
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển hợp quy luật
(ĐCSVN)- Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng
khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Văn kiện nhấn mạnh “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ”(1).
Đó là sự khẳng định dứt khoát con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự
lựa chọn đó phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đáp ứng xu thế phát triển
của xã hội loài người, đáp ứng lòng mong mỏi và lợi ích của toàn dân tộc. Đó
chính là con đường biện chứng của lịch sử.
Trước sự lựa chọn đó, các thế lực thù địch đều cùng công kích vào đường lối đó
của Đảng. Họ đã rêu rao rằng: Đại hội IX của Đảng khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là đưa dân tộc vào chỗ chết. Họ nêu ra thuyết chủ nghĩa xã hội
“đẻ non” ở nước ta là hiện tượng trái quy luật mà Mác đã nêu trong lý luận quá
trình lịch sử tự nhiên. Thực ra, họ chỉ “nhắc lại” những luận điệu đã có từ 10 năm
nay.
Luận điệu này không có gì mới mẻ. Ngay từ trước và sau Cách mạng tháng Mười,
Plêkhanốp đã từng chỉ trích như thế đối với Đảng Bonsevic do Lênin lãnh đạo, cho
rằng giành chính quyền khi ở nước Nga giai cấp vô sản chưa có sự chuẩn bị tốt,
chỉ có thể “ đẩy nó tới con đường tai họa lịch sử lớn nhất”. Còn Cauxki công kích
Cách mạng tháng Mười bằng lời lẽ càng độc ác hơn, cho rằng xây dựng chuyên
chính vô sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Nga chẳng khác nào “một phụ nữ mang
thai nhảy nhót điên cuồng, nhằm rút ngắn thời gian mang thai mà nó không thể

nào chịu đựng nổi rồi dẫn đến đẻ non”. Thậm chí ông ta nguyền rủa “Đứa trẻ sinh
ra như thế thông thường không thể sống nổi”.
Mặc dù nội dung và phương thức luận chứng của thuyết “đẻ non” không có gì
thay đổi, nhưng ảnh hưởng của nó đối với người ta trong những thời kỳ khác nhau
là không giống nhau. Nửa đầu thế kỷ XX, thuyết “đẻ non” đưa ra chưa được bao
lâu đã ngập chìm trong làn sóng xã hội chủ nghĩa đang giành thắng lợi vang dội.
Cuối thế kỷ XX, do phong trào xã hội chủ nghĩa đi vào thoái trào, thuyết “đẻ non”
trên những chừng mực khác nhau đã ảnh hưởng đến cán bộ và quần chúng trong
nước, gây ra tâm trạng hoài nghi băn khoăn nhất định. Nhưng dù trước kia hay
hiện nay, thuyết “đẻ non” đều không thể đứng vững, bởi vì quan điểm đó không
phù hợp với thực tế lịch sử.
Ngoài thuyết “đẻ non” còn có thuyết “học bù”. Nhìn bề ngoài, luận điệu này
không phủ nhận cuộc cách mạng dân chủ ở nước lạc hậu do giai cấp vô sản lãnh
đạo, nhưng cho rằng chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu làm sớm quá và làm sai
nên phải quay lại làm chủ nghĩa tư bản, chờ sau khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển
đầy đủ rồi mới đi con đường xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, thuyết này được biến
tướng thành các luận điểm chủ nghĩa xã hội không thích hợp với Việt Nam, đó là
tư tưởng “ngoại nhập”, đổi mới là đi theo con đường chủ nghĩa tư bản, thuyết
“đằng sau quay”. Ngay từ đầu thế kỷ XX, Lênin đã từng nhằm vào quan điểm
tương tự ở nước Nga mà chỉ rõ “Không tiến lên tức là thụt lùi. Nước Nga ở thế kỷ
XX đã giành được chế độ cộng hòa và chế độ dân chủ bằng biện pháp cách mạng,
không tiến lên chủ nghĩa xã hội, không áp dụng bước đi tiến lên chủ nghĩa xã
hội...thì không thể tiến lên".
I- Từ giác độ thực tiễn
Tại sao những nước lạc hậu lại có thể nổ ra cách mạng xã hội chủ nghĩa trước và
giành thắng lợi? Suy cho cùng là kết quả tất yếu của mâu thuẫn cơ bản không thể

khắc phục nổi trong nội bộ chủ nghĩa tư bản quốc tế, là kết quả tất yếu của việc
chuyển dịch mâu thuẫn đó sang các nước lạc hậu, làm cho nó có toàn bộ căn cứ
khách quan để nổ ra cách mạng. Xét về mặt quốc tế, cuối thế kỷ XIX và đầu thế
kỷ XX, sự bành trướng cũng như mâu thuẫn giai cấp của tư bản trong phạm vi
toàn cầu, sự gay gắt của mâu thuẫn dân tộc khi thế giới đi vào thời đại đế quốc chủ
nghĩa tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng vô sản. Ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản
độc quyền, chủ nghĩa đế quốc có nghĩa là chiến tranh, có nghĩa là áp bức, có nghĩa
là bản tính phản động cướp bóc được bộc lộ rõ rệt một mặt giữa các cường quốc
đế quốc phát động hai cuộc chiến tranh thế giới để tranh giành phạm vi thế lực, đã
làm suy yếu lực lượng của chủ nghĩa tư bản quốc tế; mặt khác, sự áp bức tàn khốc
và sự cướp đoạt điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân trong nước và
các thuộc địa đã làm gay gắt mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản,
giữa chính quốc với thuộc địa. Sự đan xen gay gắt của những mâu thuẫn đó đã tạo
ra hoàn cảnh quốc tế đặc biệt là cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra ở nơi này
thì cũng nổ ra ở nơi khác. Tất yếu lịch sử đó đã được Mác và Ăngghen dự đoán
chính xác từ cuối thế kỷ XIX. Nhìn vào tình hình các nước thuộc địa nửa phong
kiến như Việt Nam, Trung Quốc, nguyên nhân căn bản nổ ra cách mạng bắt nguồn
từ những mâu thuẫn cơ bản phổ biến trên đồng thời bắt nguồn từ những mâu thuẫn
nội tại cụ thể, đó là sự phản động của giai cấp thống trị và sự thối nát của chế độ
xã hội ở nước lạc hậu. Một mặt, chủ nghĩa tư bản làm cho lực lượng sản xuất phát
triển một số lĩnh vực công nghiệp, tạo ra giai cấp vô sản đại biểu cho yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất tiên tiến; mặt khác, yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất tiên tiến đã gặp phải sự cản trở nghiêm trọng của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng phản động nhất ở quốc gia lạc hậu. Sự bóc lột và áp bức của chủ
nghĩa tư bản quốc tế và của giai cấp thống trị phản động trong nước đã đạt tới
mức cực kỳ tàn nhẫn, cực kỳ dã man. Giai cấp vô sản và quần chúng lao động đã
tạo ra của cải với khối lượng lớn, nhưng bản thân họ thì ngay quyền sinh tồn cơ
bản nhất cũng không được bảo đảm. Toàn bộ xã hội bị đẩy tới bên bờ sụp đổ, lực
lượng sản xuất không thể nào phát triển được, xã hội không có cách nào tiến bộ,

giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, quần chúng nhân dân cũng không
còn cách nào sống như cũ. Ngoài cách mạng ra đã không còn lối thoát nào khác.
Nhìn vào sự chuẩn bị lý luận để giải phóng dân tộc và giải phóng bản thân giai cấp
vô sản, giai cấp vô sản và quần chúng lao động ở quốc gia lạc hậu đã nhiều lần
tiến hành cuộc đấu tranh ngoan cường với cường quốc đế quốc chủ nghĩa và với
giai cấp thống trị phản động ở trong nước, nhưng do thiếu vũ khí lý luận khoa học
nên đều bị thất bại. Chủ nghĩa Mác với tư cách là lý luận khoa học của giai cấp vô
sản được truyền bá sang phương Đông đã mang lại vũ khí tư tưởng mới cho giai
cấp vô sản và quần chúng lao động ở những nước đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, một khi giai cấp vô sản nắm được lý luận của chủ nghĩa Mác thì cuộc
đấu tranh của họ chống chủ nghĩa đế quốc và giai cấp thống trị phản động trong
nước sẽ chuyển từ tự phát sang tự giác, do vậy đã rút ra được kết luận mà bất cứ
lúc nào trước kia cũng không thể rút ra được; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là lối
thoát duy nhất. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước lạc hậu như Nga,
Trung Quốc...đã nổ ra trong bối cảnh như thế.
Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, giải phóng dân
tộc, tiến hành cải tạo XHCN không thể đi con đường tư bản chủ nghĩa - con đường
của sự cướp bóc tàn bạo, của sự phân hóa giai cấp, con đường đầy máu và nước
mắt. Nếu đi con đường này tất nhiên sẽ tạo ra phân hóa giai cấp, phân cực xã hội
rất nghiêm trọng, vừa đau khổ vừa dai dẳng, vừa không phù hợp với tình hình thực
tế, vừa đi ngược lại ý chí của quần chúng nhân dân. Đồng thời trong hoàn cảnh
quốc tế khi chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống thế giới, đi con đường tư bản
chủ nghĩa tất nhiên không thể thoát khỏi sự lệ thuộc vào tư bản độc quyền quốc tế,
kết cục chỉ có thể là lại trở thành vật phụ thuộc của các cường quốc phương Tây.
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể bảo vệ được thành quả của cách mạng dân chủ,
mới phát triển đất nước đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

Hiện tượng phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế thoái trào không thể giúp gì cho
thuyết “đẻ non” cũng như biến tướng của nó là thuyết “học bù”. Nguyên nhân sụp
đổ CNXH ở Liên Xô, Đông Âu không phải do “đẻ non” mà là bắt nguồn từ
nguyên nhân trực tiếp, sâu xa là các Đảng Cộng sản cầm quyền phạm sai lầm
trong đường lối, những khiếm khuyết trong mô hình phát triển để kéo dài dẫn đến
sự kìm hãm, thậm chí triệt tiêu động lực xây dựng CNXH, ngoài ra còn là sự can
thiệp nguy hiểm của chủ nghĩa đế quốc.
Từ diễn biến của cách mạng XHCN, Lênin luận giải về những nhân tố chủ quan
và điều kiện khách quan của các cuộc cách mạng XHCN trong bài “Cuộc cách
mạng của chúng ta”. Sự luận giải như vậy rất chính xác về mặt chính trị, nhưng
những kẻ thù tư tưởng lại cho rằng chưa sáng tỏ về mặt triết học, mà việc giải
thích đến cùng mọi hiện tượng và quá trình đòi hỏi phải lý giải trên bình diện triết
học. Thực ra, sự ra đời CNXH ở các nước lạc hậu có đầy đủ cơ sở triết học.
II- Lôgic phát triển của lịch sử trong sơ đồ thứ nhất của Mác
Kế thừa, cải tạo và phát triển trên cơ sở duy vật lý luận về sự vận động và phát
triển xã hội của Hêghen, Mác và Ăngghen đã đưa ra sơ đồ đầu tiên của sự phát
triển lịch sử loài người. Đó là lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội lần lượt
thay thế nhau từ thấp lên cao. Động lực của nó chính là quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác
và Ăngghen đã nêu ra các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau là: cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản (ở nhiều tác phẩm,
Mác còn nhắc đến phương thức sản xuất châu Á). Mác gọi đó là quá trình lịch sử -
tự nhiên. Đó là sự khái quát trừu tượng. Theo cách diễn đạt đó thì lịch sử loài
người đi theo một đường thẳng.
Bằng cách tiếp cận này, khi mổ xẻ những mâu thuẫn nội tại của CNTB, Mác và
Ăngghen đã dự báo cách mạng XHCN sẽ nổ ra cùng một lúc ở các nước tư bản

