đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh
lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất,
nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư,
con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.
Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến
lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.
Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái
đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên
hạ thịnh trị.
Đó là mấy điều, thành thật xin dâng. Chẳng quản lời nói vu vơ, cúi mong Hoàng
thượng soi xét.
Kẻ hèn thần cung kính tấu trình.
(Bàn luận về phép học, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, theo La Sơn Yên Hồ Hoàn Xuân Hãn,
tập II NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998)
*Chú thích
“Bàn luận về phép học” là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang
Trung vào tháng 8/1971. Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để
trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị (khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể
chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường mang yếu tố hài). Tấu có thể được viết bằng
văn xuôi hay văn vần, văn biền ngẫu. Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung bàn
về 3 điều mà theo ông bậc đế vương nên biết: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân),
học pháp (phép học).
“Bàn về phép học” là một bài tấu Nguyễn Thiếp gửi lên vua nhằm nói lên mục đích
chân chính của việc học và đưa ra quan điểm, phương pháp học đúng đắn.
(1) Đến giờ: là thời điểm Nguyễn Thiếp dâng lên vua Quang Trung bản tấu vào tháng
8/1791.
(2) Tam cương, ngũ thường: chỉ ba mối quan hệ gốc trong xã hội phong kiến là vua tôi, cha
con, chồng vợ và các đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của con người.
(3) Chu Tử: Chu Hi, nhà nho nổi tiếng, đồng thời là nhà triết học, giáo dục học thời Nam
Tống.
(4) Tứ thư, ngũ kinh, chư sử: những quyển sách kinh điển của Nho giáo, những cuốn sách sử
nổi tiếng thời xưa.
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
A. Văn bản tự sự B. Văn bản miêu tả C. Văn bản biểu cảm D. Văn bản nghị luận.
Câu 2. Văn bản “Bàn luận về phép học” được trích dẫn từ đâu?
A. Bài chiếu của Lý Công Uẩn. B. Bài cáo của vua Nguyễn Trãi.
C. Bài tấu của Nguyễn Thiếp. D. Bài hịch của Trần Quốc Tuấn.
Câu 3. Luận đề của văn bản là:
A. Bàn luận về mục đích và phương pháp học tập đúng đắn
B. Bàn luận về việc học tứ thư, ngũ kinh, chư sử
C. Phê phán lối học đương thời, đã lỗi thời
D. Kêu gọi mọi người hãy chú trọng việc học
Câu 4. Theo tác giả, "đạo" được hiểu là gì?
A. Là lẽ đối xử hàng ngày với mọi người B. Kẻ đi học là học điều ấy
C. Là lối học hình thức hòng cầu danh lợi D. Chúa tầm thường, thần nịnh hót
Câu 5. Theo Nguyễn Thiếp, tác hại của việc người ta đua nhau lối học hình thức là gì?