuật chọn giống và
kỹ thuật chăn nuôi chưa được cải tiến nhiều. Đồng bào vẫn chủ yếu chăn lợn,
gà, vịt với quan điểm tận dụng thức ăn thừa cũng như phụ phẩm nông nghiệp
và các loại thức ăn từ tự nhiên nên năng suất rất thấp. Một năm họ thường chỉ
cho xuất chuồng từ 1-2 lứa lợn. Gia cầm còn thả rông tự nhiên nhiều. Một số
gia đình Tày ở vùng thấp như thị trấn Đình Cả, xã Phú Thượng qua học hỏi
kỹ thuật sản xuất đã đầu tư chăn nuôi lợn gà tập trung với những giống hiện
đại nên năng suất khá cao. Đây sẽ là mô hình được phát triển nhân rộng trong
thời gian không xa tại những địa bàn cư trú của người Tày.
Sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường cũng như sự thay đổi trong tâm
lý sản xuất của đồng bào đã làm cho những nghề chăn nuôi cổ truyền không
còn tồn tại. Đó là nghê trồng dâu, nuôi tằm, thả cá ruộng. Nghề nuôi ong mật
vẫn được duy trì và đang có cơ sở để phát triển. Tại một số xã phía bắc, người
Tày đã có nghề mới là nuôi tắc kè. Nghề này xuất hiện từ việc đồng bào có
thói quen bắt và sử dụng tắc kè tự nhiên để ngâm rượu và làm thuốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
Nói chung, kinh tế nông nghiệp của người Tày ở Võ Nhai đã có những
nét chuyển biến tích cực và đáng kể, năng suất và sản lượng tăng, do kỹ thuật
và kinh nghiệm sản xuất được cải tiến đáng kể, cơ cấu giống có chuyển biến.
Những hoạt động trong nền kinh tế nông nghiệp của đồng bào đã chuyển biến
theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa.
Ở nông thôn vùng Tày các nghề tiểu thủ công nghiệp đã bị mai một rất
nhiều. Nghề mộc và đan lát còn được duy trì nhưng phát triển theo quy mô
gia đình nhỏ bé, chưa có tính chất sản xuất hàng hoá. Tại đa số các làng bản,
một số nghề chế biến nông lâm sản đang được đồng bào quan tâm phát triển
như: ép dầu thực vật, làm đường mật, làm đậu phụ, nấu rượu, xay xát
gạo…Những nghề này đang khẳng định vai trò của nó trong nền kinh tế của
đồng bào.
Rừng tự nhiên bị thu hẹp, lâm sản khan hiếm đã làm cho kinh tế tự nhiên
của đồng bào không còn giữ được vị trí quan trọng như trước đây. Săn bắn chỉ
còn là thú vui tiêu khiển. Sự khai thác quá mức và trái phép đã làm cho các
loại hải sản nước ngọt cũng trở nên khan hiếm nhanh chóng. Kinh tế hái lượm
vẫn giữ được một phần vai trò trong việc cải thiện bữa ăn của đồng bào. Mùa
nào thức nấy, trong rừng hoặc ven sông suối vẫn cung cấp các loại rau sạch,
măng, các loại nấm,…
Trao đổi buôn bán của người Tày ở Võ Nhai đã phát triển tấp nập hơn
trước khá nhiều với các trung tâm thương nghiệp như thị trấn Đình Cả, La
Hiên, các chợ khu vực cụm xã như Cúc Đường, Thượng Nung. Hiện nay,
đồng bào có thể bán bất cứ sản phẩm gì do họ làm ra và mua bất cứ thứ hàng
thiết yếu nào ngay trong bản của họ. Trong các bản đều có những hộ gia đình
người Tày tham gia kinh doanh, luân chuyển hàng hoá, khi hệ thống giao
thông liên xã được hoàn thiện thì việc trao đổi buôn bán của vùng dân tộc Tày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
sẽ có điều kiện phát triển hơn rất nhiều. Đó là động lực cực kỳ quan trọng cho
sự phát triển kinh tế của vùng, tránh bị tụt hậu quá xa so với các vùng khác
trong huyện, trong tỉnh.
Như vậy, nền kinh tế của người Tày ở Võ Nhai đã có những chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên, sự biến đổi này đã diễn ra với một tốc độ chậm chạp. Đời
sống kinh tế vật chất của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Sản
xuất hướng ra thị trường chưa có điều kiện phát triển. Cơ cấu kinh tế trong
vùng tuy có chuyển biến nhưng chưa đủ mạnh để làm thay đổi diện mạo làng
bản theo hướng phát triển hiện đại. Vùng này cần thêm nhiều sự hỗ trợ từ phía
nhà nước và sự chỉ đạo sát sao, linh hoạt của chính quyền địa phương.
3.2.3. Sự biến đổi trong cơ cấu tổ chức
3.2.3.1. Trong các tổ chức quản trị
Trong các làng bản của người Tày ở Võ Nhai ngày nay, tổ chức đã từng
có vai trò "lập pháp" cho cộng đồng là hội đồng già làng đã không còn tồn tại.
Tuy nhiên do truyền thống rất kính trọng người có tuổi trong cộng đồng nên
các già bản hiện nay vẫn có tầm ảnh hưởng đáng kể trong cuộc sống của dân
bản. Trong các cuộc họp bàn dân, bầu bán, người ta tôn trọng trước tiên ý
kiến của những người cao tuổi. Họ có thể là những người đứng ra dàn xếp,
giải quyết hài hoà các tranh chấp, xích mích thuộc phạm vi cộng đồng mình.
Ngày nay, ở các xóm bản đều có các chi hội người cao tuổi.
Trưởng bản trong lịch sử đã có uy tín và tầm ảnh hưởng lớn trong dân
bản. Họ là người đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng của cộng đồng. Họ
cũng đại diện và thể hiện ý chí của bộ máy chính quyền. Khi các hợp tác xã ra
đời thì chức danh này bị xoá bỏ và thay voà đó là các đội trưởng sản xuất.
Đến giữa những năm 90- Thế kỷ XX công tác quản lý cơ sở được Đảng và
Nhà nước tăng cường thì chức danh trưởng bản mới được phục hồi trở lại.
Những người trưởng bản ngày nay vẫn do người dân bầu ra và được chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
quyền cấp xã công nhận. Cùng với trưởng bản, ngày nay ở hầu hết các bản
Tày đã có tổ chức cơ sở Đảng cùng các hội đoàn thể xã hội khác như: Chi hội
phụ nữ, hội người cao tuổi, cựu chiến binh, chi đoàn thanh niên, tổ hòa giải
xóm bản,…Tất cả cấu thành hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong các làng bản Tày ngày xưa, luật tục đã rất phổ biến. Nó là những
chuẩn riêng của từng bản buộc mọi người dân trong bải phải tuân theo. Ngày
nay, các luật tục đó vẫn còn tồn tại và được cải tiến, phát triển thêm dưới dạng
quy ước xây dựng làng bản văn hoá, việc xây dựng những quy ước này được
đưa ra bàn bạc dân chủ công khai và thống nhất từ các bản. Những quy ước
này thể hiện sự thích nghi của các luật tục trong giai đoạn mới. Nó phù hợp
với chủ trương của Đảng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá ở nông thôn,
vùng đồng bào dân tộc ít người. Nó thể hiện sự chắt lọc và phát huy những
giá trị tốt đẹp từ trong truyền thống của đồng bào.
3.2.3.2. Trong tổ chức dòng họ
So với giai đoạn đầu thế kỷ XX trở về trước thì ngày nay, tổ chức dòng
họ của người Tày ở Võ Nhai không thấy có thay đổi nhiều. Người dân vẫn
đặc biệt coi trọng mối quan hệ gia tộc họ hàng. Có việc gì dù lớn hay nhỏ, các
gia đình cũng đều cần sự trợ giúp ủng hộ của những người đồng tộc. Nguyên
tắc ngoại hôn dòng họ vẫn được duy trì.
Tuy nhiên, xét về mặt tổ chức thì các dòng họ Tày ở Võ Nhai vốn đã
lỏng lẻo thì nay càng lỏng lẻo hơn. Ít thấy có thờ cúng chung; từ đường và
ruộng hương hoả, người trưởng tộc cũng không còn và nếu có thì vai trò cũng
rất mờ nhạt,…Nhưng các thành viên trong họ không vì thế mà quên đi mối
quan hệ họ mạc, truyền thống và công đức của cha ông họ dù đã trải qua
nhiều đời, các liên hệ này được truyền nhau từ đời này sang đời khác. Trong
các bản Tày ở Võ Nhai hiện nay hầu như không thấy có nghĩa địa chung của
làng bản, nhưng các dòng họ lại có nghĩa địa chung của họ. Ở đó có mộ tổ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
mộ của các thành viên trong họ được bố trí theo những quy định riêng của
từng dòng họ.
Xét về quy mô thì mỗi dòng họ ngày nay đã lớn hơn trước rất nhiều. Sự
phát triển dân số đó cùng với sự di dân tìm đất đai để định cư và canh tác đã
làm cho các thành viên trong họ có xu thế sống tản mát dần. Họ Nông gốc ở
Cúc Đường, nhưng ngày nay gần như khắp 6 xã phía Bắc của Võ Nhai đều có
các gia đình thuộc dòng họ này hoặc có các mối quan hệ khác liên quan đến nhau.
Dù không còn tộc trưởng và những quy định thành văn nhưng mỗi khi có
việc thì các gia đình trong họ đều cử thành viên của mình tập trung lại dưới sự
chủ trì của những người có tuổi. Dịp mùng 3/3 âm lịch họ cử người cùng nhau
vun đắp, chăm nom mộ tổ và nghĩa địa chung. Đó là những cơ hội tốt để các
thành viên trong họ đoàn kết với nhau và được củng cố thêm ý thức dòng tộc.
Mối quan hệ giữa các gia đình trong họ và mối quan hệ láng giềng là hai mối
quan hệ bao trùm và đan xen lẫn nhau trong mỗi bản Tày cũng như của cả
một khu vực có người Tày cư trú.
Dù ít hơn người Kinh, nhưng ở trong mỗi làng bản Tày cũng có thấy ít
nhiều tư tưởng cục bộ dòng họ, khép kín dòng họ. Xã Cúc Đường và tại nhiều
bản của xã này, những người đứng đầu các ban ngành đoàn thể cũng là đa số
người thuộc dòng hộ Nông. Tuy vậy, vấn đề này là không nặng nề và đáng lo
ngại. Người ta vẫn đặc biệt tôn trọng nhau dù là trong hay ngoài họ trong các
mối quan hệ.
3.2.3.3. Trong tổ chức phường phe
Có thể nói trải quan thời gian và các biến động xã hội, rất nhiều thứ ở
bản Tày Võ Nhai đã biến đổi so với trước kia. Nhưng, tổ chức phường phe
(phường đám ma) thì vẫn còn đó. Tổ chức hoạt động của nó không khác gì
nhiều so với trước kia. Mỗi bản có một phe với một trùm trưởng và một trùm
phó (có nơi như ở bản Na Đồng, xã Vũ Chấn có 2 ông trùm trưởng). Phe vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
chỉ là một tổ chức lo toan giúp đỡ nhau trong việc hiếu thuần tuý, không thấy
tham gia vào các hoạt động khác. Quy định trong việc xử phạt các thành viên
vẫn rất nghiêm khắc. Người ta vẫn có ý thức tự giác, tinh thần cộng đồng cao
khi tham gia phương phe. Lý do cơ bản làm cho các phường phe tồn tại dai
dẳng, hoạt động quy củ, được người ta coi trọng và muốn tham gia như vậy là
do tinh thần cộng động, tương thân tương ái đã trở thành truyền thống của
người dân. Hơn nữa, nghi lễ đám tang của người Tày vẫn còn rườm rà, phức
tạp và tốn kém. Nếu không có sự trợ giúp đắc lực của phường phe thì tang
chủ khó mà lo xong một đám tang tươm tất.
Ngày nay, phổ biến trong các phường phe của người Tày ở Võ Nhai là
những quy định riêng của từng phường phe được ghi lại thành văn bản. Họ
thống nhất điều này thông qua những buổi họp của phe sau các đám tang.
Những quy định đó chủ yếi nói về trách nhiệm của các thành viên trong các
đám tang, vấn đề xử phạt những người vi phạm, đề cao vai trò và sự quyết
định của những ông trùm phe.
So với trước kia thì một đám tang của người Tày hiện nay được đơn giản
đi khá nhiều, thời gian chỉ thường từ 2 - 3 ngày. Nhưng, trong đám tang
không thể thiếu thầy cúng và sự trợ giúp của các phường phe. Thầy cúng,
trùm phe và chủ nhà là những nhân vật quan trọng nhất trong đám tang.
Sự tồn tại bền bỉ của các phường phe trong vùng Tày ở Võ Nhai cho thấy
tinh thần cộng đồng, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn của đồng bào
không hề thuyên giảm qua thời gian. Phường phe là một minh chứng tiêu biểu
nhất cho điều đó. Đó thực sự là một nét đẹp truyền thống của đồng bào Tày
và cần được phát huy trong bối cảnh hiện nay khi Đảng ta đang phát động
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.
3.2.3.4. Trong các hoạt động cộng đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
Khác với tổ chức phường phe như đã trình bày ở trên, các hoạt động
cộng đồng mà tiêu biểu nhất là lễ hội và thờ cúng chung từ lâu đã không được
duy trì tại các bản người Tày ở Võ Nhai. Nguyên nhân chính của vấn đề này
như đã nêu đó là sự mất đi của những ngôi đình bản, những ngôi miếu thờ thổ
công của từng bản và quan trọng hơn là trong một thời gian khá dài chúng ta
đã không quan tâm nhiều và trân trọng những giá trị văn hoá đặc trưng của
từng dân tộc với tư tưởng: xây dựng được Chủ nghĩa xã hội là phải xây dựng
được một nền văn hoá chung xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động thờ cúng hiện nay chỉ tồn tại trong từng gia đình, dòng họ.
Các lễ nghi liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp đều không thấy còn tồn tại
như lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới. Những ngôi miếu thờ thổ công chung của
từng bản đã mất đi cách đây vài chục năm, khoảng những năm giữa và cuối
thế kỷ XX đã kéo theo sự ra đi của những hoạt động thờ cúng chung này.
Cùng với những ngôi miếu thờ thổ công, đình bản mất đi làm cho những
hoạt động cộng đồng gắn với nó cũng không còn nữa. Trước năm 1945, các
bản đều có được đình riêng và đã có đình thì sẽ có hội đình (hội lồng tồng)
được tổ chức vào tháng giêng âm lịch. Những lễ hội lồng tồng mang những
nét văn hoá Tày đặc trưng của Võ Nhai thường chỉ được tổ chức khoảng
những năm 50 – 60, Thế kỷ XX trở về trước. Đó là giai đoạn còn tồn tại đình
và văn hoá đình bản đang thịnh hành ở đây. Ngày nay hầu như không còn
thấy bóng dáng những ngôi đình tại các bản Tày ở Võ Nhai, có chăng chỉ là
những nền đất cũ (như đình Thượng Nung, đình Na Đồng). Hai ngôi đình tiêu
biểu còn tồn tại đến ngày hôm nay là đình Mỏ Gà, xã Phú Thượng; đình Cả,
thị trấn Đình Cả. Đình Cả thể hiện nét văn hoá pha trộn của cả người Tày,
người Nùng, người Kinh. Đình Mỏ Gà mang đặc trưng của văn hoá Tày,
Nùng hơn. Năm 2007, chính quyền địa phương đã cho tôn tạo lại đình này và
cố gắng khôi phục lại lễ hội lồng tồng. Đó là cách làm rất tốt, tuy nhiên đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
không phải là việc làm dễ dàng, vì từ lâu người dân ở đây đã không còn nhớ
đến khái niệm “hội đình” và sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng tại đình, đặc biệt là
lớp trẻ.
Khi mà ngày nay những lễ hội truyền thống và những nét văn hoá đặc
sắc của từng dân tộc đang được Đảng và Nhà nước khuyến khích khôi phục
và phát huy; khi mà quá trình giao lưu kinh tế và văn hoá đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ giữa các vùng miền và các dân tộc; khi mà người dân, nhất là
lớp trẻ ngày nay đang chạy theo nếp "văn hoá công nghiệp" đôi khi trái với
thuần phong mỹ tục; khi mà sự thâm nhập của văn hoá độc hại đang từng
bước làm băng hoại truyền thống đạo lý và lấn át những giá trị nhân văn,…
thì việc nghiên cứu, đầu tư khôi phục lại phần nào văn hoá đình bản, nhất là lễ
hội lồng tồng là một việc làm rất nên làm không chỉ ở vùng Tày Võ Nhai.
Điều này muốn làm tốt được cần sự vào cuộc của ngành văn hoá, các cấp
chính quyền địa phương và nhất thiết phải tham khảo ý kiến và tranh thủ được
sự ủng hộ của người dân.
3.3. Một vài kiến nghị
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu những vấn đề trong khuôn khổ đề tài
này, nhất là qua việc tìm hiểu những biến đổi trong làng bản của người Tày,
chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra đây vài ý kiến kiến nghị như sau:
Một là về mặt tổng thể: Phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển
kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào; tăng cường hỗ trợ, ưu tiên
cho vùng đặc biệt khó khăn; thực hiện có hiệu quả những chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, các chương trình, dự án của Chính
phủ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, việc cần làm ngay là
hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống giao thông và các cơ sở hạ tầng
quan trọng khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
Hai là: Quan tâm đầu tư xây dựng được đội ngũ cán bộ cơ sở tốt về
chuyên môn, giỏi về khả năng dân vận và có tinh thần nhiệt tình công tác.
Muốn vậy trước hết Nhà nước và chính quyền địa phương phải tăng cường
các khoản phụ cấp cho đội ngũ cán bộ này; trao quyền hành nhiều hơn nữa
cho trưởng bản; kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở để làm sao cho các tổ
chức này không còn hoạt động mang tính hình thức nhằm phát huy hết vai trò
của những tổ chức này trong điều kiện mới.
Ba là: Làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền trên lĩnh vực văn hoá tư
tưởng nhằm bài trừ hủ tục, những lễ nghi rườm rà và tốn kém trong những
việc hiếu, hỷ,…. Phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp và đẩy lùi sự
thâm nhập của các loại hình văn hoá lai căng, độc hại.
Bốn là, về cụ thể: Nhà nước và địa phương nên thực hiện một số công
vịêc như:
Nghiên cứu và khuyến khích sản xuất vật liệu phù hợp với điều kiện tại
địa phương nhằm phục vụ cho nhu cầu dựng nhà đang gia tăng của đồng bào
do gỗ ngày càng khan hiếm và đồng bào vẫn tiếp tục phá rừng, khai thác gỗ
trái phép để dựng nhà và làm đồ gia dụng.
Khuyến khích các bản trên cơ sở kế thừa, phát huy các mặt tích cực của
luật tục để xây dựng được các quy chế, xây dựng làng bản văn hoá vừa phù
hợp với thuần phong mỹ tục của đồng bào vừa không trái với pháp luật của
Nhà nước.
Tôn trọng và duy trì hoạt động của tổ chức phường phe, khuyến khích
các phường phe xây dựng những quy định thành văn bản và không mâu thuẫn
với quy chế chung của làng bản.
Dù sớm hay muộn, chính quyền địa phương cũng nên tìm cách phục hồi
lại những hoạt động cộng đồng làng bản, đặc biệt là hội lồng tồng như trường
hợp của bản Mỏ Gà. Việc phục hồi này phải được thực hiện trên tinh thần tôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
trọng những giá trị truyền thống, không quá "hiện đại hoá" mà vẫn đảm bảo
tính hấp dẫn để thu hút đông đảo người dân trong cộng đồng tham gia.
Trên phương diện vĩ mô, Nhà nước nên để cho làng bản được tự quản ở
mức độ phù hợp để làm sao phát huy hết vai trò của nó trong việc điều chỉnh
các mối quan hệ cộng đồng; bảo tồn các bản sắc văn hoá truyền thống đặc
trưng của đồng bào. Pháp luật của Nhà nước thi hành ở vùng dân tộc nên có
những quy định riêng, không mâu thuẫn và phải tôn trọng những điểm phù
hợp, tiến bộ trong luật tục của đồng bào. Muốn vậy cần ban hành nghị định
hướng dẫn thi hành cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
PHẦN KẾT LUẬN
1. Võ Nhai là địa bàn sinh sống của 8 dân tộc anh em, trong đó đông nhất
là người Kinh, Tày, Nùng. Các dân tộc nơi đây đã có truyền thống đấu tranh
cách mạng vể vang trong lịch sử. Dân tộc Tày có lịch sử định cư lâu đời nhất,
họ chủ yếu cư trú taị 6 xã vùng cao phía bắc của Huyện với tỷ lệ trên 60%.
Họ đã và đang cùng với các dân tộc anh em khác ra sức lao động sản xuất,
phát triển kinh tế và tạo ra cho riêng mình một nền văn hoá đặc trưng mang
đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Các làng bản cổ xưa của người Tày ở huyện Võ Nhai đã được thành
lập từ lâu, đồng thời với quá trình định cư, định canh của đồng bào ở khu
vực này.
Mỗi bản của người Tày lại có những tên gọi khác nhau. Những tên gọi
này được đặt bao giờ cũng gắn liền với đặc điểm, vị trí địa lý, đời sống văn
hoá, tình cảm và hoạt động sản xuất vật chất của đồng bào. Những tên gọi
làng bản cổ xưa nhất ở vùng này thường mang những tiền tố như: Nà, Bản,
Lũng, Khuổi. Qua những tên gọi này, chúng ta thấy ẩn trong đó nhiều thông
tin về địa lý, địa vực, địa hình của làng bản đó. Những tên này tồn tại dai dẳng
và đa số trong đó vẫn còn được bảo lưu đến ngày nay. Trải qua thời gian và
nhiều sự biên động, một số tên gọi bản đã thay đổi, một số mất đi và nhiều tên
gọi mới ra đời gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất này.
Quy mô của các bản Tày truyền thống ở Võ Nhai thường rất nhỏ. Giai
đoạn đầu thế kỷ XX trở về trước, mỗi bản thường chỉ có dưới 10 gia đình. Số
họ trong mỗi bản thường từ 2 - 3 họ trở lên. Những bản nhỏ nhất thường là
bản mới thành lập do quá trình di cư tìm đất đai để ở và canh tác dẫn đến chia
tách bản. Tại những thung lũng bằng phẳng, thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp thì bản thường đông hơn và cư trú mật tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
Người Tày là cư dân có truyền thống định canh định cư nên họ thường
cố gắng chọn đất lập bản một lần. Bản thường được lập ở những nơi gần
nguồn nước sông, suối. Đây là tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất của họ.
Khu vực lập bản phải có đất đai để canh tác ruộng nương, có rừng để khai
thác lâm thổ sản, có nơi để chăn thả gia súc,…Người Tày ở Võ Nhai không
lập bản cheo leo trên vùng núi cao như người H'Mông, người Dao. Bản của
họ thường ở thấp, tại các thung lũng gần đường giao thông. Ngoài ra, việc
chọn đất lập bản cũng bị chi phối bởi yếu tố phong thuỷ.
Các bản Tày xưa kia thường bố trí rải rác do dân cư thưa thớt. Dù lớn
hay nhỏ, bản được chia ra làm vài xóm, mỗi xóm có vài gia đình, thậm chí có
khi mỗi gia đình ở một khu vực biệt lập. Tuy vậy, giữa các bản với nhau đều
có ranh giới được ngăn cách bởi những dòng suối, cánh rừng hay dãy núi.
Người dân trong bản đều ý thức rõ phạm vi của bản mình và tôn trọng địa
phận của các bản khác.
Vì được bố trí rải rác nên các bản Tày ở Võ Nhai ít theo một hàng lối
nhất định. Mỗi nhà một hướng khác nhau. Giữa bản không có một trục giao
thông giống như làng cổ truyền của người Kinh. Những ngôi nhà và các xóm
trong bản được nối với nhau bởi những con đường mòn bằng đất hoặc đá do
dân bản góp sức làm. Tại các bản Tày cổ truyền ở Võ Nhai, người ta cũng
không có thói quen rào giậu quanh bản như những người đồng tộc tại một số
nơi ở Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn. Nhà nào biết rào riêng nhà nấy bằng
những hàng rào nhằm hạn chế thú dữ đe dọa người và gia súc, chống trộm cướp.
Nhà cửa trong các làng bản gồm 2 loại hình chủ yếu là nhà sàn và nhà
nền đất, nhà nền đất của đồng bào mới xuất hiện cách nay khoảng vài chục
năm. Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống đã có từ rất lâu đời được dựng bằng
những loại gỗ quý trong vùng như: đinh, táu, nghiến lát,…. Nhà sàn của đồng
bào thường làm cột vuông và có từ 4 - 6 vì kèo. Nói chung, những ngôi nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
sàn của người Tày ở phía Bắc Võ nhai là còn giữ được nhiều nét
truyền thống.
Trong những làng bản Tày truyền thống đều thấy xuất hiện những ngôi
đình bản và miếu thờ thổ công chung. Đình của người Tày ở đây thường được
dựng rất lớn, chiều dài có khi tới trên 20m bằng những cột nghiến to hơn một
người ôm. Đình được lợp bằng lá cọ, lá gianh. Thợ chính dựng đình được mời
từ dưới xuôi lên. Vì vậy mà những ngôi đình ở đây mang đậm dấu ấn kỹ thuật
của người Kinh. Việc dựng đình là công việc chung của cả bản. Đình là trung
tâm cho các hoạt động văn hoá tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của dân
bản. Miếu thường nhỏ hơn, được dựng ở đầu làng hoặc dưới những gốc cây
đa. Miếu được dựng để thờ thổ công bảo vệ làng bản.
Ngoài đình và miếu, trong bản còn có những sở hữu công cộng như: rừng
cây, nguồn nước, vật linh mà dân bản đều có quyền sử dụng và có trách
nhiệm bảo vệ. Tại các bản Tày đều không thấy có nghĩa địa chung của bản mà
chỉ có nghĩa địa của từng dòng họ.
3. Kinh tế truyền thống của người Tày ở Võ nhai mang nặng tính tự cung
tự cấp. Đồng bào lấy canh tác lúa nước làm ngành kinh tế chính và quan trọng
nhất. Chăn nuôi của họ mang tập quán chăn thả là chính, đặc biệt là thả trâu
đàn và cá ruộng. Ngành nghề thủ công không có nhiều nét đặc trưng, chủ yếu
sản xuất phục vụ theo nhu cầu nội tại của gia đình và làng bản. Trong những
điều kiện như vây, hoạt động trao đổi, buôn bán kém phát triển, hệ thống chợ
hình thành rất muộn. Kinh tế tự nhiên có vai trò quan trọng trong một thời
gian dài.
Những năm trở lại đây, kinh tế và đời sống vật chất của đồng bào đang
có những chuyển biến rất đáng mừng.
4. Làng bản Tày cổ truyền là một tổ chức tự quản có quy chế tương đối
chặt chẽ. Trong đó nổi lên vai trò của hội đồng già làng, trưởng bản và luật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
110
tục của bản. Hội đồng già làng trong mỗi bản có vai trò như một cơ quan "lập
pháp", sửa đổi, bổ sung và giám sát việc thực hiện luật tục của mỗi người dân
và gia đình trong bản. Trưởng bản là do dân bầu ra, là người đặc biệt có uy tín
với dân bản, có năng lực điều hành, ông là người đại diện cho quyền lợi,
nguyện vọng của người dân và cũng đại diện cho chính quyền cấp trên trong
việc thu thuế, bắt phu và giải quyết các vấn đề khác trong bản.
Luật tục của các bản Tày ở Võ Nhai thường không thành văn, nó như
"luật pháp" riêng của bản quy định tất cả các vấn đề như: ma chay, cưới xin,
giải quyết tranh chấp, thái độ đối với của công và công việc chung của bản,
buộc các thành viên phải tuân theo. Luật tục có vai trò vô cùng quan trọng
trong cơ chế tự quản làng bản vì luật pháp của Nhà nước và quyền lực của
chính quyền trung ương rất yếu ớt ở khu vực này.
Tổ chức dòng họ của người Tày ở Võ Nhai nói chung không mấy chặt
chẽ như ở người Kinh vùng đồng bằng Bắc bộ. Không có từ đường riêng, ít
thấy có ruộng họ và không tổ chức họp họ thường xuyên nhưng người Tày
vẫn đặc biệt coi trọng các mối quan hệ họ tộc. Trong một bản các mối quan hệ
thân tộc chằng chịt với nhau, đan xen hoà quyện cùng mối quan hệ láng
giềng. Người cùng họ khi có công việc gì trước tiên là tìm đến nhau và nhờ
nhau giúp đỡ. Trong đa số các họ trước kia đều có những người trưởng họ, có
uy tín khá lớn. Các họ cũng thường ghi tộc phả nhưng nay đều bị thất truyền.
Tại khu vực Võ Nhai hiện nay người Tày phổ biến mang các họ như: Nông,
Ma, Hoàng, Lý, Nguyễn…
Tổ chức phường phe trong các làng bản ở Võ Nhai tồn tại bền bỉ và được
bảo lưu qua những thăng trầm của xã hội Tày. Điều đặc biệt của phường phe
ở đây là tổ chức này chỉ độc lo trợ giúp nhau trong việc hiếu mà không thấy
tham gia vào các công việc khác như cưới xin hay làm nhà mới. Đồng bào
quan niệm không thể để tổ chức chuyên lo những công việc hiếu truyền thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
111
sang làm những việc "hỷ". Mỗi phường phe gồm một trùm trưởng và một
trùm phó hoặc cả hai đều là trùm trưởng và thay nhau điều hành trong các
đám tang. Phường phe là tổ chức điển hình cho tinh thần cộng đồng, đoàn kết
tương trợ trong các làng bản Tày từ lâu trong lịch sử cũng như hiện nay.
Là một xã hội nông nghiệp lúa nước truyền thống thì những lễ hội và thờ
cúng liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp là khá phong phú trong các làng
bản, đặc biệt là hội lồng tồng. Một nét đặc trưng trong các hội lồng tồng ở Võ
Nhai là họ thường thuê những gánh hát nhà tơ (ca trù) và hát chèo từ dưới
xuôi và các nơi khác đến biểu diễn. Lễ hội và những dịp thờ cúng chung có
vai trò rất lớn trong việc gắn kết tinh thần cộng đồng trong bản, thể hiện đậm
nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Nhưng rất tiếc nay đã không còn và vẫn
chưa mấy được khôi phục.
Nói chung, xét ở mọi khía cạnh thì làng bản của người Tày đã và đang có
vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của tộc người cũng như đối
với chính quyền cơ sở trong việc quản lý vùng nông thôn. Nó là một tổ chức
xã hội cơ sở, tổ chức tự quản hoàn chỉnh. Nó củng cố tinh thần cộng đồng,
giúp cộng đồng vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nó là nơi mà trong đó
người ta sáng tạo ra những gía trị văn hoá truyền thống tốt đẹp,…
5. Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay do nhiều nguyên nhân mà làng
bản của người Tày ở Võ Nhai đã có những thay đổi rất đáng kể. Về quy mô
thì làng bản đã đông đúc hơn rất nhiều, số hộ, số nhân khẩu và tộc danh tăng
lên, đất đai cho sản xuất bị chia ra nhỏ lẻ, rừng tự nhiên không còn đáng kể.
Nền kinh tế hàng hoá ngày càng thâm nhập làm đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Tuy
nhiên, nông nghiệp lúa nước vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của
đồng bào. Đời sống của đồng bào còn đang gặp phải rất nhiều khó khăn, vất vả.
Trên lĩnh vực văn hoá thì nhiều yếu tố văn hoá truyền thống của dân tộc
bị mai một nhanh chóng. Sự mất đi của những ngôi đình bản, miếu bản cùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
112
những hoạt động văn hoá tín ngưỡng đi kèm với nó như lễ hội lồng tồng và
nhiều nghi lễ thờ cúng chung khác.
Muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất của người
dân, khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, xây
dựng nền văn hoá mới trong vùng đồng bào cần những chính sách đồng bộ từ
kinh tế đến văn hoá, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và phát huy cao độ những
sự tích cực trong truyền thống của đồng bào.
Với sự hỗ trợ của Trung ương, địa phương cùng với tinh thần tích cực tự
giác, cần cù, sáng tạo trong lao động, nắm bắt nhanh khoa học- kỹ thuật của
đồng bào thì chúng ta tin tưởng lạc quan rằng tất cả các mặt trong đời sống
của người Tày tại khu vực này sẽ thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng tích
cực. Đồng bào sẽ nhanh chóng hoà nhập và theo kịp tốc độ phát triển của địa
phương và cả nước, bảo tồn và phát huy được những truyền thống văn hoá tốt
đẹp mang đậm đà bản sắc dân tộc mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc, Nxb Văn hoá Dân
tộc, Hà Nội, 2000.
3. Phan Hữu Dật (Chủ biên), Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay 2000 - 2001, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
4. Phan Hữu Dật (Chủ biên), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam 1999,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam - mấy vấn đề kinh tế - xã hội 1992, Nxb
Mũi Cà Mau.
6. Đại Nam nhất thống trí, tập 4, 1994, Nxb Thuận Hoá, Huế.
7. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Đề án xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội huyện Võ Nhai giai đoạn 2001 - 2005 và định hướng đến năm 2010.
8. Đàm Nam Điền (2006), Tên làng xã huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng trước
năm 1945, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân, chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam cổ trung đại, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
9. Đồng Khánh Dư địa chí: Thái Nguyên tỉnh, Sở Văn hoá Thông tin tỉnh
Thái Nguyên.
10. Huyện uỷ Võ Nhai, Lịch sử đảng bộ huyện Võ Nhai, tập I, tập II.
11. Lưu Anh Hùng (1994), Buôn làng cổ truyền xứ Thượng, Nxb Văn hoá
Dân tộc, Hà Nội.
12. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Bản dịch
của Nguyễn Quang Ngọc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Hải Kế (1996), Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ. Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
114
14. Lễ hội Lồng Tồng của người Tày, Nùng ở Đông Bắc Việt Nam (Đề tài
nghiên cứu cấp Viện), Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam.
15. Lã Văn Lô, Hà Văn Thái (1984), Văn hoá Tày - Nùng, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
16. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 - 1884), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên (2002), Văn hoá dân gian Tày.
19. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2007),
Địa chí Thái Nguyên.
20. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc
bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
21. Dương Thị The - Phạm Thị Thoa (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX (thuộc các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Đặng Nghiêm Vạn (1993), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc
gia dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Viện dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Hà Nội.
24. Viện Khoa học Xã hội (1978), Các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhiều tác
giả), Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
25. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
26. Uỷ ban dân tộc miền núi (2001), 55 năm công tác dân tộc và miền núi
(1946 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
27. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam (Thế kỷ XI - XIX) - Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
115
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
TT Họ và tên Tuổi Địa chỉ Nghề nghiệp
1 Nông Tiến Hỷ Trường Sơn - Cúc Đường Hưu trí 87
2 Nông Tiến Thịnh Trường Sơn - Cúc Đường Nông dân 84
3 Nông Tiến Sỹ Trường Sơn - Cúc Đường Nông dân 61
4 Nông Tiến Sản Trường Sơn - Cúc Đường Nông dân 35
5 Nông Anh Đài Tân Sơn - Cúc Đường Cán bộ 55
6 Hoàng Thị Hà Na Đồng - Vũ Chấn Nông dân 70
7 Ma Văn Tịnh Na Đồng - Vũ Chấn Hưu trí 81
8 Hoàng Hồng Ninh Na Đồng - Vũ Chấn Nông dân 62
9 Hoàng Văn Tuyết Na Mấy - Vũ Chấn Cán bộ 48
10 Nông Ngọc Châu Na Rang - Vũ Chấn Cán bộ 31
11 Nguyễn Hải Kế Na Đồng - Vũ Chấn Hưu trí 75
12 Lành Tiến Phong Mỏ Gà - Phú Thượng Hưu trí 69
13 Lành Tiến Huy Mỏ Gà - Phú Thượng Nông dân 40
14 Hoàng Thị Phương 47 Phượng Hoàng - Phú Thượng Cán bộ
15 Nông Ngọc Chu Bãi Lai - TT. Đình Cả Cán bộ 60
16 Nông Ngọc Toản Bãi Lai - TT. Đình Cả Giáo viên 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
116
PHỤ LỤC ẢNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
117
1
2
Ảnh 1, 2: Đƣờng vào bản Tày hôm nay Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
118
19
20
Ảnh 19, 20: Bàn thờ đƣợc đặt ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà của ngƣời Tày - Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
119
21
Ảnh 21: Bà Hoàng Thị Hà - Bản Na Đồng, xã Vũ Chấn bên ngôi nhà sàn truyền thống - Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
22
Ảnh 22: Gia phả của dòng họ Lành ở Bản Mỏ Gà, Phú Thƣợng Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
120
3
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
121
5
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
122
7
8
Ảnh 3, 4, 5, 6, 7, 8: Khuôn viên các gia đình Tày cƣ trú biệt lập Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
123
9
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
124
11
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
125
13
14
Ảnh 9, 10, 11, 12, 13, 14: Những xóm bản cƣ trú mật tập Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
126
15
Ảnh 15: Kinh tế đồi - rừng ở Võ Nhai trong thời kỳ đổi mới Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai, tập 2
16
Ảnh 16: Điện về bản vùng cao - Nguồn: Tác giả chụp năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
127