BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------- NGÔ VĂN ĐỨC

DIỆN MẠO VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------------- NGÔ VĂN ĐỨC

DIỆN MẠO VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

MỤC LỤC

trang

Mục lục

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE .........................9

1.1. Vị trí địa lý ...............................................................................................9

1.2. Quá trình kiến tạo, bồi đắp vùng đất Bến Tre ........................................10

1.3. Địa hình ..................................................................................................11

1.4. Thổ nhưỡng ............................................................................................14

1.5. Khí hậu ...................................................................................................17

1.6. Sông ngòi ...............................................................................................19

1.7. Thủy văn ................................................................................................21

1.8. Thực vật .................................................................................................23

1.9. Động vật .................................................................................................27

Chương 2. DIỆN MẠO VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE

TRONG CÁC THẾ KỶ XVII – XX .................................................33

2.1. Đời sống xã hội ......................................................................................33

2.2. Đời sống vật chất ...................................................................................45

2.2.1. Sinh hoạt kinh tế ......................................................................45

2.2.2. Cách ăn uống, trang phục, nhà ở, đường sá và phương tiện

đi lại ..............................................................................66

2.3. Đời sống tinh thần .................................................................................86

2. 3.1. Phong tục tập quán ..................................................................86

2.3.2. Tín ngưỡng – Tôn giáo ............................................................94

2.3.3. Giáo dục ................................................................................113

2.3.4. Văn học ..................................................................................121

Chương 3. CON NGƯỜI BẾN TRE ......................................................................138

3.1. Con người Bến Tre trong đấu tranh với thiên nhiên ............................138

3.2. Đấu tranh với xã hội .............................................................................147

3.3. Đặc điểm tính cách của con người Bến Tre .........................................168

KẾT LUẬN ............................................................................................................176

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................188

PHỤ LỤC ...............................................................................................................195

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Từ lâu, Bến Tre được nhiều người biết đến không chỉ với cái tên “xứ dừa”, mà

còn là vùng đất anh hùng, nơi tôi may mắn được sinh ra và lớn lên. Tôi nhận thức

được rằng, việc tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề về lịch sử của vùng đất này là

trách nhiệm của bản thân.

Bến Tre là một bộ phận của vùng đất Nam Bộ. Nam Bộ là vùng đất mới, vùng

đất có nhiều đóng góp quan trọng đối với lịch sử dân tộc trên nhiều phương diện,

trong đó có phương diện văn hóa.

Sống trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, tự nhiên khác nhau, cư dân

mỗi vùng, miền, mỗi địa phương có những biểu hiện đặc thù về phẩm chất, tính

cách, có cả những mặt tích cực và hạn chế. Nghiên cứu những nét đặc thù về văn

hóa, những truyền thống, phẩm chất, tính cách tốt đẹp của con người Bến Tre để

phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt yếu kém, hạn chế ở hiện tại và

tương lai là việc làm hết sức cần thiết.

Trong bài viết “Nghiên cứu lịch sử địa phương ở Nam Bộ” in trong tập sách

Nam Bộ đất và người, Tiến sĩ Lê Hữu Phước cho rằng: “trong nhiều công trình lịch

sử địa phương đã có (kể cả những tập địa chí), trong khi phần lịch sử đấu tranh

được khắc họa đậm nét, thì những nội dung về lịch sử xây dựng, kinh tế – văn hóa –

xã hội lại chưa được thể hiện tương xứng” [57, tr.145]. Tìm hiểu những vấn đề về

văn hóa – xã hội của vùng đất Nam Bộ nói chung, từng địa phương trong vùng đất

Nam Bộ nói riêng vẫn đang là vấn đề đặt ra đối với người nghiên cứu lịch sử.

Với những lý do như trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận văn là “Diện

mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII – XX”.

Việc nghiên cứu đề tài còn có ý nghĩa góp thêm cơ sở khoa học để lãnh đạo

Tỉnh hoạch định chính sách văn hóa – xã hội cho tỉnh nhà, trong bối cảnh Đảng và

Nhà nước đang chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,

không chỉ ở cấp vĩ mô, toàn quốc mà cụ thể ở cấp vùng, cấp địa phương.

Chúng ta biết rằng, tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương, nơi

chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó với cuộc đời của mỗi con người ngay từ thời thơ ấu.

Trang bị tri thức lịch sử địa phương để qua đó bồi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước,

yêu quê hương cho thế hệ trẻ, vì thế, hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu đề tài, tôi hy

vọng sẽ mở rộng hiểu biết của mình về lịch sử địa phương, sử dụng kết quả nghiên

cứu phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh.

Việc nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre, ở một mức

độ nhất định, còn là việc làm nhằm góp thêm tư liệu để nghiên cứu diện mạo văn

hóa – xã hội vùng đất Nam Bộ.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

“Diện mạo văn hóa – xã hội” được hiểu là bức tranh văn hóa – xã hội được phản

ánh qua tư liệu lịch sử. Văn hóa là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần mà

con người đã sáng tạo ra trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên và xã hội. Văn

hóa là một mảng của đời sống xã hội, gắn bó hữu cơ với tổ chức cuộc sống của

cộng đồng cư dân. Văn hoá vừa là sản phẩm mà một cộng đồng dân cư tạo ra, vừa

là nhân tố tác động đến hoạt động của cộng đồng dân cư.

Vùng đất Bến Tre là một bộ phận của Nam Bộ, mà Nam Bộ là một phần không

thể tách rời của Việt Nam. Lịch sử khai phá, xây dựng và phát triển của vùng đất

Bến Tre với những diễn biến phức tạp về chính trị, xã hội, văn hóa nằm trong bối

cảnh chung của vùng đất Nam Bộ và chịu chung sự chi phối của bối cảnh cả nước.

Do vậy, nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội Bến Tre từ thế kỉ XVII – XX không

thể tách rời diện mạo văn hóa – xã hội Nam Bộ cũng như diện mạo văn hóa – xã hội

Việt Nam trong giai đoạn này. Trên quan điểm như thế, đối tượng và phạm vi

nghiên cứu của luận văn được xác định là:

- Những yếu tố tác động đến diện mạo văn hóa và mối quan hệ giữa các yếu tố

đó như: điều kiện tự nhiên, cư dân, con người trong đấu tranh với thiên nhiên, trong

đấu tranh xã hội, … tại vùng đất Bến Tre vào các thế kỉ XVII - XX, trong bối cảnh

của khu vực Nam Bộ và cả nước.

- Những mảng, những lĩnh vực cụ thể của đời sống vật chất, đời sống tinh

thần, đời sống xã hội của cư dân sống trên vùng đất Bến Tre.

- Không gian nghiên cứu diện mạo văn hóa – xã hội là vùng đất Bến Tre, bao

gồm cả những nơi trước đây không thuộc Bến Tre, nhưng hiện nay nằm trong địa

phận Bến Tre. Thời gian nghiên cứu được xác định trong khoảng các thế kỷ XVII –

XX, tức là từ khi có người Việt, người Hoa đến khai phá vùng đất Bến Tre cho đến

thời điểm kết thúc một kỷ nguyên (năm 2000), mở ra một kỷ nguyên mới.

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Các công trình sưu tầm, nghiên cứu về diện mạo văn hóa - xã hội của Bến Tre,

có ba dạng: thứ nhất là những công trình có đề cập hoặc ít, hoặc nhiều tới Bến Tre

trong đồng bằng sông Cửu Long; thứ hai là các công trình chung về tỉnh, trong đó

có đề cập phần nào về diện mạo văn hóa – xã hội; thứ ba là những công trình nghiên

cứu một mảng nào đó của diện mạo văn hóa – xã hội vùng đất Bến Tre.

Ở dạng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu, nghiên cứu về những vấn đề có liên

quan đến văn hóa khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Bến Tre (những

yếu tố tác động đến văn hóa, những vấn đề về văn hóa – xã hội):

- Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn được viết khoảng năm 1776, khi ông giữ

chức Hiệp trấn tham vấn quân cơ ở Thuận Hóa. Đây là tập bút ký, cung cấp nhiều

sử liệu quý về vùng đất phương nam như cảnh quan, tài nguyên, dân cư, chế độ

ruộng đất, thuế khóa, binh chế… Từ thế kỷ XVIII trở về trước, vùng đất Bến Tre

được đề cập trong Phủ biên tạp lục với tên gọi chung là vùng sông Tiền.

- Tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết dưới thời vua

Gia Long đề cập đến nhiều mặt như vị trí, giới hạn, tên các phủ, huyện, tổng, xã,

thôn, phong tục, tín ngưỡng, quần áo, nhà cửa, hội hè,… của vùng đất Gia Định nói

chung, trong đó có Bến Tre.

- Nhà văn Sơn Nam nghiên cứu Nam Bộ dưới nhiều góc độ, như tên gọi của

các công trình nghiên cứu: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đất Gia Định xưa, Nói

về miền Nam - Cá tính miền Nam – Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Đình miếu và lễ

hội dân gian miền Nam, Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn

minh miệt vườn.

- Toan Ánh trong các công trình nghiên cứu về Nếp cũ – Con người Việt

Nam, Tín ngưỡng Việt Nam, khi đề cập đến diện mạo một số mặt văn hóa cả nước

nói chung, Nam Bộ nói riêng, tác giả có đề cập đến một số hiện tượng văn hóa Bến

Tre.

Sau năm 1975, nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Nam Bộ, trong đó có

văn hóa Bến Tre, tiêu biểu như: Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường

với Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội xuất bản

năm 1990; Huỳnh Lứa với Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,

XVIII, XIX, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2000; Thạch Phương, Hồ Lê,

Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh với Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb

Khoa học xã hội xuất bản năm 1992; Hồ Bá Thâm -Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát

triển, Nxb Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2003; Nguyễn Phương Thảo với Huyền

thoại miệt vườn, Nxb Văn hóa Thông tin xuất bản 1994, Văn hóa dân gian Nam Bộ

những phác thảo, Nxb Giáo dục xuất bản năm 1994; Trần Hồng Liên với Phật giáo

ở Nam Bộ từ thế kỉ 17 đến 1945, Nxb TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1996; Viện

tôn giáo với công trình Bước đầu tìm hiểu Đạo Cao Đài (công trình của nhiều tác

giả, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1995); Lê Anh Dũng với công trình Lịch sử

Đạo Cao đài thời kỳ tiềm ẩn 1920 – 1926, Nxb Thuận Hóa xuất bản năm 1996…

Ở dạng thứ hai, diện mạo văn hóa – xã hội của Bến Tre được đề cập phần nào đó

trong các công trình nghiên cứu nhiều mặt về tỉnh, tiêu biểu là:

- Cuốn Monographie de la province de Bến Tre (Địa phương chí tỉnh Bến Tre)

do người Pháp công bố năm 1930, trình bày khá hệ thống về vị trí địa lý, tự nhiên,

sông ngòi, khí hậu, thủy lợi, tình hình kinh tế, cây trồng… nhưng nhìn chung còn sơ

lược.

- Tác giả Huỳnh Minh, trong nhiều sách khảo cứu các tỉnh, thành ở Nam Bộ

được xuất bản vào những năm 60, đã đề cập vùng đất Bến Tre trong “Vĩnh Long

xưa”, “Định Tường xưa”, “Kiến Hòa (Bến Tre) xưa”. Các tập sách này đã phác

họa vùng đất Bến Tre qua một số chi tiết về lịch sử, địa lý, nhân vật, giai thoại,

huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cây dừa, địa danh năm xưa…

- Trong công trình nghiên cứu Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm

1757 đến 1945 của tác giả Nguyễn Duy Oanh, Phủ Quốc Vụ Khanh Sài Gòn xuất

bản năm 1971, tuy nội dung còn sơ lược, nhưng có thể tìm được những tư liệu về

vùng đất Bến Tre trên các lĩnh vực địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, việc tổ chức

hành chính của chính quyền họ Nguyễn và thực dân Pháp, một số phong trào đấu

tranh chống thực dân Pháp, một số nhân vật lịch sử.

- Ba Tri đất và người của nhiều tác giả, Ban chấp hành Đảng bộ Ba Tri xuất

bản năm 1984, ngoài phần tư liệu về một số nhân vật lịch sử tiêu biểu gắn bó với Ba

Tri, một số địa danh từng có những chiến công oanh liệt của nhân dân trong cuộc

kháng chiến chống Pháp, một số ngành nghề truyền thống, công trình còn đề cập

một số di tích văn hóa của Ba Tri, về hát sắc bùa Phú Lễ…

- Bình Đại địa chí của Huỳnh Văn Tháp, Phan Ngọc Đằng chủ biên, Ủy ban

nhân dân huyện Bình Đại xuất bản năm 1987, cung cấp nhiều tư liệu ở nhiều lĩnh

vực như địa lý, lịch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục… của cù lao An Hóa nói

chung, huyện Bình Đại nói riêng trong các thế kỷ XVII – XX.

- Địa chí Bến Tre, do Thạch Phương, Đoàn Tứ chủ biên, cùng nhiều cộng tác

viên trong các ngành khoa học khác nhau, do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm

2001 là công trình nghiên cứu tỉ mỉ, công phu, đề cập đến nhiều mặt về tự nhiên,

dân cư, lịch sử đấu tranh cách mạng, văn hóa, giáo dục,… của vùng đất Bến Tre từ

thế kỷ XVII – XX.

Ở dạng thứ ba, những công trình sưu tầm nghiên cứu chuyên sâu, đề cập đến

một số lĩnh vực văn hóa của Bến Tre như: Dân ca Bến Tre (Lư Nhất Vũ, Lê Giang,

Ty Văn hóa thông tin Bến Tre xuất bản 1981); Văn học dân gian Bến Tre (Nguyễn

Phương Thảo, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1988); Hát sắc bùa Phú Lễ Ba

Tri – Bến Tre ( Huỳnh Ngọc Trảng, Nxb TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992);

Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo – Nguyễn Nhị Hà sưu

tầm, tuyển chọn, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1996); Tìm hiểu một số hiện

tượng văn hóa dân gian Bến Tre (Nguyễn Chí Bền, Nxb Khoa học xã hội xuất bản

năm 1997); Tang lễ người già ( của tác giả Lư Văn Hội, Sở Văn hóa thông tin tỉnh

Bến Tre xuất bản năm 2002)…

Nhìn chung, công trình nghiên cứu về vùng đất Bến Tre có khá nhiều. Mỗi

công trình nghiên cứu đề cập một hoặc một số vấn đề có liên quan đến diện mạo

văn hóa – xã hội của vùng đất này. Hiện chưa có công trình nào đề cập đầy đủ và

có hệ thống về diện mạo văn hóa – xã hội vùng đất này qua các thời kỳ từ thế

XVII – XX.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic:

- Luận văn thuộc chuyên ngành khoa học lịch sử, do vậy, chúng tôi sử dụng

phương pháp lịch sử làm phương pháp chủ đạo trong quá trình nghiên cứu. Bức

tranh văn hóa – xã hội được miêu tả dưới góc độ lịch sử, trong bối cảnh, không gian

và thời gian cụ thể.

- Phác họa bức tranh nghĩa là phải miêu tả, nhưng không chỉ dừng lại ở đó mà

các sự kiện, hiện tượng, vấn đề đặt ra và giải quyết ở luận văn còn được phân tích,

khái quát, nhận định, xem xét trong các mối liên hệ nhân quả, xem xét tính kế thừa,

phát triển, mối liên hệ quá khứ - hiện tại- tương lai… Nói cách khác, người viết còn

kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong quá trình nghiên cứu

luận văn.

4.2. Phương pháp tiếp cận hệ thống:

- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng không tồn tại riêng lẻ mà nó luôn nằm

trong một hệ thống và chịu sự tác động, chi phối bởi các sự vật, hiện tượng khác.

Diện mạo văn hóa – xã hội của Bến Tre trong các thế kỉ XVII – XX được xem như

một bộ phận diện mạo của khu vực Nam Bộ và của cả nước vào khoảng thời gian

này.

- Các yếu tố, các lĩnh vực cụ thể của văn hóa được xem xét trong cùng một hệ

thống, chịu chung tác động của những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, lịch sử.

- Với cách tiếp cận hệ thống, các yếu tố, các lĩnh vực cụ thể của văn hóa còn

được xem xét trong mối quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.

4.3. Phương pháp liên ngành:

Xã hội loài người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trong

nghiên cứu lịch sử, việc sử dụng tài liệu, kết quả nghiên cứu của các ngành khoa

học có liên quan là rất cần thiết, giúp cho việc miêu tả, khôi phục đối tượng nghiên

cứu được rõ ràng, làm cơ sở cho việc vững chắc cho việc giải thích, so sánh, đối

chiếu các nguồn tư liệu khác nhau.

Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết sử dụng những thành tựu, kết quả

nghiên cứu ở một số ngành có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài như:

khảo cổ học, địa lý học, văn học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, tôn giáo,… để so

sánh, đối chiếu, miêu tả, dựng lại bức tranh văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre

trong các thế kỉ XVII – XX.

4.4. Phương pháp khảo sát điền dã:

Tư liệu khảo sát điền dã cung cấp cho nhà nghiên cứu những hình ảnh, những

câu chuyện, những hoạt động thực tế, sinh động. Đây là một trong những nguồn tư

liệu quý giá trong công tác nghiên cứu lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu đề tài,

người viết đã trực tiếp khảo sát, tiếp xúc với các di tích, hiện vật lịch sử, văn hóa;

phỏng vấn những người am hiểu những vấn đề có liên quan đến đề tài nhằm thu

thập thêm thông tin, tư liệu, làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với tư liệu thành văn,

góp phần miêu tả bức tranh văn hóa - xã hội.

4.5. Phương pháp so sánh:

- Việc sử dụng phương pháp so sánh trong nghiên cứu lịch sử là rất cần thiết,

nhằm tìm ra sự giống nhau, khác nhau, nét chung, nét riêng, mối quan hệ nhân quả,

sự kế thừa, phát triển của các sự kiện, hiện tượng. Trong quá trình nghiên cứu đề

tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp so sánh lịch đại để tìm ra sự giống nhau,

khác nhau, kế thừa, phát triển theo thời gian của các yếu tố, hiện tượng văn hóa.

Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh đồng đại để nhận diện sự

giống nhau, khác nhau, những điểm chung, những nét đặc thù của diện mạo văn hóa

– xã hội Bến Tre với khu vực Nam Bộ và cả nước trong từng thời điểm, giai đoạn.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Thông qua việc chọn lọc và phân tích tư liệu lịch sử, luận văn dựng lại bức

tranh toàn cảnh về văn hóa-xã hội của Bến Tre qua các thời kì, trong các thế kỉ

XVII-XX.

Luận văn cung cấp thêm những thông tin về diễn trình văn hóa-xã hội của địa

phương nhằm bổ sung tư liệu về vùng đất này, làm cơ sở cho việc biên soạn, giảng

dạy lịch sử địa phương nhằm bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương,

đất nước, ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy những thành quả, truyền thống mà

các thế hệ cha anh đã xây dựng.

Ở một mức độ nhất định, luận văn còn góp thêm cơ sở khoa học để lãnh đạo

Tỉnh hoạch định chính sách văn hóa-xã hội của tỉnh nhà.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Về cấu trúc, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

văn được chia thành 3 chương.

Chương I: Điều kiện tự nhiên của vùng đất Bến Tre

Chương II: Diện mạo văn hóa – xã hội của vùng đất Bến Tre trong các

thế kỉ XVII- XX

Chương 3: Con người Bến Tre

Chương 1

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE

1.1. Vị trí địa lý

Bến Tre hiện nay là 1 trong 13 tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long. Vùng

đất Bến Tre được hợp thành bởi ba cù lao lớn là: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù

lao Minh, do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long: sông Mỹ Tho, sông Ba Lai, sông

Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ qua nhiều thế kỉ.

Nhìn trên bản đồ, vùng Bến Tre có hình chiếc quạt, đầu nhọn nằm ở thượng

nguồn, các sông lớn giống như nan quạt xòe ra phía Biển Đông. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.315,01km2. Phía Bắc, Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, ranh giới

chung là sông Mỹ Tho; phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh,

ranh giới chung là sông Cổ Chiên; phía Đông giáp Biển Đông, bờ biển dài 65km.

Về tọa độ địa lý, điểm cực nam của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048’ bắc, thuộc huyện Thạnh Phú; cực Bắc nằm trên vĩ độ 10020’ bắc, thuộc huyện Châu Thành; điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048’ đông, thuộc huyện Bình Đại; điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057’ đông, thuộc huyện Chợ Lách.

Đường bộ đi từ thị xã Bến Tre đến thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang

và Long An) dài 86km. Quốc lộ 60 từ phà Rạch Miễu, qua thị xã Bến Tre, phà Hàm

Luông, thị trấn Mỏ Cày, đến phà Cổ Chiên dài 35,39km. Quốc lộ 57 nối với quốc lộ

60 ở thị trấn Mỏ Cày, qua Chợ Lách, sang Vĩnh Long, đoạn trên đất Bến Tre dài

40,65km. Bến Tre có 6 tỉnh lộ. Tỉnh lộ 882 nối quốc lộ 60 từ ngã ba chợ Xếp đến

quốc lộ 57, dài 10 km. Tỉnh lộ 883, từ ngã tư huyện Châu Thành đến Thới Thuận,

Bình Đại, dài 58,33km. Tỉnh lộ 883B từ ngã ba Đê Đông đến bờ biển xã Thừa Đức

dài 8,1km. Tỉnh lộ 884 từ ngã ba Tân Thành đến bến phà Tân Phú dài 24,45km.

Tỉnh lộ 885 từ Thị xã đến Tiệm Tôm, Ba Tri dài 45,5km. Tỉnh lộ 886 từ ngã tư Phú

Khương đến ngã ba Phú Hưng, tiếp giáp với đường tỉnh 885, dài 5,3km. Tỉnh lộ 887

từ Thị xã đến ngã ba Sơn Đốc, dài 23,57km. Tỉnh lộ 888 từ ngã ba Thom, Mỏ Cày

đến Khâu Băng, Thạnh Phú, dài 51,62km.

Trước đây, từ ba cù lao của Bến Tre, có thể đến miền Đông, miền Tây Nam

Bộ bằng ghe thuyền đi sông, có thể xuống vùng Cà Mau, ra miền Trung bằng ghe

thuyền đi biển. Ngược lại từ miền Trung vào, miền Đông xuống, miền Tây lên,

người ta cũng có thể sử dụng những phương tiện tương tự như vậy. Từ khi có tàu

thủy, ghe máy, sự giao lưu càng thuận tiện, tấp nập hơn. Đặc điểm địa lý này đã tác

động đến nhiều mặt đến suốt quá trình hình thành, phát triển Bến Tre.

1.2. Quá trình kiến tạo, bồi đắp vùng đất Bến Tre

Về lịch sử phát triển địa chất, theo kết quả nghiên cứu của ngành địa chất

học[66, tr.187], vùng đất Bến Tre được hình thành ở giai đoạn sau cùng của sự bồi

tụ đồng bằng sông Cửu Long, gắn liền với quá trình phân nhánh của sông Cửu

Long.

Đầu thời kỳ cận sinh, cách nay 70 triệu năm, một cuộc biển tràn nhỏ đã dìm

phần cực nam của Bến Tre xuống dưới nước mặn, cùng lúc với khu vực Trà Vinh

và Vĩnh Long. Vào thời điểm cách nay khoảng 40 triệu năm, biển rút ra, để lại trầm

tích đất liền thô hạt. Đây là trầm tích chứa nước ngọt đầu tiên, nằm ở độ sâu trên

500m, bên dưới khu vực thị xã Bến Tre.

Thời tân sinh cách nay 30 triệu năm, một cuộc biển tràn làm ngập toàn bộ

vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau đó, biển lùi ra chút ít, nhưng khu vực đồng

bằng sông Cửu Long, trừ An Giang (nhờ móng đá Bảy Núi khá cao), vẫn còn chìm

trong biển nước. Tiếp theo, biển lùi thật nhanh, để lại trầm tích đất liền chứa nước

lợ. Cách nay khoảng 8 triệu năm, một lần nữa biển lại tràn, lấp gần trọn khu vực

đồng bằng sông Cửu Long, đưa nước mặn đột nhập phù sa nước lợ trước đó, làm

cho cả vùng đồng bằng bị mặn. Cuộc biển tràn lần này chấm dứt cách nay khoảng 3

– 4 triệu năm. Riêng khu vực Ba Tri, cách nay khoảng một triệu năm lại còn một

cuộc biển tràn cục bộ. Đất Bến Tre chỉ mới xuất hiện trên mực nước biển từ khoảng

4.500 năm trở lại đây.

Theo tài liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, khoảng 4.500 năm – 5.000

năm cách đây, có một cồn sông khá lớn xuất hiện ở phía dưới khu vực Chợ Lách

hiện tại. Sau đó, một số giồng cát được hình thành ở phía đầu cồn, dấu vết ngày nay

hiện còn ở phía nam Chợ Lách. Một cù lao lớn thứ hai xuất hiện ở khu vực Châu

Thành, tạo nên một cửa sông mới, đó là cửa sông Mỹ Tho. Cùng lúc đó, sông Ba

Lai, sông Hàm Luông được hình thành. Các con sông này lấn biển và bồi đất rất

nhanh chóng, tạo nên các giồng cát nằm sát nhau.

Trước kia, Bến Tre vốn là những cù lao được hình thành riêng lẻ do phù sa

của sông Tiền lắng đọng. Những nhánh sông chia cắt các cù lao cũng bị phù sa dần

dần lắp nghẽn. Các cù lao dần dần được chắp lại với nhau, tạo nên Bến Tre như hiện

tại. Trên địa bàn Bến Tre, dấu tích của những dòng sông cổ bị lấp vẫn còn ở nhiều

nơi như Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Đó là những dải đất phèn,

những vùng đất thấp với nhiều hợp chất hữu cơ, đặc biệt là những dòng nước ngọt

ngầm sâu hàng chục mét.

Thực trạng sông Ba Lai hiện nay đang tái lập hình ảnh của các dòng sông cổ

bị lấp. Sự bồi tích nhanh của sông Mỹ Tho làm cho sông Ba Lai bị nghẽn ở đầu phía

trên. Do vậy, lòng sông đã bị xóa hẳn ở đoạn qua huyện Châu Thành, gần xóa ở

đoạn qua huyện Giồng Trôm, sắp sửa bị xóa ở huyện Bình Đại. Xu thế bồi tụ vùng

cửa sông ven biển ở Bến Tre vẫn đang tiếp diễn.

1.3. Địa hình

Bến Tre thấp và bằng phẳng, độ cao trung bình từ 1 – 2m so với mực nước

biển, có hướng thấp dần từ Tây Bắc đến Đông Nam.

Phần đất cao thuộc khu vực Chợ Lách, Châu Thành, nằm ở phía bắc và tây

bắc thị xã Bến Tre. Đây là khu vực của cồn sông cổ bị lũ hàng năm mang phù sa

phủ lấp. Ngoài ra, ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, rải rác

trên bề mặt địa hình còn có các giồng cát. Giồng là kết quả tác động của dòng sông

và sóng biển. Các giồng có dạng vòng cung hay rẻ quạt, cao từ 3 - 5m, chạy dài từ 5

– 7km theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, song song với đường bờ biển. Ở các khu

vực này, nhiều địa danh mang từ giồng ở phía trước, như Giồng Trôm, Giồng Tre,

Giồng Chuối…

Giồng là đất lý tưởng cho cây dừa phát triển. Ngay cả những giồng mới ven

biển, dừa cũng mọc được nhờ có lớp cát dày, độ thoát nước cao, không có phèn. Đất

giồng là cát pha, nên không co rút, dễ nén, độ thoát nước cao, thích hợp cho việc

xây dựng các công trình bán kiên cố. Giồng cổ là nền móng tốt cho nhà nhiều tầng,

sân bay. Có nơi, giồng chuyển thành bưng, có đất cát pha sét. Đất này có thể được

dùng làm gạch ép.

Giữa hai giồng thường là một vùng trũng, được gọi là phẳng giữa giồng.

Những phẳng giữa giồng rộng trên 1000m bắt đầu có tầng sinh phèn ở độ sâu 0,5 –

1m, bên dưới lớp phù sa mới nhất. Nếu đào bới ở những nơi này sẽ làm dậy phèn

lên.

Phẳng giữa giồng là nơi thích hợp cho các loại cây trồng như lúa, mía, hoa

màu, với điều kiện phải có nước tưới, vì những khu vực này thường bị nhiễm phèn.

Khi làm công tác thủy lợi, cần tránh việc làm dậy phèn ở sâu bên dưới.

Ngoài đất giồng, đê tự nhiên hay đê sông cũng là phần đất cao. Đê thành lập

vào mùa lũ, khi nước sông dâng lên cao, tràn qua hai bên bờ. Vật liệu thô, theo

dòng nước trôi lơ lửng trên mặt nước, cũng tràn vào hai bên bờ. Năm này sang năm

khác, vật liệu thô kế tiếp nhau lắng xuống, tạo ra bờ đê cao hơn đất liền bên trong.

Đê tự nhiên là nơi cao ráo, có nhiều điểm nổi bật về nông nghiệp so với các loại đất

khác ở các trũng. Mỗi năm, đê được bồi thêm phù sa mới, mang độ phì cao cho đất.

Đất đê giữ độ ẩm tốt vào mùa nắng. Sau đất giồng, đê tự nhiên là nền móng tốt hơn

hết so với các đơn vị bồi tích khác. Đất ở đê rất phù hợp cho việc sử dụng làm đất

thổ cư, trồng cây ăn trái.

Phía sau đê sông là khu đất thấp hơn, được gọi là bưng sau đê. Đất của bưng

sau đê không có phèn. Nếu có phèn là do thảm thực vật úng thối tại chỗ tạo nên, với

tổng lượng lưu huỳnh không quá 1%. Loại phèn nước ngọt này, nói chung, không

gây hại đến cây trồng.

Bưng sau đê ở Bến Tre thường phủ lên cồn sông cổ, đất ẩm, không phèn, nên

bưng sau đê rất thích hợp đối với cây lúa, rau màu và cây dừa. Đây là một loại đất

nông nghiệp khá tốt, song diện tích không lớn so với các loại đất khác.

Trầm tích do lũ đưa về, gồm cát lơ lửng trong lòng nước và sạn sỏi chạy dài

trên đáy sông. Chúng tích tụ lại thành lượn, gọi là lượn cát sông. Ban đầu lượn cát

nằm dưới mặt nước, về sau nhô dần lên khỏi mặt nước và có thực vật phủ lên, trở

thành cồn sông hoặc cù lao. Dọc các sông lớn còn có rất nhiều cù lao (cồn), được

hình thành. Trên sông Mỹ Tho có Cồn Phụng, Cồn Tàu. Sông Hàm Luông có Cồn

Ốc, Cồn Linh. Sông Cổ Chiên có Cồn Phú Đa, Cồn Dung…

Đối với nông nghiệp, cù lao hay cồn sông có giá trị kinh tế khá cao. Đất cồn

không có phèn, thích hợp cho nhiều loại cây trồng.

Phần đất thấp, từ 1 – 1,5m, gồm có 2 dạng. Trước hết, đó là khu vực các lòng

máng của các lòng sông cổ và mới, đã bị lấp hoàn toàn hoặc một phần bởi trầm tích

lũ, cụ thể là các khu vực như Phước An, Phước Tú (Châu Thành), Phong Phú, Phú

Hòa (Giồng Trôm). Dạng thứ hai là những vũng mặn cổ, hiện cũng đã được lấp đầy

từng phần như xóm chợ cũ, Mỹ Hòa (Ba Tri), Bình Quới (Giồng Trôm).

Phần đất trũng thật thấp ở khu vực ven biển, có độ cao không quá 0,5m.

Phần đất này luôn luôn ngập dưới mực triều trung bình, bao gồm những đầm mặn

và bãi thủy triều. Đất đầm mặn có nhiều ở Bình Đại, trở nên ít dần ở Ba Tri và

Thạnh Phú.

Bãi thủy triều có địa mạo bằng phẳng. Tuy vậy, mặt trên của bãi thủy triều

bao giờ cũng có dấu vết của dòng nước và sóng. Bãi thủy triều gồm có hai loại.

Loại thứ nhất là bãi cát thủy triều, nằm ở những nơi có sóng gió to. Loại thứ hai

nằm ở những nơi khuất sóng, trong vũng kín hoặc nửa kín, bao gồm bùn pha sét và

chất hữu cơ, nên được gọi là bãi bùn thủy triều. Bãi cát thủy triều có thể sử dụng

làm bãi tắm phục vụ khách du lịch. Bãi bùn thuỷ triều, đến nay vẫn chưa thấy có

công dụng gì đáng kể.

Bãi thủy triều được bồi tích liên tục. Các tác giả quyển Địa chí Bến Tre

(2001) cho biết, trong 21 năm, từ 1968 – 1989, tổng diện tích bồi tụ của Bến Tre là 61, 170 km2. Trong đó, huyện Bình Đại chiếm 19,807 km2, Ba Tri chiếm 16,989 km2, Thạnh Phú chiếm 24,373 km2. Tốc độ bồi tụ bình quân mỗi năm là 2,33 km2[18, tr.168-169].

Bãi thủy triều thuộc môi trường nửa nước nửa khô. Mỗi ngày, bãi bị ngập hai

lần và bị phơi khô hai lần. Ở khu vực gần cửa sông, bãi thủy triều là môi trường

sống thuận lợi của hàu, ngao, sò huyết. Nhiều nơi, người ta đã phát hiện được

những đống vỏ lớn, nhân dân gọi đó là những mỏ hào, mỏ ngao, mỏ sò huyết. Ở

Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú đều có lác đác những đống vỏ như vậy.

Bờ biển Bến Tre chủ yếu là những bãi bồi rộng. Khi triều rút, bãi bồi trải

rộng ra phía biển hàng ngàn mét, rất thuận lợi cho việc nuôi thủy sản nước mặn như

nghêu, sò.

Chất trầm tích ở bãi thủy triều chứa các loại vi sinh vật khá phong phú, là

Địa hình vùng đất Bến Tre khá đa dạng, bị chia cắt bởi sông ngòi, kênh rạch, nguồn thức ăn cho các vật nuôi, đặc biệt là tôm.

địa hình tương đối bằng phẳng, có những khu vực tương đối cao, như các giồng đất

và đê tự nhiên, có những vùng đất thấp như bưng, trũng, bãi bồi. Những khu đất cao

là nơi thuận tiện cho cư trú trong buổi đầu khai phá, để rồi, từ những khu đất cao

này, các thế hệ lưu dân đã mở rộng diện tích khai phá xuống các vùng bưng, trũng.

1.4. Thổ nhưỡng

Đất đai ở Bến Tre là sản phẩm của quá trình bồi tụ phù sa của đồng bằng

sông Cửu Long. Do có lịch sử canh tác lâu đời, đất đai ở đây đã trải qua những biến

chuyển quan trọng. Nhiều vùng đất mặn, đất phèn đã được ngọt hóa. Việc đào

mương, lên liếp đã làm thay đổi gần một nửa diện tích đất đai trong tỉnh.

Đất ở vùng Bến Tre gồm 4 nhóm chính: đất phù sa, đất mặn, đất phèn và đất

giồng cát.

Đất phù sa chiếm 66.471 ha (26,9% diện tích đất toàn tỉnh), phân bố chủ yếu

ở khu vực tây bắc của tỉnh như Chợ Lách, Châu Thành, bắc Giồng Trôm và bắc Mỏ

Cày. Loại đất này thích hợp cho việc phát triển nghề làm vườn, trồng cây ăn trái.

Đất phù sa ở Bến Tre được hình thành từ trầm tích của các lòng sông cổ. Đây là

những nơi quần cư sớm trong lịch sử khai thác đất Bến Tre. Các tầng đất sâu trên

50cm đã qua thời gian canh tác dài, bị thoái hóa nghiêm trọng, biểu hiện ở sự chai

cứng trong các tầng đất. Nhóm đất phù sa ở Bến Tre có độ phì vào loại thấp, nguồn

đạm tốt nhưng nguồn dự trữ lân không đủ. Một số nơi, đất đang có biểu hiện suy

thoái, trong quá trình khai thác cần lưu ý đến việc bảo dưỡng.

Đất mặn chiếm diện tích 96.730ha (43,22% diện tích toàn tỉnh) phân bố chủ

yếu ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Nhóm đất này được

hình thành từ trầm tích hỗn hợp sông, biển, mang dấu ấn của tác động biển trong

thành phần của đất.

Loại đất mặn ít và trung bình phân bố ở địa hình từ 0,8 – 1,2m, cách xa biển

và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu đời, mùa khô bị bỏ trống, chế độ

bốc hơi mạnh, nên đất bị kết vón ở độ sâu 80 – 100cm.

Loại đất mặn nhiều phân bố ở địa hình thấp hơn. Triều cường tràn lên làm

cho tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh vào đầu mùa mưa.

Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố ở khu vực

ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng mắm, sú, vẹt. Loại đất này bị ngập thường

xuyên do thủy triều, đất có độ mặn rất cao, không thuận lợi cho các loại cây trồng

nông nghiệp.

Nhìn chung, nhóm đất mặn không thuận lợi cho việc trồng trọt, song không

có nghĩa là không thể khai thác được. Đối với loại đất mặn ít, chỉ nhiễm mặn trên bề

mặt, có thể cải tạo để trồng lúa, mía, dừa… Loại nhiễm mặn thường xuyên (ven

biển) thích hợp với các loại cây ngập mặn, có thể khai thác để trồng rừng, kết hợp

nuôi thủy sản.

Đất phèn chiếm diện tích 15.127 ha (6,741% diện tích toàn tỉnh), phân bố rải

rác ở từ vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn, cụ thể là ở những nơi có địa hình thấp,

khó tiêu nước.

Hầu hết đất phèn ở Bến Tre có tầng phèn sâu trên 50 cm, nên chưa phải là

loại đất hoàn toàn hạn chế đối với sự sinh trưởng của cây lúa. Ở Bến Tre, các vùng

đất phèn đều phát sinh từ nguồn gốc bưng, trũng hoặc sông cổ. Do quá trình bồi tụ

của các dòng sông, các lớp đất phèn được phủ lên mặt bởi lớp trầm tích sông. Bằng

các biện pháp đào mương, lên liếp, xẻ kênh, lập vườn, người dân đã làm cho các

khu vực đất phèn trở nên thoáng khí và khô ráo. Tuy nhiên, ở một số nơi thuộc vùng

lợ và vùng mặn (khu vực Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, trong mùa khô, sự xâm

nhập mặn vào đất phèn làm cho đất vừa phèn, vừa mặn nên cây trồng rất khó sinh

trưởng).

Nói chung, đất phèn ở Bến Tre có thể tận dụng để canh tác lúa, nhưng năng

suất thường không cao.

Đất cát, chủ yếu là đất giồng, chiếm 14.248ha (6,44% diện tích toàn tỉnh).

Loại đất này được hình thành bởi tác động của dòng sông và sóng biển trong quá

trình lấn biển của vùng cửa sông. Dưới tác động của khí hậu và của con người qua

hàng trăm năm, những giồng đất được hình thành sớm không còn tơi xốp như

những giồng hình thành sau ở khu vực Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Ở những nơi

không có cây che phủ, đất rất dễ bị thoát nước, tầng mặt thường rất khô. Loại đất

này ít cua ở tầng mặt, nghèo hữu cơ, độ phì thấp, thiếu đạm nghiêm trọng. Do đất

cát giồng có khả năng giữ nước và giữ phân kém, nên chủ yếu được sử dụng làm đất

cư trú kết hợp với trồng rau màu và cây lâu năm.

Kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường từ 1990 – 2000 cho thấy,

mặc dù đất đai ở Bến Tre có độ phì tiềm tàng đáng kể, nhưng mức độ sử dụng cho

cây trồng còn hạn chế, do có sự hiện diện của nhiều chất đối kháng ở mức độ cao.

Loại bỏ các yếu tố đối kháng này bằng các biện pháp canh tác hợp lý, chất lượng và

năng suất cây trồng sẽ tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, ở một số khu vực, do sử dụng

các biện pháp canh tác không hợp lý nên dẫn đến tình trạng đất bị thoái hóa, năng

suất cây trồng bị giảm sút hoặc không tăng. Đất đai ở đây vốn rất nghèo lân, lượng

đạm dễ tiêu và không hẳn dồi dào, việc thâm canh cây lúa đã làm cho đất mất dần

những chất dinh dưỡng chủ yếu. Việc sử dụng hoàn toàn phân vô cơ và tập quán đốt

rơm rạ đã làm cho đất mất dần sự tơi xốp và thiếu lượng hữu cơ cần thiết của quá

trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng.

Ở những khu vực đất bị nhiễm mặn, mỗi năm chỉ gieo trồng được một vụ lúa

vào mùa mưa, bỏ hóa ở mùa khô, không có thảm thực vật che phủ. Ở các huyện ven

biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, rừng ven biển bị khai hoang để trồng lúa,

đất mất thảm thực vật che phủ, bị bốc mặn nghiêm trọng trong mùa khô, bị nứt nẻ

và chuyển biến theo chiều hướng xấu.

Hạn chế lớn nhất đối với đất đai ở đây là gần 50% diện tích tự nhiên là đất

mặn, đất phèn. Việc khai thác đòi hỏi con người phải có biện pháp thích hợp để

khắc phục những hạn chế. Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai, vấn đề đặt ra

là việc khai thác phải đi đôi với việc bồi dưỡng và cải tạo đất theo quan điểm phát

triển nông nghiệp toàn diện để vừa khai thác có hiệu quả, vừa bảo vệ được môi

trường tự nhiên.

1.5. Khí hậu

Bến Tre nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình trong năm từ 260 C - 270C, không có tháng nào nhiệt độ trung bình dưới 200 C. Do nằm ở vĩ độ thấp nên Bến Tre tiếp

nhận ánh nắng dồi dào, độ dài ban ngày lớn, bức xạ và nhiệt độ cao, thích hợp cho

sự phát triển của cây trồng. Mùa khô, số giờ nắng trung bình mỗi ngày từ 8 – 9 giờ.

Mùa mưa, mỗi ngày nắng khoảng 5 – 7 giờ.

Trong mùa mưa, gió thịnh hành là gió tây nam đến tây tây nam, tốc độ trung

bình cấp 3 – cấp 4. Từ tháng 5 – tháng 11, gió chuyển tiếp yếu, gồm có cả gió đông

bắc đến gió đông nam, tốc độ trung bình ở khoảng cấp 2.

Từ tháng 12 đến tháng 4, đây là thời kỳ khô hạn, Bến Tre chịu ảnh hưởng

của gió chướng. Đây là loại gió có hướng đông bắc đến đông nam, gây trở ngại cho

trồng trọt, nhất là các huyện ven biển. Gió chướng thổi mạnh sẽ đẩy nước biển chảy

ngược vào các sông lớn, tràn vào hệ thống kênh rạch, làm nhiễm mặn đồng ruộng.

Bọt nước biển được gió đưa vào bám các mầm non, làm hạn chế sự phát triển của

cây lúa và nhiều loại hoa màu khác.

Nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm, Bến Tre có một

mùa mưa, từ tháng 5 – tháng 11 và một mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.

Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.250 mm – 1.500 mm. Ở vùng ven biển, lượng

mưa thấp hơn các khu vực khác. Lượng mưa tại khu vực thị xã Bến Tre nhiều hơn

cả.

Nhờ hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nên độ ẩm trong không khí

tương đối cao. Trong mùa khô, độ ẩm trung bình từ 83 – 90%. Độ ẩm nhỏ nhất

thường xảy ra vào tháng 12 và tháng 1, từ 40 – 50%.

Bến Tre tiếp giáp với Biển Đông, nhưng ít chịu ảnh hưởng của bão, vì bão thường xảy ra từ 150 bắc trở lên. Tuy vậy, cũng có một đôi lần Bến Tre bị bão gây

thiệt hại khá nặng. Nguyễn Duy Oanh ghi trong Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt

Nam: “Bão năm Giáp Thìn (1904) có ảnh hưởng lớn đến sông ngòi ở Bến Tre.

Những bãi cát trước năm 1904 bao quanh vàm rạch Băng Cung (cù lao Minh), sau

trận bão, làm bít gần trọn vẹn vàm sông này. Vì thế, nước ngọt chảy vào rạch Băng

Cung không được nhiều. Nước biển dồn lên làm cho cả vùng gồm Giao Thạnh, An

Nhơn, An Qui, An Thạnh phải thất mùa. Chánh quyền địa phương từ năm 1938 đến

năm 1941, phải đắp đập ngang sông Băng Cung phía gần biển tại vàm rỗng để ngăn

nước mặn. Hơn 14.000 mẫu ruộng nhờ đó mà cày cấy được”[62, tr.29]. Năm 1997,

tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 5. Bão số 5 với gió mạnh đã

đẩy nước biển dâng lên tràn vào ruộng đồng, gây thiệt hại cho mùa màng và ghe tàu

đánh cá trên 300 tỷ đồng. Hậu quả của bão còn ảnh hưởng đến vụ sau, vì đất bị

nhiễm mặn.

Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với hai mùa mưa nắng rõ rệt, thời

tiết nhìn chung thuận lợi, ít có những diễn biến bất thường. Khí hậu Bến Tre phù

hợp với nhiều loại cây trồng. Ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm thuận lợi cho sự quang

hợp, phát triển của cây trồng, vật nuôi.

Ngoài những thuận lợi như thế, khí hậu Bến Tre cũng chứa đựng những khó

khăn. Do nóng ẩm nên nạn sâu bệnh, dịch bệnh, nấm mốc phát sinh, phát triển

quanh năm. Vào mùa gió chướng, nước biển thường xâm nhập sâu vào đất liền,

nhất là những năm nước ở thượng nguồn đổ về yếu, làm cho một số vùng bị nhiễm

mặn, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Đây là trở ngại lớn trong nông nghiệp.

1.6. Sông ngòi

Sông Tiền, trước khi đổ ra biển Đông, đã tách thành bốn nhánh như hình nan

quạt, ôm gọn ba dải cù lao Bến Tre. Đó là các sông Mỹ Tho, sông Ba Lai, sông

Hàm Luông, sông Cổ Chiên.

Sông Mỹ Tho là tên của một nhánh sông Tiền bắt đầu từ cù lao Minh, ngang

Vĩnh Long đến Cửa Đại. Sông Mỹ Tho chảy theo chiều dọc của tỉnh, dài 90 km, là

ranh giới tự nhiên giữa Bến Tre và Tiền Giang. Lòng sông sâu, càng ra biển càng

rộng, trung bình từ 1.500 đến 2000 m. Tàu có trọng tải 500 tấn có thể đi từ Cửa Đại

đến tận Phnom Penh của Campuchia. Trên sông có nhiều cồn lớn như cồn Thới

Sơn, cồn Rồng, cồn Phụng, cồn Tàu. Đây là những địa điểm thuận lợi cho việc khai

thác dịch vụ du lịch sinh thái.

Sông Ba Lai có chiều dài 55 km, nằm trọn vẹn trong vùng đất Bến Tre.

Trước kia, sông sâu và rộng, từ đầu thế kỷ XX, do phù sa từ thượng nguồn đổ về,

sông bị cạn dần. Dưới đáy sông có nhiều cồn ngầm, vào mùa gió chướng, mặt sông

thường có sóng lớn, nước xoáy, rất nguy hiểm cho tàu thuyền đi lại. Giữa năm

2000, tỉnh tiến hành xây dựng cống đập, ngăn dòng Ba Lai nhằm ngọt hóa phần đất

phía bắc Bến Tre.

Sông Hàm Luông là ranh giới tự nhiên giữa hai cù lao Bảo và cù lao Minh.

Sông dài 70 km, sâu từ 12-15 m, rộng trung bình từ 1.200 – 1.500 m, gần cửa biển

rộng hơn 3000 m. So với các sông khác của tỉnh, sông Hàm Luông có lưu lượng

nước dồi dào nhất. Trên sông, có nhiều cù lao, cồn đất như cù lao Tiên Long, cù lao

Thanh Tân, cù lao Ốc, cù lao Lá, cồn Đất, cồn Lợi…

Sông Cổ Chiên dài khoảng 80 km, là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Bến Tre và

hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Sông Cổ Chiên mang đặc điểm tương tự như sông

Mỹ Tho. Trên sông này, có nhiều cù lao và cồn như cù lao Nai, cồn Chen, cồn

Dung, cồn Lớn.

Ngoài bốn sông lớn, Bến Tre còn có một mạng lưới dày đặc các sông nhỏ,

rạch, kênh đào chằng chịt nối liền nhau. Dọc theo các sông chính, khoảng 1 – 2 km

là có một con rạch hoặc con kênh. Sông Bến Tre dài khoảng 30 km, một nhánh nối

với kênh Chẹt Sậy, qua sông Ba Lai, một nhánh qua thị xã Bến Tre, đổ ra sông Hàm

Luông. Rạch Cái Mơn dài 11 km, chảy qua vùng cây trái nổi tiếng của Chợ Lách,

đổ ra sông Hàm Luông. Kênh Mỏ Cày – Thom, dài 15 km, tạo ra đường lưu thông

giữa sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông. Rạch Băng Cung, như một cánh cung, dài

23 km, chảy từ Đại Điền, Mỹ Hưng, An Thạnh đến Giao Thạnh, đổ ra sông Hàm

Luông. Rạch Ba Tri dài 8 km, chảy từ Phú Lễ, Phú Ngãi qua thị trấn Ba Tri, đổ ra

sông Hàm Luông, vừa có giá trị giao thông, vừa có giá trị tưới tiêu quan trọng cho

các cảnh đồng của huyện Ba Tri. Kênh Đồng Xuân dài 11 km, nối rạch Ba Tri với

rạch Tân Xuân, được đào từ năm 1888 đến 1890. Kênh Chẹt Sậy – An Hóa được

đào năm 1878, dài 6 km, nối sông Bến Tre với sông Ba Lai…

Hàng năm, sông Tiền đổ ra biển khoảng 286 tỷ m3 nước. Các con sông chảy

qua địa bàn Bến Tre được hưởng một lượng cát bùn khoảng 25 triệu tấn mỗi năm.

Cát bùn là nguồn phân bón thiên nhiên, một phần bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ,

một phần đổ ra các cửa sông, lắng đọng tạo thành bãi bồi.

Dưới lòng các sông lớn ở Bến Tre có nhiều mỏ cát, đây là nguồn cung cấp

nguyên vật liệu cho việc san lấp mặt bằng, cải tạo vườn tạp thấp, trong gia cố, xây

dựng đường giao thông, nhà cửa. Cát dưới lòng sông tập trung ở phía thượng nguồn

của các sông lớn chảy qua địa bàn Bến Tre, với một số mỏ lớn như: Phú Túc – Phú

Đức, Phước Thạnh (Châu Thành), Sơn Phú (Giồng Trôm), Cồn Phụng (Chợ Lách).

Ngoài các mỏ cát này, dưới lòng các đoạn sông còn có một lượng cát khá lớn dùng

cho san lấp, có thể liên tục được bổ sung sau khai thác.

Về độ sâu của đáy sông ở các cửa sông lớn, cụ thể Cửa Đại sâu từ 5 – 9m,

cửa Hàm Luông, sâu từ 6 –7m, cửa Cổ Chiên sâu từ 7 –8m, cửa Ba Lai sâu từ 5 –

7m. Với độ sâu như vậy, vùng cửa sông Cửa Đại, Hàm Luông, Cổ Chiên tương đối

thuận lợi cho việc xây dựng cảng cá.

Sông rạch giữ một vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế, văn hóa của

nhân dân Bến Tre. Sông đã chuyên chở phù sa từ thượng nguồn về bồi đắp cho

vùng đất, cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, cung cấp thức ăn giàu

đạm như tôm, cá, cua, ốc. Sông rạch góp phần làm đẹp cảnh quan, điều hòa khí hậu

của vùng đất cù lao. Vùng sông nước như Bến Tre, ven đôi bờ sông là những xóm

làng đông đúc dân cư, những vườn cây ăn trái, những bến sông, bến phà, chợ búa

tấp nập thuyền bè. Sông rạch tạo nên mạng lưới giao thông thủy thuận tiện, góp

phần thúc đẩy giao lưu văn hóa.

1.7. Thủy văn

Sông ở Bến Tre không những tiếp nhận nguồn nước từ Biển Hồ đổ về, mà

hàng ngày, hàng giờ còn tiếp nhận nguồn nước biển do thủy triều đẩy vào.

Vùng biển Bến Tre thuộc khu vực bán nhật triều không đều. Mỗi ngày đều

có 2 lần nước lên, 2 lần nước xuống. Chênh lệch giữa đỉnh triều và chân triều ở

những ngày triều lớn có thể từ 2,5 – 3,5m. Những ngày triều kém, chênh lệch giữa

đỉnh triều và chân triều khoảng 1m. Trong mỗi chu kỳ nửa tháng, bắt đầu 1,2 ngày

triều kém, sau đó là triều cường, cuối chu kỳ lại có 1,2 ngày triều kém. Kỳ nước

cường diễn ra ở đầu tháng âm lịch và ngày rằm.

Tốc độ trung bình của sóng triều truyền vào sông khoảng 30km/giờ đối với

các sông lớn. Đối với những sông nhỏ hoặc mạng lưới kênh rạch, sự truyền triều

diễn ra phức tạp hơn. Ở đây còn có sự giao thoa sóng triều trên những con sông có

sự truyền triều từ hai phía.

Sự truyền triều vào trong sông vừa có những tác dụng tích cực, đồng thời

cũng mang lại những tác hại không nhỏ.

Ở những vùng xa cửa sông, thủy triều trong ngày có tác dụng rất lớn trong

việc thau chua rửa mặn. Khi triều dâng, mực nước ngọt trong sông được đẩy lên

cao, nhờ vậy người ta có thể lợi dụng để lấy nước vào trong đồng ruộng. Khi triều

rút, mực nước xuống thấp, người ta có thể xả nước, thau chua từ ruộng ra sông.

Trong giao thông vận tải, người ta có thể lợi dụng dòng chảy hai chiều của sông

rạch để đưa tàu thuyền có trọng tải lớn đi lại, tiết kiệm được nhiên liệu.

Tuy nhiên, ở những ngày lũ lớn, nếu gặp kỳ triều cường, nước dâng cao sẽ

gây ra tình trạng ngập lụt. Nghiêm trọng hơn, chính thủy triều đã dẫn đến tình trạng

xâm nhập mặn ở Bến Tre.

Bến Tre có địa hình chủ yếu nằm dưới mực nước biển trung bình. Các con

sông chịu tác động của chế độ thủy triều biển Đông. Nhiều sông và kênh rạch có độ

rộng khá lớn, nên nước sông bị nhiễm mặn nghiêm trọng vào mùa khô, mặn xâm

nhập gần như hầu khắp diện tích trong tỉnh, gây nên tình trạng thiếu nước ngọt gay

gắt.

Sự dao động của mặn phụ tuộc sự dao động của thủy triều và lượng nước

ngọt từ thượng nguồn đổ về. Mùa lũ, lượng nước ngọt càng lớn, mặn càng bị đẩy ra

xa. Tuy vậy, vùng giáp biển, độ mặn luôn lớn hơn 2‰.

Theo kết quả quan trắc của Trạm khí tượng thủy văn tỉnh từ 1982 – 1993 [66,

tr.171-172]:

Độ mặn trên 4‰ gây ảnh hưởng cho cây trồng xuất hiện từ tháng 1 đến

tháng 4, ở 2/3 diện tích của tỉnh (trừ khu vực An Hóa, thị xã Bến Tre về phía

thượng nguồn).

Đường đẳng mặn 4‰ ở tháng 12, xuất hiện cách bờ biển Ba Tri 9km, qua

các xã Lộc Thuận (huyện Bình Đại), Hưng Nhượng (huyện Giồng Trôm), Thới

Thạnh (huyện Thạnh Phú); vào tháng 2, cách bờ biển Ba Tri 37km qua các xã Giao

Hòa (Châu Thành), Phú Hưng (Thị Xã), Thuận Điền (huyện Giồng Trôm), Thành

Thới (huyện Mỏ Cày).

Đường đẳng mặn 6‰ vào tháng 12 xuất hiện cách huyện Ba Tri 6km, qua

các xã Bình Thới (huyện Bình Đại), Mỹ Nhơn (huyện Ba Tri). Đường đẳng mặn

tiến dần về phía thị xã Bến Tre, cách bờ biển Ba Tri 23km vào tháng 4, qua các xã

Vang Quới (huyện Bình Đại), Tân Hào (huyện Giồng Trôm), Hương Mỹ (huyện

Mỏ Cày).

Đường đẳng mặn 15‰ vào tháng 7 xuất hiện cách bờ biển Ba Tri 2km qua

các xã Thạnh Trị (huyện Bình Đại), Tân Xuân (huyện Ba Tri), An Qui (huyện

Thạnh Phú) tiến dần về thị xã Bến Tre, cách bờ biển Ba Tri 17km vào tháng 4 qua

các xã Lộc Thuận (huyện Bình Đại), Bình Thành (huyện Giồng Trôm), Quới Điền

(huyện Thạnh Phú).

Đường đẳng mặn 20‰ cách bờ biển Ba Tri 5km vào tháng 4. Trong những

năm gần đây, do thâm canh tăng vụ ở thượng nguồn làm giảm lượng nước đổ về

phía biển, nên xu hướng mặn ngày càng xâm nhập sâu hơn vào đất liền.

Sông Ba Lai có độ dài xâm nhập mặn lớn nhất, do sông này đang ở giai đoạn

chết dần, không đẩy mặn ra xa được, lượng nước từ thượng nguồn đổ về lại quá

nhỏ. Sông Hàm Luông có độ dài xâm nhập mặn nhỏ nhất, do cửa sông và suốt dọc

chiều dài sông có nhiều bãi bồi, vào mùa cạn lưu lượng nước lớn nhất so với các

sông lớn khác ở Bến Tre.

Kênh rạch không có nước ngọt từ thượng nguồn về, nên thủy triều dồn vào,

mặn ngấm vào trong đất, tích tụ ngày một nhiều. Vì vậy, cùng khoảng cách với cửa

sông, độ mặn trong kênh rạch bao giờ cũng lớn hơn trong sông.

Việc xâm nhập mặn vào đất liền ở Bến Tre đã chia vùng đất này thành 3

vùng sinh thái. Vùng nước ngọt chiếm khoảng 37% diện tích tự nhiên, bao gồm

huyện Chợ Lách, Châu Thành, một phần huyện Mỏ Cày, thị xã Bến Tre, với đặc

điểm là mùa khô không bị mặn, hoặc độ mặn thấp hơn 2‰. Vùng nước lợ chiếm

khoảng 27% diện tích tự nhiên, bao gồm các huyện Giồng Trôm, một phần Mỏ Cày,

Bình Đại, thị xã Bến Tre, với đặc điểm là mùa khô nước sông bị nhiễm mặn từ 2‰

- 8‰ trong khoảng từ tháng 2 đến tháng 5. Vùng nước mặn chiếm 36% diện tích tự

nhiên, bao gồm huyện Thạnh Phú, phần lớn huyện Bình Đại, Ba Tri, với đặc điểm

bị nhiễm mặn hơn 5 tháng, độ mặn từ 10‰ – hơn 25‰.

Chất lượng nước tưới có ý nghĩa sống còn đối với cây trồng. Do vậy, vấn đề

mặn ở Bến Tre cần phải được quan tâm nghiên cứu, để nắm bắt quy luật diễn biến

của mặn, từ đó mà bố trí cây trồng, thời vụ cho hợp lý.

1.8. Thực vật

Vùng đất Bến Tre, cũng như nhiều nơi ở Nam Bộ, trước khi lưu dân người

Việt, người Hoa đến khai phá, vẫn còn là một vùng rừng rậm, hoang vu. Năm 1296,

Châu Đạt Quan – sứ thần nhà Nguyên khi đi thuyền từ biển vào sông Tiền để lên

Kinh đô Angkor của Vương quốc Chân Lạp đã mô tả tình trạng hoang vu của vùng

đất này trong quyển Chân Lạp phong thổ ký như sau: “Những cửa rộng của con

sông lớn chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây

dài tạo thành nhiều chỗ trú sum xuê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp

nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng bỏ

hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy. Hàng

trăm hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó nhiều con đường

dốc đầy tre chạy dài hàng trăm lí” [68, tr. 80]. Mãi đến những thập niên cuối thế kỉ

XVIII, như Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên tạp lục: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai,

từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng mấy

nghìn dặm”[21, tr.345].

Theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí, phần sản

vật chí: “loài tre rất nhiều, không thể chép ra hết được… các trấn Vĩnh Thanh, Định

Tường sản xuất thứ tre tầm vông, chu vi thân cây 3, 4 tấc, bền đặc, nhẹ thẳng, dùng

làm cán giáo, trấn khác không có” [22, tr.165]. Gỗ sao “to đến 4,5 vầng ôm, cao đến

100 thước, thớ gỗ chắc mịn, đóng thuyền làm nhà là gỗ tốt nhất” [22, tr.162]. Cây

dầu dùng làm thuyền ghe, đồ dùng. “Người ta thường đục ở gần gốc cây 2, 3 lỗ, lấy

lửa đốt vào lỗ ấy thì chảy nhựa ra thành dầu, cứ lỗ đục mà lấy thìa múc, chảy mãi

không hết. Dùng để sơn thuyền, thắp đèn, lợi rất nhiều [22, tr.163].

“Lại có thứ dừa nước không có cành cội, bắt đầu đâm ra ở trong lùm, mầm

nhọn, dần dần nở to, xin xít lá xanh, cuống dài thành tầu, hình như đuôi phượng,

trùng điệp mọc nối nhau dần dần thành bụi, cao hơn một trượng. Lấy tầu nhỏ bổ

làm đôi, để cả lá phơi khô, dùng để lợp nhà, tầu to thì cắt là rời ra, đan thành tấm lá,

cũng để lợp nhà, che thóc gạo, vỏ ngoài tầu có thể dùng làm lõi xâu tiền” [22,

tr.165].

Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí: “cây dừa, chỗ đất nước

ngọt hay mặn đều trồng được cả. Quả dừa non hay già, đều ăn được. Cùi già nấu

dầu, dùng để xức tóc, nấu món ăn, đốt đèn đều dùng được cả. Xe vỏ dừa chắp

thừng, dây chão, dây thuyền; sọ dừa chạm bịt làm chén bát, bình, hồ, cưa ra làm

môi, gáo. Có thứ sọ nhỏ như quả trứng gà, hơi dẹp dùng làm bình đeo thuốc súng,

chén nhỏ uống nước, người đời quý trọng.” [22, tr.165].

Khi lưu dân đến khai phá, họ đã chặt cây phá từng để làm nhà cửa, lập vườn,

lấy đất canh tác. Dân số ngày càng gia tăng thì diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp.

Bom đạn, chất độc hóa học trong chiến tranh cũng là nhân tố làm thảm thực vật ở

Bến Tre bị tàn phá.

Hoạt động của con người trong hàng trăm năm qua đã làm cho thảm thực vật

ở vùng đất này bị thay đổi rất nhiều. Diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, thảm thực

vật nguyên thủy được thay bằng những cảnh quan nhân tạo.

Trên các giồng cát, trước đây cũng có những khu rừng với cây thân gỗ cao,

có cây cao đến 20m, thuộc họ sao dầu, họ trôm xen lẫn một số cây là vết tích của

rừng ngập mặn như các loại tra, tra lâm vồ, cui, mù u, nhàu, mướp xác. Vì đây là

khu vực tương đối cao, có nước ngầm ngọt nên thường được lưu dân chọn để cất

nhà, xây dựng thôn ấp. Do vậy, rừng cây ở khu vực giồng cát bị chặt phá sớm nhất.

Hiện nay, trong khuôn viên các đình chùa, còn lại vài cây gỗ lớn, đây là vết tích của

những khu rừng rậm ngày xưa.

Vùng nước lợ trong nội địa có các loại cây như quao nước, tra, bình bát, dứa

gai, trâm gối, trâm sẻ. Ngoài ra còn có các loài dây leo như mây nước, bòng bong,

dây vác, dây mủ, dây choại… Khu vực có nước ngọt quanh năm có các loài cây

thân gỗ như cà na, chiếc, gáo, trâm bầu, bằng lăng nước. Dưới nước có các loại như

lau sậy, dây lùng, lục bình, tâm bức, môn nước…

Ở vùng bưng trũng, xa sông rạch hoặc xen kẽ giữa các giồng cát ven biển,

thường bị ngập nước do lũ hoặc thuỷ triều, dừa nước là loài cây chiếm ưu thế.

Vùng ven biển có các khu rừng ngập mặn. Kiểu rừng này có cây thân gỗ

thấp, cao khoảng 8 –15 m, chỉ có một tầng cây. Cây ở rừng ngập mặn có các loại

mắm trắng, bần đắng, đước, vẹt, dà, sú, chà là, mắm lưỡi đồng. Những khu vực

trũng, sâu trong nội địa, nơi nước sông nước mưa hòa với nước biển làm cho độ

mặn thấp, thường có các khu rừng lá, chiếm ưu thế là lá dừa nước, xen vào đó là

những bụi bần chua, bên dưới là cóc kèn, ô rô, mái dầm…

Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc sắc ở vùng cửa sông, ven biển, mang

lại nhiều giá trị cho đời sống của cư dân. Rừng cung cấp cho nhân dân địa phương

nhiều loại sản phẩm có giá trị như: gỗ, củi, than, lá dừa nước (để lợp nhà), các loại

thuỷ sản, hải sản (cá, tôm, cua, nghêu, sò huyết…). Cây ở rừng ngập mặn hình

thành những “đê” tự nhiên góp phần giảm nhẹ hoạt động của sóng biển, gió chướng,

hạn chế tác hại của quá trình xói lở bờ biển. Trên những khu vực bùn lỏng mới bồi,

các loài cây như bần, mắm, với hệ thống rễ thở có tác dụng tích đọng phù sa, cố

định bãi bồi góp phần tăng nhanh diện tích đất bồi của tỉnh.

Rừng ngập mặn còn có tác dụng như một hệ thống lọc sạch nước khổng lồ

thông qua quá trình hấp thu, chuyển hoá chất trong nước đã lọc sạch những chất gây

ô nhiễm môi trường từ phía đại dương vào đất liền hoặc trong đất liền thải ra biển,

góp phần bảo vệ môi trường sinh thái vùng ven biển.

Các khu rừng này còn là nơi cư trú, sinh sản, phát triển, cung cấp thức ăn cho

các loài thủy sản ven biển. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, các cành lá

khô rụng được vi sinh vật phân huỷ thành mùn bã hữu cơ, kết hợp với mùn bã hữu

cơ trong nước đưa từ sông ra, cùng với các phiêu sinh vật, động vật… làm nguồn

thức ăn dồi dào cho ấu trùng tôm, cá… Nhiều loài thuỷ sản (như tôm càng xanh)

sống ở môi trường nước ngọt, lợ nhưng sinh sản trong môi trường rừng ngập mặn;

các loài tôm biển (như tôm thẻ, tôm sú…) sinh sản ở vùng biển nhưng tôm con

thường di cư vào rừng ngập mặn để sinh sống, kiếm ăn, đến thời kỳ sinh sản, tôm

lại đi ngược ra biển. Các vùng bãi bồi rừng ngập mặn còn là nơi cư trú của các loài

sò huyết, cua,… Rừng ngập mặn còn là nơi cư trú, sinh sống của nhiều loài chim,

thú rừng.

Thảm thực vật ở Bến Tre có công dụng và lợi ích rất lớn, rất đa dạng đối với

cuộc sống người dân nơi đây. Rừng ở Bến Tre, ngoài việc che phủ và bảo vệ đất,

điều hòa khí hậu, là nơi cư trú của nhiều loài thú, còn là nguồn cung cấp tài nguyên

rất quý cho đời sống nhân dân. Các loại gỗ như sao, dầu, xà cừ, tràm, đước, vẹt, tre,

bạch đàn, dừa nước… là vật liệu làm nhà cửa và các vật dụng sinh hoạt như bàn,

ghế, tủ, giường, ghe. Lá dừa nước, tre, trúc, sậy, xơ dừa, gáo dừa, mây… là nguồn

nguyên liệu của nhiều nghề thủ công. Lá mắm, lá so đũa là nguồn thức ăn cho gia

súc. Cây lứt, nhàu, bạc hà, cỏ tranh, cỏ xước, mù u, hà thủ ô… là những loại dược

liệu đông y thông dụng. Bông súng, ngó sen, bông điên điển, bông lục bình, rau

nhút, rau đắng… là nguồn thực phẩm, góp phần làm cho bữa ăn của người dân thêm

phong phú. Chất tananh trích từ vỏ cây dà, đước, vẹt của rừng ngập mặn là nguyên

liệu cho công nghiệp. Nước ngọt lấy từ buồng dừa nước có thể chế biến thành nước

giải khát lên men, hoặc cất thành cồn. Gỗ bạch đàn, bần, lau, sậy, tre, rơm, rạ là

nguyên liệu làm bột giấy. Đối với vùng ven biển, rừng ngập mặn có tác dụng rất lớn

trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, gia tăng nguồn lợi thủy sản, góp phần phát

triển kinh tế – xã hội.

Buổi đầu khai phá, rừng rậm hoang vu là trở ngại lớn đối với lưu dân. Rừng

hoang là môi trường sống của thú dữ. Chặt phá rừng để làm nơi cư trú, canh tác

không phải là việc làm đơn giản, mà đòi con người phải có ý chí, nghị lực. Tuy vậy,

như đã phân tích, rừng và thảm thực vật nói chung đã mang lại nhiều giá trị cho

cuộc sống của con người ở vùng đất Bến Tre. Do vậy, tỉnh cần phải có kế hoạch

nghiên cứu để khôi phục, bảo vệ và khai thác thảm thực vật một cách hợp lý.

1.9. Động vật

Trước khi lưu dân đến khai phá, vùng đất Bến Tre phần lớn là rừng rậm,

trong đó ngoài cây gỗ đủ loại, còn có nhiều loại thú rừng to lớn như voi, tê giác,

trâu rừng, hổ cùng với nhiều loại thú nhỏ như khỉ, cáo, sóc, chuột…

Nói về trấn Vĩnh Thanh xưa, Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định thành

thông chí: “… nhiều cá sấu, cọp dữ nhưng dân ở đây quen nên không sợ hãi, dù trẻ

con, đàn bà có thể cầm cái liềm cắt cỏ, cái hái cắt lúa mà bắt con cọp được”…,

“sông Tiên Thủy có cá sấu to 5 ôm, dài 6 trượng, thường đón người đi qua, quật ngã

người cầm chèo, hoặc làm ụp thuyền để bắt người mà ăn” [22, tr.151].

Có không ít giai thoại ở Bến Tre kể về cá sấu, cọp. Nhiều địa danh còn tồn

tại đến ngày nay như Rạch Mây, Giồng Hổ, Giồng Heo, Sân Trâu, Cái Trăn, Cái

Cấm… chắc chắn có liên quan đến tình trạng hoang sơ thuở xa xưa của vùng đất

này.

Quá trình khai phá đã biến những khu rừng hoang thành đồng ruộng, đất thổ

cư với những làng xóm, thị trấn, thị xã đông đúc, theo đó, những loài thú lớn cũng

đã dần dần biến mất, chỉ còn lại những loài thú nhỏ.

Loài thú nhỏ có số lượng nhiều nhất là nhóm chuột, với nhiều loại như chuột

cơm, chuột ét, chuột xạ, chuột nhắt, chuột cống… Chuột gây ra nhiều tai họa đối

với nhà nông và các kho tàng. Ngoài việc phá hoại lúa, khoai, ngô, sắn, chuột còn

đục khoét dừa để ăn cơm dừa và uống nước dừa.

Ngoài nhóm chuột, nhóm dơi cũng chiếm số lượng khá lớn, với nhiều loại

như dơi muỗi, dơi quạ, dơi sen. Dơi muỗi là động vật có ích. Nhóm dơi ăn trái là

mối lo đối với những người làm vườn. Chúng hoạt động ban đêm, rất nhạy bén với

mùi trái già, trái chín, chúng thường ăn trái cây trước thời điểm thu hoạch, từ chuối,

xoài, mận đến mãng cầu, ổi, nhãn…

Rái cá cũng là loại động vật có mặt ở nhiều vùng trên đất Bến Tre. Sông,

rạch, đầm, bàu, với tôm, cua, cá, ốc là nơi ẩn trú và cung cấp thức ăn vô tận cho

chúng. Là động vật hoạt động về đêm, với tài bơi lội giỏi, rái cá luôn là mối lo của

những người nuôi tôm cá. Một tác hại khác cũng đáng quan tâm là việc đào hang

làm nơi ẩn nấp, sinh sống của rái cá, đã làm sụp lở những bờ đập, bờ kênh, bờ

mương.

Ở vùng đất giồng, người ta thường gặp các loại chồn, cáo các loại bò sát như

kỳ đà, kỳ nhông, tắc kè, tắc ké, rắn roi, rắn rồng. Nhóm rắn không độc sống dưới

nước có rắn nước, rắn bông súng, rắn ri cá, nguồn thức ăn của chúng là cá và ếch

nhái. Nhóm rắn độc gồm có rắn hổ, rắn mái gầm, rắn cạp nong, rắn lục. Số lượng

các con vật này giảm dần khi các cồn đất, bãi, bụi rậm được khai phá thành đất

nông nghiệp.

Vùng đất Bến Tre, với đặc điểm đa dạng của cảnh quan, hầu như có mặt đầy

đủ các loài chim ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhóm chim sống gần người

có các loại như chim sẻ, chích chòe, chào mào, chim sâu, sáo… Có thể gặp chúng ở

khắp nơi trên đồng ruộng, trong vườn cây. Chúng săn bắt côn trùng, sâu bọ phá hoại

mùa màng, cây xanh, ăn các loại hạt cỏ dại. Nổi bật nhất là các nhóm chim sống ven

bờ nước. Diện tích bãi triều rộng, đặc biệt ở vùng cửa sông là môi trường sống lý

tưởng cho các loài chim này. Những nơi như Vàm Hồ, cồn Đất, cồn Nhàn là nơi

quy tụ nhiều loại chim về trú ngụ, ước tính có khoảng 30 loại, trong đó có 10 loại

có giá trị kinh tế cao. Vào mùa sinh sản chim về đậu dày đặc trên các rặng bần,

mắm. Có những cây trĩu nặng hàng chục tổ cò, tổ diệc, cồng cộc, sáo, le le… Nếu

người dân có ý thức, chính quyền có biện pháp bảo vệ hữu hiệu, những sân chim

này có thể khai thác làm các điểm du lịch hấp dẫn.

Trong các sinh vật trên cạn, nhóm đa dạng, phong phú nhất là côn trùng. Ở

Bến Tre, số lượng côn trùng, cả loại có ích và loại gây hại, có đến hàng ngàn loại.

Ong là loại côn trùng có ích. Ong không chỉ cho mật mà còn góp phần thụ phấn cho

hoa, nâng cao năng suất cây trồng. Kiến vàng là loại di chuyển nhanh, thường kéo

hàng đàn từ cây này sang cây khác, có mặt thường xuyên ở các vườn cây. Chúng

giúp cho người làm vườn tiêu diệt sâu bọ hại cây ăn quả.

Bên cạnh nhóm côn trùng giúp ích cho việc thụ phấn, có nhiều loại côn trùng

gây hại rau màu, lúa, cây ăn quả, nhất là sâu bọ, ong ký sinh.

Kiến vương thuộc loại côn trùng có bộ cánh cứng, là mối lo của người trồng

dừa. Au trùng của kiến vương (đuôn) chọn ngọn dừa (cổ hũ dừa) làm nơi sinh

trưởng. Một ngọn dừa bị đuôn đục thân, khi chặt ra, có thể bắt hàng chục, có khi

hàng trăm con đuôn lớn bằng ngón tay. Dừa bị đuôn đục thì không thể sống được.

Về các loại cá ở Bến Tre, theo điều kiện sinh thái, có thể chia thành nhiều

nhóm. Ở vùng nước lợ, thường có những loài cá nhỏ như cá kèo, cá bống cát. Cá

biển di cư vào vùng nước lợ, gồm có nhiều loại, phân bố rộng ở các vùng ven bờ

sông, đó là các loại thuộc họ cá trích, cá đối, cá bống dừa. Cá nước ngọt sống trong

sông rạch, thường xâm nhập vào vùng nước lợ ở mùa mưa, khi lưu lượng nước sông

khá lớn, đó là các loại như cá mè vinh, cá mè dãnh, cá rô biển, cá trê vàng. Trên

đồng ruộng, có nhiều loại cá như cá lóc, cá rô, cá trê, cá sặt. Tôm nước mặn, phổ

biến nhất là tôm thẻ, phân bố phổ biến ở vùng cửa sông, ven biển, xung quanh các

khu rừng ngập mặn có nền đáy bùn hoặc bùn cát. Vùng nước ngọt có tôm càng

xanh. Đây là đặc sản có giá trị kinh tế cao, phân bố khá rộng trên địa bàn Bến Tre.

Vùng ven biển Bến Tre có các đặc sản như cua biển, nghêu, sò huyết… Các

bãi nghêu giống ở Thạnh Phong (Thạnh Phú), Bảo Thạnh (Ba Tri), Thới Thuận

(Bình Đại) là nguồn tài nguyên quý để phát triển nghề nuôi nghêu xuất khẩu.

Vùng các cửa sông, ven biển, xung quanh các khu rừng ngập mặn ở Bến Tre

là môi trường sống thuận lợi của tôm thẻ. Đây là loại tôm có giá trị xuất khẩu. Tôm

thẻ sinh sản ngoài biển, ấu trùng trải qua nhiều lần lột xác thành tôm con, vào sinh

sống ở vùng trũng, đầm, đìa, kênh rạch. Ban ngày, tôm thẻ ẩn náu dưới cây cỏ thủy

sinh. Khi nhiệt độ cao, tôm lùi xuống đất, sống trong bùn. Ban đêm, tôm vào ven

bãi hoặc ven rừng ngập mặn để tìm thức ăn. Sau nhiều lần lột xác, tôm thẻ trưởng

thành và sẽ di cư ra biển để sinh sản.

Tài nguyên động vật ở Bến Tre khá phong phú với nhiều giống, nhiều loài có

giá trị, cũng có không ít loài là mối lo đối với hoạt động sản xuất phục vụ cho nhu

cầu đời sống vật chất của người dân. Những thập niên gần đây, do sự tàn phá của

chiến tranh, do sự khai thác bừa bãi của con người, nhiều loài động vật có giá trị

kinh tế cao đã giảm nhanh về số lượng, vùng phân bố của nhiều loài bị thu hẹp, một

số loài có nguy cơ diệt vong. Để bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này, thiết nghĩ,

cần phải nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ và khai thác nguồn

tài nguyên động vật, khai thác phải đi đôi với bảo vệ, duy trì, phục hồi, tạo điều

kiện cho nó phát triển để tiếp tục khai thác.

Điều kiện thiên nhiên tác động mạnh mẽ đến đời sống của cư dân, cả sinh

hoạt vật chất lẫn tinh thần. Khí hậu, thổ nhưỡng quy định cây trồng, vật nuôi;

nguồn tài nguyên động thực vật sẽ quy định cách thức khai thác; địa hình của vùng

đất quy định cách thức bố trí nhà cửa, cách thức đi lại... Thiên nhiên thuận lợi,

người dân đỡ vất vả. Thiên nhiên khó khăn đòi hỏi con người phải có ý chí, bản

lĩnh, năng động, sáng tạo.

Điều kiện tự nhiên Bến Tre có những mặt thuận lợi song cũng đầy rẫy những

khó khăn, thách thức.

Bến Tre là vùng đất cù lao, thuộc khu vực cửa sông. Vùng ven sông, ven rạch

là nơi phù sa lắng đọng, đất màu mỡ, có tiềm năng khai thác để lập vườn với điều

kiện phải giải quyết tình trạng thường xuyên bị ngập nước.

Bến Tre tiếp giáp với biển Đông. Ở thời điểm lưu dân người Việt, người Hoa

đến khai phá vùng đất này, việc đi lại bằng đường bộ gặp nhiều khó khăn, vị trí

giáp biển là điều kiện thuận lợi cho lưu dân đặt chân lên đất Bến Tre bằng phương

tiện ghe thuyền. Nằm ở vị trí sát biển, vùng đất Bến Tre chịu ảnh hưởng của chế độ

bán nhật triều. Thủy triều giúp thau chua rửa mặn nhưng cũng chính nó đã gây ra

tình trạng ngập mặn rất khó khắc phục. Việc trồng trọt muốn ổn định, cần phải giải

quyết ổn thỏa vấn đề xâm nhập mặn.

Đất đai ở Bến Tre không rộng, bình quân diện tích theo đầu người thuộc loại

thấp. Về chất lượng, đất ở Bến Tre chưa thật sự thuận lợi đối với cây trồng, phần

đất mặn, đất phèn chiếm gần nửa diện tích, khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây

trồng kém.

Khí hậu Bến Tre thích hợp với nhiều loại cây trồng, nhưng cũng là môi

trường thuận lợi để sâu bọ phát triển.

Với sông ngòi chằng chịt, bờ biển khá dài, Bến Tre có tiềm năng trong việc

nuôi, đánh bắt thủy sản.

Hệ thống sông ngòi, kênh rạch làm cho địa hình Bến Tre bị chia cắt. Sông

ngòi chằng chịt làm cho giao lưu đường thủy rất thuận lợi, song đi lại bằng đường

bộ sẽ gặp trắc trở. Muốn qua sông phải có cầu, đò. Cầu, phà không những hao tốn

kinh phí xây cất mà còn gây lãng phí về thời gian đi lại. Gặp những bất trắc lớn khi

đau yếu, bệnh tật, lại phải “lụy đò” rõ ràng là rất khó khăn. Giao thông không

thuận lợi cũng là trở lực trong việc thu hút đầu tư.

Trong chiến tranh, địa thế ba bề sông nước là điều kiện thuận lợi cho kẻ thù

bao vây, chia cắt, cô lập, tiêu diệt lực lượng cách mạng. Tuy nhiên kẻ thù cũng gặp

phải khó khăn, đó là địa hình chia cắt đã hạn chế tác dụng của các phương tiện

chiến tranh hiện đại, cơ giới, làm cho hệ thống đồn bót của chúng bị giam hãm

trong trận địa chiến tranh nhân dân, bị tiêu diệt từng mảng.

Nằm xa trung tâm Sài Gòn – Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh), bị

cách trở về địa lý, Bến Tre bị hạn chế khả năng tiếp cận, giao lưu văn hóa.

Tuy bị cách trở về địa lý, song Bến Tre không vì thế thế mà hoàn toàn bị cô

lập với các vùng lân cận, với thế giới bên ngoài. Bến Tre nằm trên con đường thủy

chiến lược từ thành phố Hồ Chí Minh đi các tỉnh miền Tây. Bờ biển khá dài và

những cửa sông lớn đảm bảo cho tàu bè có trọng tải lớn có thể đi từ biển vào các

sông, lên đến tận Campuchia. Từ Bến Tre, ghe thuyền có thể ra miền Bắc, miền

Trung, sang tận vịnh Thái Lan. Có thể nói, Bến Tre nằm ở vị trí ngã tư của nhiều

tuyến giao thông thủy. Đây là điều kiện để người Bến Tre tiếp xúc với nhiều luồng

văn hóa, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất, cách thức tổ chức đời sống của

nhiều nơi.

Cuộc đấu tranh của cư dân với thiên nhiên là một khía cạnh, một bộ phận

của diện mạo văn hóa. Trong điều kiện thiên nhiên của vùng đất Bến Tre có sự đan

xen những thuận lợi lẫn những khó khăn, việc khai thác thiên nhiên để tổ chức cuộc

sống đòi hỏi con người ở vùng đất này phải nỗ lực cao, năng động, sáng tạo, có ý

chí, nghị lực.

Chương 2

DIỆN MẠO VĂN HÓA – XÃ HỘI

CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XX

2.1. Đời sống xã hội

Từ thế kỷ XVII, lưu dân từ nhiều nơi đã vào vùng đất Nam Bộ để khai phá,

lập nên xóm ấp một cách tự phát để đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc chiến đấu

với thiên nhiên. Thôn ấp ngày càng nhiều, đây là cơ sở để chính quyền phong kiến

thiết lập các đơn vị hành chính, xác lập chủ quyền, quản lý xã hội.

Đời sống xã hội của cư dân Bến Tre, từ chỗ do cư dân tự quản, dần dần được

đặt dưới sự quản lý, can thiệp ngày càng sâu của giai cấp thống trị.

2.1.1. Quá trình hình thành và đặc điểm của thôn xóm, làng xã:

Thôn ấp ở Nam Bộ nói chung, trong đó có Bến Tre, được hình thành một

cách tự phát trước khi chính quyền phong kiến thành lập các đơn vị hành chính cơ

sở.

Để tạo dựng cuộc sống, trong điều kiện thiên nhiên hoang vu, lưu dân đã

phải chiến đấu hết sức gian khổ trong việc chống lại thú dữ, bệnh tật, lũ lụt, hạn

hán, sâu bọ phá hoại mùa màng… Trong hoàn cảnh như thế, người ta không thể

sống đơn độc. Đến khai phá ở bất kỳ nơi nào, lưu dân cũng đều nhanh chóng họp

thành thôn ấp để đoàn kết, gắn bó với nhau trong làm ăn, giúp đỡ nhau lúc hoạn

nạn, đoàn kết chống lại thú dữ, cường hào. Lúc đầu, năm, bảy nóc gia hợp lại thành

xóm. Dân cư tiếp tục được bổ sung, xóm được mở rộng thành thôn, nhiều thôn hợp

lại thành làng xã.

Người ta luôn mong ước cho cuộc sống được an bình, mưa thuận gió hòa.

Ước mơ ấy được thể hiện qua việc chọn các mỹ tự để đặt tên làng, tên tổng như An

Phước, Phú Túc, Thạnh Phú, Lộc Thuận, Phú Mỹ, Mỹ Thạnh…

So với làng của người Việt ở miền Bắc, tuổi đời của làng xóm ở Nam Bộ nói

chung, Bến Tre nói riêng, còn rất non trẻ. Làng xóm được tạo lập từ khi lưu dân vào

khai phá vùng đất Bến Tre, do vậy, làng xóm có tuổi đời cao nhất cũng chỉ khoảng

ba trăm năm. Có thể nói, làng ở Bến Tre là làng khai phá. Có làng do dân cư từ

nhiều nguồn tập hợp lại lập nên, có làng có nguồn gốc là đồn điền của các chúa

Nguyễn, vua Nguyễn. Ở Bình Đại, làng Thới Thuận nằm sát biển do một nhóm lưu

dân làm nghề chài lưới ở miền Trung vào lập nên; làng Thạnh Phước vốn là một

đồn canh của nhà Nguyễn.

Theo kết quả điều tra của tác giả Nguyễn Phương Thảo trong tập tiểu luận

Văn hóa dân gian Nam Bộ – những phác thảo: “Kiến họ Nguyễn ở Định Thủy,

thuộc huyện Mỏ Cày, theo gia phả, mới định cư ở đây chưa đầy chín đời. Phổ hệ

của ông Nguyễn Văn Liền (69 tuổi vào năm 1985) ở xã Phú Thuận thuộc huyện

Bình Đại cũng chỉ gồm có 6 đời”[72, tr.11]. Chính vì đặc điểm non trẻ nên làng ở

đây không có tính cố kết dòng họ lâu đời, không bị ràng buộc bởi lệ làng, hương

ước như làng ở Bắc Bộ. Mối quan hệ gắn bó chủ yếu giữa người với người trong

cùng một làng không phải là quan hệ thân tộc, mà là nghĩa tình giữa họ với nhau.

Người ta xem trọng tính dân chủ và bình đẳng trong đối xử. Người ta không có tâm

lý phân biệt dân chính cư hay dân ngụ cư. Giáo sư Huỳnh Lứa cho rằng: “Thôn ấp ở

đây mang tính “mở”, sẵn sàng và nhiệt tình đón nhận và giúp đỡ những người từ nơi

khác phiêu bạt tới có nơi cư trú và có công ăn việc làm. Tính chất “mở” của thôn ấp

Nam Bộ thời kỳ đầu khai phá còn thể hiện ở chỗ “dễ hợp mà cũng dễ tan”. Những

con người nghèo khổ từ tứ phương di cư đến, gặp gỡ và tụ họp nhau lại thành

những “dân ấp dân lân”, thành thôn xóm, nhưng rồi cũng có thể dễ dàng chia tay

chuyển đi nơi khác nếu họ cảm thấy ở đó không thuận lợi cho việc làm ăn, sinh

sống” [40, tr.130-131].

Xem xét ở góc độ quan hệ giai cấp, làng ở Bến Tre có mức độ phân cực cao.

Theo Địa phương chí Bến Tre do người Pháp công bố năm 1930, trong tổng diện

tích 144.587 ha, số ruộng đất công của tỉnh chỉ có 3.816ha, trong khi diện tích đất

của điền chủ chiếm đến 140.771ha. Số điền chủ có dưới 10ha là 38.105 người, số

chiếm từ 10 đến 500ha chiếm 3.978 người (dân số Bến Tre năm 1929 là 315.000

người) [22, tr.33]. Nói cách khác, trong tổng số 94 làng của Bến Tre lúc ấy, số làng

có công điền – công thổ rất ít. Ngay từ buổi đầu khai phá, do chính sách khuyến

khích khai hoang của nhà nước, ở Nam Bộ nói chung, Bến Tre nói riêng, đã xuất

hiện tầng lớp điền chủ, có những điền chủ sở hữu đến hàng trăm mẫu đất. Thời

Pháp thuộc, đất đai do dân khai khẩn còn bị người Pháp chiếm. Có những điền chủ

người Pháp sở hữu hàng chục, hàng trăm hecta, chẳng hạn: năm 1880, Pilê chiếm

200 ha ở Bảo Thạnh, năm 1901, Giôvanxili chiếm 300ha ở Giao Thạnh, năm 1905

Prêđiani chiếm 718 ha ở An Nhơn [71, tr.19]. Như vậy, trong xã hội xuất hiện sự

phân cực khá rõ nét giữa một số ít người có trong tay nhiều ruộng đất và đa số

người có rất ít ruộng đất. Với những nông dân không có đất, để có được miếng ăn,

họ phải lĩnh canh ruộng đất của điền chủ. Cuộc sống của họ vì thế cũng rất bấp

bênh.

2.1.2. Việc tổ chức bộ máy quản lý xã hội, sắp xếp các đơn vị hành chính

qua các thời kỳ

Thời kỳ các chúa Nguyễn

Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp Nguyễn Hoàng, cho thải hồi

các quan do nhà Lê cử, cải tổ bộ máy chính quyền. Giúp chúa quản lý các dinh, có

ba ty:

Ty xá sai, do đô tri và ký lục đứng đầu, giữ việc giấy tờ, kiện tụng.

Ty tướng thần, do cai bạ đứng đầu, làm nhiệm vụ thu thuế, cấp lương bổng.

Ty lệnh sử, do nha úy đứng đầu, trông coi việc tế tự, phát lương cho quân

lính ở chính dinh.

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, tiến hành tổ chức lại bộ

máy chính quyền. Ở chính dinh, ty xá sai được chia đổi thành bộ hình và bộ lại, ty

tướng thần được đổi thành bộ hộ, ty lệnh sử đổi thành bộ lễ, đặt thêm bộ hộ, bộ

công và hàn lâm viện.

Các đơn vị hành chính địa phương được phân định lại. Đàng Trong được

chia thành 12 dinh. Khu vực Thuận – Quảng có 6 dinh, đó là dinh Bố Chính, dinh

Quảng Bình, dinh Lưu Đồn, dinh Cựu, Chính Dinh và dinh Quảng Nam. Phần đất

còn lại được chia thành 6 dinh, cụ thể là dinh Phú Yên, dinh Bình Khang, dinh Bình

Thuận, dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long Hồ. Hà Tiên là trấn phụ

thuộc.

Cai quản các dinh có các quan trấn thủ, cai bạ, ký lục. Dưới dinh là phủ, dưới

phủ là huyện, tổng, xã.

Quản lý mỗi phủ có quan Tuần phủ và quan Khám lý. Cai quản cấp huyện có

tri huyện, đề lại, thông lại, huấn đạo, lễ sinh. Quản lý xã có tướng thần và xã

trưởng, nhiệm vụ chủ yếu là thu thuế. Số lượng chức dịch cai quản xã được qui định

Năm 1757, hai cù lao Minh và Bảo của vùng đất Bến Tre được thành lập tùy theo quy mô của xã.

tổng Tân An, thuộc Châu Định Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định. Tổng Tân An

lúc này có khoảng một trăm thôn trại. Như vậy, trước thời điểm 1757, đã có cư dân

đến đây khai phá, trên cơ sở đó, thôn, ấp được hình thành. Năm 1757 là thời điểm

đánh dấu sự xác định chủ quyền vùng đất của chính quyền phong kiến thời các chúa

Nguyễn.

Nguyễn Duy Oanh ghi trong Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam: “bấy giờ,

tại hữu ngạn rạch Bến Tre (gần rạch Cá Lóc), quan địa phương có cất cái trạm để

kiểm soát các thuyền buôn bán qua lại trên sông, đồng thời cũng để thu thuế các

Quan thu thuế thuộc ngạch riêng, được gọi là Bản đường quan, bao gồm các thuyền buôn ấy. Trạm này gọi là bến thuế” [62, tr.17].

chức đề đốc, phó đề đốc, đề lĩnh, phó đề lĩnh, các ký lục, thư ký. Hệ thống Bản

đường quan được đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của nội phủ.

Dưới triều Nguyễn (1802 – 1858)

Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh cho hợp nhất 11 trấn phía Bắc

thành một tổng trấn với tên Bắc Thành. Năm 1808, 5 trấn cực Nam cũng được hợp

lại thành một với tên Gia Định thành.

Năm 1808, tổng Tân An được đổi thành huyện Tân An, thuộc phủ Định

Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Lúc này, huyện Tân An có hai tổng là Tân Minh và An Bảo.

Tổng Tân Minh có 72 thôn, trại. Tổng an bảo gồm 63 thôn, trại. Huyện lỵ đầu tiên

đặt tại thôn Phước Hạnh, xứ Ba Việt, nay là xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày.

Cũng trong lúc này, dinh Trấn Định được đổi thành trấn Định Tường, huyện Kiến

An được thăng thành phủ, tổng Kiến Hòa được thăng thành huyện Kiến Hòa, bao

gồm hai tổng Kiến Thành và Hòa Bình. Cù lao An Hóa là một phần của tổng Hòa

Bình.

Năm 1823, huyện Tân An được thăng thành phủ Hoằng An. Tổng Tân Minh

được thăng thành huyện Tân Minh, tổng An Bảo được thăng thành huyện Bảo An.

Từ năm 1831 - 1832, vua Minh Mạng thực hiện một số thay đổi về mặt hành

chính. Theo đó, các tổng trấn bị xóa bỏ, các dinh trấn được đổi thành tỉnh. Cả nước

có 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên. Khu vực Nam Bộ được chia thành 6 tỉnh: Biên

Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Dưới tỉnh là phủ,

huyện, châu, tổng, xã. Về cơ bản, mô hình chính quyền cơ sở được sắp xếp lại dưới

thời Minh Mạng được duy trì đến cuối thời Nguyễn.

Lúc này phủ Hoằng An của vùng đất Bến Tre thuộc tỉnh Vĩnh Long. Một

phần của huyện Kiến Hòa được tách ra để lập huyện mới là Tân Hòa, số đất còn lại

vẫn mang tên huyện Kiến Hòa. Trong số 5 tổng của huyện Kiến Hòa, có 2 tổng nằm

trên cù lao An Hóa là tổng Hòa Quới với 20 thôn và tổng Hòa Thinh với 19 thôn.

Năm 1832, trấn Định Tường được đổi thành tỉnh Định Tường. Hai tổng Hòa Quới

và Hòa Thinh vẫn thuộc huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường.

Năm 1837, phủ Hoằng An được chia thành 2 phủ Hoằng An và Hoằng Đạo.

Huyện Tân Minh (cù lao Minh) chia ra thành hai huyện Tân Minh và Duy Minh,

thuộc phủ Hoằng An. Huyện Bảo An (cù lao Bảo) được chia ra thành hai huyện Bảo

An và Bảo Hựu, thuộc phủ Hoằng Đạo.

Năm 1844, phủ Hoằng Đạo được đổi tên thành phủ Hoằng Trị. Phủ Hoằng

Năm 1851, hai phủ Hoằng An và Hoằng Trị hợp nhất thành một là phủ An vẫn giữ tên cũ.

Hoằng Trị, gồm 4 huyện: Tân Minh, Duy Minh, Bảo An và Bảo Hựu.

Về bộ máy cai trị, đứng đầu tỉnh lớn là tổng đốc, tỉnh nhỏ do tuần phủ quản

lý. Tổng đốc tỉnh lớn thường kiêm cả việc quản lý 2 – 3 tỉnh nhỏ, liên tỉnh Vĩnh

Long – Định Tường do một viên tổng đốc cai trị. Tuần phủ là cấp dưới của tổng

đốc. Giúp việc cho tổng đốc và tuần phủ có hai ty là bố chính sứ ty và án sát sứ ty.

Phụ trách quân sự có chức lãnh binh.

Cách thức điều hành, nhiệm vụ cụ thể của các quan chức được quy định khá

cụ thể. Tổng đốc giữ nhiệm vụ cai trị chung, khảo hạch các quan, chăm lo việc củng

cố địa phương, tấu trình về triều theo quy định. Tuần phủ có nhiệm vụ ban bố các

chính sách, đạo dụ của triều đình, đoàn kết dân chúng, coi việc giáo hóa, học hành,

cùng với tổng đốc lo tấu trình về triều theo quy định. Bố chính lo việc thuế khóa,

thu chi tài chính, thi hành chính lệnh, ân thưởng của triều đình. Lãnh binh cai quản

quân đội, chịu sự điều khiển của tổng đốc hoặc tuần phủ. Án sát làm nhiệm vụ xét

xử kiện tụng, thanh tra quan lại địa phương, kiêm việc quản lý bưu trạm. Bên cạnh

đó, các tỉnh đều được đặt quan đốc học làm nhiệm vụ coi việc phát triển học hành,

thi cử.

Dưới thời Tự Đức, cai quản tỉnh Vĩnh Long có tổng đốc Trương Văn Uyển,

bố chính Lê Đình Đức, án sát Võ Doãn Thanh, lãnh binh Tôn Thất Thoan, đốc học

Nguyễn Thông.

Về hình thức, cấp phủ cao hơn cấp huyện, song về chế độ quan chức, phủ và

huyện đều có những nét giống nhau. Đứng đầu, cai quản phủ là tri phủ, đứng đầu

huỵên, cai quản huyện là tri huyện. Cả phủ và huyện đều có một đề lại, hai thông

lại, sáu chính sai và 50 lính lệ phục dịch.

Tổng là đơn vị trung gian giữa phủ, huyện, châu với làng xã. Đứng đầu tổng

là tổng trưởng, sau đó được đổi thành cai tổng hoặc chánh tổng. Cai tổng có nhiệm

vụ đốc thúc sưu thuế, phục dịch trong các làng xã trực thuộc tổng, lo việc bố trí tuần

phòng và an ninh trật tự.

Cấp xã là nơi cung cấp nhân lực, tài lực cho nhà nước, do vậy triều đình rất

quan tâm đến việc quản lý cấp xã. Đứng đầu xã là xã trưởng. Tùy quy mô xã lớn

hay xã nhỏ mà có một hay nhiều xã trưởng. Năm 1828, xã trưởng được đổi tên gọi

là lý trưởng, các trưởng thôn được đổi thành phó lý trưởng. Cùng với những thay

đổi về mặt hành chính năm 1831 – 1832, mỗi xã chỉ còn đặt một lý trưởng. Xã có

hơn 50 đinh thì được phép đặt thêm một phó lý trưởng. Xã có hơn 150 đinh được

thêm hai phó lý trưởng.

Thời Pháp thuộc (1858 – 1945)

Sau hòa ước Nhâm Tuất (1874), triều đình nhà Nguyễn giao trọn chủ quyền

6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, thực dân Pháp bắt tay vào tổ chức bộ máy cai trị ở nam kỳ

nói chung, Bến Tre nói riêng. Phủ thống đốc là cơ quan cai trị cao nhất ở Nam Kỳ,

đứng đầu là thống đốc. Tiếp đó, thực dân Pháp phân chia Nam Kỳ thành 4 khu vực

hành chính: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xắc. Mỗi khu vực được chia thành

các tiểu khu. Vĩnh long được chi thành 4 hạt: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa

Đéc.

Năm 1867, Nam Kỳ được chia thành 25 sở tham biện. Cù lao An Hóa thuộc

sở tham biện Kiến Hòa. Cù lao Minh và cù lao Bảo lúc đầu nằm trong sở tham biện

Bến Tre, sau đó lại chia thành 2: sở tham biện Mỏ Cày và sở tham biện Bến Tre,

đến ngày 7-6-1871, hai sở tham biện này lại nhập trở lại thành sở tham biện Bến

Tre. Cơ cấu hành chính này tồn tại cho đến ngày 20 – 12 – 1899, khi toàn quyền

Đông Dương ra nghị định đổi tiểu khu thành tỉnh. Theo nghị định này, từ ngày 1-1-

1900, sở tham biện Bến Tre được đổi tên gọi thành tỉnh Bến Tre. Khi ấy, tỉnh Bến

Tre bao gồm cù lao Bảo và cù lao Minh, có 21 tổng. Cù lao An Hóa thuộc tỉnh Mỹ

Tho, có 2 tổng. Đứng đầu mỗi tỉnh là viên chánh chủ tỉnh người Pháp.

Đơn vị hành chính dưới tỉnh là quận, do chủ quận đứng đầu, dưới quận là

tổng, do cai tổng đứng đầu. Đơn vị hành chính cơ sở vẫn là làng. Về cơ bản, thực

dân Pháp vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức cũ của nhà Nguyễn với hội đồng kỳ hào

gồm 11 – 12 người. Theo nghị định của toàn quyền Đông Dương, từ năm 1904, hội

đồng làng ở Nam Kỳ gồm 11 người, đó là: hương cả (chủ tịch hội đồng làng),

hương chủ (phó chủ tịch) và các ủy viên: hương sự, hương trưởng, hương chánh,

hương giáo, hương quản, hương bộ, hương thân, thôn trưởng và hường hào. Nghị

định của Toàn quyền Đông Dương ngày 30 – 10 – 1927 bổ sung vào danh sách hội

đồng làng cũ một ủy viên chánh lục bộ, nâng số lượng lên 12 người.

Nhằm duy trì bộ máy xã thôn cũ làm công cụ đàn áp, bóc lột nhân dân ta ở

nông thôn, sau khi hoàn thành việc đánh chiếm Bến Tre, thực dân Pháp không

ngừng củng cố và phát triển bộ máy hành chính xã thôn sẵn có thời Nguyễn. Trước

năm 1867, cù lao Minh và cù lao Bảo chỉ có một phủ và bốn huyện (Tân Minh, Duy

Minh, Bảo Hựu và Bảo An). Đến năm 1929, thực dân Pháp chia thành 4 quận, 20

tổng, 135 làng. Ở cù lao Bảo gồm có Sóc Sãi (sau đó đổi tên thành Châu Thành) và

quận Ba Tri, với 10 tổng, 94 làng. Cù lao Minh có quận Mỏ Cày và quận Thạnh

Phú, với 10 tổng, 41 làng. Năm 1930, Bến Tre có 4 quận, 94 làng. Đầu năm 1945,

Bến Tre có 4 quận là Châu Thành, Ba Tri, Mỏ Cày, Thạnh Phú với 18 tổng, 92 làng.

Hệ thống tổ chức chính quyền cơ sở không chỉ có giá trị về mặt hành chính,

an ninh mà còn có giá trị về kinh tế. Các địa chủ ở địa phương như Phó Hoài, Phủ

Kiểng, Hương Liêm, Cai Tâm, Cai Thì, Hội đồng Nhơn… được chúng sử dụng, đưa

vào giữ các chức vụ trong bộ máy cai trị, thực hiện sự câu kết giữa địa chủ phong

kiến và thực dân trong việc khống chế, áp bức nhân dân.

Thời kháng Pháp (1945 – 1954)

Trong những năm kháng Pháp, bộ máy chính quyền địa phương luôn được

củng cố, nhằm tập hợp, đoàn kết, huy động mọi lực lượng và tổ chức kháng chiến.

Cả nước được chia thành 16 chiến khu, sau đó nhập lại thành 10 liên khu

kháng chiến. Bên dưới là các cấp tỉnh, huyện, xã. Cấp địa phương có hội đồng nhân

dân và ủy ban kháng chiến hành chính. Quyền hạn của chính quyền địa phương tập

trung vào ủy ban kháng chiến hành chính. Chính quyền địa phương được dân chủ

hóa từng bước theo đà phát triển của cuộc chiến.

Trong giai đoạn này, tỉnh Bến Tre được đổi tên thành tỉnh Đồ Chiểu. Chính

quyền cách mạng thành lập thêm một huyện mới mang tên huyện Tán Kế, gồm một

số xã của huyện Châu Thành và một số xã huyện Ba Tri hợp lại. Đến năm 1948,

huyện Tán Kế giải thể, các xã tách ra trước đây được nhập lại các huyện cũ.

Để việc chỉ đạo kháng chiến thuận lợi, chính quyền cách mạng tỉnh đã chia

huyện Châu Thành làm hai, lập thêm một huyện mới, đó là huyện Sóc Sãi, với 11

xã; phần đất còn lại vẫn mang tên huyện Châu Thành gồm 25 xã.

Năm 1948, do nhu cầu chỉ đạo, tổ chức chiến đấu, ủy ban hành chính kháng

chiến Nam Bộ ra quyết định cắt 6 xã vùng trên của cù lao Minh (thuộc tỉnh Vĩnh

Long) và cù lao An Hóa nhập vào tỉnh Bến Tre. Kể từ đó, Bến Tre bao gồm phần

đất của ba cù lao, cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa.

Mặc dù phải đối phó với nhiều khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng

chính quyền địa phương cũng đã quan tâm đến việc mang lại quyền lợi cho nhân

dân như giảm tô, giảm tức, bảo vệ an ninh, trật tự, tạo niềm tin, không khí phấn

khởi cho nhân dân, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.

Thời kháng Mỹ (1954 – 1975)

Sau 1954, chính quyền Sài Gòn tách cù lao An Hóa nhập trở lại Mỹ Tho.

Năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa điều chỉnh địa giới hành chính, lập

thêm một số tỉnh mới ở miền Nam Việt Nam. Tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến

Hòa, bao gồm ba cù lao như trước, với 10 quận: Châu Thành, Hàm Long, Giồng

Trôm, Ba Tri, Chợ Lách, Đôn Nhơn, Hương Mỹ, Mỏ Cày, Thạnh Phú, tỉnh lỵ Bến

Tre đổi thành tỉnh lỵ Trúc Giang.

Giai đoạn 1954 đến 1960 ở miền Nam nói chung, Bến Tre nói riêng, là

khoảng thời gian diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt chống chế độ độc tài Ngô Đình

Diệm, đỉnh cao là phong trào đồng khởi năm 1960. Những địa phương trong vùng

giải phóng đã thành lập ủy ban nhân dân tự quản. Nơi nào không có ủy ban nhân

dân tự quản, Ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng đảm nhận chức năng của chính

quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng dần dần được bầu ra, thay thế cho

ủy ban nhân dân tự quản, thay cho mặt trận, đảm nhận chức năng của chính quyền

địa phương.

Để tiện việc chỉ đạo, chính quyền cách mạng cũng có một số thay đổi tương

ứng với tổ chức hành chính của địch. Tháng 1 năm 1960, hai huyện Sóc Sãi và

Châu Thành được nhập lại thành huyện Châu Thành. Tháng 7-1972, huyện Châu

Thành và một phần huyện Giồng Trôm được chia thành hai huyện Châu Thành

Đông và Châu Thành Tây. Huyện Mỏ Cày được chia thành hai huyện Mỏ Cày Nam

và Mỏ Cày Bắc, ranh giới là sông Mỏ Cày. Tương ứng với tỉnh lỵ Trúc Giang của

địch, chính quyền cách mạng quyết định thành lập thị xã Bến Tre. Về phía chính

quyền cách mạng, tỉnh Bến Tre có 9 huyện: Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam,

Thạnh Phú, Giồng Trôm, Ba Tri, thị xã Bến Tre, Châu Thành Đông, Châu Thành

Tây và Bình Đại.

Sau đồng khởi, ngày 20 – 12 – 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam được thành lập. Ở Bến Tre, ngày 28 tháng 12 năm 1960, đại hội nhân dân

tỉnh tại ấp Bờ Bàu, với sự tham dự của 400 đại biểu các huyện, đã bầu ra Ủy ban

Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh. Hệ thống tổ chức của mặt trận được thiết lập đến

tận cơ sở. Với chức năng như một chính quyền cách mạng, dưới sự lãnh đạo của

Đảng Lao động Việt Nam, mặt trận đã lãnh đạo nhân dân ổn định và cải thiện cuộc

sống, tổ chức các phong trào đấu tranh cách mạng.

Tháng 6 – 1969, đại hội quốc dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ

lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam đã chuyển giao chức năng của chính quyền cho chính phủ lâm thời.

Hệ thống các đơn vị hành chính địa phương gồm có 3 cấp: tỉnh, huyện (thị

xã), xã (phường, thị trấn). Ở mỗi cấp đều bầu ra hội đồng nhân dân cách mạng, cơ

quan chấp hành của hội đồng nhân dân là ủy ban nhân dân cách mạng. Giúp việc

cho ủy ban nhân dân cách mạng cấp tỉnh có các sở, ty chuyên môn. Giúp việc cho

ủy ban nhân dân cấp huyện, xã có các phòng, ban và các tổ công tác.

Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến năm 2000

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), trên cơ sở địa giới

hành chính thời kháng Mỹ, chính quyền cách mạng tiến hành một số điều chỉnh cho

phù hợp với tình hình mới. Vùng ngoại ô thị xã được mở rộng bằng cách nhập thêm

7 xã của hai huyện Châu Thành và Giồng Trôm. Hai huyện Châu Thành Đông và

Châu Thành Tây nhập lại thành Huyện Châu Thành. Hai huyện Mỏ Cày Nam và

Mỏ Cày Bắc nhập lại thành huyện Mỏ Cày.

Sau một số lần thay đổi địa giới hành chính của các huyện, chủ yếu là tách

lập thêm một số xã mới trong phạm vi phần đất của huyện, năm 2000, tỉnh Bến Tre

có 7 huyện, 1 thị xã, 159 xã, phường, thị trấn.

Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VI, quốc hội chung của cả nước, ở kỳ

họp thứ nhất, bộ máy Nhà nước Trung ương gồm có: Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội

đồng chính phủ, Hội đồng quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao. Các cấp chính

quyền địa phương được chia thành 3 cấp: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và

tương đương; huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận, thị xã; xã, phường, thị trấn.

Ở các cấp chính quyền địa phương đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban

nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Cấp xã, phường, thị trấn

không có Tòa án và Viện kiểm sát.

Sau các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1980 và 1992, bộ máy nhà nước ở địa

phương đã từng bước được hoàn thiện và phát triển theo hướng tăng cường hiệu

lực, hiệu quả quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương.

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân

và Ủy ban nhân dân năm 1994, mỗi tĩnh được tổ chức ra Hội đồng nhân dân. Hội

đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm

trước nhân dân và chính quyền cấp trên. Hội đồng nhân dân tỉnh bảo đảm thi hành

nghiêm chỉnh Hiến pháp, Pháp luật ở địa phương về kế hoạch phát triển kinh tế – xã

hội và ngân sách, về quốc phòng, an ninh, thực hiện các biện pháp ổn định, nâng

cao đời sống nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ do cấp trên giao cho.

Hình thức cơ bản thể hiện thẩm quyền của hội đồng nhân dân là các kỳ họp

của hội đồng. Qua các kỳ họp, Hội đồng nhân dân thảo luận và ra các nghị quyết về

các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

Cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân là Ủy ban nhân dân. Ủy an nhân

dân chịu trách nhiệm và báo cáo tình hình công tác trước Hội đồng nhân dân cùng

cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ thực hiện

phối hợp giữa các ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân để xây dựng các đề án

công tác trình trước Hội đồng nhân dân quyết định; chấp hành nghị quyết của Hội

đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của các cơ quan hành chính cấp trên; quản lý

công tác hành chính ở địa phương; chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền mình

nhằm hoàn thành kế hoạch nhà nước, phát triển kinh tế và văn hóa, củng cố quốc

phòng, cải thiện đời sống nhân dân; xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến

nghị của nhân dân”.

Việc tổ chức bộ máy quản lý xã hội ở Bến Tre qua các thời kỳ chịu sự chi

phối, sắp xếp, phân chia của chính quyền trung ương, nhằm đảm bảo quyền lợi của

giai cấp thống trị, ổn định xã hội.

Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị lập ra bộ máy nhà nước từ trung

ương đến địa phương để quản lý xã hội, đảm bảo lợi ích của mình. Chức năng của

nhà nước là quản lý xã hội, thu thuế,… Trước Cách mạng Tháng Tám – 1945, nhà

nước ở địa phương là công cụ của giai cấp thống trị, chức năng chủ yếu là vơ vét,

bóc lột nhân dân, trấn áp các phong trào đấu tranh. Thắng lợi của Cách mạng

Tháng Tám đã cho ra đời Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Nhà nước của

dân, do dân, vì dân. Nhà nước ấy đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải

phóng dân tộc, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám – 1945 đã đập tan bộ máy nhà nước

của chính quyền thực dân – phong kiến. Sau thắng lợi này, chính quyền cách mạng

đã bắt tay vào xây dựng bộ máy nhà nước mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng

hòa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát

triển, bộ máy nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng đã góp phần

quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chính quyền địa phương là nhân tố

đoàn kết, tập hợp lực lượng đánh thắng kẻ thù trên quê hương, góp phần vào thắng

lợi chung của cả nước. Từng thời kỳ, bộ máy nhà nước có sự thay đổi cho phù hợp

với tình hình, đòi hỏi của cách mạng. Về bản chất, nhà nước cách mạng là nhà

Trong giai đoạn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù đã dựng lên nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân.

bộ máy cai trị, chính quyền tay sai để phục vụ cho mưu đồ của chúng. Bộ máy chính

quyền của địch tuy không thực hiện trọn vẹn mục tiêu mà kẻ thù đặt ra nhưng cũng

đã gây không ít khó khăn, tổn thất cho phong trào cách mạng ở địa phương. Với

truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, nhân dân Bến Tre không bao giờ cam

chịu sự thống trị, quản lý của kẻ thù, dù cho kẻ thù có sử dụng bất kỳ thủ đoạn, biện

pháp nào.

2.2. Đời sống vật chất

2.2.1. Sinh hoạt kinh tế

* Hoạt động sản xuất nông nghiệp

Hoạt động sản xuất của cư dân Bến Tre khá đa dạng, tùy thuộc vào điều kiện

đất đai và sản vật do thiên nhiên mang lại.

Việc trồng lúa ở những vùng đất thấp

Theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí: “trấn

Vĩnh Thanh toàn là ruộng chằm không dùng trâu cày, đợi đến khi cuối mùa hạ sang

mùa thu, nước mưa đầy tràn, chặt phá cỏ lác cỏ năn, bừa cỏ đi, be đắp làm bờ, trang

đất cắm mạ, một hộc thóc giống thì thu được 300 hộc thóc” [22, tr.155].

Chiếc phảng vốn là nông cụ của người Khơme được người dân ở đây chọn

làm dụng cụ để phát cỏ ở những nơi không cày được. Những nơi ít sình lầy, người

ta sử dụng trâu bò để kéo cày, bừa lấp cỏ, làm đất trước khi gieo sạ. Gàu được dùng

để tát nước. Về dụng cụ thu hoạch, lúc đầu, người ta sử dụng vòng hái kiểu hình

chữ S của người Khơme, về sau, vòng hái được điều chỉnh theo hình chữ V. Ngoài

vòng hái, dụng cụ thu hoạch còn có lưỡi liềm.

Giống lúa được chọn để gieo sạ tùy thuộc thổ nhưỡng từng nơi. Các giống

lúa tẻ phổ biến ở Bến Tre có tàu hương, nàng keo, nàng lon, nàng hương, nàng

thơm, nàng út, móng chim. Nếp ngon, nổi tiếng có nếp mường, nếp ruồi. Ngoài ra,

người ta còn trồng các giống lúa nàng quớt, nàng chô, đây là những giống thích hợp

đã được người Khơme chọn lọc. Từ cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX, nông dân Bến

Tre đã gieo sạ nhiều giống lúa cao sản ngắn ngày như thần nông 6, thần nông 8,

IR.732…

Về tổ chức lao động, nghề trồng lúa cần rất nhiều lao động. Người ta thường

tổ chức vần công với nhau giữa các gia đình cùng xóm, người nhà này làm công

việc đồng áng giúp nhà khác và ngược lại.

Sau khi gặt xong, lúa được đưa về sân nhà chất thành bã, cho trâu đi vòng

quanh đạp đến khi rụng hết hạt, giũ rơm, phơi lúa, sau đó giê sạch rồi cho vào bồ.

Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, máy suốt lúa được sử dụng để thay thế phương

thức thu hoạch thủ công như trên.

Buổi đầu khai phá, đất đai còn rộng, người ta làm ruộng theo phương thức

quảng canh. Mỗi năm chỉ làm một vụ lúa. Về thời điểm cụ thể, Trịnh Hoài Đức cho

biết: “Ruộng chằm tháng 6 gieo mạ, tháng 8 cấy, tháng 12 gặt” [22, tr.157]. Kỹ

thuật canh tác chủ yếu dựa vào điều kiện thiên nhiên. Nguồn nước phục vụ cho

trồng lúa trước kia chủ yếu dựa vào nước mưa, công tác thủy lợi hầu như chưa có

gì. Cuối thời Pháp thuộc, nông dân ở đây mới bắt đầu làm quen với phân bón hóa

học.

Khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho sâu bọ, chim chuột sinh sôi

nảy nở. Theo Sơn Nam: “cách đối phó hữu hiệu nhất đối với chim chuột là làm

ruộng liền lạc nhau, kết hợp nhiều gia đình, trên mảng to để sự hao hụt chia ra, mỗi

người một ít”… “phát cỏ sạch, cào cho trống trải rồi “ruộng sâu cấy trước, ruộng gò

cấy sau” [47, tr.33].

Nằm ở vị trí giáp biển, chịu sự tác động của thủy triều, Bến Tre rất vất vả

trong việc đối phó với hiện tượng xâm nhập mặn, đặc biệt là vào mùa khô. Theo

Địa phương chí 1930: “nước thủy triều phủ nên toàn là nước mặn, không thích hợp

cho việc trồng lúa” [46, tr.29-30]. Để có thể thâm canh tăng vụ, việc xây dựng hệ

thống thủy lợi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Từ thời Pháp thuộc, nhiều con kênh đã được đào như kênh Chẹt Sậy, kênh

Sơn Đốc, kênh Đồng Xuân, kênh Mỏ Cày – Cái Quao. Sau ngày đất nước hoàn toàn

giải phóng, các công trình thủy lợi đã được xúc tiến xây dựng với một hệ thống

kênh tưới tiêu, cống ngăn mặn khá hoàn chỉnh. Nhờ vậy, mỗi năm người ta có thể

canh tác 2-3 vụ.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bom đạn và các cuộc càn quét

của địch đã làm cho nông nghiệp nói chung, nghề trồng lúa nói riêng không phát

triển. Diện tích đất bị bỏ hoang nhiều, năng suất thấp, nông dân không có hứng thú

lao động. Sau giải phóng, nghề trồng lúa dần dần được khôi phục. Người ta đã đào

thêm nhiều kênh mương để phục vụ tưới tiêu cho những vùng bị nhiễm mặn. Đây là

việc làm đã thể hiện sự năng động, sáng tạo và bản lĩnh chinh phục thiên nhiên của

người dân nơi đây. Nhờ thế, những khu vực hoang hóa dần dần được khai thác hết.

Nông dân biết áp dụng các giống lúa ngắn ngày, có năng suất cao. Nhờ ứng dụng

thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sản lượng, năng suất lúa trong Tỉnh ngày

một tăng.

So với các khu vực khác của vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đất Bến

Tre không phải là nơi có nhiều thuận lợi cho việc trồng lúa. Do vị trí tiếp giáp với

biển, có nhiều cửa sông và nhiều rạch nhỏ chảy vào nội đồng nên một nửa diện tích

đất bị nhiễm mặn. Đây là trở ngại lớn nhất đối với việc trồng lúa. Với bản lĩnh và

quyết tâm cao, nông dân Bến Tre đã biết học hỏi, tiếp thu kỹ thuật khai phá của

người Khơme (trong việc dùng chiếc phảng để chặt phát cỏ), sử dụng kinh nghiệm

trồng lúa từ quê cũ, biết xây dựng hệ thống thủy lợi để ngăn mặn, đưa nước ngọt

vào đồng ruộng, tạo điều kiện cho việc thâm canh tăng vụ, biến một vùng đất vốn

không thích hợp đối với cây lúa trở thành nơi chẳng những giải quyết tương đối ổn

nhu cầu lương thực của địa phương mà còn thừa cho xuất khẩu.

Việc trồng cây hoa màu trên đất giồng

Buổi đầu khai phá, lưu dân đã chọn đất giồng làm chỗ đứng chân, vì đây là

nơi thường khô ráo, thoáng mát, có nước ngọt, đất xốp nhẹ, dễ canh tác. Từ những

giồng, họ tiến vào phá rừng, lấn ra biển, mở rộng phạm vi sản xuất.

Nghề làm giồng có gốc gác từ nghề làm nương rẫy của cư dân miền gò đồi.

Đất giồng là vùng đất tương đối cao, có nguồn nước ngầm, thích hợp với một số cây

hoa màu, cây trồng cạn, thích hợp với các loại cây hoa màu ngắn ngày như bắp,

khoai, sắn, các loại đậu, mè, kê, các loại dưa, bầu, bí, cà, mướp, các loại rau cải và

một số loại cây công nghiệp ngắn ngày như thuốc lá, đậu phộng. Theo ghi chép của

Trịnh Hoài Đức: “huyện Tân An, tổng Tân Minh thổ nghi có các thứ khoai, khoai

lang. Tổng An Bảo thổ nghi có khoai, đậu, ngô,... Khoai thì tháng 4 trồng, tháng 10

thu hoạch, đậu thì tháng 4 trồng, tháng 6 thu hoạch, ngô thì tháng 4 trồng, tháng 7

thu hoạch” [22, tr.158].

Nghề trồng giồng ở Bến Tre đã từng tạo ra nhiều sản phẩm chẳng những nổi

tiếng ở địa phương mà còn vang danh khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thuốc

lá giồng Mỏ Cày “nổi danh Nam Kì”, dưa hấu Cửa Đại đã từng đạt giải nhất cuộc

đấu xảo ở Sài Gòn vào đầu thập kỉ 40 của thế kỉ XX [66, tr.446]. Ở Bến Tre, đã có

một thời nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa phát triển ở các xã đất

giồng Ba Tri.

Theo Địa phương chí (1930): đầu thế kỷ XX, “tại Ba Tri mỗi năm có tổ chức

một cuộc thi triển lãm tơ tằm với mục đích đưa ra ánh sáng những tiến bộ đạt được

và giúp cho sở nông nghiệp trình bày với hai mục đích tuyên truyền và giáo dục với

những bảng chỉ dẫn có số liệu giải thích quá trình phát triển của con tằm soi qua

kính hiển vi bị nhiều loại bệnh nhiều màu đủ loại… Những sự hướng dẫn đó làm

cho những người nuôi tằm ở địa phương có nhiệt tình quan tâm và rút tỉa lợi ích

lớn” [46, tr.46].

Rau củ của giồng đã góp phần làm cho bữa ăn người dân, cả nông thôn lẫn

thành thị thêm phong phú, đồng thời cũng mang lại cho người trồng giồng một

nguồn thu nhập đáng kể. Những năm mất mùa, nguồn sống chủ yếu của người nông

dân là hoa lợi của giồng.

Ở vùng ven biển, người ta giữ lại những cây cao, những khóm tre, bụi trúc,

thậm chí còn trồng thêm những cây cao trên đất giồng vừa để tạo thêm bóng mát,

vừa góp phần chắn gió. Tre, trúc là nguồn nguyên liệu cho nghề đan lát, đây cùng là

một nguồn thu đáng kể của cư dân miệt giồng.

Dân cư ngày càng tăng thì đất giồng ngày càng bị thu hẹp. Đến cuối thế kỷ

XX, phần lớn đất giồng ở Bến Tre bị biến thành thổ cư, hoặc nơi thiết lập các công

trình xây dựng, các thị tứ, thị trấn. Dù vậy, vùng ven biển Ba Tri, Bình Đại, Thạnh

Phú và ngoại ô thị xã, thị trấn, trên những giồng cát, vẫn còn những hộ chuyên

nghề làm giồng. Có những gia đình có 3, 4 ha giồng, luân canh rau củ theo mùa,

cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm có giá trị không những ở trong nước, mà

còn có thể xuất khẩu.

Đất giồng hứa hẹn một cuộc sống yên bình, với những nét riêng, đáng yêu

của nó. Từ lâu, ở đất này đã lưu truyền câu ca dao:

Mẹ mong gả thiếp về giồng

Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.

Việc trồng cây ăn trái trên đất vườn

Vùng ven sông, độ chênh lệch giữa mặt đất và mặt nước không lớn, rất dễ bị

ngập nước. Lợi dụng chế độ bán nhật triều với hai con nước lớn ròng mỗi ngày, cư

dân đã khắc phục tình trạng ngập úng bằng cách đào mương lên liếp.

Nói về kỹ thuật đào mương lên liếp, Sơn Nam, trong Đồng bằng sông Cửu

Long, nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, có ghi: “đây là kỹ thuật làm vườn

khá tinh vi mà người Miên không biết, mà người miền Trung thiếu hoàn cảnh để áp

dụng. Giữa hai mương là liếp đất cao, mương đào càng sâu, càng rộng thì đất quăng

lên bồi liếp càng nhiều. Nước lớn chảy vào mang phù sa theo. Phù sa lắng xuống, ở

lại đáy mương. Khi nước ngoài sông đã ròng thì nước trong mương rút trở ra;

chuyến vào là nước đục, chuyến ra là nước trong. Mớ phù sa dưới mương được

quăng lên liếp để đắp gốc cây, người làm vườn không cần mua phân bón [49,

tr.274].

Kỹ thuật đào mương, lên liếp đã mở ra một hướng cải tạo vùng đất ven sông

rạch, tạo điều kiện cho phù sa bồi tụ nhanh chóng hơn, đưa năng suất cây trồng lên

cao, biến vùng đất có giá trị kinh tế thấp thành đất vườn có giá trị kinh tế lớn hơn

nhiều lần so với nghề trồng lúa và trồng giồng. Trên liếp, người ta trồng dừa, cau,

cam, quýt, chanh, xoài, mận, sầu riêng, măng cụt, chôm chôm. Mương vườn được

tận dụng để nuôi tôm, cá. Có thể xem đây là một hệ canh tác bền vững, ổn định về

mặt sinh thái, môi trường.

Do nguồn lợi mang lại tương đối lớn nên nghề làm vườn phát triển khá

nhanh. Trong bài viết “Đất vườn và con người miệt vườn Bến Tre” (Tạp chí văn

hóa nghệ thuật Bến Tre, số 9/1985), ông Nguyễn Văn Châu có nhận xét: “Nghề làm

vườn xuất hiện và mau chóng phát triển, thu hút đông đảo cư dân vào hướng khai

thác đất ven rạch, ven sông, từ vàm đến ngọn. Một bước ngoặt quan trọng xảy ra

trong nông nghiệp trên đất cù lao: sự phân công lao động tự nhiên giữa nghề ruộng

và nghề vườn. Bước ngoặt này đưa đến hai điểm quan trọng. Trong nông nghiệp bắt

đầu có sự phân công lao động mới và đi vào chuyên canh với hiệu quả kinh tế to lớn

so với tình trạng chỉ có độc canh cây lúa. Kinh tế vườn, khi phát triển thành vùng

chuyên canh, đã đi vào sản xuất hàng hóa” [66, tr.448].

Đến giữa thế kỉ XVIII, nhiều vườn có qui mô lớn được hình thành ở phía đầu

nguồn của cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa, ở ven các sông lớn Cổ Chiên,

Hàm Luông và ven các rạch, nơi quanh năm có nước ngọt, rồi dần dần phát triển về

phía nước lợ ở mạn phía hạ lưu. Địa bạ triều Nguyễn cho biết: Trong 26.212 mẫu

thổ thực canh thì viên lang thổ (đất vườn trồng cau, dừa) chiếm 19.467 mẫu

(74,27%), tang căn thổ (đất trồng dâu tằm) chiếm 6.744 mẫu (25,73%) [16,

tr.131].Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: “tỷ lệ thổ canh của

phủ Hoằng An (Bến Tre ngày nay) (so với các phủ khác trong tỉnh Vĩnh Long) là

cao hơn cả: trên 1 phần 3 ruộng đất là thổ canh, và 3 phần 4 đất thổ canh ấy lại là

vườn cau (viên lang thổ). Vì thế, người xưa gọi đất Bến Tre là “miệt vườn” [16,

tr.131].

Ông Nguyễn Duy Oanh, trong công trình Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt

Nam có trích dẫn một đoạn trong bài viết về vườn cây ăn trái ở Bến Tre đăng trong

tập Du ngoạn và khảo sát xuất bản năm 1880 đã miêu tả như sau: “Tại làng Vĩnh

Thành, tổng Minh Lý (nay thuộc huyện Chợ Lách) có họ đạo Cái Mơn. Họ đạo này

điều khiển bởi Cha Gernot. Cha Gernot tạo nơi đây một vườn cây trái rất rộng, được

chăm sóc kỹ lưỡng và vườn có trồng một số cây hữu ích và kỳ lạ như chà là, dừa

lùn, cây trái của xứ Cao Miên của bán đảo Mã Lai và của Nam triều.” [62, tr.146].

Trên đất vườn, bên cạnh các loại cây ăn quả, cây dừa đã nhanh chóng phát

triển. Ban đầu, dừa được trồng xen với cây ăn trái. Về sau, người ta thấy nó cho

hiệu quả cao hơn trồng lúa kể cả một số loại cây ăn trái, điều kiện chăm bón đơn

giản, nên người ta lập những vườn chuyên trồng dừa. Diện tích trồng dừa do đó đã

tăng nhanh, mở rộng xuống các vùng hạ lưu, nơi những loại cây ăn trái khác như

sầu riêng, măng cụt, chôm chôm đã tỏ ra không thích hợp. Bến Tre là nơi có diện

tích và sản lượng dừa lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Cây dừa

đã trở thành biểu tượng thân thương, tự hào của đất Bến Tre và người Bến Tre.

Hàng loạt tên gọi gắn với dừa: “Xứ dừa”, “Quê dừa”, dừa đi vào thơ ca, ca dao:

“Thấy dừa thì nhớ Bến Tre”, “Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri”…

Cau cũng là sản phẩm nổi tiếng của miệt vườn Bến Tre. Ca dao ở vùng này

có câu “Xẻo Sâu cau tốt ai bì”. Xẻo Sâu thuộc xã Lương Phú, huyện Giồng Trôm.

Địa bạ tỉnh Vĩnh Long, phần Bến Tre (1836) cũng có ghi rằng: “Có những làng như

thôn Nhơn Mỹ, thôn Hàm Luông, thôn Tiên Thủy, thôn Tiên Thủy Tây (đều ở tổng

Bảo Định) có hàng trăm mẫu vườn cau mà không có một thước ruộng nào” [16,

tr.131]. Bước sang đầu thế kỉ XX, thị trường tiêu thụ cau bị đình trệ, vì hạt cau

không còn được dùng trong công nghệ nhuộm màu, thuộc da … nữa, đã có những

hóa chất khác rẻ tiền hơn, tốt hơn thay thế. Các nhà vườn ở Bến Tre cũng như ở các

vùng khác của Gia Định đã chặt bỏ cau, hoặc thu hẹp diện tích lại, chỉ để phục vụ

cho nhu cầu ăn trầu.

Biên khảo về miệt vườn, Sơn Nam viết: “Cái Mơn, quê hương của ông

Trương Vĩnh Ký là nhau rún của miệt vườn” [49, tr.294]. Miệt vườn đã góp thêm

hương sắc cho khu vườn Việt Nam: kỹ thuật “đào mương lên liếp” để lập vườn,

kinh nghiệm trồng tỉa khéo léo, phong cảnh nhà cửa khá khang trang và hợp cảnh,

mức sống khá cao, nghệ thuật nấu ăn và làm bánh khéo… Kỹ thuật lập vườn là một

trong những sáng tạo nổi bật của cư dân Nam Bộ nói chung, cư dân Bến Tre nói

riêng trong quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ.

* Việc khai thác thủy sản

Hoạt động khai thác cá ở ruộng, bưng, sông, rạch

Đất Gia Định xưa là nơi có nguồn lợi cá tôm nhiều vô kể. Sơn Nam miêu tả:

“Nhiều đìa cá ở xa đường giao thông, cá nổi đầu lên như “Mù u chín rụng”, nhưng

chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Tát nước, khiêng hoặc gánh cá tới bến nước

để bán thì tốn kém, lỗ tiền công”[49, tr.46-47]. Nhiều cụ già ở Bến Tre cho biết,

thời các cụ còn niên thiếu, cá trong đồng, trên ruộng, trong bưng nhiều vô kể. Mùa

mưa, gặp cơn mưa lớn về đêm, cá lóc, cá trê, cá rô theo nước vượt qua bờ, qua

đường để vào đồng đẻ, có khi cá vào tận sát thềm nhà. Người đi ra đồng hoặc đi chợ

sớm có khi dẫm phải cá lóc, trượt ngã. Ở Bến Tre, vùng bưng lớn thuộc các xã Phú

Long, Lộc Thuận, Định Trung (huyện Bình Đại) hay đầm Lạc Địa thuộc các xã Phú

Lễ, Mỹ Nhơn (huyện Ba Tri) là những nơi tập trung rất nhiều cá đồng, với sản

lượng hàng trăm tấn cá mỗi năm. Cá nhiều và to đến mức, dân địa phương mổ lấy

mỡ để thắp đèn.

Để khai thác nguồn cá tôm phong phú ở địa phương, người nông dân đã tổ

chức đánh bắt bằng mọi phương tiện như thả chà, bung, đó, nơm, lợp, lờ, vó… Cá

bắt được, mớ thì bán, mớ thì cho, ăn không hết thì phơi khô, làm mắm để dự trữ làm

thức ăn quanh năm. Có năm mất mùa lúa, được mùa cá, trên mâm cơm người nông

dân, cá nhiều hơn cả cơm và rau.

Những gia đình khá giả, có nhiều ruộng thì đắp đập, đào đìa, đến mùa khô thì

xả đập, tát đìa để thu hoạch cá. Mỗi khi xả đập, tát đìa, có thể thu được hàng chục tạ

cá. Một bộ phận nông dân nghèo đã lấy nghề khai thác cá đồng để nuôi sống gia

đình. Với tay chài, tấm lưới hoặc bó cần câu, quanh năm suốt tháng, họ lặn lội trong

các bưng bàu, kênh rạch để đánh bắt cá, kiếm thức ăn hàng ngày và bán lấy tiền chi

cho sinh hoạt của gia đình.

Ngoài việc đánh bắt cá đồng ở các đìa, bàu, bưng, hồ còn có nghề đánh bắt

cá ở sông rạch bằng các phương tiện cổ truyền như chài, lưới, đâm, đóng đáy, xây

rọ, thả chà… Cá tôm ở sông rạch nhiều, nhưng bắt cho được con cá, con tôm không

phải chuyện dễ. Phải siêng năng, bởi đây là nghề khá vất vả, phải có kinh nghiệm,

phải nắm được qui luật di chuyển, qui luật ăn, ngủ, đặc điểm của từng loại tôm cá.

Cần phải biết, tháng nào, con nước nào, loại cá gì xuất hiện, qui luật sinh trưởng của

từng loại ra sao. Mỗi dòng sông, con rạch lại có đặc điểm riêng, người nông dân cần

phải biết chọn lựa nơi khai thác thích hợp. Qua quá trình lâu dài gắn đời mình với

ruộng đồng, sông nước, người nông dân Bến Tre đã tích lũy được nhiều kinh

nghiệm quí báu trong nghề đánh bắt cá ở các đồng, bưng, sông rạch.

Hoạt động đánh bắt cá biển

Trong những lớp lưu dân đầu tiên đến Bến Tre, có nhiều người vốn là ngư

dân từ miền ngoài vào. Họ cư trú dọc theo 65km bờ biển từ Bình Đại, Ba Tri đến

Thạnh Phú. Từ đó, nhiều làng cá đã được hình thành.

Ngư dân ở Bến Tre khá thông thuộc biển khơi, có nhiều kinh nghiệm trong

khai thác hải sản. Dụng cụ, phương tiện đánh bắt khá phong phú, phổ biến nhất là

các biện pháp đánh bắt bằng đáy, cào, lưới, đập.

Đáy là hình thức đánh bắt cá tôm bằng lưới cố định. Cá tôm theo dòng nước

mắc vào trong đáy. Đáy gồm có 5 bộ phận: cánh, thân, đụt, rọ và dụng cụ cố định

đáy. Từ tháng 4 đến tháng 11 hàng năm là mùa vụ khai thác đáy. Mỗi vụ, một đáy

có thể đánh bắt được 10 tấn tôm cá.

Cào là hình thức dùng lưới gắn vào đuôi ghe để kéo các loại cá tôm ở đáy

sông, đáy biển. Tháng 11, tháng 12 là cao điểm đánh bắt bằng cào, mỗi ghe có thể

cào được một, hai trăm tạ.

Lưới đánh bắt cá có nhiều loại. Tùy theo kích cỡ của từng loại cá, tôm, người

ta dùng loại lưới phù hợp, chẳng hạn như lưới tôm, lưới cá đối, lưới cá dường, cá

gộc, cá út, cá gúng…

Đập được đắp ở các khúc sông, rạch, ngăn không cho cá tôm theo dòng

nước. Sau đó, người ta xả nước, tát cạn để bắt cá.

Trước kia, phương tiện đánh bắt còn thô sơ, ngư dân chỉ đánh bắt chủ yếu

vào mùa gió nam. Từ khi dùng ghe biển có gắn máy, vào mùa gió chướng, ngư dân

còn cho ghe đi đánh bắt ở nhiều vùng biển khác như Bình Thuận, Bà Rịa, Vũng

Tàu, Cà Mau, Kiên Giang. Lượng thủy sản đánh bắt được, ngoài việc đáp ứng cho

nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong tỉnh, còn cung cấp cho thị trường trong vùng

và xuất khẩu.

Việc nuôi thủy sản

Nhân dân các vùng ven biển như Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri, từ lâu đời, đã

có nhiều kinh nghiệm trong nghề nuôi thủy sản. Từ kinh nghiệm khai thác cá tôm

trên sông rạch, họ đã biết cắm chà, đắp đập giữ cá tôm vào ở lại trong mương rạch

của mình. Kết hợp kinh nghiệm cổ truyền với thành tựu khoa học, càng ngày ngừơi

ta càng chủ động hơn trong nghề nuôi thủy sản. Trong vùng rừng ngập mặn ở các

xã ven biển, nhân dân đã kết hợp trồng rừng với nuôi tôm hàng ngàn hecta, hàng

năm thu hoạch hàng trăm tấn tôm xuất khẩu. Cư dân ven biển còn biết khoanh các

vùng bãi bồi, tìm nghêu, sò giống vùng cửa sông để mang về thả nuôi, tạo ra nguồn

thu nhập rất lớn. Đó là phương thức sống chủ yếu của đa số cư dân ven biển.

* Việc khai thác lâm sản

Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, đến cuối thế kỷ

XVIII, vùng đất Gia Định nói chung, trong đó có Bến Tre, vẫn còn trong tình trạng

“toàn là rừng rậm”.

Các thế hệ người Việt đã nối tiếp nhau “phá sơn lâm”, biến đất rừng thành

ruộng lúa, đất thổ cư và vườn cây ăn trái. Theo đà tăng dân số, diện tích rừng bị thu

hẹp. Cho đến đầu thế kỷ XX, rừng bị đẩy lùi về khu vực ven biển Bình Đại, Ba Tri,

Thạnh Phú [18, tr.464]. Phần rừng còn lại này là rừng ngập mặn.

Người ta đốn gỗ làm nhà, đóng thuyền và làm các vật dụng phục vụ cho sinh

hoạt gia đình như giường, ván, bàn, tủ, các vật dụng đan lát. Cây rừng còn được

chặt để làm củi. Dân làm nghề đốn củi còn tổ chức thành hội củi. Củi đốn xong, dân

có ghe đến thu mua, chở đi bán ở các nơi, nhất là những nơi có nghề làm lò, nung

gạch ngói.

Rừng là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như: heo rừng, khỉ, nai, sóc,

trăn rắn, các loài chim như vịt trời, le le, bìm bịp, vẹt, cuốc… Dưới nước trong rừng

ngập mặn là nơi trú ẩn của nhiều loài cá, tôm, cua. Đây là nguồn thực phẩm phong

phú cho người dân khai thác.

Nhận thức được giá trị của rừng, bên cạnh hoạt động khai thác gỗ, củi, gần

đây, việc bảo tồn, phát triển rừng được nhân dân quan tâm. Ở vùng ven biển, rừng

được xem là những “đê” tự nhiên góp phần giảm nhẹ hoạt động của sóng biển, gió

chướng, hạn chế tác hại của quá trình xói lở bờ biển, cố định bãi bồi góp phần tăng

nhanh diện tích đất bồi của tỉnh.

*Hoạt động thủ công nghiệp và công nghiệp

Thủ công nghiệp

Sản xuất cần có dụng cụ, đi lại cần có phương tiện, sinh hoạt hằng ngày cần

có vật dụng. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người, bên cạnh các họat động

nông, lâm, ngư, người ta còn làm các sản phẩm thủ công để phục vụ cho sinh hoạt

và sản xuất.

Làm cối xay lúa, cối giã gạo

Trước đây, người ta sản xuất gạo chủ yếu bằng cách cho lúa vào các cối xay,

cối giã để xay, giã thủ công. Để phục vụ cho việc sản xuất gạo, từ rất sớm, nghề làm

cối xay, cối giã đã ra đời. Ở Bến Tre, dấu tích của nghề làm cối xay lúa, cối giã gạo

hiện còn ở một số địa danh như “Cái Cối” (Thị xã Bến Tre), “Xóm Cối” (xã Thạnh

Ngãi, Mỏ Cày).

Đan lát

Vùng đất Bến Tre có rất nhiều tre, trúc, tầm vông, lá dừa, cói, mây… Từ

nguồn nguyên liệu phong phú này, người ta đã sản xuất ra rất nhiều vật dụng phục

vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp như rổ rá, thúng, dần, sàng, nong, nia, bồ,

gàu tát nước, những dụ cụ đánh bắt cá như lờ, lợp, đăng, đó,… Vùng Phú Lễ, Phú

Ngãi (Ba Tri) là những nơi có nghề đan lát rất phát triển.

Nghề đan lát có rất nhiều lợi thế. Thứ nhất, nghề này cần vốn ít, kỹ thuật thô

sơ, nguyên liệu rẻ. Chỉ cần con dao, ít cây tre hoặc trúc, người thợ cũng có thể hành

nghề. Thứ hai, mặt bằng sản xuất không đòi hỏi phải rộng như nhiều nghề thủ công

khác. Thứ ba, nghề này tận dụng triệt để nguồn lao động phụ và thời gian rảnh rỗi.

Trẻ em từ 9, 10 tuổi và các cụ già 70 tuổi vẫn có thể tham gia vào một số thao tác

nhẹ nhàng của quy trình sản xuất.

Những ngày việc đồng áng thư thả hoặc mưa to gió lớn không ra đồng được,

cả nhà quây quần trong nhà sản xuất. Người lớn ra nan, gầy mê, đánh vành. Người

già, trẻ em vót nan và đan. Thời gian được sử dụng triệt để. Ngày hai buổi ra đồng,

trưa về tranh thủ ra nan, tối đến, sau khi cơm nước xong, cả gia đình ai vào việc

nấy, vừa làm vừa trò chuyện vui vẻ.

Tuy lợi nhuận không cao, chủ yếu là “lấy công làm lời”, nhưng nghề đan lát

đã góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng cuộc sống gia đình của một bộ phận cư

dân.

Làm các sản phẩm bằng gỗ

Nghề mộc ở Bến Tre chủ yếu sản xuất đồ gia dụng như bàn, ghế, giường, tủ,

làm nhà, làm cửa. Ở đây cũng có một số thợ giỏi nhưng không nhiều. Những nhà

cửa đồ sộ, những công trình đòi hỏi nghệ thuật cao, người ta thường thuê thợ mộc ở

Chợ Lớn, Thủ Dầu Một hoặc rước thợ từ miền Trung vào.

Rèn dụng cụ kim loại

Rải rác ở nông thôn Bến Tre, hầu như làng nào cũng có lò rèn. Nghề rèn sản

xuất ra lưỡi cày, lưỡi cuốc, phảng, liềm cắt, lưỡi hái để phục vụ sản xuất nông

nghiệp, các vật dụng phục vụ sinh hoạt như dao, búa, kéo. Trong chiến tranh, nhiều

lò rèn đã sản xuất giáo, mác, mã tấu trang bị cho các lực lượng thanh niên, tự vệ.

Khi các công binh xưởng được xây dựng, nhiều thợ rèn giỏi đã tham gia chế tạo vũ

khí phục vụ cho cách mạng.

Đóng ghe

Bến Tre là vùng đất kề sông cận biển, cần có ghe thuyền để đi lại, làm ăn. Vì

thế, nghề đóng ghe đã ra đời khá sớm, nổi tiếng nhất là ở Bình Đại. Khác với ghe

Cần Đước, mũi ngắn, lườn rộng, ghe Vàm Láng mũi nhọn, lườn dẹt, ghe Hòn mũi

đứng, lườn rộng, ghe Bình Đại thuộc dạng ghe cửa, mũi cao vừa phải, lườn rộng,

thân vững, nhảy sóng tốt, thích hợp cho cả đi biển, đi sông. Thời Pháp thuộc, theo

quy định của chính quyền thuộc địa, các ghe của tỉnh Mỹ Tho (trong đó có Bình

Đại), đều mang số 14. Từ khi loại ghe gắn máy được đưa vào sử dụng, loại ghe cửa

của Bình Đại đã bị mai một. Những người thợ từng đóng ghe cửa đã phải chuyển

sang đóng các loại ghe mới hoặc chuyển nghề.

Làm bánh tráng, bánh phồng

Bánh tráng, bánh phồng là những loại bánh khá phổ biến ở Nam Bộ. Ở Bến

Tre, nổi tiếng nhất là “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc”. Cả hai địa danh

này đều ở huyện Giồng Trôm.

Bánh tráng được làm từ gạo tẻ, bánh phồng được làm từ nếp. Ngoài chất

lượng gạo, nếp, kỹ thuật chế biến cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm

nên chất lượng bánh. Bánh tráng Mỹ Lồng nổi tiếng với cách tráng khéo, độ mỏng

đều, bánh dẻo, khi cuốn không bị rách. Bánh phồng Sơn Đốc có mật độ hạt lội ít,

khi nướng phồng rất to, xốp đều, khi cho bánh vào miệng bánh tan nhanh, hương vị

vừa thơm, vừa béo ngọt.

Làm muối

Ở Bến Tre, nghề làm muối tập trung ở hai huyện ven biển là Ba Tri và Bình

Đại. Diện tích và sản lượng muối ở Ba Tri lớn hơn nhiều so với Bình Đại. Tục ngữ

ở Bến Tre có câu “Muối hột Cầu Ngang, khoai lang ở Gảnh”.

Nguyễn Duy Oanh, trong công trình Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ

1757 đến 1945), đã dẫn ra báo cáo của Ủy ban giám định hội triển lãm năm 1880

như sau: “tại làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, Huê kiều Hà Báo và người An Nam tên

Đỗ Văn Luật vừa thiết lập những ruộng muối” và cho biết thêm “Năm 1881, Thống

đốc Nam Kỳ là Le Myre De Vilers, ban đặc quyền cho Ông Pillet ở Bến Tre để ông

này khai thác số đất hoang 277 mẫu và 50 sào làm ruộng muối. Số đất ấy tại làng

Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị” [62, tr.146-147]. Như vậy, nghề làm muối với quy mô

lớn ở Bến Tre đã có từ cuối thế kỷ XIX.

Sau giải phóng miền Nam năm 1975, theo kế hoạch phát triển kinh tế của

tỉnh, nghề làm muối được mở rộng ra toàn vùng Bảo Thạnh. Những năm cuối thế

kỷ XX, do thu nhập từ nghề muối giảm sút, nhiều ruộng muối đã được chuyển sang

nuôi tôm.

Trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa

Ngay từ buổi đầu đến Bến Tre, có một bộ phận lưu dân người Việt đã chuyên

làm nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Những thập niên đầu thế kỷ XX, nghề này

khá phát đạt. Giáo sư Nguyễn Phan Quang, trong bài viết “Góp thêm tư liệu về nghề

thủ công truyền thống ở Nam Bộ thời Pháp thuộc (1867 – 1954)”, in trong tập sách

Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ đã cho biết: “Ở Bến Tre, nghề

tằm tơ tập trung chủ yếu ở huyện Ba Tri (…) Lượng kén sản xuất năm 1921 là

8.000kg và bán với giá 0đ60 - 0đ65/kg. Cho đến cuối năm 1921, có 96 khung dệt

theo kiểu Pháp và 90 khung dệt theo kiểu bản xứ, 8 bể ươm theo kiểu bản xứ. Sản

phẩm mỗi năm là: 228 tấm lụa khổ 0m45 và dài 20m, giá 10 – 15đ mỗi tấm tùy

theo chất lượng; 60 tấm lụa khổ 0m70 dài 20m, giá 20đ – 25đ mỗi tấm. Tất cả đều

tiêu thụ hết trong tỉnh. Phần lớn tơ sống được người Chăm ở Châu Đốc và ở

Cămpuchia thu mua (…). Tại Bến Tre có 29 xưởng nhuộm, khá nổi tiếng trong

vùng cũng như đối với các tỉnh lân cận” [34, tr.253-256].

Từ giữa thế kỷ XX, do chiến tranh và khả năng cạnh tranh của sản phẩm tơ

lụa ở đây không bằng hàng ngoại nhập nên nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa bị mai

một dần. Đất trồng dâu nuôi tằm được chuyển sang trồng cây lương thực, hoa màu.

Làm kẹo dừa

Hình thành khoảng những năm 30 của thế kỷ XX. Lúc đầu, chỉ có vài ba nhà

làm kẹo dừa ở chân cầu Mỏ Cày. Về sau, nhu cầu ngày càng tăng, nghề làm kẹo dừa

cũng ngày càng phát triển.

Từ đó đến nay, mặc dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, song nhìn chung

nghề làm kẹo dừa vẫn không ngừng phát triển. Sau ngày đất nước được hoàn toàn

giải phóng, thị trường được mở rộng, nghề làm kẹo dừa càng có điều kiện thuận lợi

để phát triển. Từ những năm 1991 – 1992, khi thị trường Trung Quốc tiêu thụ mạnh

thì nghề làm kẹo dừa càng có cơ hội phát triển nhảy vọt, đỉnh cao là vào những năm

1995 – 1996. Khi ấy, Bến Tre có đến 200 lò kẹo lớn nhỏ thu hút hàng chục ngàn lao

động. Sản lượng hàng năm lên đến hàng chục ngàn tấn kẹo, thu về cho địa phương

hàng chục tỉ đồng.

Quy trình làm kẹo dừa khá đơn giản, nguyên liệu chủ yếu là dừa, đường cát

trắng và mạch nha. Lúc mới ra đời, kẹo dừa chỉ có một loại, được làm chủ yếu từ 3

nguyên liệu kể trên. Để sản xuất 10 kg kẹo, cần khoảng 20 trái dừa, 3kg đường, 3kg

mạch nha. Gần đây, sản phẩm kẹo dừa rất đa dạng, có gần 10 loại kẹo dừa khác

nhau do hương liệu và phụ gia quy định như kẹo sầu riêng, kẹo dừa đậu phộng, kẹo

sôcôla, kẹo dừa dứa, kẹo sữa trứng…

Nguyên liệu làm kẹo dừa đều là nguyên liệu tại chỗ, rất phong phú. Nhờ vậy

nên giá thành của kẹo không cao, được khách hàng chấp nhận.

Cũng như nhiều nghề truyền thống khác, nghề làm kẹo dừa ở Bến Tre đã

đóng góp một phần không nhỏ trong việc cải thiện đời sống, giải quyết việc làm,

đưa nền kinh tế của tỉnh nhà từng bước đi lên.

Sản xuất cây giống

Sự phát triển của nghề làm vườn đã nảy sinh nhu cầu về cây giống. Từ đó,

nghề làm cây giống xuất hiện ở Bến Tre, nổi tiếng nhất là ở vùng Vĩnh Thành (Chợ

Lách). Thời kì đầu, ghép cây chỉ để đáp ứng nhu cầu cây giống trong gia đình và địa

phương. Vì thế, kỹ thuật ghép cây chưa được quan tâm, nghề này chưa phát triển.

Từ những năm 1939 trở đi, chiến tranh thế giới thứ hai làm cho việc xuất

nhập khẩu bị đình đốn, nhu cầu nội địa tăng, kỹ thuật làm cây giống ở Vĩnh Thành

lúc này đã được nâng cao, nghề này vì thế càng trở nên phát đạt.

Hơn nửa thế kỷ qua, nghề làm cây giống ở Vĩnh Thành cũng như nhiều nghề

thủ công khác ở Bến Tre, có lúc thăng, lúc trầm khác nhau, nhưng xu thế chung vẫn

là phát triển. Đến cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 là đỉnh cao của nghề

làm cây giống ở Vĩnh Thành. Vào những năm này, gần 90% hộ dân ở đây làm nghề

ghép cây và trên 60% tổng thu nhập nhờ vào nghề này. Hàng năm, Vĩnh Thành bán

ra thị trường hàng triệu cây giống đủ chủng loại khác nhau. Ai đã mua cây giống ở

Vĩnh Thành đều hài lòng về chất lượng. Tỉ lệ cây sống rất cao, trên 95%. Cây ít sâu

bệnh, năng suất cao, trái ngon và lớn. Nghề làm cây giống không đòi hỏi diện tích canh tác lớn, có khi chỉ cần vài trăm m2 cũng có thể hành nghề, và cũng không đòi

hỏi một số lượng vốn quá lớn. Nhưng nghề này đòi hỏi rất nghiêm ngặt về kỹ thuật

ở tất cả mọi khâu, từ khâu “bo” (khâu chọn mắt ghép), sau đó là khâu ghép rồi đến

tưới, chăm sóc và cuối cùng là vào bội. Ở Vĩnh Thành, ngoài những khâu kỹ thuật

chung thì hầu như chủ nào cũng có những bí quyết, kỹ thuật riêng để nâng cao giá

trị và hiệu quả kinh tế.

Những năm gần đây, nghề làm cây giống ở Vĩnh Thành đã trở thành một

ngành sản xuất chính và là một trong hai thế mạnh của địa phương (làm cây giống

và trồng cây ăn trái). Với nghề làm cây giống, nhiều gia đình đã có cuộc sống vật

chất đầy đủ, đời sống tinh thần phong phú. Nhiều gia đình xây nhà tường, lợp ngói

khang trang, tiện nghi tương đối đầy đủ.

Công nghiệp

Suốt thời gian thống trị, thực dân Pháp không xây dựng ở Bến Tre một cơ sở

công nghiệp nào đáng kể, kể cả các cơ sở chế biến các sản phẩm từ dừa. Cùi dừa ở

Bến Tre phải đưa lên tiêu thụ ở nhà máy ép dầu của Trương Văn Bền và các Hoa

kiều ở Chợ Lớn.

Đầu thế kỷ XX, tư sản người Việt lập hai nhà máy ép dầu quy mô nhỏ, một ở

cù lao An Hóa, một ở thị xã Bến Tre. Do máy móc cũ kỹ, sản xuất không hiệu quả

nên chỉ trong một thời gian ngắn, cả hai nhà máy đều đóng cửa.

Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bến Tre luôn là chiến trường

nóng bỏng, ác liệt, là “trọng điểm bình định”, vì thế người ta ngại đầu tư vào đây.

Khi chính quyền cách mạng tiếp quản Bến Tre, ngoài một số cơ sở sửa chữa cơ khí

nhỏ của tư nhân và và xưởng sửa chữa xe cơ giới của địch, không có một cơ sở

công nghiệp nào đáng kể.

Sau giải phóng, thực hiện chủ trương hàn gắn vết thương chiến tranh, phục

hồi sản xuất, chính quyền cách mạng đã tiến hành cải tạo, xây dựng các cơ sở sản

xuất công nghiệp phù hợp với tiềm năng của địa phương.

Để có điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, tỉnh đã xây dựng nhà máy phát

điện Diezen để tự lực nguồn điện. Đến năm 1985, công suất đạt 15.000 kw, tăng 9

lần so với năm 1975. Ngành cơ khí đạt 800 tấn sản phẩm mỗi năm. Công nghiệp

chế biến dừa được đặc biệt quan tâm. Tỉnh đã xây dựng một nhà máy làm than thiêu

kết từ gáo dừa, một nhà máy ép dầu dừa, bốn cụm nhà máy chế biến chỉ xơ dừa ở

Mỏ Cày, Châu Thành, Giồng Trôm, Thị xã Bến Tre. Các nhà máy gạch được mở

rộng hoặc xây dựng mới, mỗi năm sản xuất được khoảng 25 triệu viên gạch. Các

huyện ven biển đều có nhà máy đông lạnh, chế biến hải sản xuất khẩu. Đến năm

1985, lực lượng lao động trong ngành công nghiệp lên đến 45.000 người, tăng 3,6

lần so với năm 1976 [66, tr.509].

Từ khi có chủ trương đổi mới, công nghiệp Bến Tre có sự vươn lên nhanh

chóng. Tỉnh đã tiến hành sắp xếp, củng cố lại hoạt động sản xuất công nghiệp.

Những xí nghiệp làm ăn thua lỗ bị giải thể, các xí nghiệp quốc doanh được tự chủ

sản xuất kinh doanh, tư nhân được khuyến khích đầu tư sản sản xuất. Trên cơ sở xác

định được thế mạnh về nguồn nguyên liệu nông, lâm, thủy sản, tỉnh đã tập trung đầu

tư cho ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Ba ngành chế biến

chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của ngành chế biến lương thực- thực phẩm đó

là: chế biến thủy sản, chế biến đường, chế biến dừa.

Theo số liệu của Chi Cục Thống kê, năm 2000, phân theo ngành, Bến Tre có

2.293 cơ sở khai thác muối, 2.398 cơ sở sản xuất thực phẩm và đồ uống, 1 cơ sở sản

xuất thuốc lá, 974 cơ sở sản xuất trang phục, 21 cơ sở sản xuất sản phẩm bằng da và

giả da, 1.597 cơ sở sản xuất gỗ, 93 cơ sở sản xuất hóa chất, 48 cơ sở sản xuất

phương tiện vận tải, 1 cơ sở sản xuất và phân phối điện, gas, 1 cơ sở sản xuất và

phân phối nước. Có 1 cơ sở sản xuất có vốn đầu nước ngoài, chiếm 0,07% tổng giá

trị sản xuất. Tổng số lao động công nghiệp là 32.546 [13, tr.105-107]. Trong cơ cấu

kinh tế, tổng sản phẩm công nghiệp chiếm 12,09% (tăng 0,67% so với năm 1995),

trong khi nông nghiệp chiếm 67,67%, dịch vụ chiếm 20,23%.

Nhìn chung, sản xuất công nghiệp của Bến Tre có trình độ phát triển còn ở

mức rất thấp, quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị công nghệ lạc hậu. Giá

trị sản phẩm công nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản phẩm của Tỉnh.

Các cơ sở công nghiệp phân bố không đồng đều, tập trung nhiều ở Thị xã Bến Tre

(cụm Phú Hưng, Phú Khương,…), Châu Thành (Tân Thạch, An Hiệp,…), Mỏ Cày

(Đa Phước Hội, Định Thuỷ, Phước Hiệp,…). Các huyện ven biển do cơ sở hạ tầng

yếu kém nên phần lớn chỉ có các cơ sở qui mô nhỏ.

* Hoạt động thương nghiệp

Bến Tre nằm ở cuối các sông lớn, giáp biển, lại án ngữ đường giao thông

thuỷ giữa miền Tây và miền Đông, do vậy rất có ưu thế về mặt giao thương. Với đất

đai trù phú, dân cư khá đông, Bến Tre có khả năng cung cấp cho thị trường nhiều

sản phẩm như lúa, dừa, cau, tôm cá,… Lụa Ba Tri một thời cũng là mặt hàng khá

nổi tiếng. Do nghề làm vườn phát triển, việc buôn bán trái cây cũng khá thịnh.

Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, bộ mặt kinh tế – xã hội vùng đất Gia

Định có những thay đổi lớn. Diện tích canh tác được mở rộng, nông sản khá dồi

dào. Lúa gạo trở thành nông sản hàng hoá quan trọng.

Lê Quí Đôn, trong Phủ biên tạp lục, đã ghi lại lời của một lái buôn như sau:

“trên thì có cửa biển Cần Giờ, ở giữa thì vào cửa biển Soài Rạp, dưới thì vào Cửa

Đại, Cửa Tiểu. Đến chỗ nào cũng có thuyền buồm tụ họp, mặc cả thành giá thì

người bán hàng tự sai người nhà khuân hàng xuống thuyền (…). Giá thóc rẻ, chưa

nơi nào được như thế. Gạo nếp gạo tẻ đều trắng dẻo, tôm cá rất to, béo ăn không

hết. Dân địa phương thường nấu qua rồi phơi khô để bán” [21, tr.124]. Trong số

những vùng đất mà Lê Quý Đôn đề cập có khu vực Cửa Đại, Cửa Tiểu, thuộc khu

vực của Bến Tre. Cuối thế kỷ XVIII, kinh tế vùng này tương đối phát triển, hoạt

động buôn bán khá nhộn nhịp.

Dựng đình, lập chợ là biểu hiện của tình hình cuộc sống tạm ổn. Đình làng là

nơi đáp ứng nhu cầu về tâm linh. Chợ là nơi phục vụ các nhu cầu thực tế về mặt vật

chất của con người. Chợ được hình thành ở trung tâm những khu đông dân cư,

những địa điểm tiện đường đi lại. Ở vùng sông nước, chợ thường được lập ở các

bến sông, đầu vàm. Khi đường bộ phát triển, một số chợ hình thành trên các trục

đường bộ, thường là ở những ngã ba, ngã tư.

Trịnh Hoài Đức đã mô tả tình hình kinh tế và hoạt động buôn bán ở một số

chợ trong vùng Bến Tre như sau: “Huyện Tân An là huyện bận rộn, vất vả, lỵ sở ở

đất thôn Phúc Hạnh xứ Ba Việt cách trấn thự về phía đông 121 dặm. Ở ngay bờ

sông có chợ Ba Việt, nhà cửa trù mật, quy chế cùng giống như các huyện trấn Phiên

An” [22, tr.199]. Các chợ nằm cạnh sông Mỹ Luông: “chợ Trúc Tân, nhà xóm đông

đúc… chợ Mỹ Lung phố xá liền nhau, buôn bán tấp nập, vườn cau như rừng, quả

trái sai to, nên có tiếng là cau Mỹ Lung” [22, tr.53].

Về các mặt hàng buôn bán, Sơn Nam trong Đồng bằng sông Cửu Long, nét

sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, đã dẫn ra một vài ghi chép của Baurac sau khi

viếng vài tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cuối thế kỷ XIX: “nguồn lợi lớn nhất của

Bến Tre là dừa, tơ lụa, trầu cau”, “tại Ba Tri, có dệt tơ lụa, chợ Ba Tri khá đông”,

“Cái Mơn, quê hương của ông Trương Vĩnh Ký – nhau rún của miệt vườn – gồm

7.000 dân đinh, nơi đây trồng dừa, măng cụt, cây ca cao, cà phê. Nguồn lợi chánh

của vùng Cái Mơn là nghề rang trầu. Trầu rang ở Cái Mơn bán qua Trà Vinh, Sóc

Trăng (người Miên thích ăn trầu rang)” [49, tr.294].

Cho đến đầu thế kỷ XX, lúa gạo vẫn đứng đầu danh mục hàng bán ra khỏi

tỉnh. Theo ghi chép của người Pháp trong Địa phương chí (1930): “nền thương mại

rất là sung túc. Việc buôn bán lớn là lúa gạo và dừa khô trong tỉnh để xuất khẩu mà

hầu hết đều thuộc về tay người Hoa Kiều. Cũng như những loại sản phẩm thứ yếu

xuất khẩu cần nêu ra như cá khô, tôm khô và trứng đều do Hoa kiều làm cả” [46,

tr.52]. Hoa kiều giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại ở Bến Tre. Hầu

như nơi nào có chợ, nơi đó đều có các hiệu buôn, những vựa hàng của Hoa kiều.

Do dân số gia tăng và nhu cầu phát triển kinh tế, số lượng chợ ngày một

tăng. Theo thống kê của chính quyền thực dân, ở Bến Tre, năm 1892 có 14 chợ,

năm 1945 có 51 chợ [62, tr.166]. Bên canh các chợ lớn còn có những “chợ chồm

hổm”, đây là loại chợ tạm, xuất hiện trên cạnh các trục lộ, bến xe, bến tàu, chợ đông

nhanh và tan cũng nhanh. Nhiều chợ lớn được hình thành trên cơ sở các “chợ chồm

hổm” này.

Ở Bến Tre có một chợ thuộc loại “độc nhất vô nhị của đồng bằng sông Cửu

Long, và cũng có lẽ trong cả nước”[66, tr.590], đó là chợ chanh Lương Quới, nằm

cạnh trục lộ Giồng Trôm – Thị xã Bến Tre. Đây là chợ chuyên mua bán chanh. Chợ

họp theo con nước, hoạt động cả ngày lẫn đêm. Mỗi khi nước lên, ghe thuyền ở các

vùng lân cận theo rạch Cầu Đúc vào đến tận chợ. Ngoài hoạt động mua bán chanh,

nhiều dịch vụ khác cũng xuất hiện theo như ăn uống, bốc xếp, đóng gói, vận

chuyển, cung cấp phân bón… Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chợ chanh Lương

Quới đã trở thành chợ đầu mối nông sản lớn của tỉnh.

Trước giải phóng, ngành thương mại ở Bến Tre hoạt động theo quy luật tự

do cạnh tranh. Mười năm đầu sau giải phóng, theo cơ chế tập trung quan liêu bao

cấp, nhà nước nắm độc quyền về thương mại, kể cả những mặt hàng nhỏ nhất như

cây kim, sợi chỉ.

Từ năm 1986, thực hiện chủ trương đổi mới, hoạt động thương mại có nhiều

chuyển biến tích cực, góp phần kích thích sản xuất, phục vụ tốt hơn nhu cầu của

người dân. Nhiều thành phần kinh tế được tham gia cạnh tranh trên thị trường, hàng

hóa ngày càng phong phú. Chủ trương mở cửa đã tạo điều kiện cho hàng hóa Bến

Tre thâm nhập vào thị trường nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc,

Hàn Quốc, Singapo. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh: dừa trái, cơm dừa

nạo sấy, nghêu, tôm, chỉ xơ dừa, trong đó, hàng thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Hàng nhập khẩu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng như phân bón, nông ngư cơ, tủ

lạnh, tivi, xe máy… Theo thống kê của ngành thương mại, đến năm 2000, toàn tỉnh

Bến Tre có 143 chợ lớn nhỏ [66, tr.540].

Nhìn chung, từ khi có chủ trương đổi mới, hoạt động thương mại của Bến

Tre có nhiều chuyển biến đáng kể. Với sự cạnh tranh của nhiều thành phần kinh tế,

thị trường Bến Tre trở nên sôi động hơn. Hoạt động thương mại đã đóng vai trò

quan trọng trong việc phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nhân dân, góp phần đáng kể

trong việc kích thích, nâng cao đời sống nhân dân.

Điểm nổi bật trong hoạt động buôn bán ở Bến Tre là sự phát triển của nghề

thương hồ. Bến Tre là vùng sông nước, bằng ghe thuyền có thể đi đến được nhiều

nơi. Để đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của một bộ phận lớn dân cư sống dọc

theo sông rạch, nghề thương hồ đã ra đời và phát triển. Đây là điểm nổi bật trong

hoạt động buôn bán ở Bến Tre. Theo con nước lớn ròng, ghe thuyền của thương

nhân đến tận nhà của người dân để trao đổi hàng hóa. Họ mua lúa, mía, dừa, trái

cây…, bán giường, tủ, bàn, ghế, lương thực, thực phẩm, gia vị.

Đến với vùng đất Bến Tre, lưu dân đã biết thích ứng, tận dụng, khai thác

thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Bằng kinh nghiệm sản xuất mang

theo từ quê cũ, qua quá trình cộng cư, giao lưu tiếp xúc với các tộc người trên vùng

đất mới, cư dân Bến Tre đã có cách ứng xử phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây,

tạo ra nét văn hoá trong sinh hoạt kinh tế. Các tập quán canh tác từ quê cũ tiếp tục

được vận dụng trên vùng đất mới, song nó được bổ sung thêm nhiều nét mới trong

điều kiện thiên nhiên mới.

Trên bức tranh trồng lúa ở Bến Tre, ngoài những đường nét quen thuộc là

tập quán, kinh nghiệm trồng lúa có từ ngàn đời của người Việt còn xuất hiện thêm

chiếc phảng phát cỏ có nguồn gốc từ người Khơme ở những mảnh ruộng bùn sâu,

giống lúa được bổ sung những giống thích hợp với thổ nhưỡng đã được người

Khơme chọn lọc. Cuối thế kỷ XX, bức tranh trồng lúa còn được bổ sung những công

trình thuỷ lợi được xếp hạng lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, đó là đê

ngăn mặn ven sông Hàm Luông, cống đập Ba Lai, chặn dòng Ba Lai để trữ nước

ngọt.

Trên đất giồng, lưu dân đã biết vận dụng kinh nghiệm của cư dân miền gò,

đồi để phát triển việc trồng hoa màu, cung cấp thêm chất bột, rau xanh, gia vị cho

bữa ăn của người dân. Từ đất giồng, người Bến Tre đã tạo ra những sản phẩm nổi

tiếng như thuốc lá giồng Mỏ Cày, dưa hấu Cửa Đại, tơ tằm Ba Tri.

Nếu như vườn của người Việt ở đồng bằng sông Hồng là thành tố phụ trong

đời sống kinh tế gia đình, cùng với ruộng bảo đảm sự tồn tại của chính họ, phản

ánh đặc điểm của nền kinh tế tự túc tự cấp thì vườn ở xứ cù lao có vị trí hoàn toàn

khác. Vườn ở Bến Tre là những vùng rộng lớn, nơi người dân chuyên sống bằng

nghề vườn. Trồng cây ăn trái trên đất vườn trở thành một ngành kinh tế mà lợi

nhuận mang về cao gấp nhiều lần so với việc trồng lúa.

Nhờ vị trí giáp với Biển Đông, nguồn lợi thuỷ sản ở Bến Tre có thêm nguồn

lợi khá phong phú từ biển. Người Bến Tre đã biết tận dụng, khai thác nguồn lợi quý

giá này. Khai thác thuỷ sản là nguồn sống chủ yếu của một bộ cư dân, đặc biệt là

cư dân ven biển Bến Tre. Để khai thác có hiệu quả nguồn lợi này, bên cạnh các

dụng cụ đánh bắt truyền thống như chài, lưới, đóng đáy, người ta còn học cách

đánh bắt của người Khơme trong việc sử dụng cái lọp, cây xà búp, cách xom rắn,

bắt lươn… Không chỉ có khai thác, cư dân ven biển Bến Tre còn biết nuôi thuỷ sản.

Nguồn lâm sản ở Bến Tre khá phong phú. Người ta khai thác gỗ để làm nhà,

làm củi. Tre trúc, tầm vông được dùng làm nguyên liệu cho nghề đan lát.

Sự phát triển của các hoạt động thủ công đã dẫn đến sự xuất hiện các làng

nghề, với những sản phẩm khá nổi tiếng như làng nghề nấu rượu, đan lát ở Phú Lễ

(Ba Tri), làng nghề sản xuất cây giống ở Vĩnh Thành (Chợ Lách)… Nhiều sản phẩm

thủ công đã đi vào tục ngữ, phương ngôn như “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng

Sơn Đốc”, “muối hột cầu Ngang”, có sản phẩm còn lưu lại dấu tích ở một số địa

danh như “Xóm Cối”, “Cái Cối”, có những đặc sản nhiều năm liền được bầu chọn

là “Hàng Việt Nam chất lượng cao” như kẹo dừa Thanh Long, kẹo dừa Bến Tre…

Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp đã thúc đẩy việc buôn bán

phát triển. Nét đặc trưng trong hoạt động buôn bán ở Bến Tre là chợ mọc lên cạnh

bến, ven sông; ghe thuyền đi lại buôn bán trên sông theo con nước.

2.2.2. Cách ăn uống, trang phục, nhà ở, đường sá và phương tiện đi lại

Cách ăn uống

Đề cập đến sản vật và cách ăn uống ở vùng Gia Định, trong đó có Bến Tre,

Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định Thành thông chí: “thóc gạo thừa thãi, hàng năm

không mất mùa đói kém”, “ngày ăn ba bữa đều ăn cơm cả, cháo gạo cũng ít ăn”,

[22, tr.155].

Trong các thế kỉ XVIII – XIX, Bến Tre là một trong những vùng lúa gạo nổi

tiếng của đất Gia Định, với nhiều thứ gạo tẻ, gạo nếp dẻo, thơm ngon. Đến cuối thế

kỉ XX, lúa gạo vẫn còn thừa so với nhu cầu của tỉnh. Ngoài việc nấu gạo, nếp thành

cơm, xôi, người dân ở đây còn chế biến bột gạo, bột nếp thành nhiều thứ bánh, bún,

Thiên nhiên ban cho Bến Tre một kho dự trữ dồi dào về chất đạm, nhất là từ mì.

tôm cá, nghêu sò. Theo lời kể của các cụ già, cho đến những năm đầu sau giải

phóng, đồng ruộng Bến Tre còn chứa một lượng thủy sản nhiều vô kể, với các loại

như cá lóc, cá rô, cá trê, cá sặc, cá chạch, lươn, tép, cua đồng, ếch nhái…, đặc biệt

là ở những cánh đồng trũng như Lạc Địa (Ba Tri). Những năm mất mùa, nhiều nhà

đã “ăn cá trừ cơm”. Gần đây, do dân số tăng nhanh, diện tích ao đầm bị thu hẹp,

cách đánh bắt vô tổ chức, phân bón và thuốc hóa học làm ô nhiễm môi trường,

nguồn thực phẩm này bị cạn kiệt nghiêm trọng. Cá sông có nhiều loại ngon và sản

lượng tương đối lớn như: thác lác, chẻm, úc, bống tượng, tra… Biển Bến Tre hàng

năm cung cấp hàng vạn tấn tôm cá, phục vụ bữa ăn của người dân, còn thừa để xuất

khẩu. Ven bãi, dưới các tán rừng ngập mặn cung cấp các loại còng, cua, ba khía,

nghêu sò, cá bống, cá kèo…

Từ các loại thủy sản tươi sống, người ta chế biến thành nhiều món mặn. Cá

thường được kho, chiên, chưng, nấu ngót. Món cá “kho tộ” , kho trong tộ hoặc nồi

đất, rất được ưa thích. Tôm, tép, ngoài món rang còn được luộc ăn với bánh tráng

chấm mắm nêm. Cá lóc nướng trui là món dân dã nhưng rất ngon. Cá được chọn

nướng trui thường là những con cá lóc to béo. Người ta dùng thanh tre hay cây sậy

đâm từ miệng cá đến tận phía đuôi rồi cắm một đầu thanh tre (hay sậy) xuống đất,

dùng rơm, rạ, cỏ khô chất lên đốt cháy. Sau khi thui chín, người ta bóc lớp vỏ cháy

sém bên ngoài. Cá nướng trui thường được ăn với bánh tráng, rau sống, nước mắm

chanh ớt.

Trong bữa ăn của người Bến Tre, kèm theo món mặn thường có món canh

rau hoặc rau ăn sống. Miệt vườn, miệt giồng cung cấp rau củ rất dồi dào cho nhu

cầu của người dân. Ở nông thôn, rau quả thường được trồng quanh vườn nhà. Nấu

canh thì có rau ngót, rau mồng tơi, rau dền, bầu, bí, mướp… Ăn sống thì có cải, rau

răm, rau diếp cá, rau húng cây,… Rau mọc rất nhiều ở bờ ao, bờ liếp, ven kênh,

mương, đi một vòng là có rau cho một nồi canh hoặc một rổ rau ăn sống: rau tiêu,

cải trời, rau súng, rau nhút, bông điên điển, lá cách, đọt nhãn lồng… Canh rau đắng

nấu với cá rô đồng là hương vị đồng quê thật khó quên đối với những ai xa quê

hương.

Các món đắng, món chua cũng được người dân ở đây ưa thích. Các món

đắng được làm từ khổ qua, rau đắng, rau má. Món chua thường thấy như tai heo

ngâm dấm, dưa chua, canh chua, các loại trái chua, lá chua. Trong điều kiện môi

trường nóng bức, các món ăn đắng, chua có tác dụng giải nhiệt rất tốt.

Món canh chua có nguồn gốc từ người Khơme, người Việt ở Nam Bộ đã tiếp

nhận và chế biến lại cho phù hợp với khẩu vị của mình. Không nêm cơm mẻ, mắm

Prahóc như người Khơme, người Việt thường dùng lá me, trái me hoặc bần chín (có

rất nhiều ven các bãi bồi ở Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú) để tạo vị chua, nêm nước

mắm, muối và đường. Dân Bến Tre ăn canh chua quanh năm.

Trong Gia Định Thành thông chí, khi đề cập đến tập quán, Trịnh Hoài Đức

cho biết, người Gia Định, trong đó có Bến Tre “thích ăn mắm” [22, tr.147]. Có rất

nhiều loại mắm, được làm bằng nhiều loại thủy sản khác nhau, chẳng hạn như: mắm

tép, mắm cá đồng, mắm cá linh, mắm ba khía… Nhiều loại mắm khá nổi tiếng như

mắm còng Châu Bình, mắm rươi ở Bình Đại. Mắm tép trộn với đu đủ sắp chín xắt

nhỏ, trộn với tỏi ớt là đặc sản của miệt vườn. Có loại ăn sống như mắm nêm, mắm

ruốc, mắm ba khía, mắm tép. Mắm sống thường được ăn với thịt heo luộc. Có loại

mắm chưng lên rồi mới ăn. Người ta cũng thường kho mắm với cá tươi, thịt heo,

đôi khi kho chung với cà tím, ăn với rau sống, bông súng, chuối ghém. Nông dân

còn bỏ dưa vào mắm làm thức ăn dự trữ cho ngày mùa bận rộn.

Món mắm không phải chỉ là món ăn bình dân. Đây còn là món từng được địa

chủ, quan lại phong kiến ưa thích. Khi dịch vụ ăn uống phát triển, món mắm kho trở

thành đặc sản ở nhiều quán ăn, nhà hàng.

Ngoài những món thông dụng, ở Bến Tre còn có một số món ngon, món đặc

sản. Một số món chỉ ngon nhất khi đúng mùa. Cá rô kho tộ ngon nhất ở tháng 9,

tháng 10, khi ấy cá béo do có trứng và ăn được nhiều mồi. Dân gian có câu: “Ếch

tháng ba, gà tháng bảy”. Đầu mùa mưa là thời điểm ếch sắp bắt cặp, rất mập và

mềm xương. Đây là lúc làm các món ăn ngon như ếch xào, ếch nấu càri, ếch chiên

bột. Cá cháy chỉ xuất hiện vào mùa gió chướng ở cuối sông Cổ Chiên. Cá cháy kho

hầm hoặc nướng đều là món ngon. Tôm, cua cũng là những loại thực phẩm mang

lại giá trị kinh tế cao cho Bến Tre. Tôm được chế biến rất nhiều món như tôm

nướng than gáo dừa, tôm bóc vỏ kho tàu, tôm quết nhuyễn vò viên nấu cháo, tôm

làm nem, tôm nấu lẩu thái… Cua lột, cua gạch ngon nhất ở tháng 7 đến tháng 9.

Cua lột thuộc loại đặc sản ở các nhà hàng.

Đất Bến Tre thu hút khá nhiều loài chim đến cư trú, sinh sống. Nơi đây hội

tụ hàng chục loài chim trời, cư trú tập trung ở Cồn Đất (cuối dòng Hàm Luông) và

sân chim Vàm Hồ. Vùng đất này cũng là địa bàn cư trú thuận lợi của nhiều loài

chim đồng có thịt ngon như chàng nghịch, cúm núm, cò, diệc, quốc. Được ăn thịt

chim đồng quay hoặc rôti với nước dừa thì quả là khó quên.

Trong số các món ăn ở Bến Tre, có nhiều món thuộc dạng không có trong

“Từ điển món ăn truyền thống Việt” [10, tr.345]. Đuôn dừa, đuôn chà là thuộc dạng

quí hiếm. Đuôn ăn chất bổ của cây nên béo, ngọt và thơm. Đuôn nhúng bột chiên bơ

là món ăn của “dân sành điệu”. Chuột dừa, chuột đồng khìa nước dừa, nướng, xào

lăn thuộc hạng “đặc sản Nam bộ”. Dơi có rất nhiều ở miệt vườn. Huyết dơi thuộc

dạng quý, có tác dụng hạ nhiệt, sáng mắt. Loại bỏ hạch xạ, thịt dơi băm, xào lăn rất

thơm ngon. Mùa mưa, người dân thường bắt cóc để nấu cháo. Thịt cóc được xem là

vị thuốc chống còi xương, hạ nhiệt. Rắn, lươn được nấu cháo đậu xanh hoặc um dừa

cũng thuộc dạng món ăn bổ dưỡng.

Khi có đám tiệc, tùy hoàn cảnh gia đình, qui mô tổ chức ăn uống có khác

nhau. Người Bến Tre, đa phần, nhất là nông dân thường tổ chức ăn uống đơn giản,

miễn sao ấm cúng, vui vẻ. Một bộ phận gia đình khá giả thường lấy đám tiệc làm

dịp để phô trương.

Vào dịp cúng đình, cúng miễu, tùy lễ lớn hay nhỏ, tùy nơi giàu hay nghèo,

tùy năm được hay mất mùa, vật phẩm dâng lễ có khác nhau. Ở lễ cúng lớn, người ta

thường giết heo, đôi khi có cả trâu, bò. Cúng miễu thì thường là mâm xôi và con gà

luộc hoặc lớn hơn là mâm xôi và đầu heo. Ngoài xôi thịt, lễ vật dâng cúng còn có

mâm ngũ quả và các loại bánh làm từ nếp như bánh tét, bánh ít, bánh dừa.

Ngày Tết, dù giàu hay nghèo, người ta cũng chuẩn bị mâm cơm đàng hoàng

hơn thường nhật, với thịt, bánh mứt, trái cây. Nồi thịt kho tàu hầu như nhà nào cũng

có. Thịt được kho bằng nước dừa, chung với cá lóc, trứng vịt. Ngoài ra còn có nồi

khổ qua hầm, dưa giá, dưa kiệu, dưa cổ hủ dừa… Nhiều món ăn ngày Tết có nguồn

gốc từ miền Bắc như chả giò, chả lụa, thịt đông, canh miến, hoặc các món ở miền

Trung như mắm tôm, nem Huế, bánh tráng mè Quảng Nam… Rượu là thức uống

không thể thiếu trong ngày tết cũng như lúc đám tiệc.

Quá trình cộng cư, tiếp xúc giữa các tộc người đã làm cho kỹ thuật nấu

nướng, ăn uống ở Bến Tre, cũng như trong vùng, có nhiều pha trộn theo các kiểu

Hoa, Khơme, Pháp, Ấn Độ, Thái,… Các món ăn của người Việt được bổ sung thêm

nhiều món của nhiều tộc người khác như canh chua của người Khơme, lạp xưởng,

thịt quay, thèo lèo, bánh bao, bánh tiêu, bánh bía của người Hoa, các món jambon,

pâté, rôti, ragu của người Pháp, món càri của người Ấn Độ… Người Việt ở đây đã

biết “Việt hóa” cách chế biến các món ăn đã tiếp thu sao cho phù hợp với cách ăn

của mình. Món ragu gà không chỉ ăn với bánh mì, mà còn được ăn với bún. Thịt

heo quay không chỉ ăn với xì dầu, mà còn ăn với nước mắm chanh ớt. Món cà ri Ấn

Độ được thêm vị béo từ nước cốt dừa.

Đặc điểm ruộng đồng rộng, bờ biển khá dài, nhiều vườn, nhiều sông rạch,

mương ao đã tác động không nhỏ đến bữa ăn và cách chế biến món ăn của người

dân Bến Tre. Lượng trái cây do miệt vườn cung cấp được tiêu thụ tại chỗ với tỉ lệ

rất lớn. Nước dừa là thức uống phổ biến ở Bến Tre. Tập quán sử dụng nước cốt dừa

vốn xuất phát từ người Khơme, đã được người dân Bến Tre tiếp thu để chế biến các

món ăn. Ngoài nguồn chất béo từ mỡ động vật, dầu dừa, nước dừa, cơm dừa thường

có mặt ở nhiều món ăn, nhiều loại chè, bánh. Chất béo từ dừa tham gia vào thành

phần của hơn 50 món ăn mặn ngọt. Đây cũng là một đặc trưng trong việc chế biến

các món ăn ở Bến Tre.

Ăn uống là sản phẩm của việc tận dụng, khai thác môi trường tự nhiên. Bữa

ăn của người Bến Tre vừa mang nét cổ truyền với công thức “cơm – rau – cá”

trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam, vừa mang những nét đặc trưng gắn với

điều kiện tự nhiên của vùng đất.

Sự đa dạng của các sản vật xứ cù lao được phản ánh trong bức tranh ẩm

thực của người Bến Tre. Trong bữa ăn của người dân nơi đây, có khá nhiều tôm cá,

trái cây miệt vườn. Ngoài nguồn chất béo từ động vật, nguồn chất béo từ dừa tham

gia vào nhiều món ăn. Nước dừa là thức uống phổ biến ở Bến Tre. Chim, chuột

đồng, lươn, rắn, đuông… được khai thác để chế biến nhiều món ăn đặc sản.

Bức tranh ẩm thực ở Bến Tre còn phản ánh cội nguồn dân cư và quá trình

giao tiếp văn hoá. Các món ăn truyền thống của các tộc người thường xuất hiện ở

ngày giỗ, ngày tết. Nhiều món ăn vốn có nguồn gốc từ người Khơme, người Hoa,

người Ấn Độ… đã trở thành món ăn phổ biến của các tộc người trên đất Bến Tre.

Trang phục

Buổi đầu đến Nam Bộ để khai hoang, đa số lưu dân là những người thuộc

tầng lớp nghèo. Những ghi chép từ sử cũ cho thấy trang phục của họ còn đơn sơ,

mang dáng vẻ trang phục ở quê cũ. Đề cập đến trang phục của người Gia Định ở

buổi đầu mở đất, trong đó có người Bến Tre, Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định

Thành thông chí: “Các nước kiều ngụ phần nhiều ở xen lẫn với nhau, mà áo mặc đồ

dùng đều nước nào theo lối nước ấy. Duy người Việt ta vẫn theo tục cũ của Giao

Chỉ. Người có quan chức đội mũ Cao Sơn, mặc áo phi phong, đi giầy da còn dân

thường thì húi tóc, đi chân không. Nam nữ đều mặc áo cổ cứng, tay áo ngắn, áo đều

may liền ở hai nách; không có quần dài, quần đùi, đàn ông dùng một đoạn vải quấn

từ lưng xuống đến đít, buộc thắt ở rốn, gọi là cái khố; con gái mặc váy không có lót,

đội cái nón to” [22, tr.143].

Ở thế kỉ XVIII, năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) cho “đổi định

lại y phục, áo của các quan văn võ tham chước của các đời Hán Đường đến Đại

Minh mà chế ra kiểu mới, như phẩm phục của các quan ngày nay mà hội điển đã

ban hành, gồm đủ cả văn chất. Còn áo mặc, nhà ở, đồ dùng của thường dân, đại

lược như thể chế của nước Đại Minh, bỏ hết thói hủ lậu của Bắc Hà, thành một

nước y quan văn hiến vậy” [22, tr.143]. Qui định này xuất phát từ ý muốn tạo nên

sự đối lập với Đàng Ngoài. Theo đó, từ thế kỉ XVIII, bộ thường phục của cả nam

lẫn nữ ở Nam Bộ nói chung, trong đó có Bến Tre đã có sự thay đổi so với trước. Họ

không còn đóng khố, mặc váy, với áo yếm che thân như người ở Đàng Ngoài. Quần

áo thường phục lúc này áo ngắn, quần che kín thân.

Cụ thể hơn, một ghi chép khác cho biết “Vào thế kỉ thứ XVIII, đàn ông chỉ

mặc quần đùi, áo cánh hoặc áo vải bâu, cổ ngắn (theo lối áo quần miền Trung),

nhuộm màu nâu đen bằng vỏ cây đà, cây cóc. Đàn bà cũng mặc áo bâu cổ ngắn,

quần dài, ngực có mang yếm vải. Nam giới thường có mang túi “hổ phệ” ở ngang

lưng. Đó là loại túi bằng vải xếp nhiều lớp, có hai ngăn. Ngăn ngoài có họa tiết,

ngăn trong đựng trầu cau, thuốc hút. Phụ nữ buộc vào lưng một “ruột ngựa” may

bằng vải để đựng trầu cau, thuốc xiết. Có người còn dùng một túi nhỏ kết vào “ruột

ngựa” và lận vào lưng quần. Cả nam lẫn nữ đều đi chân đất” [10, tr.351, 352].

Khoảng thế kỉ XIX, cũng như người Nam Bộ, trang phục của người dân Bến

Tre đã có sự cải tiến quan trọng từ bộ trang phục đơn sơ trước đó thành bộ trang

phục rất thông dụng trong sinh hoạt sau này, đó là bộ quần áo bà ba, gồm một áo

ngắn và một quần dài. Áo cổ tròn, thân phía sau là nguyên một mảnh vải, phía trước

là hai mảnh, được liên kết bằng một giải nút, xẻ tà ngắn ở hai bên. Cả nam lẫn nữ

đều mặc được bộ bà ba.

Về bộ quần áo bà ba, có người cho rằng, dân Nam Bộ đã phỏng theo trang

phục của người Bà Ba - người Mã Lai lai Trung Hoa. Theo Sơn Nam: “chiếc áo bà

ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà

Ba” [49, tr.267].

Đi kèm với bộ bà ba, người Việt lại thích dùng chiếc khăn rằn của người

Khơme. Bộ bà ba dần dần cũng được người Khơme, người Hoa ưa thích, mặc

Nhắc tới đội quân tóc dài những năm chống Mỹ không thể không nhắc đến thường xuyên.

trang phục áo bà ba khăn rằn của họ. Bộ quần áo bà ba, khăn rằn vắt vai hay đội

trên đầu, đội quân tóc dài đã làm cho giặc Mỹ nhiều phen điêu đứng. Áo bà ba

duyên dáng đã đi vào lời ca tiếng hát: “chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm…”

Bộ trang phục này ngày càng trở thành trang phục thông dụng không chỉ ở

Nam Bộ mà còn là của cả nước. Bộ quần áo bà ba phù hợp cho công việc lao động,

cả mặc trong nhà, tiếp khách. Các cụ già thường mặc bộ bà ba trắng trong những

ngày lễ tết, tiếp khách, thay cho áo dài đen khăn đóng. Đến cuối thế kỉ XX, nhiều cụ

già vẫn mặc bộ trang phục này vào ngày Tết Nguyên đán để cúng vái trước bàn thờ

tổ tiên, khi đi dự đám cưới, cúng đình, dự một số ngày lễ do chính quyền địa phương tổ chức.

Từ lúc có người Việt làm công chức cho Pháp, bộ âu phục của đàn ông ở

Bến Tre cũng xuất hiện. Ngoài các trang phục dân tộc, áo dài, khăn đóng, người ta

còn mặc âu phục, quần tây, áo sơmi, áo veston, thắt cravat, đi giày tây, lúc ra

đường, họ thường đội mũ cứng màu trắng. Dưới tác động của phong trào Âu hóa,

Trước 1945, đa số trung nông, tiểu chủ, những người làm nghề tự do, cả địa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhiều người đàn ông đã cắt tóc ngắn.

chủ, thương gia hay tư sản thường sắm cho mình một bộ lễ phục gồm: áo dài bằng

xuyến hoặc lương đen, quần trắng bằng vải hay lụa, khăn đóng. Khác nhau trong bộ

lễ phục của các tầng lớp là ở chỗ may bằng vải rẻ tiền hay đắt tiền. Lễ phục được

mặc trong các dịp “quan, hôn, tang, tế”. Các bức ảnh của Thái Hữu Kiểm (“ông già

Ba Tri”), Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vinh… cho thấy họ đều mặc bộ lễ phục

này. Đó cũng là bộ trang phục làm việc của các thầy đồ, thầy thuốc bắc, một số giáo

viên.

Những năm giữa thế kỉ XX, phụ nữ Bến Tre thường mặc áo dài trong dịp lễ

tết. Những người trẻ tuổi thường mặc áo dài trắng hoặc màu. Hầu như ai cũng có

một chiếc áo dài lụa Ba Tri. Người có tiền thì sắm áo nhung đen hoặc xanh nước

biển.

Về màu áo, lúc chưa có thuốc nhuộm, người ta dùng là bàng, vỏ trâm bầu, vỏ

sú vẹt… để nhuộm áo. Khi có vải nhập cảng, người ta thường chọn các màu sậm để

may trang phục, bởi màu này phù hợp với điều kiện lao động, đi lại nơi sông rạch,

bùn lầy. Những năm gần đây, không chỉ có ở đô thị, cả phụ nữ ở nông thôn cũng có

sự chọn lựa rất phong phú về màu sắc trang phục. Ngoài màu sẫm, áo quần còn có

nhiều màu sặc sỡ khác như xanh, đỏ, vàng, tím… Song, phụ nữ nông thôn mặc quần

đen là chủ yếu. Màu đen là màu phù hợp với điều kiện lao động bùn lầy, phèn mặn.

Nam thanh niên thường mặc áo sơmi, quần tây.

Ngày cưới, trước đây, chú rể thường mặc áo dài đen, đội khăn đóng. Nhà khá

giả thì chú rể có thêm chiếc áo rộng mặc lúc lạy trước bàn thờ ông bà. Nhà trai

thường phải lo trang phục cho cô dâu, thường thì một cặp áo dài màu hồng tươi,

quần lụa trắng, nón lá, khăn đội đầu, đôi bông tai. Những gia đình giàu có thì nữ

trang cho cô dâu phong phú hơn, ngoài đôi bông tai còn có nhẫn hột xoàn, kiềng

vàng, dây chuyền vàng, vòng ngọc thạch…

Đối với người Hoa, trong ngày cưới, trang phục cổ truyền của chú rể là bộ

xiêm, áo bằng gấm xanh. Áo dài có cổ cao, tay dài và rộng, có hàng cúc ở sườn phải

hoặc ở giữa, có thêu hình rồng, chữ thọ hoặc chữ phúc. Chú rể đội mũ quả bí hoặc

mũ dưa hấu màu xanh đậm. Trang phục của cô dâu người Hoa gồm có chiếc xiêm

bằng gấm thêu, dài chấm gót, màu đỏ, thêu hình phụng và chiếc áo ngắn bằng gấm,

cổ đứng, xẻ giữa, với hàng nút thắt to. Mũ cưới của cô dâu màu đỏ, có thêu hình

chim phượng, trước mũ có tấm rèm thưa bằng hạt châu để che mặt.

Trang phục cổ truyền của chú rể người Khơme là chiếc sampốt hôl màu sậm,

có hoa văn và chiếc áo ngắn màu đỏ hoặc màu trắng, cổ đứng, tay dài, cài 9 cúc ở

giữa. Trang phục của cô dâu gồm có chiếc sampốt bằng kim tuyến hoặc tơ tằm màu

đỏ hoặc màu hồng dài đến cổ chân và chiếc áo tay ngắn. Mũ cưới của cô dâu hình

tháp nhọn ba tầng kết hoa, ngọc trai, hạt cườm lộng lẫy.

Kinh tế thị trường, phim ảnh, sách báo nước ngoài đã tác động không nhỏ

đến một bộ phận dân cư. Một số gia đình giàu lấy đám cưới làm dịp để phô trương,

tổ chức rất xa hoa, lãng phí. Trang phục cho cô dâu, chú rể theo kiểu tân thời, cầu

kỳ, tốn kém. Đáng lưu ý là, bên cạnh hiện tượng đua đòi, nhiều gia đình ở nông

thôn đã tổ chức đám cưới theo nếp sống văn hóa mới, đơn giản, gọn nhẹ nhưng vẫn

mang đầy ý nghĩa.

Khi có tang, theo tập tục cổ truyền, người ta thường mặc trang phục màu

trắng, vải thô, thưa. Suốt thời gian chịu tang, người trong gia đình thường mặc áo

dài thường và quần bằng vải thô. Nam đầu đội mũ rơm, tay chống gậy, nữ đầu đội

mũ mấn. Trang phục tang lễ ở Bến Tre nhìn chung không khác so với các nơi trong

vùng. Cho đến những năm cuối thế kỉ XX, chỉ còn một số ít nhà còn giữ phong tục

cũ về trang phục tang lễ, phần lớn nhân dân đã thay đổi sao cho gọn hơn nhưng vẫn

đảm bảo ý nghĩa tỏ lòng tiếc thương, quý mến người quá cố.

Ngày Tết Nguyên đán, từ già đến trẻ đều mặc trang phục sạch đẹp, tươm tất.

Trẻ con thường được cha mẹ sắm cho những bộ quần áo mới. Những năm gần đây,

trang phục áo dài, khăn đóng của các cụ dần dần được thay bằng các bộ âu phục

gọn gàng hơn. Nữ thanh niên thích bộ âu phục hơn là áo dài, bởi nó gọn gàng, tiện

lợi mà vẫn giữ được nét duyên dáng.

Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng (1975), đặc biệt là khi có chủ

trương đổi mới (1986), khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ở Bến Tre nhanh

chóng được rút ngắn. Khoảng cách ăn mặc giữa nông thôn và đô thị không còn quá

xa như trước. Cảnh người nông dân không đủ tiền mua vải, phải ở trần, mặc chiếc

quần đùi bằng bố tời vào những năm 1960, 1970 không còn nữa. Hiện thực tương

đối ổn định về kinh tế, nếp sống văn minh, hiện đại đã thể hiện một phần trong cách

ăn mặc của các tầng lớp. Hình ảnh các cô cậu học trò với áo sơmi trắng, quần xanh,

áo dài quần đen, thiếu nữ miệt vườn trong bộ bà ba bóng mượt, nón lá che nghiêng,

trên chiếc xuồng đầy ắp trái cây đang xuôi theo dòng nước, nam nữ với trang phục

sạch đẹp, đủ kiểu, đủ màu sắc trên đường quê xanh ngát bóng dừa là hiện thực phổ

biến ở Bến Tre cuối thế kỉ XX.

Trong ba thế kỉ (XVII – XX), trang phục của người Bến Tre trải qua nhiều

lần thay đổi, biến cải dưới tác động tình hình chính trị – xã hội và quá trình cộng

cư, giao tiếp văn hoá. Từ chỗ đóng khố, mặc váy, với áo yếm che thân như người ở

Việt ở miền Bắc ở buổi đầu đi mở đất, đổi thành áo ngắn, quần che kín thân từ thế

kỉ XVIII. Đến thế kỉ XIX, bộ trang phục bà ba xuất hiện và nhanh chóng trở thành

phổ biến. Từ thời Pháp thuộc, trang phục của người dân nơi đây từ chỗ được bổ

sung thêm những bộ Âu phục, phát triển thành xu hướng Âu hoá trong trang phục.

Trong quá trình cộng cư, giao tiếp, mỗi tộc người đều giữ những nét truyền

thống trong trang phục, nhưng cũng có những bộ trang phục dần dần trở thành của

cả ba tộc người. Bộ quần áo bà ba, chiếc nón lá không chỉ là trang phục hàng ngày

của người Việt mà cả người Khơme và người Hoa cũng sử dụng phổ biến. Xu

hướng Âu hóa thể hiện khá rõ trong trang phục của các tộc người, nhất là ở bộ

phận thanh niên. Trong sinh hoạt hàng ngày lẫn trong các dịp lễ tết, người ta

thường mặc bộ quần tây, áo sơmi.

Bức tranh trang phục của người Bến Tre phản ánh tính cách, lối sống và một

phần đời sống xã hội của người dân nơi đây. Với đa số nông dân Bến Tre chân lấm

tay bùn, trang phục của họ thường đơn giản, ít thay đổi. Với họ màu nâu đen vẫn là

màu được ưa chuộng và dường như suốt bốn thế kỉ chỉ có một lần thay đổi lớn về

kiểu áo, từ áo vải bâu sang bộ trang phục bà ba. Thực tế này phải chăng bắt nguồn

từ sự thích nghi với điều kiện tự nhiên, lối sống đơn giản, không thích cầu kỳ và

cuộc sống còn nhiều khó khăn của người nông dân.

Sự thay đổi, cách tân trong trang phục của người Bến Tre có thể dễ dàng

nhìn thấy ở bộ phận dân cư có điều kiện kinh tế khá giả, thị dân, nhất là trong giới

thanh niên – những người luôn tỏ ra nhanh nhạy với cái mới. Dù có những thay đổi,

biến cải, song cho đến cuối thế kỷ XX, trang phục áo dài truyền thống của người

Việt vẫn còn được lưu giữ trên vùng đất Bến Tre.

Nhà ở

Nhìn một cách chung nhất, cách bố trí nhà ở và khuôn viên tùy thuộc địa thế,

điều kiện kinh tế và sở thích của mỗi người. Dạng bố trí thường gặp nhất ở nông

thôn Bến Tre: cổng – sân – nhà – vườn – ao cá / chuồng trại.

Một thời gian dài, từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XX, do khó khăn của buổi

đầu đi mở đất, dân Nam Bộ nói chung, trong đó có Bến Tre, chủ yếu sống trong các

căn nhà tạm bợ, đơn sơ, bằng cây lá. Cây lá tại chỗ dùng để cất nhà khá phong phú.

Gỗ có nhiều loại như mù u, trâm bầu, tre, dừa, đước, trước đây có cả cổ thụ như

dầu, sao. Dừa nước ở Bến Tre nhiều vô kể. Người ta dùng lá dừa nước để lợp nhà,

làm vách che.

Người dân Bến Tre không nhất nhất phải “xây nhà hướng Nam”. Hướng nhà

ở đây được chọn tuỳ thuộc vào thế đất và quang cảnh xung quanh. Mặt trước của

nhà thường quay về hướng có con lộ, có sông, là những nơi rộn rịp người qua lại.

Hướng ra sông, ngoài mục đích chứng kiến cảnh thuyền ghe nhộn nhịp, còn để đón

gió mang hơi nước mát mẻ từ sông.

Cổng nhà thường được làm bằng gỗ, có khi người ta trồng bông giấy, uốn

thành vòm. Sân nhà dùng để phơi nông phẩm, trồng hoa kiểng, có nhà đặt ở sân một

hòn non bộ, như để lưu giữ một chút gì về non nước cố hương. Một số nhà có bàn

thiên, được dựng chính giữa, sát hàng rào trước nhà. Hàng rào quanh nhà thường

trồng dâm bụt, kim quít, chè tàu, được cắt tỉa bằng phẳng. Hàng rào chủ yếu để làm

đẹp khuôn viên hơn là vì mục đích chống trộm. Vườn được bố trí ở phía sau hoặc ở

hai bên hiên nhà, trồng cây ăn trái, rau củ. Sau nhà là chuồng trại, ao cá. Chuồng

trại thường làm sát ao cá, phân gia súc, gia cầm được dội xuống ao, nuôi cá.

Phần trước của ngôi nhà là hàng ba, có tác dụng chống tạt vào mùa mưa,

giảm oi bức những tháng nắng. Khi có đám tiệc, hàng ba làm nơi đặt vài bàn đãi

khách.

Nhà trên là nơi trang trọng, là bộ mặt của gia đình. Gian giữa thường được

bố trí một bộ trường kỷ, là nơi tiếp khách quí, khách lớn tuổi. Bàn thờ tổ tiên được

đặt ở gian giữa, lùi vào trong. Nhà khá giả thì sắm tủ thờ. Hai gian trái, phải thường

được đặt hai bộ ván gõ nhẵn bóng, dành để cho khách nằm nghỉ, dọn cơm đãi

khách. Phía trong hai gian trái, phải là buồng ngủ và là nơi để đồ đạc. Nhiều nhà

xưa, các cột cái có treo những câu liễn chữ Nho trên các tấm gỗ sơn son hoặc sơn

đen, thếp vàng.

Nhà dưới là không gian sinh hoạt chính của gia đình. Khoảng cách giữa nhà

dưới và nhà trên tùy thuộc kiểu kiến trúc. Hai kiểu nhà khá phổ biến ở Bến Tre là

nhà sắp đọi và nhà chữ đinh. Theo kiểu sắp đọi, nhà dưới được cất nối liền mái với

nhà trên. Theo kiểu nhà chữ đinh, nhà dưới được cất ngang bằng với nhà trên. Theo

kiểu chữ công (không phổ biến), nhà dưới cách nhà trên bằng một khoảng sân rộng,

được nối với nhau bằng một nhà cầu dài.

Ở nhà dưới, người ta bố trí bàn ăn, giường ngủ, bếp, góc để bồ lúa; nhiều nhà

dành một khoảng không gian cho hoạt động sản xuất thủ công (đan lát, dệt, làm

bánh…). Diện tích nhà dưới rộng hẹp tùy thuộc điều kiện kinh tế, và lượng nhân

khẩu.

Nhà của người nghèo hầu hết đơn sơ, nhỏ hẹp, chủ yếu bằng cây lá. Chủ

nhân các ngôi nhà thường là các cặp vợ chồng mới ra riêng, lao động nghèo hoặc

những người không nơi nương tựa. Nhà gồm hai gian hai chái hoặc một gian một

chái, thường không có sân hoặc sân nhỏ. Có khi nhà được cất sát mé sông, người ta

làm cầu nước bằng gỗ ngoi ra sông, làm nơi rửa ráy. Cửa, vách được làm bằng lá,

kẹp nẹp tre. Vật dụng trong nhà không nhiều, bày biện đơn giản.

Những năm gần đây, thực hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, lá lành

đùm lá rách, lãnh đạo địa phương vận động nhân dân và các nhà hảo tâm xây nhà

tình nghĩa cho những hộ có công với cách mạng, xây nhà tình thương cho hộ nghèo.

Nhà thuộc dạng này được xây dựng khá kiên cố, không rộng lắm nhưng đủ chỗ ăn

ở, sinh hoạt cho từ 2 – 4 người.

Nhà của trung nông, của những người có thu nhập tương đối khá, thuộc dạng

kiên cố hoặc bán kiên cố. Cột, kèo được làm bằng gỗ tốt, cột kê, lợp tôn, lá, vách

ván, rộng rãi, chắc chắn. Sau 1975, nhờ làm ăn giỏi, nhiều người đã xây được nhà

nhà ngói, nhà tường, nhiều nhà xây theo kiểu hiện đại, nhiều tầng, đắt tiền.

Nhà của người giàu có thường được xây cất ở khu đất rộng, đẹp, tiện lợi về

giao thông cả thủy lẫn bộ. Chủ nhân của nó là những người có thế lực kinh tế, chính

trị. Nhà thuộc dạng này được gọi là “nhà cao cửa rộng”, làm bằng gỗ tốt, lợp ngói,

trang trí tỉ mỉ. Có thể chia nhà của lớp người giàu có thành hai loại. Loại thứ nhất

của địa chủ, quan lại, những người nặng óc phong kiến. Loại thứ hai của những

người có quan hệ với thực dân, chịu ảnh hưởng của văn minh phương tây.

Loại thứ nhất thường được gọi là “nhà xưa”. Nhà thuộc loại này gồm ba

gian, hai chái, nhiều cột, ít cửa, lợp ngói âm dương, giống như kiến trúc đình làng,

chỉ khác là không có nhà võ ca và bàn hương án.

Loại thứ hai xây theo kiểu kiến trúc hiện đại. Vật liệu là bê tông cốt thép,

tường dày, lợp ngói tây. Nền nhà cao, bao bọc nền nhà là đá xanh. Sàn lát đá hoa.

Nhà được chia thành nhiều phòng. Nhiều nhà xây 2-3 tầng.

Người Khơme ở Bến Tre không nhiều, họ sống rải rác một vài nơi như Mỹ

Lồng (Giồng Trôm), Thom (Mỏ Cày), Giồng Miễu (Thạnh Phú). Họ thường cất nhà

trên các giồng đất, gò đất cao; nhà chủ yếu bằng tre, lá, đơn sơ. Loại hình nhà ở cổ

xưa của người Khơme là nhà sàn. Nhà sàn có ưu điểm là là mát mẻ, thoáng đãng,

tránh được côn trùng, thú dữ. Vật liệu làm nhà là cây lá sẵn có ở địa phương. Nếu

như người Khơme ở Campuchia dùng lá thốt nốt để lợp nhà thì người Khơme ở Bến

Tre chủ yếu sử dụng lá dừa nước để lợp mái, làm vách.

Đất Bến Tre cũng là nơi được một bộ phận người Hoa chọn làm nơi sinh

sống từ nửa cuối thế kỉ XVIII. Về cơ bản, trên đất Bến Tre, nhà của người Hoa

không khác nhà của người Việt. Người Hoa ở Bến Tre hầu hết sống ở thị xã, thị

trấn, chuyên nghề buôn bán hoặc làm các sản phẩm thủ công. Những ngôi nhà cổ

xưa của người hoa thường là nhà sắp đọi, ba gian hoặc ba gian hai chái, lợp ngói âm

dương, lót gạch tàu. Trước nhà thường có những tờ giấy đỏ viết chữ Hán. Ở những

dãy phố đông đúc, người Hoa thường sống trong các căn nhà trệt một gian, một trệt

một lầu hoặc nhà trệt có gác. Phần trệt dùng để buôn bán, phần lầu mới dùng để ở.

Trong nhà, ngoài việc bố trí nơi thờ cúng như người Việt, người Hoa thường dành

chỗ để thờ thần thánh có nguồn gốc từ bản xứ của họ.

Thời gian và chiến tranh ác liệt đã phá hủy khá nhiều “nhà xưa”, nhà mang

dấu ấn “khai hóa” của bọn thực dân. Những năm gần đây, nhà bằng cây lá ngày

càng thưa dần. Thay vào đó là nhà được làm bằng bê tông cốt thép, rắn chắc mang

kiểu dáng kiến trúc hiện đại.

Bức tranh nhà ở của người dân Bến Tre gắn liền với thiên nhiên sông nước

Người ta thường làm nhà chạy dài theo bờ sông, bờ rạch. Mọi sinh hoạt của người

dân từ rửa chén, vo gạo đến tắm giặt… đều gắn liền với kênh rạch. Nhà gắn liền

với bến, có bắc cầu thang để buộc ghe xuồng lên xuống, lấy nước sinh hoạt.

Vẫn với lối kiến trúc như nhà ở của người miền Bắc, miền Trung, song việc

xây cất nhà ở của dân Bến Tre có phần đơn giản hơn, nhất là nhà của nông dân. Để

đối phó với bão, nhà ở của người miền Bắc, miền Trung ngoài việc phải làm mái

nặng, còn phải thiết kế hàng cột chống bão. Do ít đối phó với bão nên kỹ thuật xây

cất nhà ở Bến Tre đơn giản hơn. Hàng cột hiên chủ yếu để trang trí. Vách trước

không hoàn toàn cố định mà thường được làm thành tấm, có thể tháo lắp dễ dàng

khi cần thiết. Mái nhà không cần nặng, đa số chỉ lợp bằng lá dừa nước. Vách nhà

cũng được làm bằng lá dừa nước, ít có trường hợp dùng rơm nhồi với đất để làm

vách như ở miền Trung.

Dưới thời phong kiến, quy mô nhà cửa ở miền Bắc, miền Trung tuỳ thuộc địa

vị, chức tước của người chủ. Nhà của dân không được phép xây cất kiểu chữ công,

không được chạm trổ, không được cất to hơn nhà quan… Ở miền Nam, trong đó có

Bến Tre, quy mô nhà cửa phụ thuộc hoàn cảnh kinh tế gia đình, không chịu sự ràng

buộc của những tục lệ phong kiến. Nhà dân vẫn có thể cất kiểu chữ công, bằng vật liệu là gỗ quí, được chạm trổ, cẩn xà cừ…

Bức tranh nhà ở ở Bến Tre phản ánh thực trạng đời sống xã hội, lối sống của

cư dân. Bức tranh nhà ở của nông dân trong vòng bốn thế kỷ chủ yếu vẫn là nhà

đơn sơ, kiểu “nhà đá”, “nhà đạp”. Tập quán sống như vậy phải chăng bắt nguồn từ

thực tế cuộc sống bấp bênh của người nông dân. Rời quê cũ ra đi, lưu dân đã mang

theo tâm thế “chưa hẳn được sống ở ngày mai”. Đến vùng đất mới, họ tiếp tục gặp

phải nạn cường hào. Mảnh đất, ngôi nhà mà họ tạo lập chưa hẳn mãi là của họ. Do

vậy, nhà ở chỉ cần tạm bợ, không chịu nổi cảnh áp bức thì phá bỏ, đi tìm nơi ở

khác.

Quá trình cộng cư đã tạo ra sự giao tiếp văn hoá trong kỹ thuật xây cất nhà

ở. Cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều sử dụng lá dừa nước để lợp nhà,

làm vách nhà. Lá dừa nước được sử dụng dưới ba dạng là lá tàu, lá xé, lá chằm. Kỹ

thuật chằm lá có nguồn gốc từ người Khơme. Số gian nhà, kích thước đòn tay, đòn

dông, số bậc thang đều là số lẻ, vì người ta cho rằng, số lẻ là số may mắn.

Đường sá và phương tiện đi lại

Theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí: trấn

Vĩnh Thanh - “Thế đất chia xẻ từng mảnh, sông ngòi chằng chịt như mắc cửi, không

có thuyền bè không thể đi được, cho nên ai nấy đều giỏi lội nước” [22, tr.150]

Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long sông nước, địa hình Bến Tre còn

mang đặc trưng là đất cù lao, được bao bọc bởi các sông lớn và biển, bị chia cắt bởi

một hệ thống sông rạch chằng chịt. Ngay từ buổi đầu đặt chân đến vùng đất này, lưu

dân đã phải sử dụng thuyền ghe để đi lại. Trong điều kiện đất đai phần lớn là rừng

hoang vu, nhiều rắn rết, cá sấu, heo rừng, cọp… thì đi lại bằng đường thủy cũng là

tiện lợi, an toàn. Với những người sống ở vùng sông nước, việc đầu tiên của họ là

phải “sắm chiếc xuồng để làm chân” [49, tr.31].

Miêu tả cảnh sinh hoạt đi lại bằng thuyền ghe của dân Gia Định, trong đó có

Bến Tre đầu thế kỉ XIX, Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định thành thông chí: “Ở

Gia Định chỗ nào cũng có thuyền ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để

đi chợ, thăm bà con, chở củi gạo, đi buôn bán lại càng tiện lợi. Thuyền ghe đầy

sông, đi lại đêm ngày, mũi thuyền đuôi thuyền liền nhau” [22, tr.148]. Cảnh “lấy

thuyền làm nhà” đến ngày nay vẫn còn.

Ngay từ thời phong kiến, phương tiện đi lại, chuyên chở trên sông đã khá đa

dạng. Đi lại, chuyên chở nhẹ trên sông có các loại: xuồng, ghe nhỏ, thúng (làm bằng

tre). Phương tiện vận tải thông dụng có nhiều dạng như: ghe cui, ghe lườn, ghe tam

bản, xuồng ba lá, ghe bầu, ghe hàng bổ, ghe chài… Thời kì thực dân Pháp xâm lược

trở về sau mới xuất hiện phà, tàu, ghe chạy bằng máy, bên cạnh xuồng, ghe chạy

bằng buồm hoặc chèo. Vận tải thủy đóng vai trò chính trong việc vận chuyển lúa

gạo, gia súc, gia cầm, cá, dầu dừa, cơm dừa, trái cây từ Bến Tre đến Sài Gòn – Chợ

Lớn và xuất khẩu; đưa hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng về Bến Tre.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, những chiếc xuồng ba lá là

phương tiện liên lạc, đưa đón các chiến sĩ, vận chuyển vũ khí. Bên cạnh đó còn có

xuồng máy, tàu vượt biển. Nằm ở vị trí chiến lược, là đầu cầu của hành lang tiếp tế

trên biển, hàng chi viện của hậu phương miền Bắc đã đến bờ biển Thạnh Phú, từ đó

mà tỏa đi các tuyến khác trên chiến trường miền Nam.

Đường thủy có vai trò quan trọng, song không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu đi

lại, vận chuyển hàng hóa của người dân. Dù vậy, nhưng mở đường bộ không phải là

công việc dễ dàng ở thời phong kiến, với kỹ thuật lạc hậu, kinh tế tự cung tự cấp.

Khó khăn ở đây là khâu vận chuyển vật liệu trong điều kiện lắm sông nhiều đò. Vì

thế, thời phong kiến, đường bộ trên đất cù lao chỉ là những con đường hẹp, nối các

làng với nhau và một số trung tâm hành chính – kinh tế, một số bến đò, bến sông.

Chiếm Bến Tre (1867), thực dân Pháp phải tập trung đối phó với sự chống

đối của nhân dân nên chúng không thể nhanh chóng thực hiện ý định mở đường bộ

để phát huy sức mạnh cơ giới của lực lượng quân sự. Đến 1945, kết thúc thời kì

chiếm đóng của thực dân Pháp, hệ thống đường bộ của Bến Tre chỉ có 400 km

đường trải đá. Đi lại trên các con đường này là những chiếc xe ngựa không mui, xe

kéo vòng quanh khu vực tỉnh lỵ, xe đò chở khách tuyến Sài Gòn – Bến Tre. Ba

mươi năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, kẻ thù cũng không quan tâm đến

việc phát triển đường sá, cả thủy lẫn bộ, ngoại trừ một số cầu quan trọng bắc qua

sông rạch, phục vụ cho xe cơ giới chuyển quân, di chuyển trọng pháo, một số đoạn

đường dẫn đến các đồn bót, sân bay, bến cảng, căn cứ tiếp vận của chúng.

Sau giải phóng, chính quyền địa phương đã rà soát, tổ chức lại hệ thống

đường sá phục vụ cho việc đi lại của nhân dân và tạo điều kiện để phát triển kinh tế.

Đến cuối thế kỉ XX, hệ thống đường bộ ở Bến Tre bao gồm quốc lộ, đường tỉnh,

đường huyện, đường xã, đường ấp và đường nội ô thị xã, có tổng chiều dài 3.890

km. Do nằm trong vùng bồi lắng của phù sa, bị nhiễm mặn nên việc xây dựng và cải

tạo đường giao thông gặp nhiều khó khăn, tuổi thọ các công trình giao thông bằng

sắt thấp. Đường trong tỉnh hầu hết là đá dăm hoặc sỏi đỏ, đường trải nhựa chỉ chiếm

hơn 20%. Trên các trục đường chính, có đến 137 cầu, trong đó cầu bêtông chỉ

chiếm 43%.

Cầu khỉ là hình ảnh khá quen thuộc ở nông thôn Bến Tre. Trong Đồng bằng

sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, Sơn Nam miêu tả: “bờ

sông không đắp đê, lại bị cắt từng chặng ở ngã ba, ngã tư, muốn qua rạch nhỏ thì

sẵn kiểu “cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi”. “Cầu ván đóng đinh” xuất hiện rất trễ

khi thực dân đến (…). Cầu tre, còn gọi cầu khỉ (người qua cầu phải lanh lẹn tay

chân như con khỉ chuyền trên cây) luôn luôn có nhịp giữa với khúc tre rời, đề phòng

trường hợp ghe mui quá cao, hoặc có cột buồm thì giở khúc tre ở giữa lên cao, qua

rồi thì hạ xuống” [49, tr.30].

Dù địa hình bị chia cắt bởi nhiều sông rạch lại xa nguồn vật liệu xây dựng

cầu đường, song với quyết tâm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế địa phương,

trong những năm gần đây, mạng lưới giao thông nông thôn được tăng cường đầu tư.

Phong trào nhà nước và nhân dân cùng làm diễn ra sôi nổi. Đường liên xã, liên ấp

được mở rộng, tôn cao, nối liền các cụm dân cư với trụ sở chính quyền, trường học,

Thế cách trở về địa lý là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho trạm xá, chợ.

Bến Tre chậm phát triển. Do vậy, việc xây cầu nối liền các cù lao, nối Bến Tre với

các tỉnh lân cận luôn là mối quan tâm lớn của chính quyền địa phương và cũng là

khao khát của nhân dân. Chương trình xóa cầu khỉ đã nhận được sự ủng hộ của

đông đảo các nhà hảo tâm và quần chúng nhân dân. Cầu khỉ đong đưa dần dần được

thay thế bởi các cầu bê tông, cầu thép dây văng. Cầu khỉ bây giờ không còn là “cầu

tre lắc lẻo”, tre, dừa, gỗ đã được thay vào đó là bê tông, thép tấm, bảo đảm cho xe

đạp, xe gắn máy, xe ba gác vận chuyển hàng nông sản đi lại dễ dàng. Bộ mặt nông

thôn Bến Tre trở nên nhộn nhịp hơn, không còn heo hút như trước đây. Trên các

trục đường chính, xe đò chở khách, xe tải, xe gắn máy hầu như không lúc nào vắng.

Nếu như đầu thế kỉ XX xe đạp chỉ có vài chiếc ở tỉnh lỵ thì cuối thế kỉ XX hầu như

nhà nào cũng có.

Bức tranh đường sá, phương tiện đi lại ở Bến Tre nổi lên mạng lưới giao

thông thuỷ và phương tiện đi lại bằng ghe xuồng.

Đời sống văn hoá vật chất của người Bến Tre là kết quả của quá trình con

người nơi đây vận dụng những kinh nghiệm, tập quán sống được tích luỹ từ quê cũ

kết hợp với việc tận dụng, khai thác, thích nghi với điều kiện thiên nhiên xứ cù lao,

tiếp thu và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của các tộc người cùng chung

sống và tiếp xúc.

Con người Việt Nam từ xa xưa đã biết thích ứng, tận dụng và khai thác thiên

nhiên để tổ chức cuộc sống. Năng lực ấy đã được tái tạo và sáng tạo trên vùng đất

mới.

Trong sinh hoạt kinh tế, người Bến Tre đã biết cách tận dụng, khai thác phù

hợp với điều kiện sinh thái của vùng đất. Bức tranh sinh hoạt kinh tế của vùng đất

này có thể chia thành ba mảnh với những sinh hoạt đặc trưng, đó là trồng cây trái,

trồng lúa và khai thác nguồn lợi biển.

Tùy theo địa hình, thổ nhưỡng, cư dân Bến Tre có lối canh tác phù hợp. Ở

vùng đất ven sông thường xuyên bị ngập nước cư dân đã đào mương, lên liếp, lập

vườn trồng cây ăn trái. Đây là một sáng tạo của lưu dân trên vùng đất mới.

Trên các giồng đất, người ta đã vận dụng kinh nghiệm trồng trọt của cư dân

miền gò đồi để trồng hoa màu, tạo ra những sản phẩm nổi tiếng như thuốc lá giồng

Mỏ Cày, dưa hấu Cửa Đại, tơ tằm Ba Tri.

Ở vùng đất thấp giữa các con giồng, người ta biết tiếp thu kỹ thuật dùng

chiếc phảng chặt phát cỏ của người Khơme để dọn đất. Sử dụng kinh nghiệm ở quê

cũ, cư dân Bến Tre đã xây dựng hệ thống thủy lợi, cải tạo vùng đất bị phèn, mặn

thành nơi có thể trồng lúa. Ngoài hệ thống kênh mương, Bến Tre còn có những

công trình thuỷ lợi được xếp hạng lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, đó là

đê ngăn mặn ven sông Hàm Luông, cống đập Ba Lai, chặn dòng Ba Lai để trữ nước

ngọt.

Tận dụng, khai thác nguồn lợi thuỷ hải sản phong phú từ đồng ruộng, sông,

biển, cư dân Bến Tre đã biết phát triển nghề đánh bắt cá. Khai thác thuỷ sản là

nguồn sống chủ yếu của một bộ cư dân, đặc biệt là cư dân ven biển Bến Tre. Để

khai thác có hiệu quả nguồn lợi này, bên cạnh các dụng cụ đánh bắt truyền thống

như chài, lưới, đóng đáy, người ta còn học cách đánh bắt của người Khơme trong

việc sử dụng cái lọp, cây xà búp, cách xom rắn, bắt lươn… Không chỉ có khai thác,

cư dân ven biển Bến Tre còn biết nuôi thuỷ sản.

Nguồn lâm sản ở Bến Tre khá phong phú. Người ta khai thác gỗ để làm nhà,

làm củi. Tre trúc, tầm vông được dùng làm nguyên liệu cho nghề đan lát. Sự phát

triển của các hoạt động thủ công đã dẫn đến sự xuất hiện các làng nghề, với những

sản phẩm khá nổi tiếng như làng nghề nấu rượu, đan lát ở Phú Lễ (Ba Tri), làng

nghề sản xuất cây giống ở Vĩnh Thành (Chợ Lách)… Nhiều sản phẩm thủ công đã

đi vào tục ngữ, phương ngôn như “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc”,

“muối hột cầu Ngang”, có sản phẩm còn lưu lại dấu tích ở một số địa danh như

“Xóm Cối”, “Cái Cối”, có những đặc sản nhiều năm liền được bầu chọn là “Hàng

Việt Nam chất lượng cao” như kẹo dừa Thanh Long, kẹo dừa Bến Tre…

Cơ cấu bữa ăn vẫn theo công thức cổ truyền “cơm – rau – cá”, song bữa ăn

của người dân Bến Tre mang đậm dấu ấn của thiên nhiên sông nước với khá nhiều

tôm cá và trái cây miệt vườn. Dừa có mặt ở nhiều món ăn và là loại nước uống đặc

trưng của vùng đất Bến Tre. Ngoài các món truyền thống, qua tiếp xúc, giao lưu với

nhiều tộc người, cư dân Bến Tre còn chế biến được nhiều món ăn mới theo khẩu vị

của mình.

Nhà cửa được dựng lên dọc các bờ sông, các tuyến kênh, thuận tiện cho việc

đi lại, làm ăn và có thể đón gió mát từ sông, kênh. Mọi hoạt động đều gắn với sông

nước. Hoạt động buôn bán cũng được tổ chức trên sông, rạch. Buôn bán trên sông,

sống lênh đênh trên sông, chợ được họp theo con nước.

Bức tranh sinh hoạt vật chất của người dân Bến Tre phản ánh thực trạng đời

sống, tính cách, tâm lý, tập quán sống của người dân nơi đây. Với thành phần dân

cư đa số là nông dân, cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả, bấp bênh, sinh hoạt vật

chất của họ khá giản đơn. Nhà ở được xây cất sơ sài, với cây lá tạm bợ, kiểu “nhà

đạp”, “nhà đá”, không sống được nơi này thì phá bỏ, dọn đi nơi khác Trang phục

của nông dân cũng rất giản đơn với bộ bà ba trong lao động, lúc ở nhà và cả khi đi

dự đám tiệc.

Cuộc sống tuy vẫn còn không ít khó khăn, song vốn xuất thân từ những

người đồng cảnh ngộ nên người ta dễ đồng cảm, chia sẻ, giúp đỡ nhau lúc hoạn

nạn. Vì thế, trong sinh hoạt vật chất, người ta rất hào phóng, thoải mái, mến khách.

2.3. Đời sống tinh thần

2.3.1. Phong tục tập quán

Hôn nhân

Hôn nhân được xem là việc hệ trọng của đời người, là “đại sự”. Trước đây,

cơ sở của hôn nhân không phải là tình yêu tự nguyện, mà là “cha mẹ đặt đâu con

ngồi đấy”. Sự sắp đặt của cha mẹ thường bị chi phối bởi quan niệm “môn đăng hộ

đối”. Theo đó, hai gia đình của đôi trai gái phải tương xứng với nhau về tài sản, uy

quyền, địa vị, danh vọng… Có khi, việc cưới xin được xem như một cuộc đổi chác,

đồng tiền đóng vai trò chi phối cuộc hôn nhân. Thời phong kiến, còn có quan niệm

“trai năm thê bảy thiếp”. Không ít địa chủ, quan lại có hai ba bà vợ, năm bảy nàng

hầu. Sự cưỡng bức, ép duyên đã gây nên nhiều cảnh trớ trêu, dẫn đến sự đổ vỡ hạnh

phúc của nhiều gia đình, nhiều bi kịch thương tâm trong xã hội.

Ở những gia đình giàu có, thuộc dòng dõi khoa bảng, quan lại, lễ cưới

thường được được bày vẽ rườm rà, dựa theo những quy định trong sách Thọ Mai

gia lễ do tiến sĩ Hồ Sĩ Tân (1690-1760), hiệu Thọ Mai, người Nghệ An biên soạn.

Theo đó, từ lúc hỏi đến lúc cưới gồm có 6 lễ, cụ thể là:

1. Lễ nạp thái: Nhà trai và nhà gái trao đổi sự đính ước

2. Lễ vấn danh: Lễ hỏi tên tuổi

3. Lễ nạp cát: Lễ báo chính thức đính hôn

4. Lễ nạp tệ: Nhà trai đưa đồ cưới sang nhà gái

5. Lễ thỉnh kỳ: Lễ xin ngày cưới

6. Lễ thân nghinh: Lễ cưới, nhà trai rước dâu về

Đề cập đến hôn lễ, Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí: “Lễ

hôn tuy có nhờ mối lái mới định, nhưng cốt lấy trầu cau làm trọng mà làm đủ sáu lễ.

Chỉ có nhà sĩ phu mới làm được” [22, tr.142]. Xu hướng chung là giảm bớt những

tục lệ phiền toái. Các cụ già thường quan tâm đến “lục lễ”, nhưng giới bình dân, cả

người Hoa lẫn người Việt ở Bến Tre, ít ai tuân thủ đủ 6 lễ. Thông thường, người ta

chỉ chú ý đến lễ hỏi và lễ cưới.

Lễ vật cũng được đơn giản dần, thường thì chỉ cần trầu cau, hộp trà, cặp

rượu. Lễ hỏi xong, lễ vật thường được mang đi chia cho bà con trong họ, qua đó để

báo tin vui của gia đình.

Theo tục lệ truyền thống, việc xem tuổi tác cho đôi trai gái trước khi cưới hỏi

rất quan trọng. Gia đình đôi bên chỉ chấp nhận tiến hành hôn lễ khi tuổi của đôi trai

gái hợp nhau.

Lễ cưới phải được tiến hành vào “ngày lành tháng tốt”. Bến Tre là vùng sông

nước, đi lại bằng đường bộ khó khăn. Trước đây phương tiện đưa rước dâu chủ yếu

bằng ghe thuyền. Để việc di chuyển tiện lợi, thời điểm đưa rước dâu được chọn gắn

với con nước lớn ròng. Nếu đi nước ngược, ghe thuyền di chuyển rất chậm.

Nhà trai hoặc nhà gái có tang thì không được phép tổ chức lễ cưới. Sau thời

gian để tang một năm trở lên, lễ cưới mới được cử hành. Vì thế, đã nảy sinh tục

“cưới chạy tang”, tức là tổ chức lễ cưới trước khi bắt đầu đám tang để đôi trai gái

khỏi phải đợi chờ. Trong trường hợp này, nghi thức cưới hỏi thường được lượt bớt,

có khi hai ba lễ được nhập lại, tiến hành cùng lúc.

Khách dự lễ cưới có thể chúc mừng đôi vợ chồng trẻ bằng nhiều loại quà, tùy

theo quan niệm của mỗi người. Có người tặng tranh, quần áo hoặc vật dụng trong

gia đình, để khi ra riêng, đôi trai gái đỡ phải mua sắm. Có khi người ta mừng bằng

tiền để đôi trẻ tùy nghi sử dụng. Xu hướng mừng bằng “phong bì” ngày càng thịnh

hành, do nó gọn nhẹ.

Tùy khả năng của mỗi gia đình mà tiệc cưới được tổ chức lớn hay nhỏ,

thường là tiệc mặn. Ở Bến Tre, tiệc cưới thường được tổ chức tại nhà. Thanh niên

trong xóm họp lại, cùng nhau giúp gia chủ che rạp, mượn bàn ghế. Quanh rạp cưới,

người ta thường dùng lá dừa, lá đủng đỉnh (có rất nhiều ở Bến Tre) để trang trí. Ở

nông thôn, đêm trước ngày diễn ra lễ cưới chính thức, người ta thường tổ chức đàn

ca, ăn uống, vui chơi thoải mái.

Sau Cách mạng tháng Tám – 1945, cũng như ở nhiều địa phương trong cả

nước, ở Bến Tre xuất hiện kiểu đám cưới tiến bộ, gọn nhẹ. Hoàn cảnh chiến tranh

không thuận lợi cho việc tổ chức rườm rà. Đám cưới “đời sống mới” đã xuất hiện.

Đám cưới được tổ chức tại nơi đóng quân, trong cơ quan, xí nghiệp. Đơn vị, đoàn

thể, đồng bào đứng ra lo liệu lễ nghi, tiệc tùng cho đôi vợ chồng trẻ. Họ là những

người cùng chiến đấu trên một chiến hào, là anh bộ đội với cô giao liên, là một đôi

trai gái cùng công tác chung ở một đoàn thể, làm chung một xí nghiệp. Lễ nghi, tiệc

tùng rất đơn giản. Có khi chỉ là một cuộc họp đơn vị để lãnh đạo thông báo, tuyên

bố tác hợp cho đôi trai gái, sau đó là một bữa cơm gọi là tiệc mừng đơn giản nhưng

thân mật, nồng ấm nghĩa tình.

Gần đây, Đoàn Thanh niên đã chủ xướng một tục lệ mới, rất có ý nghĩa trong

lễ cưới, đó là viếng nghĩa trang liệt sĩ. Trước khi làm lễ cưới, đôi trai gái ăn mặc

tươm tất, với bó hoa tươi trên tay, đến nghĩa trang liệt sĩ, mặc niệm trước tượng đài

để tỏ lòng biết ơn các thế hệ cha anh đã không tiếc xương máu, hy sinh đời mình để

mang lại cảnh thanh bình, hạnh phúc cho đời sau. Đây là tục lệ được dư luận hoan

nghênh, ủng hộ.

Nhìn chung, nghi lễ trong hôn nhân ở Bến Tre vẫn dựa trên nền tảng của tập

tục hôn nhân cổ truyền. Quan niệm phong kiến lạc hậu, lỗi thời đã chi phối việc hôn

nhân trong một khoảng thời gian dài. Không ít trường hợp bị đỗ vỡ hạnh phúc do

cha mẹ ép duyên. Hiện tại, về cơ bản hôn nhân do đôi trai gái quyết định, song đây

đó vẫn còn trường hợp cha mẹ can thiệp dẫn đến “lỡ duyên”.

So với tập tục hôn nhân cổ truyền, nghi lễ trong hôn nhân ở Bến Tre có phần

đơn giản hơn. Trừ một ít gia đình giàu có, thường đòi hỏi đầy đủ lễ nghi, với đa số

nông dân, người ta chỉ chú ý đến lễ hỏi và lễ cưới, lễ vật cũng đơn giản, có khi chỉ

cần trầu cau, hộp trà, cặp rượu. Tập tục hôn nhân giản đơn như thế có lẽ xuất phát

từ cội nguồn dân cư với đa số là những nông dân lưu tán, cùng chung cảnh khổ nên

người ta dễ cảm thông, không đòi hỏi thủ tục rườm rà.

Việc tang

Quan niệm “sinh là ký, tử là quy” (sống gửi, thác mới thật là về với thế giới

vĩnh viễn, đoàn tụ với tổ tiên) là quan niệm khá phổ biến. Chính bởi suy nghĩ như

vậy nên khi về già, các cụ rất thanh thản chờ ngày nhắm mắt. Có cụ còn sửa soạn

cho ngày chết. Ở những gia đình khá giả, các cụ chuẩn bị cho mình một cỗ áo quan,

bằng gỗ quý, sơn son thiếp vàng. Các cụ còn nhờ thầy địa lý chọn đất để xây kim

tĩnh (huyệt mộ).

Khi trong nhà có tang, người ta thường mời một người cao tuổi trong dòng

họ hoặc trong xóm am hiểu về tang lễ đứng ra điều hành công việc. Những người

trong họ và chòm xóm thường ngưng việc riêng để phụ lo tang lễ.

Khi người thân sắp mất, con cháu thường tụ họp lại để được nghe lời dặn dò

và nhìn mặt lần cuối. Sau khi tắt thở, người chết được tắm rửa, thay quần áo mới.

Người ta thường cho vào miệng người chết mấy hạt gạo, nhà giàu thường bỏ cả

vàng vào miệng người chết. Sau đó, người ta dùng tờ giấy trắng hoặc vuông vải

trắng đắp lên mặt, đơm chén cơm, cắm lên đôi đũa đặt ở đầu giường cùng với quả

trứng luộc, thắp nến, cử người nhà túc trực bên thi thể, chờ lễ nhập quan.

Sau khi nhập quan, người ta bắt đầu lập bàn thờ, cho con cháu mặc tang

phục. Tang phục ngày trước được quy định rất rườm rà, gồm nhiều loại khác nhau,

như áo, mũ, gậy, khăn… Từng loại, lại có kích cỡ, kiểu dáng khác nhau cho từng

đối tượng để tang. Với những gia đình nghèo, tang phục thường chỉ là chiếc khăn

trắng giản đơn.

Linh cữu được đặt ở một trong hai gian nhà trên. Lễ chịu tang được cử hành

trước bàn thờ. Những gia đình khá giả thường thuê ban nhạc lễ phục vụ lễ tang. Sau

lễ chịu tang là lễ phúng viếng. Tùy theo quan hệ giữa người đi viếng với người đã

khuất mà vật phẩm phúng điếu có khác nhau, có khi là bức trướng, có khi là đôi

liễn, câu đối tỏ lòng thương tiếc, cũng có thể là vòng hoa, trà bánh, nhang, nến…

Trước đây, những nhà giàu có thường quàn linh cữu trong nhà nhiều ngày để tổ

chức phúng viếng, tổ chức ăn uống linh đình để thu tiền viếng. Đây là một hủ tục,

ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, cần phải loại bỏ.

Theo quan niệm về phong thủy, việc chọn vị trí huyệt mộ rất quan trọng.

Huyệt mộ làm tổn hại xương cốt sẽ ảnh hưởng xấu đến con cháu. Vị trí được xem là

tốt phải ở những nơi có thể đón được gió lành và “long mạch” để nhận được sự mát

mẻ từ nước ngầm dưới lòng đất. Ở Bến Tre, người chết được chôn rải rác ở nhiều

nơi, người ta không quan tâm nhiều đến quan niệm như trên. Rất nhiều trường hợp

chôn cất người thân trên mảnh ruộng, ngoài khu vườn hoặc ở phía trước, phía sau

nhà. Quy hoạch chôn cất chỉ có ở các nghĩa trang liệt sĩ, không có quy hoạch các

khu nghĩa địa. Việc chôn cất rải rác làm mất đi một phần không nhỏ diện tích canh

tác, ảnh hưởng không tốt đối với nguồn nước ngầm phục vụ sinh hoạt, gây ra nhiều

khó khăn khi thi công các công trình công cộng đi qua các khu mộ.

Khi huyệt được đào xong, lễ động quan, an táng được tiến hành. Trước khi di

quan, có tục hát đưa linh và múa phá quàng.

Ba ngày sau khi chôn, người ta tiến hành lễ mở cửa mả, đắp mộ hoặc làm

nhà mộ. Trong 49 ngày đầu sau khi chết, người nhà thường có tục cúng cơm hàng

ngày. Đúng 49 ngày, người ta làm lễ chung thất. 100 ngày thì làm tuần tốt khốc.

Đối với người Khơme, việc tang được tổ chức đơn giản hơn. Đa số người

chết đều được hỏa táng. Quan tài của người chết thường được quàn trong nhà ba

ngày, rước các nhà sư đến đọc kinh, sau đó mới di chuyển đến lò thiêu. Sau khi

thiêu xong, xương cốt thường được gửi ở chùa. Một trong những người con hoặc

cháu của người chết phải đến tu tại chùa trong một thời gian, để trả ơn cho cha mẹ

hoặc ông bà. Với những người Khơme lai Việt hoặc lai Hoa, trường hợp có đôi trai

gái đã hứa hôn, nếu cha mẹ qua đời, phải để tang một thời gian hoặc là ba năm,

hoặc một năm, cũng có khi là 100 ngày, sau đó mới được cử hành hôn lễ.

Với người Hoa, việc tang được tổ chức có nhiều điểm giống như người Việt.

Khi có tang, người Hoa cũng xem tuổi, giờ chết để quyết định giờ tẩn liệm và giờ

chôn. Trang phục tang lễ của người Hoa ở Bến Tre cũng giống như người Việt.

Trước đây, trong lễ tang, người Hoa thường đốt rất nhiều vàng mã. Ngày nay, tục lệ

này đã giảm đi nhiều. Khi để tang cha mẹ, người Hoa có tục cạo đầu, sau 100 ngày

mới hớt tóc. Khi nhà có tang, việc cưới hỏi dù đã định trước cũng phải dừng lại, chờ

đến mãn tang.

Những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong vùng giải phóng, đám tang được

tổ chức sao cho phù hợp với hoàn cảnh thời chiến. Việc chôn cất tử sĩ được tiến

hành rất gọn nhẹ, nhưng trang nghiêm, đầy tình cảm quý trọng, tiếc thương những

chiến sĩ đã hy sinh. Nhiều trận càn, hàng chục chiến sĩ hy sinh, bộ đội cùng với

nhân dân đã thu xếp, chôn cất chu đáo, nhiều cụ già sẵn lòng đưa áo quan dành cho

bản thân để chôn cất bộ đội.

Tang lễ xưa còn nhiều phức tạp như coi ngày, mời thầy địa lý xem cuộc đất,

định giờ, đốt vàng mã, cúng tế linh đình… Gần đây, lễ nghi trong đám tang có

nhiều thay đổi theo hướng đơn giản hóa lễ nghi, thủ tục, sao cho vừa văn minh, vừa

biểu thị được sự trang nghiêm, kính trọng người quá cố.

Ở Bến Tre, việc tang không chỉ là việc của một nhà, một họ mà còn là việc

của cả xóm ấp, làng xã. Nhiều cụ già neo đơn, không có con cháu hoặc hoàn cảnh

gia đình khó khăn, khi qua đời, chính quyền đã đứng ra tổ chức tang lễ, vận động

quyên góp tiền để lo tang lễ. Trong trường hợp những gia đình nghèo, những người

không nơi nương tựa, khi qua đời, hàng xóm láng giềng tổ chức vận động, quyên

góp tiền để lo việc chôn cất. Điều này thể hiện tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm

cao đẹp, cần được phát huy. Khi có người trong cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp qua

đời, thường thì lãnh đạo những nơi này đứng ra tổ chức tang lễ, người ta thường

đọc điếu văn để tưởng nhớ thành tích, công lao của người đã khuất.

Nhìn chung, tang lễ ở Bến Tre được tổ chức dựa trên nền tảng các nghi thức

tang lễ cổ truyền, song không thấy xuất hiện một số nghi thức như đặt tên hèm, hạ

tịch, lễ phạt mộc, chiêu, tịch diện, chống gậy lúc đưa đám, nhà trạm, ấp mộ… Việc

tổ chức tang lễ ở đây phát triển theo xu hướng ngày càng giản đơn, bớt đi những

nghi thức tang lễ rườm rà. Với đa số nông dân, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn,

phải hối hả, dành ưu tiên hàng đầu cho cái ăn cái mặc, nghi thức tang lễ càng đơn

giản, gọn nhẹ càng phù hợp với điều kiện sống của họ.

Việc thực hành nghi thức tang lễ đơn giản, gọn nhẹ xuất phát từ thực tế yêu

cầu của cuộc sống, lối sống giản đơn, không cầu kỳ của người nông dân Nam Bộ

nói chung, Bến Tre nói riêng. Nghi thức tuy đơn giản, song cốt lõi của những giá trị

văn hoá dân tộc vẫn được bảo tồn. Việc tổ chức tang lễ ở đây vẫn đảm bảo thể hiện

được sự tin yêu, quý trọng con người, lòng vị tha, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau

lúc hữu sự của con người Việt Nam.

Việc tang ở Bến Tre phản ánh đời sống tâm linh lành mạnh, phong phú, vừa

mang tính khoa học thể hiện qua việc tẩn liệm, vừa mang tính giáo dục qua các lễ

nghi, vừa mang tính nghệ thuật thể hiện qua nhạc lễ, hát đưa linh, múa phá quàng.

Lễ tết

Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền của dân tộc. Cũng như nhân dân nhiều

vùng khác, người dân Bến Tre quan niệm Tết Nguyên Đán là tết của gia đình, của

mọi nhà. Dù có đi đâu, làm gì, người ta cũng đều mong ước về sum họp cùng gia

đình trong ba ngày tết.

Hoạt động chuẩn bị cho ngày tết rất nhộn nhịp. Trước đây, khoảng rằm tháng

chạp, người ta thường tổ chức quết bánh phồng vần công. Từ nửa đêm trở về sáng,

tiếng chày quết bánh, tiếng cười nói, đi lại rộn rã khắp vùng nông thôn. Trẻ con

thường được cha mẹ, anh chị sắm cho những bộ đồ mới.

Chiều tối ngày 23 tháng chạp, người ta “đưa ông Táo về trời”. Nhà cửa được

dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng lại cho tươm tất. Đồ thờ tự trên bàn thờ được mang

xuống lau chùi, đánh bóng, sơn quét lại. Trên bàn thờ thường có “mâm ngũ quả”.

Nói là ngũ quả, nhưng có khi số trái cây vượt quá 5 loại, cũng có khi ít hơn. Nhiều

nhà , người ta chỉ chú ý đến 3 loại trái cây đó là dừa, đu đủ, xoài hoặc mãng cầu, đu

đủ, xoài, theo cách phát âm của miền Nam, ba loại trái cây ấy thể hiện cho ước

muốn khiêm tốn là “vừa đủ xài” hoặc “cầu đủ xài”.

Mâm cơm tất niên chiều 30 tết thường có mặt đầy đủ các thành viên trong

gia đình. Sau bữa cơm, cả nhà quây quần bên nhau, chuẩn bị đón giao thừa. Các

thành viên cùng chia sẻ với nhau những thành công, thất bại, những niềm vui, nỗi

buồn, trút hết những ưu tư của năm cũ, chuẩn bị đón năm mới với những hy vọng

mới.

Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau.

Trong những ngày đầu năm, người ta thường chúc nhau những điều tốt đẹp. Trịnh

Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí: “Phàm công nợ vay mượn còn thiếu

lại, nội trong ngày tết không được đòi hỏi, phải đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi

hỏi” [22, tr.144].

Trẻ con rất mong đến ngày tết để được mặc quần áo mới, được vui chơi, theo

chân người lớn đi “mừng tuổi” ông bà và được “lì xì”.

Trước đây, vào dịp tết, người dân Bến Tre thường có nhiều trò vui như đá gà,

đá cá lia thia, đu tiên, đua ghe, thi cây kiểng, đánh bài, xóc đĩa… Ngày nay, những

lễ tục phiền toái, mang tính chất mê tín dị đoan, những trò chơi đỏ đen dần dần

được nhân dân loại bỏ. Quan niệm “tháng giêng là tháng ăn chơi” cũng không còn

phù hợp. Đương nhiên, những nét đẹp cổ truyền, không khí vui tươi, phấn khởi

trong ngày tết vẫn được bảo lưu, song sau những ngày vui tết, người ta nhanh chóng

bắt tay vào công việc.

Tết Đoan Ngọ

Tết Đoan Ngọ, mồng năm tháng năm, còn được gọi là tết Đoan Dương. Lúc

này, thời tiết chuyển mùa, hay xảy ra bệnh tật, vì thế tết này còn được gọi là tết giết

sâu bọ. Người xưa quan niệm, trong bộ phận tiêu hóa của con người thường có sâu

bọ. Quanh năm, chúng ăn sâu bên trong, duy chỉ có ngày mồng năm tháng năm là

chúng ngoi lên [6, tr.118]. Người ta “giết sâu bọ” bằng cách ăn rượu nếp (cơm

rượu) cho sâu bọ say, sau đó ăn trái cây để giết chúng, vì theo đông y, mỗi loại trái

cây đều có vị thuốc.

Vào dịp này, nhiều người còn đeo bùa cho trẻ, nhất là những đứa trẻ thường

mắc phải bệnh tật, để tránh tà ma quấy rầy. Trưa mồng năm tháng năm, sau khi

cúng gia tiên, người ta thường đi hái nhiều thứ lá, mang về phơi khô, để dành nấu

nước uống.

Tết Trung Thu

Tết Trung Thu đúng vào ngày rằm tháng Tám. Đây là dịp trẻ con vui đùa

thỏa thích dưới ánh trăng. Vào dịp này, trẻ con thường được cha mẹ, anh chị chuẩn

bị cho chiếc lồng đèn, nhiều bánh và trái cây, đặc biệt là bánh trung thu và bánh

dẻo.

Trung Thu là tết của trẻ em, nhưng không rõ từ lúc nào đã biến thành tết của

cả người lớn. Đây là dịp để những nhà kinh doanh buôn bán, một bộ phận công

chức biếu xén với nhau những phần quà cầu kỳ.

Trước kia, cũng như nhiều nơi ở Nam Bộ, Tết Trung Thu không được người

dân vùng nông thôn Bến Tre quan tâm nhiều như ở miền Bắc hay các thành phố

lớn. Một phần do mưa nhiều, đường sá lầy lội, hoặc do bận việc đồng áng. Những

năm gần đây, đường sá được cải thiện, đời sống nhân dân khấm khá hơn, nên người

dân ở đây có điều kiện để tổ chức Tết Trung Thu cho trẻ em. Đối với trẻ em ở vùng

sâu, vùng xa, chính quyền, các đoàn thể cũng đã quan tâm, tặng quà bánh, lồng đèn

để các em vui Tết Trung Thu cùng trẻ em cả nước.

2.3.2. Tín ngưỡng – Tôn giáo

Tín ngưỡng trong gia đình

Thờ phụng tổ tiên

Người Việt ta quan niệm “cây có cội, nước có nguồn”. Thờ phụng tổ tiên

được xem là một bổn phận, là nghĩa vụ thiêng liêng. Dù phải sống xa nhà, xa quê,

hay là tín đồ của một tôn giáo bất kỳ, không có người Việt Nam nào không thờ cúng

tổ tiên, không làm giỗ chạp để tưởng nhớ những bậc sinh thành ra mình. Đây là

hành động xuất phát từ lòng thành kính của thế hệ sau đối với người chết, với thế hệ

trước.

Người xưa quan niệm, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết, nhưng linh hồn

con người vẫn còn, vẫn hằng lui tới, quấn quýt với những người thân. Người ta cho

rằng “dương sao âm vậy”, nghĩa là có một đời sống ở cõi âm như cuộc sống nơi

trần thế. Người ta tin rằng vong hồn người khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần

gũi con cháu, theo dõi, giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết.

Nhìn chung cách thờ cúng tổ tiên của người dân Bến Tre không khác biệt so

với các vùng khác trong cả nước, bởi lẽ đều cùng một cội nguồn mà ra. Thực tế

khảo sát nhiều nơi trong tỉnh cho thấy, mỗi gia đình đều có bàn thờ gia tiên. Khác

nhau nếu có là ở cách bố trí nơi thờ tự ở trong nhà và việc bày biện các đồ thờ trên

bàn thờ trong những ngôi nhà xưa hay trong những ngôi nhà xây cất hiện đại và tùy

thuộc hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình. Thông thường thì bàn thờ gia tiên được

bố trí ở gian giữa của ngôi nhà, cũng có thể bố trí gian bên ở bên trái từ ngoài sân

nhìn vào. Ở nông thôn, nhà dù nghèo khó đến đâu, không sắm được chiếc bàn bằng

gỗ, người ta cũng làm một cái bàn bằng tre, hay bằng tầm vông, trên mặt trải chiếc

chiếu con, thường được gọi là giường thờ. Trên giường thờ người ta đặt bát hương,

chân đèn, lọ cắm hoa…

Người ta thường làm những món ngon, những món mà ông bà, cha mẹ

thường thích ăn khi còn sống để cúng giỗ. Nếu phải mua từ ngoài chợ, thì cũng phải

chọn thịt tươi, cá ngon, làm vật dâng cúng. Nấu nướng xong, phải mang lên cúng

rồi mới được ăn.

Lễ giỗ được tiến hành trong hai ngày. Chiều hôm trước, người ta làm một vài

món đơn giản để cúng. Hôm sau mới là ngày giỗ chính. Thường thì giỗ cha, giỗ mẹ

thường được làm to, với ông bà xa thì lễ giỗ tổ chức đơn giản hơn, không mời nhiều

người. Bà con, bạn bè đến ăn giỗ thường mang theo hương, hoa, trái cây, rượu,

bánh, trà để dâng cúng trước bàn thờ người đã khuất, sau đó mới ngồi vào dự tiệc.

Việc lập nhà thờ họ tộc, đài lộ thiên, dựng bia đá ghi tên thụy hiệu các tổ tiên

hầu như không thấy ở Bến Tre. Việc thờ cúng ông bà không nhất nhất chỉ dành cho

trưởng nam, nhiều trường hợp thứ nam, kể cả con nữ (trong gia đình có nam) vẫn có

thể đảm nhận việc thờ cúng ông bà. Văn khấn trong ngày giỗ thường không theo

“bài bản” ghi trong sách vở. Sau khi dọn thức cúng xong, người ta đốt nhang và

thỉnh ông bà về dùng bữa.

Ngoài việc thờ cúng trong nhà, người ta còn quan tâm tu bổ mồ mả tổ tiên.

Việc tảo mộ chủ yếu được thực hiện trong tháng Chạp, không chờ đến tiết Thanh

Minh như phong tục của người Hoa. Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định Thành

thông chí: “ở Gia Định, cứ đến cuối năm thì tế, quét dọn bồi đắp phần mộ tổ tiên,

việc ấy đã có điển lệ của nhà nước… so với Trung Hoa ngày Thanh Minh tế tảo mộ,

thì nước ta tế về tháng Chạp còn có ý nghĩa hơn” [22, tr.146]. Kết hợp với việc tảo

mộ vào những ngày cuối năm, người ta còn thực hiện nghi lễ cúng tổ tiên. Lễ thức

này được gọi là cúng chạp (lễ cúng chung cho các thứ bậc tổ tiên). Ở Bến Tre hiện

nay, tục lệ tảo mộ và cúng chạp vẫn còn được duy trì.

Cư dân Bến Tre vốn là những con người Việt Nam, mang trong mình những

truyền thống quý báu của dân tộc, trong đó có truyền thống tôn kính, thờ phụng tổ

tiên. Truyền thống ấy tiếp tục kế thừa và mang những dạng thức tương thích với

cuộc sống trên vùng đất mới.

Với đại bộ phận dân cư là những nông dân còn nghèo khó, nơi thờ tự tổ tiên

được bày trí giản đơn, đôi khi chỉ là chiếc bàn tre, bàn gỗ đơn sơ, bên trên chỉ có

bát nhang và lọ cắm hoa, rất hiếm thấy những đồ thờ quý giá như lư đốt trầm

hương, cặp hạc đồng. Đồ thờ, vật cúng gia tiên ở mỗi nhà có thể khác nhau, song

lòng thành của các thế hệ con cháu đối với các bậc sinh thành là như nhau.

Cư dân Bến Tre là những lưu dân đi khai phá. Thời gian định cư của các

dòng họ trên đất Bến Tre vẫn còn rất ngắn, tính cố kết trong quan hệ dòng chưa

được chặt chẽ so với cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Phải chăng chính vì thế mà việc

thờ cúng tổ tiên ở Bến Tre không có các dạng thức như nhà thờ tổ, giỗ tổ như ở

miền Bắc, không chịu sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo gia phong – không chỉ

dành cho con trưởng như ở miền đồng bằng Bắc Bộ. Thay cho nghi thức giỗ tổ,

lòng thành kính các thứ bậc tổ tiên của người Bến Tre được thể hiện ở việc cúng

chạp trong dịp tảo mộ.

Thờ cúng các vị thần tại gia

Thổ công là thần đất (ông Địa) và cũng là thần bếp (ông Táo). Thổ công

được xem là vị thần trông coi gia sự, định đoạt họa, phúc cho mỗi gia đình, được

tôn là Đệ nhất gia chi chủ (vị chủ thứ nhất của một nhà). Người ta thường vái ông

Địa cho người nhà qua khỏi bệnh hoặc cho tìm được món đồ bị mất. Lễ vật đền đáp

thường là nải chuối. Ngày giỗ, ngày tết, ngoài việc cúng tổ tiên, người ta đều có

mâm cúng Thổ công, còn được gọi là cúng đất đai. Dịp cúng Thổ công quan trọng

nhất là ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Đây là ngày đưa ông Táo về trời để ông báo

cáo với Ngọc Hoàng những việc nghe thấy được ở trần gian.

Thần tài cũng là vị thần được tin thờ tại gia, nhất là đối với những gia đình

làm ăn buôn bán. Đây được xem là vị thần mang tài lộc đến cho gia đình. Ở Nam

Bộ nói chung, Bến Tre nói riêng, người ta thường thờ thần tài chung với ông địa ở

một trang thờ đặt dưới đất. Mỗi buổi chiều, người ta thắp hương ở trang thờ. Đồ

cúng thường là trái cây, nước.

Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người ta còn thờ nhiều vị thần của người

Hoa. “Không có một gia đình nào, dù là nhà có học, mà không thờ cúng ít ra là vị

thần bếp và vị thần tài”[79, tr.165]. Người Hoa còn có tục thờ ông Quan Đế, một võ

tướng đời Hán (Trung Quốc). Người ta tôn thờ những đức tính cao quý của ông như

lòng tốt, sự dũng cảm, lòng chung thủy, sự hy sinh, độ lượng… Trang thờ ông được

đặt trên cao. Bức tranh thờ thường ông ngồi giữa mặc triều phục màu xanh, mặc đỏ,

bên phải là người con nuôi Quan Bình, bên trái là Châu Xương, một vị tướng trung

thành của ông.

Tín ngưỡng trong cộng đồng

Thờ thành hoàng

Lễ hội ở đình làng Bến Tre là nhu cầu tâm linh của dân trồng lúa nước, xuất

phát từ niềm tin có một vị thần đang ngự trị ở ngôi đình làng, đó là thành hoàng bổn

cảnh.

Tác giả Văn Đình Hy, ở bài viết “Đình Làng ở Bến Tre”, in trong Tạp chí

Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 5/1991) cho biết, qua khảo sát các xã, Bến Tre

có 18 ngôi đình lớn, cụ thể ở các huyện như sau: huyện Châu Thành có đình Tiên

Thủy, Tân Thạch, huyện Giồng Trôm có đình Bình Hòa, Sơn Phú, Lương Quới,

Huyện Thạnh Phú có đình Thạnh Phú, Đại Điền, huyện Chợ Lách có đình Sơn

Định, huyện Mỏ Cày có đình Tân Thanh Tây, Đa Phước Hội, Minh Đức, Hương

Mỹ, Nhuận Phú Tân, huyện Bình Đại có đình Phú Thuận, huyện Ba Tri có đình Phú

Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Thủy [9, tr.10].

Không gian kiến trúc ở đình làng Bến Tre có những nét khác biệt so với đình

làng ở đồng bằng Bắc Bộ. Nếu ở Bắc Bộ, “Miếu là chỗ quỉ thần bằng y, đình là nơi

thờ vọng, và để làm công sở cho dân hội họp” [11, tr.92], thì ở đình làng Bến Tre

không có miếu làm nơi “bằng y” của thần. Không gian thiêng của đình làng ở Bến

Tre không phải chỉ dành riêng cho thành hoàng, vị thần được nhà nước phong kiến

ban sắc phong, mà còn dành cho nhiều vị thần gắn bó với người dân trong làng như

thần Nông, thần Hổ, bà Chúa Xứ, tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ…Ở Hưng

Lễ (Giồng Trôm), người dân lập miễu trong khuôn viên đình để thờ ông Yến, người

có sức khoẻ phi thường đã đánh được cọp chúa, mang lại cuộc sống bình an cho dân

làng. Ở Ba Tri, ngoài việc lập đền thờ riêng cho cụ Lê Quang Quan (Tán Kế), nhiều

nơi còn thờ cụ trong đình làng.

Đối với cư dân làm nghề nông ở Bến Tre, lễ kỳ yên là lễ hội lớn nhất của

làng quê. Kỳ yên hay kỳ an, cầu an, nghĩa là cầu mong sự bình an cho dân làng.

Thời điểm tổ chức lễ kỳ yên tùy theo từng làng quy định khác nhau. Ở Bến Tre, lễ

kỳ yên thường được tổ chức khoảng tháng 3, tháng 4 âm lịch, đây là thời điểm cuối

mùa khô, đầu mùa mưa. Theo Phan Kế Bính: “vào khoảng cuối xuân đầu hạ, nhiều

nơi làm lễ Kỳ an. Vì mùa ấy thường có dịch khí, tục tin là việc quỉ thần cho nên

cúng cấp để cầu cho dân làng được yên lành” [11, tr.130].

Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí: “mỗi làng đều làm một

cái đình. Kỳ tế thì chọn ngày tốt trước, đến ngày, lúc mặt trời xế chiều, người lớn

tuổi, ít tuổi đều họp, ngủ lại ở đình suốt đêm, gọi là túc yết. Sáng sớm ngày hôm

sau, mặc áo mũ, đánh chiêng trống, làm lễ chính tế, ngày hôm sau nữa tế dịch (tế tạ)

gọi là đại đoàn, làm lễ xong rồi về. Ngày giờ để tế tùy theo từng làng, phần nhiều

không giống nhau, hoặc tế vào tháng giêng, lấy nghĩa là mùa xuân cầu phúc, hoặc tế

vào tháng 8 tháng 9, lấy nghĩa là mùa thu báo ơn thần, hoặc tế vào ba tháng đông,

lấy nghĩa là cả năm đại thành công, tế Chủng (tế mùa đông gọi là tế Chủng) tế Chạp

để báo ơn thần, đều có lý do cả, đều gọi là tế kỳ yên” [22, tr.146].

Lễ Kỳ yên được mở đầu bằng lễ Túc yết, để trình bẩm với thần về việc tổ

chức lễ ở đình. Sau đó là lễ cúng tiền vãng (cúng tiền hiền, hậu hiền) và lễ cúng

thần nông. Nghi lễ quan trọng nhất là lễ chánh tế, cúng Thành hoàng bổn cảnh. Vật

dâng cúng trong lễ chánh tế là một con heo trắng, đã làm sạch, đặt nằm sấp trên một

ghế cao, ngoài ra còn có một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một

đĩa muối, gạo.

Về nghi thức cúng lễ, hiến tế đồ vật, Phan Kế Bính đã cho biết sự khác biệt

giữa miền Nam và miền Bắc như sau: “ngoài Bắc kỳ, ta chỉ hiến các món đồ ăn, vì

ta hay để toàn sinh mới là thành kính. Ở về Nam kỳ thì các món đồ ăn gì cũng hiến.

Trong khi hiến rượu, người ta đi một cách rất khoan thai nghiêm trang. Ở Nam kỳ

khi hiến rượu, hiến đồ ăn thường có hai người đóng tuồng, mặc đồ nhung trang cầm

nến đi trước, kế đến mỗi bên ba bốn con hát, áo mũ rực rỡ, mỗi ả cầm vài nén

hương, vừa đi vừa đọc câu chúc hỗ rồi mới đến các người hiến rượu, hiến đồ ăn đi

sau. Mà cách đi thì rất kỳ ngộ: người nào mắt cũng nhưng nhưng, nhốn nháo,

nghiêng đầu nghiêng cổ, chân bên nọ đá chân bên kia, làm cho ai lạ mắt cũng phải

phì cười mà họ thì cho thế mới là đi vào kiểu” [11, tr.104-105].

Ở Bến Tre, cũng như nhiều nơi ở Nam Bộ, trong lễ Kỳ yên, sau phần lễ còn

có phần hội. Nội dung chính của phần hội là hát xướng, vui chơi, chiêu đãi và giao

nghĩa. Hát bội, hoặc đờn ca tài tử, hát cải lương, chiếu phim là phần giải trí không

thể thiếu vào dịp lễ kỳ yên.

Đình làng có hai chức năng, đó là chức năng tín ngưỡng và chức năng thế

tục. Nói cách khác, đình vừa là nơi trú ngụ của thần linh, vừa là công sở của làng xã

thời phong kiến. Đình làng Bến Tre vẫn mang hai chức năng ấy. Song chức năng

thế tục của đình làng Bến Tre được gia tăng với sự xuất hiện của gian võ ca. Địa

điểm tổ chức các cuộc hát trong ngày hội đình diễn ra ngay tại gian võ ca, không ở

sân đình như hội đình ở đồng bằng Bắc Bộ.

Nhìn chung, cũng như ở miền Bắc, tín ngưỡng thờ thành hoàng là một trong

những chất kết dính các thành viên trong cộng đồng làng xã. Thành hoàng bổn

cảnh vẫn mang dáng vẻ của một vị thần bảo trợ cho dân làng ở một vùng đất, một

làng xã nào đó. Song, do Bến Tre là vùng đất mới khai phá, huyền thoại, lý lịch của

vị thành hoàng bổn cảnh chưa được dày dặn như các vị thành hoàng của các làng ở

miền Bắc. Trong lễ hội kỳ yên, không có trò diễn phục dựng sự nghiệp của vị thần

được phụng thờ.

Không gian thiêng của đình làng không chỉ dành riêng cho thành hoàng mà

còn là nơi thờ cúng nhiều vị thần gắn bó với tâm linh của người dân. Thực tế này

phải chăng phản ánh thái độ bình đẳng, tinh thần dân chủ trong đời sống tâm linh

của người dân Bến Tre.

Thờ cá voi

Tín ngưỡng phổ biến của cư dân làm nghề biển khu vực Bình Đại, Thạnh

Phú, Ba Tri là tục thờ cúng cá voi. Loại hình tín ngưỡng này được hình thành trong

quá trình giao tiếp văn hóa Việt Chăm, tồn tại ở khu vực từ Đèo Ngang trở vào.

Với cư dân làm nghề chài lưới, đêm ngày đối diện với biển cả mênh mông,

họ luôn thấy mình nhỏ bé, rất cần được một lực lượng siêu nhiên nào đó che chở,

giúp họ vượt qua những lúc hiểm nghèo. Ngư dân xem cá voi như vị thần hộ mệnh,

việc thờ cá voi như là một cách đền ơn đáp nghĩa.

Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí: “cá biển có cá voi, đầu

tròn, ở trán có lỗ phun nước, mũi miệng như con voi, mình trơn láng không có vẩy,

đuôi chẻ đôi như đuôi tôm; tính hiền lành, hay cứu giúp người. Người đánh cá

thường gọi để lùa cá vào lưới. Thuyền đi biển bị đắm, cá này thường đưa người lên

bờ. Dân vùng biển đều kính lễ. Có xác cá ấy trôi dạt vào đâu, thì ngư dân góp tiền

vải, sắm quan tài để liệm chôn, lấy người trùm ngư dân làm tang chủ, lập đền phụng

thờ. Trong điện thờ phong làm Nam Hải tướng quân, vì là ở biển Nam Hải thì mới

linh ứng, còn ở biển khác thì không” [22, tr.167-168].

Dọc bờ biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, có 9 lăng thờ cá ông. Tùy từng

nơi, tùy theo làng cá, vạn cá đông người hay ít, lễ Nghinh Ông có thể chênh nhau

quy mô tổ chức, nhưng ý nghĩa, mục đích đều giống nhau. Thời gian tổ chức lễ

cũng có thể chênh nhau giữa nơi này và nơi khác, nhưng thường thì diễn ra trước

mùa đánh bắt cá biển, khoảng tháng 4 đến tháng 6 âm lịch. Có nơi kết hợp lễ

Nghinh Ông với lễ cầu ngư.

Với cư dân làm nghề lúa nước, lễ kỳ yên hàng năm ở đình là là lễ hội lớn

nhất, thì cư dân vùng biển, lễ cúng cá voi (cá ông) – lễ Nghinh Ông là lễ quan trọng

bậc nhất.

Lễ Nghinh Ông thu hút sự tham gia đông đảo của các ngư dân trong vạn

chài. Dẫn đầu đoàn thuyền nghinh ông là ghe lễ, là ghe của gia chủ làm ăn phát đạt

nhất trong năm. Trên ghe có bày bàn lễ vật bao gồm heo quay, bánh hỏi, hoa quả.

Sau ghe lễ là ghe chở đoàn múa lân. Tiếp sau ghe này là một đoàn ghe hàng trăm

chiếc của ngư dân trong vạn lạch. Đoàn thuyền di chuyển đến nơi giáp nước – nơi

nước sông và nước biển gặp nhau để chờ “Ông lên vọi”. Nếu gặp ông lên vọi, xem

như năm ấy làm ăn phát tài. Trường hợp không gặp “Ông lên vọi”, người ta tổ chức

xin keo, nếu hai đồng tiền tung lên, khi rớt xuống, một đồng sấp, một đồng ngửa thì

xem như ông đã chứng giám. Sau đó, đoàn thuyền trở về làng. Phần lễ cúng tại làng

là cúng tiền hiền, hậu hiền. Các chủ ghe đều tổ chức cúng tại ghe mình. Phần cuối

cùng của lễ hội là lễ cúng chánh tế. Lễ này được cử hành lúc 12 giờ khuya cùng

ngày. Lễ vật là một con heo trắng, hai mâm xôi, trà và rượu.

Sự thờ cúng cá ông của ngư dân ven biển Bến Tre có một số nét khác biệt so

với một số địa phương. Ở Bến Tre, trong lễ Nghinh Ông, không có lễ xuống biển

như cư dân Quảng Bình, không có trò diễn bạn chèo của ngư dân Bình Thuận,

không có sự tham gia của các nhà sư như ở Tiền Giang. Trong tổng thể di tích lăng

ông ở Bến Tre, sự xuất hiện của gian võ ca đã làm tăng tính chất vui chơi giải trí

của lễ hội. Ngày cúng Ông thật sự là ngày hội của cư dân ven biển.

Tín ngưỡng thờ mẫu

Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí, người Gia Định, trong

đó có Bến Tre “tin đồng cốt, phần nhiều trọng thần đàn bà, như bà Chúa Ngọc, bà

Chúa Động (tục gọi người đàn bà tôn quý là bà), bà Hỏa tinh, bà Thủy long,…” [22,

tr.142]. Theo số liệu khảo sát, điền dã của tác giả Lư Hội trong Bến Tre bảo tồn và

phát huy di sản văn hóa, năm 2000, toàn tỉnh Bến Tre có 217 miếu thờ bà Chúa

Ngọc, bà Thiên Hậu, bà Chúa Xứ, tập trung nhiều nhất ở các huyện Thạnh Phú (45

miếu), Ba Tri (43 miếu), Giồng Trôm (42 miếu), Mỏ Cày (32 miếu)… [31, tr.129-

130]. Ở huyện Bình Đại, ngoài xã Thừa Đức có miếu thờ bà Thiên Hậu, các xã còn

lại đều có một miếu thờ bà Chúa Xứ. Nhiều xã ở huyện Ba Tri như Tân Xuân,

Phước Tuy, Phú Ngãi, An Đức, An Bình Tây, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh, Mỹ Hòa đều

có miếu thờ bà Thiên Hậu hoặc bà Chúa Xứ. Điều đáng lưu ý là, kể cả những nơi

không có người Hoa, người Việt vẫn phụng thờ thần của người Hoa, như trường

hợp miếu thờ bà Thiên Hậu ở ấp Thừa Thiên, xã Thừa Đức, huyện Bình Đại hay ở

Hương Điểm, xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm. Ngoài 217 miếu thờ bà được lập

riêng, miếu thờ bà còn xuất hiện trong khuôn viên nhiều đình làng ở Bến Tre. Thực

tế như trên cho thấy, tín ngưỡng thờ mẫu ở Bến Tre khá đa dạng và phồn thịnh.

Từ nhiều nơi hội tụ về vùng đất Nam Bộ, trong đó có Bến Tre, bên cạnh

hành trang là các vật dụng, tư liệu sản xuất, lưu dân Việt còn mang theo trong mình

vốn văn hóa tiềm ẩn, trong đó có tín ngưỡng thờ mẫu. Đến vùng đất mới, họ vẫn

trồng lúa nước, vẫn mang khát vọng cho mùa màng tươi tốt, cuộc sống no đủ. Vì

thế, tín ngưỡng thờ mẫu tiếp tục tồn tại. Tín ngưỡng thờ mẫu cũng có ở người

Khơme, người Chăm, người Hoa. Sự cộng cư, quan hệ giao tiếp giữa các tộc người

tất yếu sẽ dẫn đến giao lưu văn hóa. Người ta tiếp nhận tín ngưỡng, đối tượng thờ

cúng của nhau trên cơ sở niềm tin “hữu cầu tất ứng”. Thần thánh của tộc người

khác, tuy khác nhau về tên gọi, hình tượng nhưng vẫn tiêu biểu cho việc khuyến

thiện, trừ ác. Tục thờ bà Thiên Y Ana (Chúa Ngọc) hay bà Chúa Xứ xuất phát từ

nguồn gốc tập tục của người Chăm. Người Việt cũng viếng miếu thờ bà Thiên Hậu

như người Hoa. Rất nhiều người Hoa cũng thăm viếng chùa miếu của người Việt

như việc hành hương về núi Bà Đen, núi Sam để làm lễ bái Linh Sơn thánh mẫu, Bà

Chúa Xứ.

Thờ cúng những người có công đối với quê hương

Một nét đẹp truyền thống trong tín ngưỡng dân gian của người Bến Tre là tục

thờ phụng những người có công trong sự nghiệp khai phá, xây dựng, phát triển văn

hóa, chống giặc ngoại xâm. Ngoài việc đưa các nhân vật có công vào thờ trong đình

làng, người ta còn góp tiền của, công sức xây dựng đền miếu khang trang để thờ

cúng, như đền thờ Nguyễn Ngọc Thăng ở Mỹ Thạnh, Giồng Trôm; đền thờ Tán Kế

ở Mỹ Thạnh, Ba Tri; đền thờ Võ Trường Toản ở Bảo Thạnh, Ba Tri; lăng Nguyễn

Đình Chiểu ở An Đức, Ba Tri; đền thờ Nguyễn Thị Định ở Lương Hòa, Giồng

Trôm… Ngày giỗ, ngày Tết, chính quyền và nhân dân địa phương đến dâng hương,

làm lễ tưởng niệm trân trọng. Tập tục này thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”,

có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, niềm tự hào về

các danh nhân ở địa phương.

Thiên nhiên hoang sơ và những hiểm nguy trong quá trình đấu tranh để tạo

dựng cuộc sống là cơ sở làm nảy sinh và tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng trên đất

Bến Tre. Buổi đầu khai hoang mở đất, lưu dân đối diện với nhiều sự dọa dẫm từ

chốn rừng rậm thú dữ: “chèo ghe sợ sấu cắn chưn, xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ

ma” hay “đến đây xứ sở lạ lùng, con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh”. Để

cuộc sống trên vùng đất mới được bình yên, để việc lên rừng đốn củi, săn bắn, ra

sông, ra biển đánh bắt cá tôm được an toàn, người ta dễ dàng gởi gắm niềm tin vào

một vị thần linh nào đó. Đây là cơ sở lý giải sự tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng

trên vùng đất Nam Bộ nói chung, Bến Tre nói riêng.

Tín ngưỡng của người Bến Tre mang đậm dấu ấn của hoạt động kinh tế của

các nhóm cư dân. Với những người làm nông (trồng cây ăn trái, trồng hoa màu,

trồng lúa), họ luôn cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, ước mong

ấy được gởi gắm vào vị thần ngự trị ở đình làng, thể hiện qua lễ Kỳ yên. Còn những

cư dân ngày đêm đối diện với biển cả mênh mông, đầy hiểm nguy, bất trắc, mong

ước được bình yên trên biển cả, đánh bắt bội thu được gởi gắm cho vị thần trên

biển, đó là cá Ông (cá voi), qua lễ hội Nghinh Ông.

Trong tâm thức của người dân Bến Tre không có vị thần độc tôn. Điều này

được phản ánh khá rõ nét qua việc thờ cúng trong đình làng. Đình làng không phải

là nơi dành riêng cho thành hoàng mà còn là nơi thờ cúng nhiều vị thần khác. Sự

xuất hiện gian võ ca đã làm tăng tính chất thế tục của đình làng và lăng thờ cá

Ông.

Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, việc thần thánh hóa những người có

công trong việc khai hoang mở đất hay chiến đấu bảo vệ quê hương, đưa họ vào thờ

trong các ngôi đình làng hoặc lập đền thờ riêng cho thấy người dân Bến Tre biết

bảo tồn và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc. Đây không chỉ đơn thuần là

tín ngưỡng mà còn là đạo lý sống. Đó là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả

nhớ người trồng cây”. Nét đẹp văn hóa này cần được duy trì.

Đến khai phá vùng đất Bến Tre, hành trang mà lưu dân mang theo không chỉ

có các vật dụng, tư liệu sản xuất, mà còn có vốn văn hóa tiềm ẩn, trong đó có tín

ngưỡng thờ mẫu. Trong quá trình cộng cư, người ta tiếp nhận đối tượng thờ cúng

của của nhau. Kết quả là bà Thiên Y Ana (Chúa Ngọc) hay bà Chúa Xứ , bà Thiên

Hậu… trở thành đối tượng thờ của cả người Việt, người Hoa và người Khơme. Đây

hoàn toàn là sự tiếp thu tự nguyện.

Tôn giáo

Đạo Phật ở Bến Tre

Đạo Phật, theo bước chân của lưu dân, vào Bến Tre sớm hơn các tôn giáo

khác. Khi cuộc sống tạm đi vào nề nếp, cùng với việc lập thôn ấp, chợ búa, người ta

đã xây dựng đình, miếu, chùa. Ban đầu, kiến trúc còn đơn sơ, chủ yếu bằng cây lá.

Khi kinh tế phát triển, người ta mới có điều kiện xây cất đình, chùa bằng gạch ngói.

Ở miền Nam nói chung, trong đó có Bến Tre, cách tu theo đạo Phật phổ biến

là “tu tại gia”. Trong nhà, người ta thường thờ một tượng Phật nhỏ hoặc treo hình

Quan âm bồ tát. Ở nhiều địa phương, dù không có chùa nhưng cũng có người theo

đạo Phật. Ở những nơi có chùa, tín đồ cũng thường chỉ đến chùa khấn vái, dâng lễ

vào những ngày rằm, ngày tết.

Ngôi chùa được xây cất sớm nhất ở Bến Tre là Hội Tôn cổ tự ở xã Quới Sơn,

huyện Châu Thành. Chùa được xây cất năm 1740, do Hòa thượng Long Thiền quê ở

Quảng Ngãi trụ trì.

Chùa Huệ Quang tại thị trấn Giồng Trôm cũng là ngôi chùa cổ. Ban đầu,

chùa được xây cất đơn sơ, chủ yếu bằng cây lá. Năm 1784, Hòa thượng Minh Hòa ở

Gia Định về trụ trì, tạo dựng lại khá khang trang. Chùa cổ ở thị xã có Phú Hưng tự,

được xây dựng từ thời Gia Long, Giác Viên tự được xây dựng thời Tự Đức (năm

1870). Bửu Sơn tự ở Tân Thủy, Ba Tri cũng là ngôi chùa tương đối lâu đời, do Hòa

thượng Khánh Thông xây dựng cuối thế kỷ XIX.

Phần lớn các nhà sư, tăng ni, phật tử Bến Tre đã tích cực ủng hộ sự nghiệp

cách mạng giải phóng dân tộc. Trong phong trào Phật giáo yêu nước của Bến Tre,

nổi lên tấm gương của Hòa thượng Lê Khánh Hòa. Ông là một vị cao tăng, uyên

thâm về Nho học và Phật học, là một trong những người đề xướng phong trào Nam

kỳ chấn hưng Phật giáo những năm 1924-1934. Năm 1930, ông được bầu làm Hội

trưởng Nam kỳ nghiên cứu Phật học hội, chủ bút tạp chí Từ bi âm, giám đốc Phật

học tùng thư.

Sau cách mạng tháng Tám – 1945, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đã kêu gọi

phật tử Bến Tre và phật tử miền Nam ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia

chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần hai. Chiến tranh bùng nổ,

phật tử Bến Tre đã sát cánh cùng đồng bào chống giặc cứu nước. Tăng ni, phật tử đã

tham gia vào Hội Phật giáo cứu quốc, thành viên của Mặt trận Việt Minh, Liên Việt.

Trong kháng Mỹ, truyền thống yêu nước của Phật giáo Bến Tre tiếp tục được

phát huy. Mặc dù kẻ thù áp dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi nhằm thao túng

giáo hội Phật giáo, song đa số tín đồ tích cực ủng hộ sự nghiệp cách mạng, góp

nhiều công sức cho sự nghiệp kháng Mỹ. Nhiều ngôi chùa là nơi ẩn náu, nuôi giấu

cán bộ cách mạng hoạt động bí mật.

Thiên Chúa giáo ở Bến Tre

Giữa thế kỷ XVIII, một số tín đồ Thiên Chúa giáo từ miền Ngũ Quảng đã đi

thuyền đến Ba Tri. Họ đã khai hoang, lập ấp và xây dựng một nhà thờ nhỏ bằng cây

lá đơn sơ tại Bến Vựa (Giồng Giá). Năm 1829, vách gỗ của nhà thờ được thay bằng

tường gạch. Linh mục đầu tiên của họ đạo là một người Pháp, tên Marchand Du. Vì

lý do an ninh, ông không cư ngụ tại Giồng Giá mà chỉ thỉnh thoảng lui tới làm lễ tại

gia đình các tín đồ.

Một họ đạo khác cũng sớm được hình thành trên đất Ba Tri đó là họ đạo Cái

Bông (Giồng Tre). Những người có công đầu trong việc tạo dựng họ đạo này là Võ

Vách Trưng, Trương Văn Chức và Trương Văn Thoại. Họ là những người trong

đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh trên đường chạy trốn cuộc truy đuổi của quân Tây

Sơn, đã từ bỏ Nguyễn Ánh, ghé lại vùng Giồng Tre. Dừng chân ở nơi này, họ khai

phá đất đai, dựng một nhà thờ nhỏ, mời các linh mục người Pháp giảng đạo. Giồng

Tre là khu vực cao ráo, đất rộng, người thưa. Nhờ làm ăn khấm khá, tín đồ trong họ

đạo đã dâng khá nhiều đất cho Nhà chung. Sau 1975, đất của Nhà chung họ đạo Cái

Bông có đến 160ha, trong khi họ đạo Giồng Giá có không đến 20ha [66, tr.940]. Từ

đây, họ đạo Cái Bông đã phát triển khá mạnh sang vùng Cái Mơn, Cái Nhum (Chợ

Lách), sang cả một số vùng ở Trà Vinh.

Ngoài Giồng Giá, Giồng Tre, họ đạo Cái Mơn cũng là một họ đạo tương đối

lâu đời ở Bến Tre. Họ đạo này do một linh mục người Pháp tên là Gernot thành lập

tháng 2 năm 1872. Theo Địa phương chí (1930): “họ đạo Cái Mơn có một nhà thờ

lớn khá đẹp về mặt trang diện. Mà có được kết quả khả quan đó là nhờ thu hút được

nhân dân tại cù lao nhỏ này… Trong nhà công của Cái Mơn, cái bàn thờ theo tập

quán cũ là thờ Phật và Khổng Tử là để tưởng niệm những hội tề thuở trước, thì bây

giờ ở đây thay thế bằng một cái bàn thờ nhỏ của Thiên chúa. Một công việc kỳ lạ đã

thực hiện ở vùng này” [46, tr.24]. Họ đạo Cái Mơn, ngoài một nhà thờ lớn, còn có

khu vực riêng của nữ tu sĩ, trường học, nhà dưỡng lão và ruộng vườn thuộc nhà

chung.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, kẻ thù đã thực hiện chính sách

lợi dụng tôn giáo, ra sức mua chuộc, lôi kéo giáo dân. Chúng tập hợp những tín đồ

cuồng tính, lập ra “Đội quân bảo vệ đạo” để chống phá cách mạng, giết chết hàng

ngàn người dân vô tội trong những vụ thảm sát tập thể ở những nơi như Vàm Bình

Đại, cầu tàu Phú Thuận, cầu tàu An Hóa, cầu Ba Lai, ngã tư An Hồ, cầu Hòa. Sau

ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), đại đa số tín đồ Thiên Chúa giáo

đã giác ngộ, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sống “tốt

đời đẹp đạo”. Theo số liệu thống kê của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bến Tre,

toàn tỉnh có 83 nhà thờ, 39 linh mục, 72.560 tín đồ.

Đạo Cao Đài

Đạo Cao Đài ra đời trên cơ sở những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội và tư

tưởng nhất định ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác

thuộc địa lần thứ hai. Nông dân Nam Bộ bị mất đất, nghèo đói, lầm than. Ngay khi

thực dân Pháp xâm lược nước ta, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ đã

liên tục đứng lên đấu tranh chống Pháp, nhưng không thành. Những bế tắc trong

cuộc sống và trong cuộc chiến chống xâm lược là điều kiện thúc đẩy một bộ phận

quần chúng tìm đến tôn giáo. Trong bối cảnh đó, đạo Cao Đài đã ra đời và thu hút

đông đảo quần chúng tham gia.

Buổi đầu kháng Pháp, một số sĩ phu đã mượn đạo Lão để lập ra đạo Lành,

đạo Minh sư, đạo Tưởng, … nhằm tập hợp lực lượng. Đầu thế kỉ XX, có phong trào

nổi tiếng mang tên Thiên địa hội (1913 – 1916) do Phan Xích Long lãnh đạo.

Về tình hình tư tưởng, nhân dân Nam Bộ có nhu cầu tín ngưỡng rất lớn. Khi

đạo Cao Đài chưa ra đời, số đông nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho, một ít theo

Công giáo. Sang đầu thế kỉ XX, các tôn giáo ấy đều khủng hoảng, mất uy tín. Công

giáo bị nghi ngờ, thậm chí căm ghét, bởi nó gắn liền với sự xâm lược của thực dân

Pháp. Nho giáo trở nên không phù hợp với xã hội thuộc địa đang bị thực dân Pháp

cai trị, đang chuyển sang kinh tế thị trường với sự phát triển của công nghiệp và xu

hướng Âu hóa. Đạo Phật Tiểu thừa với phương châm “tự độ, tự tha”, khó hòa nhập

với lối sống của người Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vi từ mấy thế kỉ trước,

nay lại bị chia rẽ thành nhiều tông phái. Nói chung, sự suy sụp niềm tin đối với các

tôn giáo và đạo lý đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng, là điều kiện thuận

lợi cho đạo Cao Đài ra đời và phát triển.

Cơ sở quan trọng để đạo Cao Đài ra đời là tục cầu hồn, cầu tiên, nhất là tư

tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) đã có ở nước ta từ lâu đời, được

phục hưng ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX qua hoạt động của Ngũ chi Minh đạo. Thêm

vào đó, vào đầu những năm 1920, phong trào Thần linh học – một hình thức mê tín

của các nước phương Tây, tương tự như tục cầu hồn, đã thâm nhập vào Nam Bộ,

được một bộ phận tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức người Việt làm việc cho

Pháp đón nhận. Vào Nam Bộ, thần linh học hòa nhập với tục cầu cơ của Ngũ chi

Minh đạo tạo nên phong trào cầu cơ, chấp bút (cơ bút) khá sôi nổi trong những năm

1924 – 1925 – 1926 ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Thơ, Tân An,…, trực tiếp dẫn

đến việc ra đời của đạo Cao Đài.

Đạo Cao Đài chính thức ra đời ở Tây Ninh năm 1926. Khi mới ra đời, đạo là

một tổ chức thống nhất. Nhưng sau một thời gian ngắn, đạo có sự phân hoá và chính

thức chia rẽ thành nhiều chi phái.

Ở Bến Tre, đạo Cao Đài có 4 chi phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Tiên

Thiên, Cao Đài Minh Chơn Lý, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.

Phái Cao Đài Tây Ninh ở Bến Tre có 13 thánh thất, với 10.548 tín đồ.

Phái Cao Đài Tiên Thiên được thành lập năm 1927, Hội thánh trung ương

nằm ở Tiên Thủy, Châu Thành. Phái này có 127 thánh tịnh ở 14 tỉnh thành, với gần

45.000 tín đồ. Đến năm 2000, phái Cao Đài Tiên Thiên ở Bến Tre có 29 thánh tịnh,

với 10.948 tín đồ.

Cao Đài Minh Chơn Lý ở Bến Tre chỉ có một thánh thất – thánh thất Trường

Quy ở xã Bình Thới, Bình Đại, với 291 tín đồ.

Cao Đài Ban Chỉnh Đạo do ông Nguyễn Ngọc Tương thành lập ở Bến Tre

năm 1934. Ngay sau khi thành lập, phái này có 85 họ đạo trong 18 tỉnh thành. Theo

số liệu thống kê của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bến Tre, đến năm 2000, phái Cao Đài

Ban Chỉnh Đạo có 249 họ đạo ở 24 tỉnh thành. Riêng ở Bến Tre, phái này có 60

thánh thất, với khoảng 23.388 tín đồ. Hội thánh trung ương nằm ở phường 6 thị xã

Bến Tre.

Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo và Cao Đài

Tiên Thiên có nhiều đóng góp tích cực.

Trong kháng chiến chống Pháp, Cao đài Ban Chỉnh Đạo và Cao đài Tiên

Thiên là thành viên của Hội Cao Đài Cứu Quốc 12 phái hiệp nhất. Nguyễn Ngọc

Nhựt – phái Ban Chỉnh Đạo cùng với Nguyễn Văn Khảm – phái Tiên Thiên được

cử giữ chức phó chủ tịch của Hội [29, tr.140]. Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (phái

Ban Chỉnh đạo) đã hiến cho cách mạng nhiều tài sản như 130 mẫu rừng lá ở Giồng

Bãi – Thạnh Phú, cho ngành in Báo Kháng chiến tỉnh Bến Tre một máy in Pédale,

100 ký chữ, lò đúc chữ, giấy in và 3 máy đánh chữ; tặng cho Khu 8 một máy in vừa

mua với số tiền 32.000 đồng Đông Dương. [35, tr.156, 160, 387]. Giáo tông

Nguyễn Ngọc Tương thể hiện lập trường dân tộc, ủng hộ cách mạng của qua việc

quyết định thu nhận, phong chức cao cấp cho những người tham gia cách mạng như

Phạm Hồng Tiên, Nguyễn Chánh Nhì, Nguyễn Ngọc Thắng. Lập trường yêu nước

của giáo tông thể hiện rõ ở việc cho hai người con của mình tham gia kháng chiến,

đó là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, phó tư lệnh chiến khu 9, kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt,

ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ. Nhận xét về tinh thần, thái độ

của gia đình giáo tông, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: “Có thể nói gia

đình ông Nguyễn Ngọc Tương là một điển hình cho tầng lớp quan lại, địa chủ, tôn

giáo trí thức yêu nước của Nam Bộ thời đó. Với tâm hồn trong sáng, không hề suy

tính được mất; sẵn sàng tham gia cách mạng, dứt bỏ giàu sang, danh vọng. Lòng

yêu nước cháy bỏng đã giúp họ vượt qua tất cả, chịu đựng mọi gian khổ để cùng

đến với, đi với toàn thể dân tộc” [35, tr.8-11].

Trong kháng chiến chống Mỹ, trên cơ sở các chức sắc nòng cốt đã giác ngộ

cách mạng, năm 1955, một chi bộ Đảng đặc biệt gồm có 6 đồng chí là chức sắc Cao

Đài Ban Chỉnh được thành lập, do đồng chí Nguyễn Thành Phát làm bí thư. Ở phái

Tiên Thiên, một chi bộ Đảng cũng được thành lập do đồng chí Bùi Thị Bông làm bí

thư. Các chi bộ này giữ vai trò nòng cốt trong việc vận động chức sắc, tín đồ đứng

về phía cách mạng, làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ thù.

Sau khi bị Cao Đài Liên Hiệp Miền Tây – một tổ chức Cao Đài do Đặng Văn

Quang, trung tướng quân đội Sài Gòn lập ra, tấn công năm 1966, Cao Đài Ban

Chỉnh Đạo và Cao Đài Tiên Thiên rơi vào tình trạng mâu thuẫn nội bộ giữa lực

lượng chức sắc tiến bộ với số tiêu cực lạc hậu núp dưới danh Ban Bảo Vệ Thánh

Giáo. Số chức sắc tiến bộ của phái Ban Chỉnh Đạo do Hiến thế Trần Chí Thành

lãnh đạo rời khỏi Tổ đình Bến Tre lên Thánh thất Đô Thành (Sài Gòn) lập văn

phòng liên lạc. Phái Tiên Thiên, bộ phận chức sắc tiến bộ rút về thánh tịnh Ngọc

Sơn Quang (Vĩnh Long) để hoạt động. Tình trạng chi rẽ trong từng chi phái tồn tại

mãi đến đầu những năm 1990. Năm 1995, Cao Đài Tiên Thiên tổ chức Hội Vạn

linh, thành lập một giáo hội chung với tên gọi Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên. Năm

1997, Hội Nhơn sanh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo được tổ chức tại Tổ Đình Bến Tre

cũng đã nhất trí hợp nhất hai khối Ban Chỉnh Bến Tre và Ban Chỉnh Đô Thành,

thông qua Hiến chương và bầu cơ quan lãnh đạo Hội thánh.

Để ghi nhận công lao đóng góp của Cao Đài Ban Chỉnh đối với sự nghiệp

cách mạng, năm 1956, Chính phủ đã tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng

nhì cho Hội thánh Bến Tre. Huân chương ghi rõ thành tích của Hội thánh Bến Tre:

“Đã giữ vững thái độ trung thành với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, vận

động được đông đảo tín đồ tham gia kháng chiến cứu nước”. Bên cạnh đó còn có

nhiều vị chức sắc cao cấp khác đã được Đảng và Nhà nước tặng nhiều huân, huy

chương, như Khai pháp Huỳnh Văn Phùng ở Long An được tặng Huân chương

kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, cụ Tô Văn Pho được tặng Huân chương kháng

chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương độc lập hạng Nhì và còn nhiều chức

sắc, chức việc đạo tâm nam nữ hoặc Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương

và nhiều phần thưởng cao quý khác.Tổ quốc ghi công cho 1.300 liệt sĩ, 39 mẹ Việt

Nam anh hùng [33, tr.16].

Đối với phái Tiên thiên, Giáo tông Phan Văn Tòng được công nhận là Liệt sĩ

– Nhân sĩ yêu nước. Nguyễn Văn Ngợi, Ngọc Đầu sư phái Tiên thiên được tặng

Huân chương độc lập hạng 2, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng

nhất.

Đạo Dừa

Giáo chủ của đạo Dừa là ông Nguyễn Thành Nam. Nguyễn Thành Nam vốn

là con của một gia đình khá giả, quê ở huyện Châu Thành. Ông được đi du học tại

Pháp, lấy bằng kỹ sư hóa học. Về nước, sau những thất bại trong sản xuất xà phòng,

ông bỏ lên núi tu, mỗi ngày chỉ ăn vào giờ Ngọ với rau quả và uống nước dừa xiêm.

Sau khi tu một năm, năm 1952, ông về Bến Tre, tiếp tục tu “tịnh khẩu” trên một lều

cao trong vườn dừa. Lúc này ông cũng bắt đầu xưng giáo chủ của đạo do ông sáng

lập với tên gọi là “Đạo Dừa”.

Nguyễn Thành Nam đã nhờ đội ngũ phục dịch và cô em họ là Diệu Ứng

dùng mánh lới tuyên truyền, đánh vào tâm lý hiếu kỳ của nhiều người, nên đồng

bào nhiều nơi như Mỹ Tho, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu, Sài Gòn đến tìm hiểu

đạo ngày càng đông. Nơi truyền đạo của Nguyễn Thành Nam thuộc vùng giải

phóng nên thường bị giặc bắn phá. Do vậy, Nguyễn Thành Nam đã chuyển cơ sở về

Cồn Phụng.

Giáo lý của đạo Dừa rất nghèo nàn, chỉ gồm vài lý thuyết chắp vá từ Thiên

Chúa giáo, Phật giáo và một vài tôn giáo khác. Hệ thống tổ chức của đạo không rõ

ràng, không ai rõ số tín đồ của đạo là bao nhiêu. Đạo Dừa tồn tại được là nhờ sự

dung túng của bọn thực dân, đế quốc, nhằm lừa bịp chính trị hơn là hoạt động tôn

giáo.

Với tư cách là giáo chủ của đạo, Nguyễn Thành Nam từng ra tranh cử tổng

thống ngụy quyền. Sau năm 1975, Nguyễn Thành Nam tìm cách vượt biên, nhưng

chính quyền đã bắt được ông và đưa đi học tập cải tạo. Vì tuổi già sức yếu nên

chính quyền địa phương đã cho người nhà của ông lãnh về sống những ngày cuối

đời cùng với gia đình. Nhận thấy tính chất lừa bịp của đạo Dừa, tín đồ của đạo đã tự

nguyện bỏ đạo.

Đạo Tin lành

Đạo Tin lành du nhập vào Bến Tre năm 1925, do mục sư Nguyễn Châu

Thông truyền đến. Ban đầu, Nguyễn Châu Thông phải mướn hai căn nhà ở Thị xã

Bến Tre làm nơi giảng đạo. Năm 1957, một nhà giảng kiên cố mới được xây dựng

tại thị xã.

Đạo Tin lành ở Bến Tre không có hệ thống tổ chức từ tỉnh đến xã như các

tôn giáo khác. Nhà thờ Tin lành thường được gọi là nhà giảng. Tín đồ ở đây chủ yếu

đến nghe mục sư giảng và hát thánh ca, sau đó ra về.

Dưới thời kháng Mỹ, đạo Tin lành ở Bến Tre phát triển mạnh. Song, do hoàn

cảnh địa lý, việc đi lại khó khăn, do phong trào cách mạng ở Bến Tre khá cao, nên

đạo Tin lành không có điều kiện phát triển sâu ở nông thôn được.

Đến năm 2000, toàn tỉnh có 10 nhà giảng, 4770 tín đồ. Đại đa số tín đồ là

công chức, binh lính của chế độ cũ, tiểu chủ, tiểu thương, một số ít thuộc tầng lớp

phú nông, còn lại là thành phần lao động. Tính từ 1925, đạo Tin lành ở Bến Tre đã

qua 14 mục sư. Đa số mục sư thuộc loại trẻ, chỉ khoảng 40 tuổi trở lại, có trình độ

học vấn khá, được đào tạo công phu ở các trường của giáo hội. Cùng với việc tuyên

truyền về giáo lý, củng cố đức tin cho tín đồ, các mục sư còn rất quan tâm đến

những hoạt động xã hội, công tác từ thiện, phát triển các đoàn văn nghệ để tập hợp

lực lượng thanh thiếu niên.

Đạo Hòa Hảo

Đạo Hòa Hảo vào Bến Tre trong những năm 1945 – 1946. Do mục đích, hoạt

động của hàng chức sắc tôn giáo này thường gắn với các hoạt động vũ trang, đối lập

với đường lối kháng chiến lúc bấy giờ, nên đạo Hòa Hảo không dễ bắt rễ và lan

rộng trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng như Bến Tre.

Chính quyền Sài Gòn từng nhiều lần vũ trang cho lực lượng Hòa Hảo ở Bến

Tre, dùng họ để chống phá cách mạng nhưng không thành.

Trước 1975, đạo Hòa Hảo ở Bến Tre có 34 chức sắc, 4.800 tín đồ. Phần đông

các chức sắc là những sĩ quan, công chức chế độ cũ. Một số tín đồ, ban đầu do ngộ

nhận, về sau đã nhận thức được hoạt động thực của các chức sắc nên đã từ bỏ đạo.

Năm 1976, sau khi tiếp xúc với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc của tỉnh, tỉnh hội Hòa Hảo

Bến Tre đã tự giải tán. Đến cuối 1978, số tín đồ giảm còn 1.823, chủ yếu là tín đồ tu

tại gia. Số tín đồ tập trung đông nhất ở một số xã ở Chợ Lách, Châu Thành, Mỏ

Cày, Ba Tri. Năm 1999, đạo Hòa Hảo được nhà nước cho lập ban đại diện, có quy

chế hoạt động riêng, tín đồ Hòa Hảo trở lại đăng ký để tiếp tục tự do hành đạo theo

pháp luật. Năm 2000, số lượng tín đồ Hòa Hảo ở Bến Tre là 2.114.

Vùng đất Bến Tre có sự hiện diện của nhiều tôn giáo. Có tôn giáo theo cùng

bước chân của những lưu dân đi mở đất như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin

Lành. Có tôn giáo nảy sinh từ hiện thực sống và đấu tranh của nhân dân vùng đất

Nam Bộ nói chung, Bến Tre nói riêng như đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Dừa. Về

mặt ảnh hưởng cũng như số lượng tín đồ, ba tôn giáo chiếm vị trí nổi bật là đạo

Phật, đạo Thiên chúa và đạo Cao Đài.

Sự hiện diện của đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Dừa trên đất Bến Tre là

minh chứng cho đời sống tâm linh đa dạng, phức tạp của cư dân Bến Tre. Bất kỳ

tôn giáo nào cũng được nảy sinh trên cơ sở một hiện thực xã hội nhất định. Chính

hiện thực cuộc sống bần cùng, bi quan, chán nản và những bế tắc trong đấu tranh

chống ngoại xâm của nhân dân vùng đất Nam bộ nói chung, Bến Tre nói riêng đầu

thế kỷ XX là cơ sở quan trọng cho sự xuất hiện và tồn tại của các tôn giáo mới này.

Ở Nam Bộ, xưa kia có hai nơi được xem là đất thiêng, đó là vùng Bảy Núi và

núi Bà Đen. Vùng Bảy Núi là nơi ra đời của đạo Hoà Hảo, vùng Tây Ninh (có núi

Bà Đen) được những người sáng lập đạo Cao Đài chọn làm nơi xây dựng Toà

Thánh. Đất Bến Tre có cửa ngõ với bốn cồn Long, Lân, Qui, Phụng chào đón, có

sông Tiên Thuỷ, phải chăng cũng là vùng “địa linh” nên đã được hai chi phái của

đạo Cao đài – Cao đài Ban Chỉnh và Cao đài Tiên Thiên - chọn làm nơi tọa lạc của

thánh thất Trung ương. Vùng đất này cũng là nơi mà Nguyễn Thành Nam chọn để

“sáng lập” Đạo Dừa.

Tinh thần yêu nước là bản chất của con người Việt Nam. Bến Tre là mảnh

đất giàu truyền thống cách mạng. Có lẽ vì thế đa số tín đồ tôn giáo ở Bến Tre nói

chung đều tích cực tham gia kháng chiến chống xâm lược. Sự hiện diện của chi bộ

cộng sản trong Cao Đài Ban Chỉnh, Cao Đài Tiên Thiên là hiện tượng khá đặc biệt.

Điều này một mặt thể hiện tinh thần dân tộc của các tín đồ, chức sắc, mặt khác, thể

hiện tài năng tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo của Đảng bộ địa phương. Tinh thần

phụng sự tổ quốc của tín đồ có thể xem là nét nổi bật của các tôn giáo ở Bến Tre. Ở

những thời điểm nhất định, cũng có tôn giáo bị kẻ thù lợi dụng, thao túng nhưng

nhìn chung xu hướng gắn bó mật thiết với cách mạng là xu hướng nổi trội. Đại đa

số tín đồ các tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”.

2.3.3. Giáo dục

Từ buổi đầu khai phá đến trước năm 1867

Ý thức được giá trị của việc học, khi cuộc sống tương đối ổn định, lưu dân

bắt đầu quan tâm đến việc học của con em. Buổi đầu, việc học mang tính tự phát, do

từng nhóm cư dân lo liệu.

Chữ học là chữ Hán. Ở những gia đình có nhiều người học, có thể em học

anh, con học cha, cháu học ông. Học tại gia đình tiện lợi ở chỗ khỏi phải đi xa, tận

Ngoài hình thức học tại nhà, dân còn lập các lớp học, mời thầy dạy. Thầy đồ dụng được thời gian nhàn rỗi.

chủ yếu từ miền ngoài vào, được nhân dân gọi là “thầy đồ Huế” hay “thầy đồ

Quảng”. Ba Tri, Giồng Trôm, Châu Thành là những nơi có nhiều trường dạy chữ

nho nhất ở Bến Tre. Gần thị trấn Ba Tri ngày nay còn có “xóm thầy đồ”. Ở đây, trực

tiếp đứng lớp dạy học không chỉ có “ông đồ” mà còn có cả “bà đồ”, như trường hợp

của Sương Nguyệt Anh. Thầy giỏi thường thu hút học trò ở nhiều vùng lân cận.

Thầy giỏi ở Bình Phú (nay thuộc thị xã Bến Tre) thu hút học trò ở Mỹ Thành, Mỹ

Hóa, Bình Nguyên đến học. Trường của thầy Đồ Chiểu ở An Bình Đông thu hút

học trò ở nhiều vùng xa, thậm chí từ các tỉnh khác.

Các ngôi chùa ngày xưa, ngoài hoạt động tôn giáo còn là nơi dạy chữ. Nhiều

nhà sư, trước khi xuất gia, từng là những nho sĩ. Hòa thượng Lê Khánh Hòa (trụ trì

chùa Tuyên Linh – Mỏ Cày) là một vị thâm nho. Ông vừa dạy kinh Phật cho tăng ni, vừa dạy chữ Hán cho người ngoài đạo.

Theo Địa phương chí (1930): “khi chánh quyền Pháp nắm quyền cai trị tỉnh

này thấy được một thực tế là thiết lập học đường. Lúc đó có 70 trường dạy chữ nho

với sự giáo dục cổ xưa…” [46, tr.53].

Lớp học thời xưa không giống như trường lớp hiện tại. Phần lớn lớp học

được tổ chức tại nhà dân hoặc tại nhà thầy, ít có trường xây cất riêng. Đó có thể là

một ngôi nhà rộng rãi, đây vừa là nơi dạy, đồng thời cũng là nơi ăn nghỉ của thầy.

Học trò ngồi học trên chiếu hoặc trên bộ ván.

Triết lý Tống nho là nền tảng học tập. Sách học đầu tiên là Tam tự kinh. Học

xong sách này thì học sang Sơ học vấn tâm, Ấu học ngũ ngôn thi, Minh tâm bảo

giám. Bậc cao hơn, người học học các sách Tứ thư, Ngũ kinh. Phương pháp học

nặng về tầm chương trích cú, dễ tạo ra những người giáo điều sách vở. Song, nền

giáo dục ấy cũng đã nảy sinh những tinh hoa, những tài năng nổi tiếng. Trong 20

khoa thi, từ 1813 – 1861, tổ chức tại trường thi Gia Định cho thí sinh từ Bình Thuận

trở vào Nam, có 269 thí sinh đỗ, riêng Bến Tre có 31 người. Gia đình họ Bùi ở Đa

Hòa, huyện Duy Minh, nay là xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày, trong 11 năm, có 3

anh em đỗ cử nhân, đó là Bùi Minh Thành, Bùi Quang Nghi và Bùi Văn Phong [66,

tr.820]. Trong số những người đỗ đạt ấy không ít người có học thức uyên thâm như

Phan Thanh Giản, Phan Văn Trị, Hồ Văn Quang, Trương Vĩnh Ký.

Thời thuộc Pháp (1867-1945)

Sau khi chiếm được Nam kỳ, thực dân Pháp nhanh chóng thực hiện âm mưu

thiết lập nền giáo dục nô dịch. Việc học tập, thi cử bằng chữ Hán bị loại bỏ. Thay

vào đó là chữ Quốc ngữ. Mục đích giáo dục không phải để mở mang kiến thức cho

dân chúng mà nhằm cấp tốc đào tạo một đội ngũ tay sai người bản xứ.

Theo Địa phương chí (1930): năm 1868, ở Bến Tre, ngoài hai trường do hội

truyền giáo lập ra, còn có một trường dành cho dân chúng. Trường này đặt tại tỉnh

lỵ, là một căn nhà lá, dạy chữ Quốc ngữ, chữ Hán và một vài yếu tố căn bản về chữ

Pháp. Thầy giáo người Việt đảm trách giảng dạy, có 60 học sinh, trong đó có 20 học

sinh nội trú.

Năm 1875, trường này do một giáo sư người Pháp quản lý. Thời gian sau, có

thêm một phụ tá người Pháp. Dưới quyền hai giáo chức người Pháp, có một số giáo

chức người Việt. Sĩ số lên đến 100 [46, tr.53].

Năm 1879, tại Bến Tre, chính quyền thực dân cho thành lập một trường cấp

một và một trường cấp hai. Chương trình cấp một dạy Pháp văn, Hán văn và chữ

Quốc ngữ. Cấp hai dạy Pháp văn, số học, hình học, địa lý. Ngoài trường tỉnh, năm

1897, chính quyền thực dân còn cho thành lập 19 trường ở các tổng và làng xã trên

địa bàn Bến Tre.

Lúc đầu do ghét thực dân, đồng bào rất lạnh nhạt với việc học chữ Quốc ngữ,

rất ít nhà cho con đến trường do người Pháp mở. Hương chức trong làng phải đến

từng nhà, ghi tên trẻ, ép buộc đi học. Nhiều nhà giàu còn ảnh hưởng của nho giáo

tìm cách trốn tránh, không cho con em đến trường. Họ mướn những đứa trẻ con nhà

nghèo đi học thế con họ [62, tr.178]. Mặc dù chữ nho đã bị chính quyền thực dân

bãi bỏ, nhưng người ta vẫn tổ chức học chữ nho theo kiểu dân lập.

Đầu thế kỷ XX, ở Bến Tre đã xuất hiện một tầng lớp trí thức mới, những

người đã học trong các nhà trường của Pháp. Họ là Nguyễn Dư Hoài, Ca Văn

Thỉnh, Lương Khắc Ninh, Sương Nguyệt Anh… Điều đáng quý ở họ là chẳng

những họ không bị quyền lợi vật chất lôi kéo mà họ còn sử dụng vốn văn hóa, tri

thức thu nhận được từ nền giáo dục này để chống lại kẻ thù, vạch trần bộ mặt giả

nhân giả nghĩa của chúng. Nhiều thế hệ học sinh và giáo chức đã có những cống

hiến xuất sắc trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính họ

là những người tiếp nhận, ươm mầm cho cho chủ nghĩa Mac-Lênin nảy nở trên đất

Bến Tre.

Thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Thời kỳ này, ở Bến Tre, cũng như toàn Nam Bộ, hình thành hai khu vực, hai

hệ thống giáo dục, của địch và của chính quyền cách mạng.

Hệ thống thứ nhất do địch tổ chức trong vùng bị tạm chiếm, bao gồm các

khu vực thị xã, thị trấn, vùng ven các con đường chiến lược có đồn bót địch canh

giữ. Chương trình giảng dạy vẫn là những bài bản cũ được thêm thắt cho phù hợp

với cái mác “Chính phủ Nam kỳ tự trị” hay “Chính phủ Nam phần” của Bảo Đại

sau đó.

Trong các cơ sở giáo dục do địch quản lý, ngoài trường công còn có một số

trường tư. Đa số thầy giáo ở các trường tư đều có cảm tình với cách mạng, có người

nhận làm nội tuyến cho cách mạng. Họ tiếp nhận tài liệu giáo dục phía kháng chiến,

đưa vào giảng dạy cho học sinh, vận dụng những quan điểm tiến bộ để truyền thụ,

khơi gợi lòng yêu nước trong học sinh một cách kín đáo.

Hệ thống thứ hai được tổ chức ở những vùng kháng chiến. Chính quyền xây

dựng ngành giáo dục từ tỉnh đến xã, từ vùng du kích đến vùng căn cứ. Hệ thống

trường lớp được xây dựng, chủ yếu bằng cây lá đơn sơ.

Trường tiểu học kháng chiến được tổ chức để bổ túc kiến thức cho những

học sinh tham gia phong trào “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” và những cán

bộ xuất thân từ công nông. Tỉnh cũng gởi những học sinh có năng lực tốt đi học ở

các trường kháng chiến cấp miền. Nhiều người sau đó đã trở thành cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp tỉnh, cấp miền và các đơn vị quân đội. Một số người được gởi đi đào

tạo ở nước ngoài, trở thành những kỹ sư, bác sĩ, những nhà quản lý, chuyên gia

khoa học có uy tín.

Thành quả lớn nhất của giáo dục Bến Tre thời kỳ này là ở phong trào bình

dân học vụ và bổ túc văn hóa. Thực hiện chủ trương xóa nạn mù chữ cho toàn dân,

nhiều lớp bình dân học vụ cũng được mở ra ở các cơ quan, công xưởng, bệnh viện,

trong các đơn vị vệ quốc đoàn. Người biết chữ làm nhiệm vụ dạy cho người chưa

biết chữ. Khắp xóm thôn, kể cả khu vực gần đồn bót địch, các lớp bình dân học vụ

mọc lên đều khắp.

Thời chống Mỹ (1954-1975)

Hệ thống giáo dục của chính quyền Sài Gòn

Đế quốc Mỹ xem giáo dục là công cụ phục vụ cho chính sách cai trị của

chúng ở miền Nam. Chính vì mục tiêu này, Mỹ ngụy đã có rất nhiều cố gắng nhằm

loại bỏ ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp, được coi là nặng về lý thuyết và mang

tính chất từ chương, để thay bằng một nền giáo dục có tính chất thực dụng hơn, theo

kiểu Mỹ.

Bên cạnh hệ thống trường công, chính quyền Sài Gòn còn khuyến khích mở

các trường tư, trường học của các tôn giáo. Ngoài các trường của Thiên Chúa giáo,

các tôn giáo như Phật, Cao Đài đều có trường riêng.

Thực chất của nền giáo dục này là một công cụ nô dịch kiểu mới, rất tinh vi

và xảo quyệt.

Tuy nhiên, tình hình không diễn ra suông sẻ như chúng dự kiến. Các phong

trào đấu tranh yêu nước của học sinh, sinh viên diễn ra liên tục như phong trào

“Chống bắt lính”, phong trào “chống quân sự hoá học đường”, phong trào “Vãn hồi

hoà bình cho xứ sở”…

Hệ thống giáo dục cách mạng

Sau Hiệp định Genève, giáo viên của tỉnh chia thành hai bộ phận, một số ra

Bắc học tập, chuẩn bị cho kế hoạch tương lai; một bộ phận ra sống hợp pháp, tiếp

tục hành nghề, mở trường tư.

Ban đầu, một số giáo viên kháng chiến tổ chức một trường tư thục tại Mỹ

Lồng, nơi có cơ sở cách mạng mạnh. Từ kinh nghiệm ở đây, nhiều trường tư thục

được mở ra ở các nơi như trường tư thục Bình Hòa, Châu Thới (Giồng Trôm),

trường Hàm Luông, Phong Châu, Cộng Hòa, Lê Lợi, Tân Dân, Lạc Long Quân ở

Thị xã. Ở Mỏ Cày, Chợ Lách, Châu Thành, Bình Đại, tuy có nhiều khó khăn, nhưng

nhiều giáo viên kháng chiến cũng đã được cài vào các trường tư. Giáo viên ở các

trường này đã khéo léo đưa nội dung giáo dục tiến bộ và yêu nước vào giảng cho

học sinh.

Những năm 1958-1959, địch khủng bố gắt gao, nhiều giáo viên bị bắt, bị tù,

nhiều cơ sở cách mạng trong các trường tư bị vỡ.

Sau Đồng khởi, vùng giải phóng được mở rộng, giáo dục có điều kiện phát

triển. Đầu năm 1962, tiểu ban giáo dục của tỉnh được thành lập, có hệ thống chân

rết đến tận cấp huyện, cấp xã. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được phát động,

được nhân dân nô nức hưởng ứng với khí thế sôi nổi như những năm đầu kháng

Pháp.

Bên cạnh hệ thống các trường phổ thông, tỉnh còn tổ chức hệ thống các

trường bổ túc văn hóa để dạy cho con em liệt sĩ, thương binh. Tất cả các xã trong

vùng giải phóng đều có trường học. Số lượng học sinh lên đến 60.000 em [66,

tr.830].

Trong điều kiện chiến tranh, cả thầy và trò đều được quân sự hóa. Khi yên

tĩnh thì tổ chức học tập, lúc có địch càn thì cất giấu sách vở, cầm vũ khí ra chiến

hào để chiến đấu. Nhiều trường vừa tổ chức học, vừa sản xuất để tự túc, bảo đảm

việc ăn ở, giấy bút cho thầy lẫn trò.

Nếu như trong kháng Pháp, Bến Tre là một trong những tỉnh có phong trào

giáo dục phổ thông và bình dân học vụ mạnh nhất Nam Bộ thì trong kháng chiến

chống Mỹ, giáo dục Bến Tre là lá cờ đầu của Khu 8.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng

Sau giải phóng, nhiệm vụ đặt ra là xóa bỏ cơ cấu tổ chức, nội dung chương

trình, sách giáo khoa của chế độ cũ, thay vào đó là chương trình, nội dung giảng dạy

do Bộ Giáo dục hướng dẫn. Đội ngũ giáo viên của chế độ cũ để lại được tổ chức

học tập, cải tạo, bồi dưỡng, chọn lựa những giáo viên có phẩm chất, năng lực để

phục vụ cho sự nghiệp giáo dục của chế độ mới.

Với gần 300 giáo viên kháng chiến làm nòng cốt, chỉ trong thời gian ngắn,

ngành giáo dục đã thiết lập bộ máy quản lý từ tỉnh đến tận cơ sở. Tỉnh gấp rút đào

tạo giáo viên cấp I để có đủ số lượng thầy cô phục vụ giảng dạy ở những xã vùng

kháng chiến, vùng sâu. Năm học 1976-1977, tỉnh đã xây dựng được hệ thống

trường lớp, các ngành học, bậc học, thu hút 194.632 học sinh các cấp.

Sau 25 năm xây dựng và phát triển (1975-2000), mạng lưới trường lớp được

xây dựng đều khắp trên địa bàn của tỉnh. Đến năm học 1999-2000, toàn tỉnh có 176

trường tiểu học, 95 trường trung học cơ sở, 15 trường trung học cấp 2-3, 16 trường

trung học phổ thông, hầu hết các xã trong tỉnh đều có trường mẫu giáo. Với hệ

thống mạng lưới trường như vậy, tỉnh đã huy động được 81,5% số cháu 5 tuổi vào

lớp mẫu giáo, 95,9% trẻ trong độ tuổi vào tiểu học, 89.429 học sinh trung học cơ sở,

30.461 học sinh trung học phổ thông, bình quân, cứ 100 người dân, có 4 người đi

học phổ thông. Tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học năm 1997

[66, tr.836].

Song song với việc phát triển hệ thống giáo dục phổ thông, tỉnh cũng chú

trọng đến việc xây dựng hệ thống trường lớp bổ túc văn hóa. Trung tâm giáo dục

thường xuyên ở các huyện đảm nhận tổ chức các lớp bổ túc trung học phổ thông.

Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh liên kết với các trường đại học tổ chức các

lớp đại học, trung học tại chức nhằm đáp ứng nhuu cầu nâng cao trình độ của cán

bộ, công chức và nhu cầu học tập của nhân dân.

Ngành giáo dục chuyên nghiệp gồm có các trường Cao đẳng Sư phạm, Trung

học Kinh tế – Kỹ thuật, Trung học Công nghiệp – Kỹ thuật, Trung học Y tế, Nghiệp

vụ Thể dục thể thao, Nghiệp vụ Văn hóa – Thông tin. Từ 1990 – 1999, các trường

chuyên nghiệp đã đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho hơn 50.000 lượt

người [66, tr.833-837].

Nhìn chung, từ sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, ngành giáo

dục của Bến Tre không ngừng phát triển về qui mô, chất lượng, góp phần tích cực

trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Với những thành tích

đạt được, ngành giáo dục của tỉnh đã được nhà nước trao tặng Huân chương lao

động hạng nhất.

So với nhiều địa phương khác ở Nam Bộ, Bến Tre là vùng đất hẻo lánh, đầy

khó khăn, cách trở. Khó khăn lớn nhất là điều kiện đi lại, phải qua nhiều sông ngòi,

kênh rạch. Trở ngại này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học hành của người dân.

Bến Tre không phải là vùng đô thị như Sài Gòn, có nhiều điều kiện thuận lợi về

trường lớp, thầy dạy. Đây cũng là một hạn chế, ảnh hưởng đến tình hình giáo dục

của vùng đất này.

Dù có những khó khăn, hạn chế như vậy, nhưng do ý thức được tầm quan

trọng của việc học, giá trị của chữ nghĩa, nên người dân Bến Tre đã khắc phục khó

khăn để đưa con em mình đến lớp.

Đến vùng đất mới, sau một thời gian ổn định cuộc sống, lưu dân đã bắt đầu

quan tâm đến việc học. Dưới thời phong kiến, việc học chủ yếu do người dân tự lo

liệu. Phải đến khi Cách mạng Tháng Tám – 1945 thành công, việc học hành của

nhân dân mới được chính quyền cách mạng thật sự quan tâm. Đương nhiên, trong

hoàn cảnh chiến tranh, điều kiện học hành cũng chưa thuận lợi.

Trong khoảng thời gian thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và thống trị,

chúng đã sử dụng giáo dục như một công cụ thống trị. Trường lớp cũng được mở

ra, song chủ yếu là để đào tạo đội ngũ tay sai, để tuyên truyền cho chính sách xâm

lược, thống trị của chúng. Dù vậy, nền giáo dục này cũng đã đào tạo được nhiều

nhân tài, sử dụng kiến thức giáo dục từ nền giáo dục của kẻ thù để chống lại kẻ thù,

góp nhiều công sức cho sự nghiệp cách mạng.

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, mặc dù phải đương đầu với nhiều

khó khăn, nhưng chính quyền và nhân dân cũng đã quan tâm chăm lo cho sự nghiệp

giáo dục.

Qua các thời kỳ, sự nghiệp giáo dục ở Bến Tre đã đào tạo được nhiều lớp

nhân tài, là những cán bộ lãnh đạo, những chiến sĩ cách mạng, đã cống hiến sức

mình cho sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước.

Truyền thống vượt khó để học tập của người dân Bến Tre rất cần được các

thế hệ hiện tại và mai sau tiếp tục phát huy.

2.3.4. Văn học

Văn học dân gian

Văn học dân gian Bắc Bộ, nơi người Việt định cư lâu đời, gắn với núi cao

hùng vĩ, những con đê lớn, những dòng sông bao phen gây lũ lụt. Văn học dân gian

Bến Tre được sinh ra từ vùng đất mới, có tuổi đời trẻ hơn nhiều so với vùng đất cổ

xưa của dân tộc. Trong văn học dân gian Bến Tre, không có những nhân vật như

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, mà phổ biến là những bài ca, những câu chuyện kể về một

thời cầm mác đánh cọp, cầm lao đâm cá sấu, cầm phảng phác cỏ, đào mương lên

liếp…

Ở thể loại truyện kể, truyền thuyết chiếm số lượng khá lớn. Đó là những

truyện kể về những nhân vật thời khai phá, phản ánh công cuộc chinh phục thiên

nhiên đầy gian lao, nguy hiểm, như truyện ông Yến đánh cọp ở Tân Hưng, ông Hớn

săn nai, ông Vệ Thạnh thuần dưỡng cọp, cưỡi cọp đi ăn đám giỗ, ông Gốc dùng

mác giết cá sấu đang đẻ, truyện bắt cá sấu trên sông Tiên Thủy bằng mồi vịt sống ở

giữa lòng sông… Ngoài việc đề cao sức mạnh của lớp người đi mở đất, truyền

thuyết ở Bến Tre còn ca ngợi lòng dũng cảm, sự thông minh, tính năng động của họ

trong quá trình thích nghi với điều kiện tự nhiên của vùng đất cù lao.

Bên cạnh những truyền thuyết phản ánh cuộc đấu tranh với thiên nhiên, còn

có những truyền thuyết về đấu tranh xã hội. Đó là những giai thoại, truyện kể về

ông già Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tòng, Tán Kế, Trịnh Viết Bàng… Họ là

những nhân vật can trường, bất khuất, ngang tàng, nghĩa hiệp, giàu lòng nhân ái.

Ngoài ra, ở Bến Tre còn có khá nhiều truyền thuyết về địa danh. Loại truyền

thuyết này cung cấp những chứng cứ có liên quan đến nguồn gốc tên làng, tên sông

rạch, bưng, cồn, bến, bãi… Đó là những sự tích về những vùng đất Giồng Văn,

Giồng Võ ở Mỏ Cày, Giồng Trâu Cheo, ấp Cá Đuối ở Bình Đại; Cồn Ốc, Bàu Dơi,

Chợ Hương Điểm ở Giồng Trôm; Gò Trụi, Đầm Liệt Địa ở Ba Tri; sông Tiên Thủy

ở Châu Thành…

Nói tiếu lâm, nói dóc là hình thức sinh hoạt văn hóa được nhiều người ưa

thích ở vùng nông thôn. Ở Bến Tre, truyện trạng chiếm vị trí khá nổi bật. Đây là hệ

thống những truyện kể do những người “nói láo như thật” bịa ra. Vùng Châu Bình

có ông Ba Me, vùng Cẩm Sơn có ông Bảy Lẹ, vùng Đại Điền có Ông Bàng, vùng

Định Thủy có ông Ó… Họ vừa là nhân vật trung tâm của các câu chuyện, vừa là

người sáng tạo ra truyện. Trong số này, tiêu biểu nhất là ông Ó và truyện ông Ó.

Người ta sưu tập được 26 truyện ông Ó. Đối tượng của tiếng cười là những tên quan

ngu dốt, là bọn hương chức tham ăn, những kẻ cậy quyền thế hiếp đáp dân chúng.

Tiêu biểu có các truyện như Câu đối của anh học trò, Ông hương đi ăn đám giỗ.

Khá nhiều truyện cười phê phán những kẻ buôn thần bán thánh, lừa bịp những

người nhẹ dạ cả tin như các truyện Thầy thuốc học lội, Thầy bói sợ mắc mưu, Chổi

lông gà.

Ông Ó vừa có điểm chung của các nhân vật trong kho tàng truyện trạng Việt

Nam, vừa có những điểm riêng của vùng đất Bến Tre. Điểm chung, ông Ó cũng là

nhân vật trung tâm của các câu chuyện cũng như Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Ba Giai

Tú Xuất…, dùng tài nói láo để tạo tiếng cười phê phán xã hội phong kiến. Điểm

riêng của ông Ó so với các nhân vật trạng khác ở chỗ, ông không phải là người có

nhiều chữ nghĩa như các nhân vật trạng khác, mà chỉ là người nông dân chân lấm

tay bùn, là một trong số những người vốn không nhiều chữ nghĩa đến khai phá vùng

đất cù lao.

Trong các thể loại văn học dân gian, ca dao có số lượng tác phẩm lớn hơn cả.

Ca dao Bến Tre cũng như ca dao ở những vùng miền khác, vẫn là những bài ca về

tâm tư tình cảm của con người đối với quê hương, tình cảm lứa đôi, gia đình, thái

độ đối với kẻ thù… Song, do chịu sự tác động của những điều kiện tự nhiên, xã hội,

lịch sử, con người ở vùng đất này, ca dao Bến Tre vẫn có những nét riêng.

Nếu làng mạc ở đồng bằng Bắc Bộ là một đơn vị hành chính độc lập, riêng

biệt với luỹ tre bao bọc xung quanh, thì làng mạc ở Bến Tre trải dài theo sông rạch

và trục đường giao thông. Làng mạc để lại dấu ấn đặc biệt trong tâm tư của con

người vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chính vì vậy, ca dao miền Bắc thường xuất hiện

những câu ca ngợi về làng mình như: Làng tôi có luỹ tre xanh, làng ta phong cảnh

hữu tình… Ca dao Bến Tre không thấy những câu giới thiệu về làng ta, làng tôi, mà

phổ biến hơn cả là những câu cao dao giới thiệu những sản vật, những đặc sản của

cả một vùng như:

Bến Tre biển rộng sông dài

Ao trong nuôi cá bãi ngoài thả nghêu

……

Bến Tre giàu mía Mỏ Cày

Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn

Bình Đại biển cá, sông tôm

Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng

Cây dừa là loài cây gắn bó bao đời với làng mạc, sông nước Bến Tre; dáng

đứng của dừa được xem là dáng đứng Bến Tre. Dừa trở thành hình ảnh quen thuộc

trong ca dao Bến Tre.

- Bến Tre nước ngọt lắm dừa

Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm

- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

- Giã ơn ai có cây dừa

Cho tôi bóng mát đợi người tôi thương…

Tác giả Nguyễn Phương Thảo trong công trình Văn học dân gian Bến Tre đã

nhận xét: “Đến với ca dao Bến Tre là đến với biển Đông sóng dậy cát đùa, nước

ròng bỏ bãi xa cừ, cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh, vườn dừa cây cao

cây thấp, cây bần gie, bụi trúc ngã quì, cây mù u bông trắng nhụy huỳnh… Có thể

nói, ca dao Bến Tre tràn đầy hình ảnh của thiên nhiên của một vùng đất cửa sông

giáp biển” [70, tr.60].

Ca dao cũng gợi lại cội nguồn, gốc gác dân cư:

- Anh về ngoài Huế thắt rế tai bèo

Gởi vô em bán đỡ nghèo đôi năm

- Anh về ngoài Huế lâu vô

Họa bức tranh đồ để lại em coi

Tình yêu của các đôi trai gái thể hiện rất mãnh liệt, thủy chung, son sắt qua

ca dao:

- Dao phay kề cổ không màng

Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông.

- Sông dài cá lội biệt tăm

Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ

Ca dao còn lên án những kẻ phản bội quê hương, hàng giặc:

Cha đời mấy đứa theo Tây

Mồ ông, mả bố voi dày biết chưa?

Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, người dân Bến Tre thường sử dụng những

câu thành ngữ, tục ngữ phổ biến trong cả nước như Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, Làm

ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng, Mua heo chọn nái, kiếm gái lựa dòng…

Đồng thời người ta cũng thường sử dụng những tục ngữ, phương ngôn mang sắc

thái địa phương. Trong quá trình đấu tranh thiên nhiên, trong sản xuất, người ta tích

lũy được kinh nghiệm: Ba mươi nước kém, mồng mười nước rong, Đầu mùa trồng

chuối cuối mùa trồng cau, Dừa giao lá, cá giao đuôi… Có những câu mang ý nghĩa

phê phán, răn dạy như Ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi, Cờ bạc không kịp

lúa chín… Phương ngôn phản ánh sản vật của địa phương có những câu như: cau

xẻo sâu, mắm còng Châu Bình, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, nem Mỏ

Cày, thuốc giồng Mỏ Cày, trái cây Cái Mơn, muối hột Cầu Ngang, khoai lang ở

Gảnh, lụa Ba Tri, chiếu Nhơn Thạnh. Nói về tính cách cương trực, tinh thần đấu

tranh vì lẽ phải của người nào đó, người ta thường ví đó là “ông già Ba Tri”.

Hò là loại hình nghệ thuật ca hát dân gian được người ta rất ưa chuộng. Cuộc

sống trên sông nước làm cho người ta dễ “tức cảnh sinh tình”, cất tiếng hò để giải

khuây, để quên đi những đoạn đường dài, để gởi gắm những ước mơ, hoài bảo hoặc

giải bày tâm sự, tự tình. Các điệu hò đã ra đời trong hoàn cảnh như thế.

Khung cảnh thiên nhiên với sông rạch hiền hòa, với những cánh đồng bao la trải

rộng đã làm cho tiếng hò ở đây khá thanh thản, thong dong. Nội dung của các câu

hò xoay quanh thơ ca dân gian lao động, thơ ca dân gian trữ tình. Môi trường lao

động như chèo ghe trên sông, cấy lúa trên đồng là bối cảnh để cho hò phát sinh và

tồn tại. Tình yêu lứa đôi là chủ đề bao trùm của hò.

Lòng thủy chung được cô gái khẳng định:

“Bạn ơi chim lẻ bạn còn bay về nơi non đảnh

Còn cảnh nhớ thương là tình cảnh mặn nồng

Dù cho vợ của trang tử kia có lỗi đạo thờ chồng,

Còn em đây xin vẹn giữ một dạ một lòng như chị Nguyệt Nga…”

Người con trai, khi yêu thì bất chấp, đôi khi còn tỏ ra bướng bỉnh:

“Phụ mẫu anh đánh quằn đánh quại

Đem anh ra treo tại nhành dương

Phụ mẫu của anh biểu anh từ ai, anh từ đặng

Biểu từ người thương thì anh không đành…”

(Hò cấy lúa ở Phú Lễ, Ba Tri) [70, tr.17-18].

Vào mùa cấy, khoảng tháng 6, 7, 8 âm lịch, đồng ruộng trở nên xôn xao, sôi

Trong các loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian ở Bến Tre còn có hát sắc động bởi tiếng hò. Nhiều cặp trai gái vì thích nhau giọng hò mà trở thành chồng vợ.

bùa ở Phú Lễ. Theo các nhà nghiên cứu, hát sắc bùa là “một hình thức dân ca nghi

lễ – hát chúc mừng năm mới – của hai dân tộc Mường và Việt”[9, tr.123]. Với

người Mường ở Hòa Bình “sắc bùa” là hình thức sinh hoạt chúc mừng năm mới của

họ. Với người Việt, loại hình dân ca nghi lễ này thể hiện dưới hai dạng: múa sắc

bùa và hát với dàn nhạc đệm, có mặt ở một số vùng như Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên –

Huế, Quảng Ngãi…

Theo bước chân của những lưu dân đi khai phá, hát sắc bùa đã vào vùng đất

Nam Bộ, trong đó có Phú Lễ (Ba Tri – Bến Tre). Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia

Định thành thông chí: “ở Nông Nại (tức Đồng Nai), đến cuối năm, vào đêm 28

tháng chạp, có na nhân (tục danh Nậu sắc bùa) đánh trống mọi, gõ bản phách, mười

lăm người làm một bọn, đi rong khắp phố, xóm, nhà nào hào phú thì đẩy cửa mà

vào, dán bùa vào các cửa, niệm đọc thần chú, trống phách, tiếp đến lời hát chúc

mừng. Chủ nhà lập tức đem cỗ bàn chè rượu thết đãi, và phong tiền thưởng tạ. Lại

đi đến nhà khác cũng như thế, đến trừ tịch (30 Tết). Cũng là ý đuổi tà tống ma, bỏ

năm cũ đón năm mới vậy” [22, tr.143].

Dù tồn tại trên nhiều địa bàn khác nhau, nhưng hình thức sinh hoạt dân ca

nghi lễ này đều có chung mục đích là cầu sinh sôi nảy nở, xua tà đuổi quỷ, mang

bình yên đến cho mọi người, cầu cho năm mới tốt lành.

Bên cạnh nét chung về mục đích của loại hình dân ca này ở các vùng, hát sắc

bùa ở Phú Lễ có một số nét riêng.

Nếu như nhạc cụ của đội hát sắc bùa của người Mường là 12 cái chiêng thì

nhạc cụ của đội hát sắc bùa ở Phú Lễ là trống cơm, đàn cò, sanh tiền, sanh cái. Biên

chế mỗi đội hát không cố định, có khi là 4 người, có khi là 6 người.

Mỗi cuộc hát chia thành nhiều chặng. Đến cổng nhà, đội hát nổi trống, dạo

đàn, gõ sanh và hát bài khai môn. Vào nhà, dưới sự chỉ đạo của ông bầu, đội hát bài

chúc xuân và chúc đức ông, đức bà. Sau đó, tùy theo nghề nghiệp của chủ nhà mà

đội chọn những bài hát chúc khác nhau, nội dung chủ yếu là ca ngợi các ngành

nghề. Sau phần biểu diễn có tính chất nghi lễ là phần trình diễn mang tính giải trí.

Ở người Mường, phần giúp vui chủ yếu là cuộc hát đối đáp giữa gia chủ và

thày thường (ông bầu, người dẫn đội). Nội dung hát mang tính chất giao duyên. Ở

Phú Lễ, đề tài hát giúp vui khá phong phú, đó là những bài vè, bài lý như: Vè cá

biển, Lý lơ thơ, Lý tháng giêng, Lý đầu cầu… Trong hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và chống Mỹ, nội dung các bài hát còn bám sát những biến cố lịch sử ở địa

phương, chẳng hạn có các bài như: chống Tây ruồng Phú Lễ, Kỷ niệm năm thứ ba ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Diệt tiểu đoàn Ó đỏ…

Hiện nay, trên địa bàn Nam Bộ, hát sắc bùa chỉ còn ở Phú Lễ.

Văn học dân gian được hình thành và phát triển trong sự tác động của

những điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử, con người của một vùng đất cụ thể. Văn

học dân gian Bến Tre cũng như văn học dân gian ở những vùng miền khác, vẫn là

những bài ca, những câu chuyện phản ánh tâm tư tình cảm, khát vọng, tinh thần,

thái độ của con người trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội.

Tính chất mới mẻ, nét riêng của vùng đất đã tác động đến sự hình thành phát

triển của văn học dân gian Bến Tre. Hình tượng trong văn học dân gian Bến Tre,

không có những vị thần như Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, thay vào đó là những câu chuyện

kể về những con người cầm mác, cầm dao chống thú dữ, cầm phảng khai hoang.

Thiên nhiên vùng sông nước được thể hiện khá đậm nét trong các loại hình

sáng tác dân gian, từ truyện kể, truyền thuyết, truyện trạng, truyện cười đến ca dao,

dân ca… Nếu như các sáng tác dân gian miền Bắc mang những hình ảnh về cây đa,

bến nước, lũy tre, con đò; các sáng tác dân gian miền Trung mang hình ảnh núi

cao, dốc đứng, biển biếc; các sáng tác dân gian Bến Tre đã bổ sung cho bức tranh

thiên nhiên Việt Nam những hình ảnh của vùng đồng bằng với những dòng sông

cuộn chảy, những con rạch đôi bờ xanh ngát, những rừng dừa nước, rừng bần, cây

trái miệt vườn… Cũng từ các sáng tác ấy, hiện lên phẩm chất và bản lĩnh của con

người Bến Tre với những đức tính của người miền Nam như cương trực, nghĩa khí,

phóng khoáng, chân chất, ngang tàng.

Trong công trình nghiên cứu về Dân ca Bến Tre, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và nhà

thơ Lê Giang đã nhận xét: “Bến Tre là một trong những cái nôi của nguồn dân ca

Nam Bộ. Là nơi kế thừa và phát triển nhiều làn điệu dân ca muôn màu muôn vẻ làm

phong phú thêm kho tàng văn học dân gian, mang dấu ấn một vùng sông nước và

đồng bằng trên lưu vực các nhánh sông Cửu Long” [88, tr.9].

Văn học viết

Từ khởi thủy đến đầu thế kỷ XX

Buổi đầu khai phá, do phải ưu tiên cho việc lo cái ăn cái mặc nên cư dân

chưa có điều kiện quan tâm đến giáo dục. Do hiểu được giá của thất học, lập làng

xong, cư dân liền tìm thầy để dạy chữ cho con. Năm 1867, khi xâm lược Bến Tre,

thực dân Pháp thừa nhận, trên 2 cù lao Bảo và Minh có 70 trường dạy chữ Hán.

Chính sự phát triển của giáo dục, sự phổ biến chữ Hán, chữ Nôm, sự ra đời của đội

ngũ những ông Nghè là điều kiện để văn học chữ viết ở Bến Tre phát triển.

Chữ Hán, chữ Nôm là phương tiện sáng tác của các nhà văn, nhà thơ ở Bến

Tre trong giai đoạn đầu.

Tác giả mở đầu cho văn học chữ viết Bến Tre có thể xem đó là Lê Văn Đức,

Lê Văn Đức quê ở Bảo Hựu, đỗ cử nhân khoa Quý Dậu (1813). Ông từng được bổ

nhiệm giữ các chức vụ như Hiệp biện đại Học sĩ, Thượng thư Bộ Lại, bộ Lễ, bộ

Binh, kinh lược sứ Nam kỳ. Ông có công trong việc tiễu trừ nhóm Nông Văn Vân ở

Bắc kỳ năm 1835, chiến thắng quân xâm lược Xiêm ở Trấn Tây năm 1840. Lê Văn

Đức là người văn võ song toàn. Tác phẩm tiêu biểu của ông có Chu Nguyên Tạp

Vịnh, Lời bạt cho cuốn Kính Hải Tục Ngâm của Lý Văn Phức.

Sau Lê Văn Đức là Phan Thanh Giản. Phan Thanh Giản (1796 – 1867) quê

làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba

Tri, tỉnh Bến Tre. Phan Thanh Giản đỗ tiến sĩ năm 1826, là người đầu tiên của Nam

kỳ đỗ đại khoa. Ông làm vua dưới các đời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Sau khi

để mất thành Vĩnh Long năm 1867, ông đã tử tiết. Xung quanh sự nghiệp chính trị

của ông vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, song về mặt văn hóa, ông có nhiều đóng

góp. Tác phẩm của ông được tập hợp lại trong Lương Khê thi thảo và Lương Khê

văn tập. Dưới triều Tự Đức, ông được giao chức Tổng tài Quốc sử quán, chủ biên

nhiều công trình quan trọng, nổi bật hơn hết là Khâm định Việt sử thông giám

cương mục.

Thời Pháp thuộc, giao lưu văn hóa Pháp Việt đã dẫn đến sự thay đổi chữ viết

trong văn học cả nước nói chung, Bến Tre nói riêng. Trương Vĩnh Ký là người đi

đầu trong việc sử dụng chữ Quốc ngữ để sáng tác.

Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) quê ở làng Vĩnh Thành, Chợ Lách. Ông đọc

và nói được nhiều ngôn ngữ phương Tây lẫn phương Đông, được các học giả

phương Tây đương thời xếp vào danh sách 18 văn hào của thế giới. Trương Vĩnh

Ký để lại 118 tác phẩm bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Hán. Đối với văn học

dân tộc nói chung, văn học Nam Bộ nói riêng, ông đã có nhiều đóng góp trong việc

sưu tầm, biên soạn, phiên âm nhiều tác phẩm như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Đại

Nam quốc sử diễn ca, Hịch Quản Định, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Gia Định thất

thủ vịnh…

Thế kỷ XVIII – đầu XX là thời kỳ xã hội phong kiến lâm vào tình trạng

khủng hoảng, tiếp sau đó là sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp trên đất

nước ta. Hiện thực thời đại vừa là đối tượng miêu tả vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển của văn chương. Thái độ đối với kẻ thù dân tộc là tiêu chuẩn phân định

giá trị, vị trí của tác phẩm.

Nguyễn Đình Chiểu được xem là tác giả mở đầu trào lưu tư tưởng chống

Pháp, yêu nước trong văn chương.

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh tại làng Tân Thới, huyện Bình

Dương, tỉnh Gia Định. Ông đỗ tú tài năm 1843, bị mù lòa lúc 25 tuổi, ở nhà dạy học

và sáng tác thơ văn. Pháp chiếm thành Gia Định, ông về quê vợ ở Cần Giuộc, sau

đó rời Cần Giuộc về Ba Tri sống cho đến cuối đời.

Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu lấy đối tượng miêu tả là lãnh tụ

các nhóm nghĩa quân, quần chúng nhân dân. Ông ca ngợi lòng quả cảm, tinh thần

yêu nước, bất khuất của họ. Những năm tháng sáng tác ở Bến Tre, ông có những tác

phẩm tiêu biểu như: thơ Điếu Trương Định, thơ Điếu Phan Ngọc Tòng, Văn Tế

nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh… Chính con người và truyền thống lịch sử của vùng đất

này là nguồn cảm hứng cho nhà thơ có những tác phẩm quý giá. Các tác giả quyển

Tuyển tập Văn học chữ viết Bến Tre cho rằng: “những năm tháng ở Bến Tre, cây đại

thụ Nguyễn Đình Chiểu đã được trồng ở một mảnh đất màu mỡ phù sa” [60, tr.13].

Với người Bến Tre đương thời và cả sau này, Nguyễn Đình Chiểu có uy tín lớn cả

nhân cách lẫn văn chương.

Ngoài Nguyễn Đình Chiểu, dòng văn học yêu nước kháng Pháp ở Bến Tre

còn có hai tác giả lớn đó là Phan Văn Trị và Trương Gia Mô.

Phan Văn Trị (1830-1910), người làng Hưng Thạnh, huyện Bảo An. Năm 20

tuổi (1849) ông đỗ cử nhân. Chán ghét quan trường thối nát nên ông không ra làm

quan mà về dạy học ở Bình Cách (Tân An), sau đó lui về ẩn dật, dạy học ở Phong

Điền, Cần Thơ và mất tại đây. Phan Văn Trị là một trong những người sáng lập ra

Bạch Mai thi xã ở Gia Định. Ông sáng tác khá nhiều thơ và hầu hết là thơ Nôm.

Phan Văn Trị nổi tiếng với cuộc bút chiến bằng thơ giữa ông và Tôn Thọ Tường,

một tai sai đắc lực của thực dân Pháp.

Trương Gia Mô (1866-1929) sinh tại làng Tân Hào, huyện Bảo An. Ông là

người có học vấn uyên bác, được nhiều người nể phục. Năm 1892, khi làm thừa

phái ở Bộ Công, ông đã dâng lên vua bản điều trần 5 điểm nhưng không được chấp

nhận. Ông từ quan về ở ẩn, ủng hộ phong trào Duy tân.

Trương Gia Mô đã để lại tác phẩm Gia Định tam tiên liệt truyện, ghi chép

tiểu sử của ba vị anh hùng kháng pháp: Trương Định, Nguyễn Trung Trực và

Nguyễn Hữu Huân. Ngoài ra còn có hai tập thơ Thu hoài phú và Cúc nông thi tập.

Đầu thế kỷ XX – 1945

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ, nền học vấn Quốc ngữ bắt đầu

thịnh hành, sách báo bằng chữ Quốc ngữ đã được phổ biến khá rộng rãi. Xu hướng

cải cách xã hội thông qua sách báo quốc ngữ tác động mạnh mẽ đến bộ phận thanh

niên tân học, tạo ra một luồng gió mới trong đời sống văn hoá tinh thần.

Một số tác giả Bến Tre được mời làm chủ bút một số tờ báo lớn. Năm 1901

báo Nông cổ mín đàm ra đời do Lương Khắc Ninh làm chủ bút. Năm 1918, báo Nữ

giới chung có mặt trên văn đàn với chủ bút là một phụ nữ đầu tiên ra làm báo, đó là

Sương Nguyệt Anh, con gái cụ Đồ Chiểu. Đến năm 1921, báo Lục tỉnh tân văn do

Lê Hoằng Mưu làm chủ bút lại góp mặt trên làng báo Quốc ngữ ở Nam Kỳ. Các báo

này là mảnh đất ươm mầm, thúc đẩy phong trào sáng tác của họ.

Các tác giả này vừa làm báo vừa sáng tác văn học. Lương Khắc Ninh cùng

với Nguyễn Khắc Huề và Nguyễn Dư Hoài soạn lại tác phẩm Sãi Vãi. Sương

Nguyệt Anh làm nhiều thơ chữ Quốc ngữ và chữ Hán khi vua Thành Thái vào Nam.

Lê Hoằng Mưu là tác gia nhiều quyển tiểu thuyết với bút hiệu là Mộng Huê Lầu.

Trong thời kỳ này, một phần thơ văn yêu nước và tiến bộ kể cả sáng tác và

sưu tầm được góp nhặt lại và đăng trên các báo. Chính các áng thơ văn đó (kể cả

văn học và nghị luận) đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên phương diện văn chương

và tư tưởng lúc bấy giờ. Cuộc tranh luận của Lê Hoằng Mưu trên báo Nông cổ Mín

đàm và Lục tỉnh tân văn về quyển tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt có sức lôi

cuốn chinh phục khá mạnh mẽ đối với thế hệ độc giả thanh niên hồi ấy.

Thời kỳ báo chí và văn học Quốc ngữ bắt đầu thịnh hành, độc giả Nam kỳ

khá quen thuộc với những nhà văn Bến Tre như Nguyễn Phục Lễ, Nguyễn Dư Hoài,

Hà Đăng Đàn, Nguyễn Văn Vinh, Phạm Văn Điều, Huỳnh Khắc Trường, Nguyễn

Khắc Huề, Bùi Quang Nho, Nguyễn Đình Chiêm, Nguyễn Bửu Tài, Phụng Hoàng

San, Mộng Huê Lầu (tức Lê Hoằng Mưu), Bùi Văn Xuân, Ca Văn Thỉnh (Ngạc

Xuyên), Lê Thọ Xuân, Bùi Đức Tịnh v.v…Các tác giả ấy viết khá nhiều trên các

báo xuất bản ở Sài Gòn, ngoài ra còn viết tiểu thuyết, truyện vừa, sưu tầm và khảo

cứu văn học Hán Nôm, văn học dân gian và văn học địa phương. Trong đó nổi tiếng

về tiểu thuyết có Lê Hoằng Mưu (1879-1941) tác giả Hà Hương phong nguyệt

(1918), Oán hồng quần (1920) Tô Huệ nhi ngoại sử (1920), Oán kia theo mãi

(1921), Đêm rốt của người tội tử hình, Đầu tóc mượn (1923), và tác giả Nguyễn

Văn Vinh (1885-1935) người đã viết các tác phẩm Câu chuyện mẹ chồng nàng dâu,

Chuyện chị em cô Lê trò Lý và tiểu thuyết Tam yên di hận. Quyển Tam yên di hận

có nội dung yêu nước chống Pháp đương thời gọi là sách quốc sự nên bị cấm, bị

tịch thu toàn bộ và tác giả Nguyễn Văn Vinh là thầy giáo dạy tiểu học ở Bến Tre,

viết sách in và phát hành tại Bến Tre bị Toà án sơ thẩm Bến Tre kết án 5 năm tù

treo.

Sáng tác kịch bản sân khấu cũng là lĩnh vực mà các tác giả người Bến Tre có

nhiều đóng góp. Nếu như đầu thế kỷ, Nguyễn Đình Chiêm tự Trọng Vĩnh, con trai

thứ sáu của cụ Đồ Chiểu đã viết hai vỡ tuồng nổi tiếng Phấn Trang Lầu và Phong

Ba Đình, vở Phong Ba Đình phản ánh tâm trạng phẩn uất bên ngoài giặc xâm lăng,

bên trong bọn nịnh thần thao túng chính sự kiện cho đất nước rơi vào cảnh loạn ly,

thì giữa thế kỷ XX (khoảng 1930-1940) Đặng Công Danh người làng Phú Khương,

Đoàn Văn Đỏ người làng An Hội, và Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi người làng

Phước Thạnh là những tác giả thường viết những vở cải lương nổi tiếng với các đề

tài phê phán xã hội. Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi) cùng thời với Trần Hữu Trang,

Nguyễn Thành Châu, Huỳnh Năng Nhiêu, Lê Hoài Nở, những tác giả nổi tiếng

nhiều năm với những vở tuồng cải lương xã hội mà công chúng rất ngưỡng mộ. Tác

phẩm nổi tiếng nhất của Tư Chơn là vở tuồng “Yêu trong thời loạn” được công

diễn nhiều lần trước Cách mạng tháng Tám -1945.

Trong phạm vi văn học địa phương, có thể coi những năm đầu thế kỷ XX là

thời kỳ bản lề, với sự khép lại những sáng tác văn học Hán, Nôm của lớp nhà nho

khoa bảng nặng lòng yêu nước lớp trước, mở ra thời kỳ mới, với sự xuất hiện và

ngày càng phát triển của nền văn học Quốc ngữ. Điều cần được ghi nhận là các tác

giả quê ở Bến Tre trong bối cảnh giao thời khá phức tạp giữa cũ và mới, giữa xưa

và nay, vẫn kế thừa và giữ gìn được truyền thống văn học của một vùng đất giữa

trung tâm văn hoá Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần tạo nên bức tranh toàn

cảnh của tiến trình văn học chữ viết ở Nam Bộ và cả nước từ cận đại sang hiện đại

mà nổi bật là bước chuyển tiếp trong những năm đầu thế kỷ XX.

Từ khi có Đảng, văn học ở Bến Tre hoặc do người Bến Tre sáng tác chia ra

hai dòng rõ rệt: dòng văn học phê phán hiện thực, yêu nước một cách kín đáo có

pha chút mùi vị cải cách xã hội như đã phản ánh ở trên và dòng văn học yêu nước,

cách mạng theo khuynh hướng cộng sản.

Dòng văn học yêu nước theo khuynh hướng cộng sản ra đời cùng với sự ra

đời của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bến Tre. Người mở đầu là Nguyễn

Văn Nguyễn (15-3-1910) quê quán ở làng Điều Hoà, Mỹ Tho, hoạt động xây dựng

cơ sở Đảng ở Bến Tre và là Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre. Ông cũng

là người sáng lập và chủ biên tờ báo bí mật Búa Liềm, tờ báo cách mạng ra đời sớm

nhất ở Bến Tre. Nguyễn Văn Nguyễn về sau là một nhà báo và là nhà văn nổi tiếng

ở Nam Bộ với bút danh Ngũ Yến. Trong những năm 30 và 40, với hoàn cảnh hoạt

động bí mật cực kỳ khó khăn, văn thơ yêu nước và cách mạng vẫn duy trì tác dụng

cổ vũ động viên phong trào đấu tranh, vạch trần mọi âm mưu thâm độc của địch.

Thời kỳ ấy văn học tồn tại trên báo chí và hoà quyện với báo chí khi bí mật, lúc

bán công khai và công khai theo phương châm hoạt động của Đảng. Báo Dân cày

rồi Sự thật ra bí mật ở Bến Tre đến Đông phương thư xã ở Mỹ Tho có chi nhánh ở

Bến Tre và báo Dân chúng của Đảng ra công khai ở Sài Gòn, những cây bút Bến

Tre và có nguồn gốc Bến Tre như Nguyễn Văn Nguyễn (tức Ngũ Yến), Trần Văn

Kiết tức Văn, Nguyễn Văn Bích, Võ Văn Khánh v.v … có vai trò nhất định trong

thời kỳ đấu tranh và bão táp cách mạng ấy.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945

Những người cầm bút ở Bến Tre sớm tập hợp lại trong các tờ báo cách mạng

của địa phương như báo Hy sinh (1945-1946), báo Đoàn kết (1947-1948) và thành

lập Đoàn Văn hoá Kháng chiến (1948). Tạp chí Văn hoá Kháng chiến Bến Tre ra

đời ngay sau khi Đoàn Văn hoá Kháng chiến thành lập. Đầu năm 1950, khi đã có

Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, thì Đoàn Văn hoá Kháng chiến Bến Tre đổi lại là Phân

hội Văn nghệ Bến Tre cho đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đoàn Văn hoá Kháng chiến Bến Tre đã tập hợp và đào tạo một số cây bút có

nhiều triển vọng: Hằng Ngôn, Võ Trọng Cảnh, Lê Nguyên, Nguyễn Tân Tấn,

Nguyễn Xuân Ôn, Lê Hoài Đôn, Phong Đảo, Tâm Điền, Giang Sơn, Lê Tâm, Lam

Điền, Duy Khanh.

Hằng Ngôn tức bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, người Nam Bộ đầu tiên viết quyển

Hồ Chủ Tịch trong lòng dân tộc là quyển sách gồm 20 bài ký về Chủ tịch Hồ Chí

Minh đối với đồng bào các giới. Lê Tâm là bút hiệu của nhà văn nữ Lê Nhãn, người

đã viết truyện dài Con đường sống kể về sự biến đổi trong cuộc đời của một người

phụ nữ trong cao trào Cách mạng tháng Tám -1945.

Ngoài ra còn có tập thơ La Ngà của Lê Nguyên, trường ca Thanh gươm

tháng Tám của Võ Trọng Cảnh, cả hai đều là thành viên của Đoàn Văn hoá Kháng

chiến.

Trong chiến khu U Minh, nhà văn Nguyễn Hải Trừng, quê ở Bình Đại, hoạt

động trong Chi hội Văn nghệ Nam Bộ đã viết tập thơ dài Chú Hai Neo được phổ

biến rộng rãi và được giải thưởng văn nghệ Cửu Long – Nam Bộ 1951-1953.

Trong thành thị bị tạm chiếm, những cây bút người Bến Tre như Nguyễn

Duy Oanh có tập ký sự Hận Cầu Hoà viết về tội ác của tên Léon Leroy thảm sát

nhân dân ở ấp Cầu Hoà, xã Phong Nẫm, quê hương của tác giả và tập truyện ngắn

Sóng gợn hồn quê.

Dương Tử Giang tức Nguyễn Tấn Sĩ vừa viết báo vừa cho xuất bản tập

truyện Một vũ trụ sụp đổ và tiểu thuyết Tranh đấu, một quyển tiểu thuyết đầu tiên ở

Nam Bộ công khai mô tả cuộc đấu tranh của nông dân chống lại bọn địa chủ cường

hào câu kết với thực dân Pháp chiếm đoạt ruộng đất, đẩy họ vào vòng tù tội. Bối

cảnh diễn ra câu chuyện anh lấy tại chính quê anh ở Giồng Trôm, Bến Tre. Cô Sáu

Tàu Thưng là tập truyện tố cáo kể thù âm mưu đất nhà dân ở xóm lao động để đuổi

người cướp đất.

Bùi Đức Tịnh viết cho các tờ báo lớn, đồng thời còn in tập thơ Chiêu hồn

(1949), Đường lên cõi Bắc (1919), Văn phạm Việt Nam (1952) và Lịch sử giải

phóng Việt Nam (1948) cùng nhiều sách khảo luận khác.

Lê Thọ Xuân, Chủ tịch phong trào báo chí thống nhất Nam Bộ, biên tập các

báo Thần Chung, Việt Báo, Sông Hương ở Sài Gòn. Ông viết nhiều bài nghiên cứu,

khảo luận về văn chương, lịch sử trên lập trường dân tộc, yêu nước và tiến bộ rất

được giới nghiên cứu và độc giả chú ý.

Những năm khắc nghiệt dưới chế độ Mỹ-Diệm (1955-1960), tổ chức văn

nghệ không còn người cầm bút, số đi tập kết, số còn lại hoạt động bí mật.

Sau ngày Đồng khởi 17/1/1960, báo chí và tổ chức văn nghệ ở Bến Tre được

khôi phục lại và phát triển dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Nhiều cán bộ mới

trưởng thành trong phong trào vừa làm báo vừa viết văn mà báo Chiến Thắng là nơi

hội tụ. Những người chuyên làm văn nghệ thì tập hợp lại ra tập san Văn nghệ Đồ

Chiểu (1963). Lực lượng cầm bút trong kháng chiến chống Mỹ khá đông và có

nhiều gương mặt tiêu biểu: Nhân Đạo, Đoàn Tứ, Hoài Minh, Nhị Trung, Hoàng Lê,

Kim Tinh, Nam Hồng, Nguyễn Hồ, Chim Trắng, Võ Tước, Ngọc Ca, Đan Thanh,

Lê Hà, Trần Ký, Bến Hải, Tiền Phong, Tố Mỹ, Huy Vũ, Lê Huỳnh, Lê Hồng

Phương, Lê Hoàng Dũng, Lê Dân, Nguyễn Phước, Hồ Thanh Điền, Thanh Giang,

Phương Đông, Thanh Vũ, Thái Dương…

Các nhà văn nhà thơ con em của Bến Tre từ miền Bắc về Nam chiến đấu, dù

hoạt động tại tỉnh hay ở các chiến trường, họ cũng có những đóng góp về mặt văn

học những tác phẩm rất có giá trị. Đó là Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) với tập thơ Hoa

dừa, tập truyện ký Giữ đất viết về anh hùng Nguyễn Văn Tư, bài thơ Dáng đứng

Việt Nam, Thanh Giang với các tác phẩm Giữa lòng thành phố, Vùng tranh chấp,

Cô biệt động… Võ Trần Nhã với Lá thư Ấp Bắc, Trên Vành đai Bình Đức, Khi

người con gái Nam bộ cầm súng v.v…

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, tuy chiến tranh gian khổ ác liệt

nhưng văn học cách mạng ở Bến Tre vẫn nở rộ trong khói lửa liên miên của chiến

trường. Huyện nào cũng có tập san Văn nghệ ra định kỳ hoặc không định kỳ. Ở đâu

cũng có đoàn văn công hoặc đội văn nghệ xung kích.

Từ 1975 đến cuối thế kỉ XX

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, lãnh đạo tỉnh chủ trương nhanh

chóng chuyển hoạt động sáng tác văn học từ thời chiến sang thời bình, phục vụ cho

nhiệm vụ chính trị hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi sản xuất, ổn định đời

sống nhân dân.

Hàng loạt tác giả từ bưng biền trở về, từ vùng địch tạm chiếm ra, hòa hợp lại,

tạo thành một đội ngũ sáng tác đông đảo, phong phú về đề tài, đa dạng về phong

cách sáng tác. Ngoài thế hệ những cây bút thời kháng Mỹ như Đoàn Tứ, Chim

Trắng, Trang Thế Hy, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Trung Điền, Nguyễn Hồ, Phan

Thảo, Kim Tinh, Lê Dân, Lê Hồng Phương, Trần Ký, Thu Nguyễn, Nguyễn Phước,

còn có những cây bút trẻ như Chim Trắng, Bùi Ngọc Trung, Thanh Giang, Võ Trần

Nhã, Nguyễn Hải Trừng, Nguyễn Hồ, Trầm Hương, Nguyễn Trọng Tín… Không

khí tự do sáng tác là điều mà lãnh đạo tỉnh luôn dành cho giới văn học Bến Tre, đặc

biệt kể từ khi có chủ trương đổi mới.

Đề tài chiến tranh tiếp tục được khai thác. Thanh Giang có truyện Giữa lòng

thành phố, Bông súng đỏ, Cô biệt động… Đoàn Tứ có tập truyện Chuyện tình ngày

xưa, Lê Tâm có Làng nhỏ bên bờ Hàm Luông…

Đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng được các tác giả quan tâm. Viết về

các điển hình trong nông nghiệp có tác phẩm Những giọt nước mắt của Võ Trần

Nhã, Ở tập đoàn chợ Xép của Nguyên Tùng; biểu dương những hạt nhân tiêu biểu

của làng xóm Bến Tre đang chuyển mình theo cách làm ăn mới có tác phẩm Người

tập đoàn trưởng của Đoàn Tứ, Đất nhà của Lê Hồng Phương, Nước chảy qua cây

Đội ngũ sáng tác sau ngày giải phóng, với lực lượng đông đảo, đã làm cho dừa quỳ của Trường Thanh.

diện mạo văn học Bến Tre mang những nét đa dạng, phong phú.

Từ khi có lưu dân đến khai phá đến nay, Bến Tre đã trải qua ba trăm năm.

Trong khoảng thời gian ấy, cư dân Bến Tre đã phải tốn không biết bao nhiêu mồ

hôi, trí tuệ, thậm chí xương máu để chiến đấu chống lại các trở lực của thiên nhiên,

tạo dựng màu xanh cho xứ cù lao, đồng thời phải liên tục đấu tranh chống các thế

lực áp bức, xâm lược để bảo vệ cuộc sống của chính mình. Được sinh ra trong tiến

trình lịch sử ấy, văn học Bến Tre là bức tranh phản ánh hiện thực lịch sử, chân

dung con người, lẽ sống, tính cách, tư tưởng, tâm hồn của những con người trên

vùng đất này.

So với của nền văn học dân tộc, văn học Bến Tre có tuổi đời non trẻ. Văn

học Bến Tre ra đời trong bối cảnh khai phá vùng đất Nam Bộ nói chung, Bến Tre

nói riêng. Nam Bộ, trong đó có Bến Tre là một bộ phận của Việt Nam, chịu chung

những tác động của bối cảnh lịch sử nước nhà. Song, Bến Tre cũng có những nét

riêng về điều kiện tự nhiên, xã hội, truyền thống văn hoá. Chính những nét riêng

này đã tạo nên những nét nổi bật cho diện mạo văn học Bến Tre.

Cư dân Bến Tre đa số xuất thân từ những lưu dân bần cùng, lính tráng, tội

đồ, vốn chữ nghĩa không nhiều. Nền văn học sơ khai của Bến Tre không phải là văn

học chữ viết mà là văn học dân gian. Phương tiện diễn đạt cảm xúc hay sự kiện,

cảnh vật là những câu hát, điệu hò. Tục ngữ, câu đố, truyện kể đảm nhận vai trò mở

mang tri thức, trao đổi kinh nghiệm. Những điệu lý, câu hò giúp người ta giải trí.

Thông báo tin tức, vạch vẽ lỗi lầm do vè đảm nhận. Với những người nông dân

quanh năm lao động vất vả, không có điều kiện tiếp xúc với chữ nghĩa, văn học dân

gian là loại hình phù hợp cho sinh hoạt văn học của họ. Đó chính là cơ sở tạo nên

sức sống mãnh liệt của văn học dân gian.

Văn học Bến Tre đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên của một vùng cửa sông

giáp biển. Đó là bức tranh với những dòng sông cuộn chảy, những chiếc cầu khỉ

đong dưa, cầu tre lắc lẻo, những hàng dừa xanh, những rặng bần, … Văn học Bến

Tre thiếu vắng hình ảnh của những vị thần thời mở nước mà thay vào đó là chân

dung của những con người đi khai phá vùng đất cù lao, với bản lĩnh, nghị lực phi

thường, không ngại sông sâu, rừng hoang, thú dữ, quyết tâm chinh phục vùng đất

cù lao hoang sơ, biến nó thành ruộng vườn tươi tốt. Từ các sáng tác văn học, con

người Bến Tre đã hiện ra với những nét tính cách chân chất, thật thà, cương trực,

yêu quê hương, đấu tranh không khoan nhượng trước những áp bức, bất công, và

bè lũ ngoại xâm.

Bức tranh văn học dân tộc được bổ sung những tên đất, tên người trên ba

dải cù lao, với những câu chuyện, những bài ca cụ thể. Sông nước Bến Tre là môi

trường thuận lợi cho sự phát triển của hò, nhất là hò chèo ghe. Bến Tre được xem

là một trong những “cái nôi của dân ca Nam Bộ”, là nơi duy nhất trên địa bàn

Nam Bộ còn lưu giữ loại hình hát sắc bùa. Truyền thống yêu nước, chống giặc

ngoại xâm của con người xứ cù lao được xem là “mảnh đất màu mỡ phù sa”, là

nguồn cảm hứng cho sự ra đời của những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình

Chiểu. Bức tranh văn học Bến Tre đã tô thêm những nét nổi bật với những tác giả

có tầm vóc vượt ra ngoài giới hạn của ba dãi cù lao. Phan Thanh Giản, người đỗ

tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ. Trương Vĩnh Ký, người được các học giả phương Tây

bầu chọn là một trong “Thập bát đại văn hào”. Nguyễn Đình Chiểu, người mở đầu

cho trào lưu tư tưởng yêu nước chống Pháp trong văn chương. Phan Văn Trị, nhà

nho nổi tiếng với cuộc bút chiến cùng Tôn Thọ Tường. Sương Nguyệt Anh, người

phụ nữ Việt Nam đầu tiên làm báo. Tất cả những gương mặt ấy được sinh ra và lớn

lên trên đất Bến Tre.

Chương 3

CON NGƯỜI BẾN TRE

3.1. Con người Bến Tre trong đấu tranh với thiên nhiên

Trên đất Bến Tre, từ những thế kỷ đầu công nguyên, đã có dấu vết cư trú và

sinh hoạt của con người. Cư dân cổ xưa là người Phù Nam và người Chân Lạp còn

để lại vết tích ở một số di chỉ khảo cổ học như Giồng Nổi (thị xã Bến Tre), Giồng

Ớt (huyện Thạnh Phú) và một số nơi khác.

Do những nguyên nhân thiên nhiên và xã hội, cư dân xưa chưa khai phá

được bao nhiêu và ngày càng thưa vắng dần. Tình trạng hoang sơ, đầy rừng rậm và

thú dữ kéo dài nhiều thế kỉ.

Sau khi Vương quốc Phù Nam sụp đổ, từ thế kỷ VI đến thế kỷ XVI, người

Khơme là cư dân chủ yếu ở Nam Bộ. Họ sống rải rác trên các giồng đất cao. Dấu

tích người Khơme ở Bến Tre còn để lại ở một số địa danh như Thom, Bavat (Mỏ

Cày), Giồng Xaboong (Bình Đại), Sơn Đốc (Giồng Trôm), Giồng Miễu (Thạnh

Phú)… Những địa điểm này phần lớn là các giồng đất cao. Do số lượng cư dân ít ỏi,

trình độ kỹ thuật hạn chế nên thành quả khai phá chưa nhiều, nhất là những vùng

đất thấp và sình lầy.

Đến cuối thế kỉ XIII, về cơ bản, đất Nam Bộ nói chung, trong đó có Bến Tre

Từ thế kỉ XVII, cũng như nhiều nơi khác ở Nam Bộ, diện mạo vùng đất Bến vẫn là vùng đất hoang nhàn, chưa được khai phá bao nhiêu.

Tre bắt đầu biến đổi mạnh khi có sự xuất hiện một lớp cư dân mới, lưu dân người

Việt và lưu dân người Hoa.

Cuộc tranh chấp khốc liệt giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn ở

thế kỷ XVII, với 7 lần đánh lớn, đã gây ra không biết bao nhiêu thảm họa đối với

nhân dân. Đó là nguyên nhân quan trọng buộc nhiều người phải rời bỏ làng mạc,

băng rừng, vượt biển, đến vùng đất phương Nam, trong đó có Bến Tre để tìm đất

sống. Ngoài thành phần đông đảo là nông dân nghèo, trong số người Việt đến Nam

Bộ còn có một số thành phần khác như những người trốn tránh binh dịch, tù nhân bị

lưu đày, binh lính đào ngũ hoặc giải ngũ, thầy lang, thầy đồ…

Một bộ phận quan trọng khác là những người giàu có. Từ cuối thế kỉ XVII về

sau, khi đã có căn cơ, các chúa Nguyễn thực hiện chính sách khuyến khích và chiêu

mộ người từ các xứ Ngũ Quảng vào mở rộng sự nghiệp khai hoang mở đất. Lê Quý

Đôn, trong Phủ biên tạp lục cho biết, nhà Nguyễn đã “chiêu mộ những dân có vật

lực ở xứ Quảng Nam các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây,

phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất nuớc mầu mỡ, cho dân tự

Về nguồn gốc địa phương của người Việt trên đất Bến Tre, quyển Địa chí chiếm, trồng cau và làm nhà nhà cửa” [21, tr.345]

Bến Tre (2001) cho biết: qua khảo sát 112 gia phả, có “38 gia đình quê gốc ở Quảng

Ngãi, 17 gia đình ở Thừa Thiên, Quảng Trị, 19 gia đình ở Quảng Nam, 9 gia đình ở

Quảng Bình, 11 gia đình ở Bình Định, 5 gia đình ở Nghệ An, 3 gia đình ở Hà Đông,

2 gia đình ở Nam Định, 4 gia đình ở miền Trung (không rõ tỉnh), 4 gia đình ở miền

Bắc (không rõ tỉnh)” [66, tr.247].

Trong lớp cư dân mới, ngoài bộ phận người Việt, còn có một bộ phận người

Hoa chống triều đình Mãn Thanh, bỏ quê sang xin định cư. Cuối thế kỉ XVII, lưu

dân người Hoa thuộc nhóm Dương Ngạn Địch đến định cư ở vùng Mỹ Tho. Trong

số này, chắc chắn có một số sang cư trú ở cù lao An Hóa. Theo Lịch sử xã Phước

Thạnh (Châu Thành), họ không lập xóm ấp riêng mà ở chung với người Việt [66,

tr.285].

Lưu dân người Việt và người Hoa đến Bến Tre bằng hai cách, băng rừng và

vượt biển.Trong các thế kỉ XVII, XVIII, đường bộ từ miền Trung vào Nam Kỳ còn

rất khó khăn, nguy hiểm. Phần đông lưu dân đến Bến Tre theo đường biển, bằng

phương tiện ghe bầu, theo cửa các sông Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên đi

vào đất liền. Số lưu dân đến Bến Tre bằng đường bộ là bộ phận đã vào Biên Hòa,

Bến Nghé, Vũng Gù trước đó nhưng chưa tìm được những điều kiện thuận lợi để

bám trụ, nên phải tiếp tục đi tới và hội tụ về đất Bến Tre.

Những dải đất cao dọc các sông lớn, những khu đất giồng được lưu dân chọn

làm nơi dừng chân. Với những điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như đất cao ráo,

không sình lầy, có nước ngọt để sinh hoạt, chăn nuôi và trồng trọt, những khu vực

này được chọn để khai phá trước. Từ những khu đất này, người ta mở rộng dần diện

tích khai phá. Cách khai phá như vậy được gọi là “móc lõm”. Đến một lúc nào đó,

các khoảnh đất khai phá được nối với nhau thành những cánh đồng liền khoảnh.

[39, tr.59].

Đa số lưu dân khai phá là những người nghèo khổ, hành trang mà họ mang

theo chủ yếu là sức lao động của đôi bàn tay, họ thiếu thốn đủ thứ, từ phương tiện,

vốn liếng, giống má đến trâu bò. Trong điều kiện ban đầu như thế, họ chỉ có khả

năng khai phá, trồng trọt trên những diện tích nhỏ, khai thác những nguồn lợi thiên

nhiên sẵn có như vào rừng đốn gỗ, lấy dầu rái, mật và sáp ong, săn thú để lấy thịt,

sừng, da, đánh bắt tôm cá ở sông rạch… để giải quyết nhu cầu cuộc sống hằng

ngày.

Trên những khu đất đai đã khai phá được, lưu dân trồng nhiều loại cây trồng,

tùy theo điều kiện đất đai. Lúa là loại cây trồng chính ở buổi đầu. Trước tiên, lúa

được trồng ở các chân giồng, gần nơi cư trú. Dân số gia tăng, diện tích canh tác lúa

được mở rộng đến cả những khu đất trũng thấp, sình lầy.

Trong các thế kỷ XVII – XVIII, do chưa đủ nhân lực làm các công trình thủy

lợi để cung cấp nước tưới cho cây trồng vào mùa khô, do vậy, mỗi năm người ta chỉ

làm một vụ lúa vào mùa mưa, theo phương thức “ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy

sau”.

Ngoài việc trồng lúa, trên các giồng đất người ta còn trồng nhiều loại khoai,

sắn, rau, đậu và các loại cây công nghiệp ngắn ngày như bông vải, dâu tằm.

Vùng đất Bến Tre, với đặc điểm là đất cù lao, được hình thành qua quá trình

bồi tụ của các dòng sông lớn, được thừa hưởng lượng phù sa tương đối dồi dào,

nhưng thường xuyên bị ngập nước. Bến Tre chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật

triều, mỗi ngày đêm có hai con nước lớn, ròng. Thủy triều một mặt đã đưa nước

biển xâm nhập đất liền, làm cho đất bị nhiễm mặn, một mặt, thủy triều cũng tạo

điều kiện để cải tạo vùng đất Bến Tre. Nhận thức được giá trị do thuỷ triều mang

lại, cư dân đã tiến hành đào mương, lên liếp. Đất đào mương được lấy để đắp liếp.

Mương càng sâu thì liếp càng cao. Việc đào mương lên liếp đã làm cho các vùng

ngập nước lùi dần, mương liếp nhanh chóng được hình thành ở ven rạch, ven sông,

nghề làm vườn xuất hiện. Ban đầu, vườn chỉ bao bọc xung quanh nhà, về sau vườn

phát triển thành vùng chuyên canh.

Để khuyến khích việc khai phá, chính quyền họ Nguyễn khá dễ dãi đối với

việc chiếm đất khẩn hoang. Lưu dân được quyền tự chọn nơi khai phá, được khai

phá không hạn chế. Chỉ cần báo với chính quyền thì sẽ chính thức được thừa nhận

là chủ đất. Chính quyền không đo đạt kiểm tra. Dân tùy ý nộp thuế, không có quy

định.

Ở thế kỉ XVII – XVIII, công cuộc khai phá diễn ra dưới hình thức dân tự

khai phá là chủ yếu. Từ cuối thế kỷ XVIII, bên cạnh việc nhân dân tự khai phá,

Nguyễn Ánh đã thực hiện chính sách sử dụng binh lính, chiêu mộ dân nghèo khai

hoang lập đồn điền. Sang thế kỷ XIX, công cuộc khai hoang do nhà Nguyễn tổ chức

được đẩy mạnh. Chỉ trong một thời gian ngắn, số đồn điền được lập ra đều khắp.

Các tác giả quyển Địa chí Bến Tre (2001) cho biết: “năm 1822, số dân trong các trại

đồn điền ở phủ Định Viễn, trong đó có huyện Tân An, tức Bến Tre ngày nay là

6.174 người” [66, tr.289].

Với sự lao động cần mẫn của những lớp lưu dân, diện tích khai phá ngày

càng được mở rộng. Ba Tri là một trong những vùng được khai phá sớm nhất ở Bến

Tre, vì đây là nơi dừng chân đầu tiên của các lưu dân đến Bến Tre theo đường biển.

Khu vực này có nhiều giồng đất xen kẽ những cánh đồng trũng. Ở chân giồng, có

thể canh tác lúa vào mùa mưa. Trên mặt giồng có thể trồng các loại rau củ. Một vài

khu vực ven sông Hàm Luông như Cái Mơn, Cái Nhum cũng được khai phá cùng

lúc với Ba Tri.

Ở thế kỷ XVIII, vùng được khai phá mạnh nhất là Bavát (sách xưa viết là Ba

Việt). Đây là khu vực trù phú nhất Bến Tre thời ấy. Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia

Định thành thông chí: “Huyện Tân An là huyện bận rộn, vất vả, lỵ sở ở đất thôn

Phúc Hạnh xứ Ba Việt cách trấn thự về phía đông 121 dặm. Ở ngay bờ sông, có chợ

Ba Việt, nhà cửa trù mật…” [22, tr.199]. Ngoài ra, khu vực Vĩnh Thành, ven rạch

Sóc Sãi, Mỹ Lung ven sông Mỹ Tho, sông Ba Lai cũng được khai phá ở thế kỷ

XVIII.

Theo sách Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Vĩnh Long [16, tr.131] thì

khi tiến hành lập địa bạ năm 1836, Minh Mạng thứ 17, phủ Hoằng An là một phủ

được khai phá sớm, tốc độ khai hoang ruộng đất và dân số tăng nhanh so với các

phủ khác cùng tỉnh. Số liệu ghi chép trong địa bạ cho biết vào năm này (1836) phủ

Hoằng An có 77.336 mẫu ta ruộng đất, chiếm 42,40% ruộng đất canh tác của tỉnh

Vĩnh Long. Trong số 77.336 mẫu đã được khai phá, có 75.178 mẫu đang được canh

tác, số còn lại thuộc đất hoang hóa. Đất hiện đang được canh tác có:

Điền thực canh (các loại ruộng): 48.966 mẫu (65,13%).

Thổ thực canh (các loại đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm): 26.212 mẫu

(30,87%).

Trong 26.212 mẫu thổ thực canh thì viên lang thổ (đất vườn trồng cau, dừa)

chiếm 19.467 mẫu (74,27%), tang căn thổ (đất trồng dâu tằm) chiếm 6.744 mẫu

(25,73%).

Các nhà nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn cho rằng “nếu so sánh tỉ lệ diện tích

điền và thổ của ba phủ thuộc Vĩnh Long thì thấy tỷ lệ thổ canh của phủ Hoằng An

(Bến Tre ngày nay) là cao hơn cả: trên 1 phần 3 ruộng đất là thổ canh, và 3 phần 4

đất thổ canh ấy lại là vườn cau (viên lang thổ). Vì thế, người xưa gọi đất Bến Tre là

“miệt vườn”. Như tổng Bảo Định (huyện Bảo An) có thôn đến 92% ruộng đất là

vườn cau và chưa tới 10% là sơn điền. Tổng Bảo Hòa có trên 87% ruộng đất là

vườn cau và chưa tới 13% là sơn điền. Có những làng như thôn Nhơn Mỹ, thôn

Hàm Luông, thôn Tiên Thủy, thôn Tiên Thủy Tây (đều ở tổng Bảo Định) có hàng

trăm mẫu vườn cau mà không có một thước ruộng nào”.

Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết: “Gia Định rất nhiều cau. Ngạn

ngữ nói: “Gia Định nhất thóc nhì cau”, dân địa phương thường bỏ không thu, cau

già lấy hột bán cho người Tàu” [22, tr.346]. Tình hình ruộng vườn phủ Hoằng An

(nay là tỉnh Bến Tre) khá phù hợp câu nhận định trên.

Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị, cuộc đấu tranh với thiên nhiên của cư

dân Bến Tre chịu sự tác động, chi phối bởi chính sách khai thác thuộc địa của chính

quyền thực dân.

Về mặt giao thông, thực dân Pháp cho xây dựng nhiều công trình cầu,

đường. Ngoài con đường liên tỉnh Mỹ Tho đi Trà Vinh qua thị xã Bến Tre và thị

trấn Mỏ Cày dài 54km, còn có một hệ thống đường rải đá, đường đất nối liền các

trung tâm kinh tế, dân cư trên cả ba cù lao.

Để đáp ứng nhu cầu giao thông, đồng thời để phục vụ cho việc tưới tiêu, rửa

phèn, đẩy mạnh khai thác nông nghiệp, từ năm 1872, thực dân Pháp đã cho đào

thêm một số con kênh. Trong đó, có các kênh quan trọng như kênh Tân Hương, dài

5km nối sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, kênh Mỏ Cày, Cái Quao dài 7km, nối

rạch Cái Quao với sông Hàm Luông, kênh Chẹt Sậy dài 5,9km nối rạch Bến Tre với

sông Ba Lai; kênh Cái Bông – Mỹ Chánh dài 4,7km, kênh Ba Tri dài 11km… Nhờ

có hệ thống kênh đào, nhiều khu vực sình lầy thuộc tổng Bảo Thuận, khu vực Ba

Mỹ, các làng ở dọc theo kênh như Phước Tuy, Phú Ngãi, Bảo Thạnh, Đồng Xuân

có thể trồng trọt được. Hệ thống kênh đào còn giúp cho việc đi lại giữa các nơi được

rút ngắn. [66, tr.326].

Theo thống kê của chính quyền thực dân, năm 1929, tổng diện tích của Bến

Tre là 150.356 mẫu (gồm cù lao Bảo và cù lao Minh), diện tích khai phá, trồng trọt

là 132.500 mẫu, trong đó, diện tích trồng lúa là 110.000 mẫu, diện tích trồng dừa

6.000 mẫu, phần diện tích còn lại trồng các loại cây trái khác [46, tr.30].

Các biện pháp mà chính quyền thực dân thực hiện đã mang lại hệ quả khách

quan là góp phần làm cho diện mạo của vùng đất Bến Tre tiếp tục có những biến

đổi mới. Diện tích khai phá tăng lên. Trong việc tạo ra thành quả như thế, người dân

Bến Tre vẫn là lực lượng giữ vai trò chủ yếu. Họ là những người trực tiếp làm

nhiệm vụ khai phá, trực tiếp làm ra sản phẩm lúa gạo phục vụ cho chính sách khai

thác của bọn thực dân. Thành quả lao động, khai thác đất đai của người dân tiếp tục

bị rơi vào kẻ khác, đó là bọn thực dân và tay sai của chúng.

Nói về vai trò của nông dân trong công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ, giáo

sư Huỳnh Lứa cho rằng: “đúng là thực dân Pháp đã đóng vai trò nhất định trong sự

phát triển công cuộc khai phá đất đai ở Nam Bộ. Tuy nhiên đó không phải là vai trò

chủ yếu. Những công trình giao thông và thủy lợi do thực dân Pháp thực hiện đã

không xuất hiện như là những chiếc đũa thần trong công cuộc khẩn hoang (…)

những công trình thủy lợi của người Pháp thực hiện đã không tự động làm tăng diện

tích khai phá (…), những vùng đất hoang vẫn phải nhờ đến hai bàn tay của người

lao động để trở thành những diện tích có thể canh tác được” [39, tr.234-235].

Đến những năm 40 của thế kỷ XX, vùng đất Bến Tre đã được khai phá về cơ

bản. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, diện tích khai phá

chẳng những không tăng mà nhiều vùng đã được khai phá lại bị bỏ hoang. Gần

30.000 ha ruộng bị hoang hóa, hai phần ba diện tích vườn dừa bị tàn phá bởi bom

pháo, chất độc hóa học; rừng ven biển hầu như bị hủy diệt; hệ thống giao thông

đường bộ trong chiến tranh bị phá nát, nhiều cầu cống bị đánh sập [7, tr.322].

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), để khai thác thiên

nhiên một cách có hiệu quả, chính quyền và nhân dân Bến Tre rất quan tâm đến

công tác thủy lợi. Nhiều chương trình đầu tư vào thủy lợi đã được triển khai thực

hiện, đặc biệt là ở các huyện ven biển nhằm góp phần ngăn mặn, đưa nước ngọt vào

đồng ruộng.

Trên địa bàn Ba Tri, nhân dân đã nạo vét hệ thống kênh tưới nước dài

46,7km, gồm các kênh Láng Sen, Bến Than, Vàm Hồ, An Bình Tây, Rạch Nò – Bà

Hiền, Giồng Quít; hệ thống ngăn mặn dài 42,85km. Ở Bình Đại, nhiều công trình

thủy nông được xây dựng như đê Đông, đê Tây, kênh An Hóa, đê biển. Hàng chục

tỷ đồng được đầu tư để hoàn chỉnh hệ thống cống và trên 30km kênh phục vụ cho

tưới tiêu, đã ngọt hóa được hàng ngàn hecta ruộng đất, mở ra khả năng thâm canh,

tăng vụ, nâng cao năng suất cây trồng; 15km kênh phục vụ cho việc nuôi thủy sản

nước mặn và nước lợ. Nhân dân vùng Thạnh Phú đã thực hiện dự án ngọt hóa vùng

Quới Điền với hệ thống kênh, đê, cống có tổng chiều dài 25km. Đây là công trình

thủy lợi lớn nhất vùng bắc Thạnh Phú trong những năm qua, đã góp phần quan

trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế.

Việc xây dựng các công trình thủy lợi đã góp phần quan trọng trong việc

ngọt hóa vùng lợ, tạo thêm điều kiện để phát triển sản xuất, thâm canh tăng vụ, mở

rộng và tăng cường nguồn nước ngọt đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt cho nhân dân.

Đây có thể xem là thành quả nổi bật nhất trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên của

nhân Bến Tre sau ngày đất nước thống nhất.

Đất đai được tận dụng, khai thác tối đa. Đối với các vùng đất nhiễm mặn, sản

xuất một vụ lúa bấp bênh, các vùng đất bìa, chéo ven sông, ven rạch được tận dụng

để trồng dừa.

Trong vườn dừa, người ta tiến hành trồng xen cây ca cao, nuôi tôm trong

mương vườn, tạo ra hệ thống canh tác nhiều tầng để tăng thêm thu nhập.

Theo số liệu của Chi cục Thống kê tỉnh Bến Tre, tổng diện tích đất trồng trọt

của tỉnh năm 2000 là 191.617ha, trong đó, diện tích đất trồng một số loại cây chủ

yếu như sau: đất trồng lúa chiếm 101.617ha, cây ăn quả chiếm 32.379ha, cây mía

chiếm 12.9443ha, cây dừa chiếm 37.758ha [13, tr.36-37].

Trước giải phóng, hàng năm tỉnh phải nhập thêm khoảng 7 vạn tấn gạo. Năm

2000, lúa gạo chẳng những đáp ứng được nhu cầu lương thực cho địa phương mà

còn dư thừa cho xuất khẩu (xuất 12.922 tấn)[13, tr.106].

Trong các giai đoạn lịch sử, chính quyền đều có những biện pháp nhằm thúc

đẩy công cuộc khai hoang. Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn, chính quyền

tổ chức các đồn điền, ban hành nhiều chính sách thông thoáng để khuyến khích việc

khai hoang, lập ấp. Thực dân Pháp sử dụng máy móc và các biện pháp khoa học kỹ

thuật để thúc đẩy công cuộc khai phá. Đương nhiên, mục tiêu chính của các biện

pháp này là nhằm phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Các biện pháp này

đã có tác dụng nhất định trong việc mở rộng diện tích khai phá, nhưng giữ vai trò

chủ chốt trong quá trình khai phá vẫn là nông dân. Chính họ là những người trực

tiếp cầm dao, phảng, cuốc, xẻng để chặt phá rừng, phát cỏ dại, đào kênh dẫn nước,

biến vùng đất Nam Bộ hoang vu nói chung, trong đó có Bến Tre, trở thành những

đồng lúa mênh mông, trĩu hạt, những vườn cây trái sum xuê.

Quá trình đấu tranh với thiên nhiên của cư dân Bến Tre đã mang lại nhiều

thành quả quan trọng. Trong đó nổi bật nhất là việc khắc phục tình trạng ngập úng,

khai thác đất phù sa màu mỡ ven sông bằng cách đào mương, lên liếp, lập vườn và

việc xây dựng hệ thống ngăn mặn để cải tạo các khu vực phèn, mặn thành nơi có thể

trồng lúa. Thành quả này cho thấy, con người Bến Tre khá năng động, sáng tạo

trong quá trình khai phá, khai thác thiên nhiên.

Bên cạnh những thành công, trong quá trình khai thác thiên nhiên, người dân

Bến Tre cũng có không ít những hoạt động gây nhiều tác hại cho tự nhiên. Đó là

tình trạng khai thác bừa bãi làm cho diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nhanh

chóng, thú hoang gần như bị diệt chủng, nguồn lợi tôm, cua, cá giảm sút đến mức

báo động. Quỹ đất của tỉnh rất thấp so với dân số, nhưng một số diện tích được sử

dụng không hợp lý, như thiết lập vườn dừa trên đất phèn mặn, việc đào kênh tiêu

nước trong khi chưa điều tra, cân nhắc đã làm cho một số vùng có đất phèn tiềm

tàng bị biến thành đất phèn hoạt động, làm cho đất bị thoái hóa… Những hạn chế

nảy sinh trong quá trình khai thác thiên nhiên cho thấy trình độ, ý thức của một bộ

Hiện tượng xâm nhập mặn, gây hại cho cây trồng, địa hình bị chia cắt, thế phận dân cư Bến Tre chưa cao. Đây là vấn đề mà người Bến Tre cần khắc phục.

cách trở về mặt địa lý gây trở ngại trong việc đi lại, giao lưu, đó là những vấn đề lớn

mà thiên nhiên nhiên tiếp tục đặt ra cho người dân Bến Tre trong thời gian tới, đòi

hỏi người dân nơi đây phải tiếp tục nổ lực, phấn đấu. Được sự quan tâm, giúp đỡ

của Trung ương, nhiều công trình, dự án giao thông, thủy lợi lớn đã được phê duyệt.

Về giao thông, có cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông; thủy lợi có cống đập Ba Lai, đê

ven sông Hàm Luông. Các công trình này khi hoàn thành chắc chắn sẽ góp phần

làm cho đời sống của người dân khá hơn, từng bước đưa Bến Tre thoát nghèo.

Cũng như nhiều địa phương khác ở Nam Bộ, vùng đất Bến Tre trước khi lưu

dân người Việt đặt chân đến là một vùng hoang vu, khắc nghiệt. Để có thể bám trụ

trên vùng đất này, người dân ở đây đã phải nỗ lực rất lớn. Chính hoàn cảnh khó

khăn đã rèn luyện bản lĩnh con người, rèn luyện cho họ sự dũng cảm, mưu trí, tính

cộng đồng và khả năng sáng tạo trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên,

3.2. Đấu tranh với xã hội

Nhân dân Bến Tre trong đấu tranh chống áp bức, cường quyền (thế kỷ

XVII – nửa đầu thế kỷ XIX)

Nhờ những kinh nghiệm trong sản xuất ở quê cũ, chỉ trong hai thế kỷ (thế kỷ

XVII – XVIII), cư dân sống trên đất Bến Tre đã biến vùng đất mới mênh mông,

hoang vu, đầy dã thú thành những ruộng lúa rộng lớn, những vườn dừa bạt ngàn,

Song, những người đi khai phá không được hưởng trọn vẹn thành quả lao những vườn cây trái tươi tốt.

động ấy. Những mảnh đất do chính họ khai phá dần dần không còn là sở hữu của

họ. Thiếu vốn liếng, phương tiện, trâu bò để tiến hành canh tác, nông dân nghèo

thường phải đi vay bọn điền chủ với lãi suất rất cao. Không trả nổi nợ, nông dân

buộc phải lấy đất gán nợ. Thông qua thủ đoạn cho vay nặng lãi, tầng lớp điền chủ,

cường hào đã dần dần tước lấy ruộng đất của nông dân.

Nhờ có vốn lớn để thuê người khai phá, lại dựa vào tiềm lực kinh tế và uy

thế chính trị để cướp đoạt ruộng đất của dân nghèo, tầng lớp điền chủ nhanh chóng

nắm trong tay rất nhiều ruộng đất. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết

“người giàu ở các địa phương hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30 nhà, mỗi nhà điền nô

hoặc đến 50, 60 người, trâu bò hoặc đến 300, 400 con, cày bừa, cấy gặt, rộn ràng

không rỗi, hàng năm đến tháng 11, tháng 12, thường giã thành gạo, bán lấy tiền để

ăn tết chạp” [21, tr.345]. Số điền chủ giàu có này là chỗ dựa xã hội của chế độ

phong kiến họ Nguyễn. Họ không chỉ giữ vai trò quan trọng về kinh tế mà còn nắm

giữ quyền lực chính trị ở địa phương.

Đầu thế kỉ XIX, ở hai huyện Bảo An và Tân Minh đã có 21 điền chủ có số

đất hơn 100 mẫu. Ở Bảo An, có những điền chủ lớn như Nguyễn Văn Lân chiếm

548 mẫu, Phan Văn Dũng chiếm 412 mẫu. Số điền chủ có từ 30 mẫu trở lên ở cù lao

Bảo và cù lao Minh chiếm 11.597 mẫu trong tổng số 75.338 mẫu được đo năm 1836

[66, tr.298].

Nông dân nghèo, ngoài việc bị bọn điền chủ tước đoạt ruộng đất, trở thành tá

điền, đi cày thuê cuốc mướn, họ còn bị nhà nước phong kiến bòn rút bằng nhiều thứ

thuế hà khắc. Chính quyền phong kiến đặt ra hàng loạt thứ thuế khác nhau: thuế

ruộng, thuế đinh, thuế tàu thuyền, thuế sản vật… Chỉ riêng thuế sản vật, người dân

Đồng Nai – Gia Định, trong đó có Bến Tre, thường phải nộp từ thuế vườn dừa,

vườn cau đến thuế các loại lâm sản khai thác được như gỗ, sáp ong, trầm hương…

Lê Quý Đôn đã nhận xét trong Phủ biên tạp lục: “hết thảy các sản vật đều lấy ở xã,

thôn, phường, khi thì nộp thuế, khi thì trưng mua. Những phiền phức về sự đốc

thúc, lao động, vận tải làm cho dân địa phương không thể nào kham nổi” [21,

tr.216-217].

Ngoài thuế khóa hà khắc, chính quyền phong kiến Nguyễn còn tước đoạt

ruộng đất của dân một cách trắng trợn để ban cấp cho kẻ có công trong việc khôi

phục và củng cố quyền thống trị của họ.

Chính sách áp bức, bóc lột của chính quyền phong kiến và tầng lớp điền chủ

đã làm cho cuộc sống của người nông dân lao động ở Đồng Nai – Gia Định, trong

đó có Bến Tre, nhanh chóng bị bần cùng hóa, bị phá sản, làm cho một nơi nổi tiếng

màu mỡ và trù phú lại có số “cùng dân” ngày càng tăng.

Bị áp bức, bóc lột, phá sản, lâm vào cảnh bần cùng, một bộ phận nông dân

nghèo khó lại phải bỏ làng một lần nữa để tìm đất sống hoặc để trốn nợ.

Cuối thế kỷ XVIII, mâu thuẫn giữa nông dân nghèo với tập đoàn phong kiến

thống trị cùng bọn điền chủ trở nên gay gắt, chỉ chờ cơ hội để bùng phát. Cơ hội đã

đến khi khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra.

Sau 5 năm đánh bại chính quyền chúa Nguyễn ở vùng Thuận Quảng, từ năm

1776 đến 1784, quân Tây Sơn đã 5 lần tiến quân vào Gia Định. Nhân dân Gia Định

nói chung, trong đó có nhân dân Bến Tre đã tích cực ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn.

Sự ủng hộ của nhân dân Bến Tre đối với khởi nghĩa Tây Sơn thể hiện rõ nhất

ở chiến công Rạch Gầm – Xoài Mút. Trong trận này, các xã bờ Nam sông Mỹ Tho

như Tân Lợi, Phú Long, Phú Túc, Phú Đức (nay thuộc huyện Châu Thành) đã được

Nguyễn Huệ chọn làm những địa điểm ém quân để tung những đòn vu hồi. Nhân

dân vùng ven sông Ba Lai cũng tích cực ủng hộ quân của Trương Văn Đa chống

quân Xiêm và quân Nguyễn.

Ngoài việc ủng hộ, giúp đỡ quân Tây Sơn, nhân dân vùng Đồng Nai – Gia

Định, trong đó có Bến Tre còn tích cực tham gia cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi

năm 1833.

Việc nhân dân Bến Tre tích cực hưởng ứng khởi nghĩa Tây Sơn chống quân

Xiêm lợi dụng sự cầu viện của Nguyễn Ánh sang xâm lược nước ta, hưởng ứng

mạnh mẽ cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi chống lại triều đình nhà Nguyễn, đã thể

hiện tinh thần bất khuất của họ trong việc chống giặc ngoại xâm, chống áp bức, bóc

lột.

Nhân dân Bến Tre trong đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược

(1858 – 1975)

Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Bến

Tre (1858 – 1954)

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1859, thực dân

Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Từ 1859 đến 1867, tuy Bến Tre vẫn là vùng tự do

nhưng nhân dân Bến Tre không đứng ngoài cuộc chiến. Họ đã tích cực đóng góp

tiền của, rèn đúc vũ khí, hăng hái tham gia các đội nghĩa quân.

Được tin pháp đánh thành Gia Định, lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng đã mang

quân đi ứng cứu, nhưng đi chưa đến nơi thì thành đã mất. Ông tập hợp binh lính của

mình cùng nghĩa binh các vùng lân cận củng cố, giữ đồn Cây Mai.

Sau khi Định Tường thất thủ năm 1861, khởi nghĩa Trương Định nổ ra, nhân

dân Bến Tre cũng tích cực ủng hộ. Sau khi Trương Định hy sinh, cuộc khởi nghĩa

do ông lãnh đạo không giành được thắng lợi, nhiều nghĩa quân của Trương Định đã

tản về các địa phương, tiếp tục hoạt động chống Pháp. Ở Bến Tre, nổi bật là hoạt

động của hai nhóm nghĩa quân do hai bộ tướng của Trương Định lãnh đạo. Đó là

nhóm của Trịnh Viết Bàng, hoạt động ở cù lao An Hóa, nhóm Huỳnh Văn Thiệu

hoạt động ở Châu Hưng.

Tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Vừa

đến Bến Tre, chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân. Tháng 8 năm

1867, một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, do Phan Tôn và Phan Liêm - hai người

con của Phan Thanh Giản lãnh đạo, đã nổ ra ở vùng Bảo An.

Cũng trong thời gian này, một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn hơn, do Tán

Kế lãnh đạo, nổ ra ở vùng Ba Châu, Phong Nẫm, Phong Mỹ, Ba Mỹ, Tân Xuân.

Nhiều tài liệu cho biết, trong năm 1868, khắp nơi trong tỉnh, nơi nào cũng có

khởi nghĩa chống Pháp.

Từ 1870 đến 1875, nhân dân Bến Tre còn tích cực tham gia cuộc khởi nghĩa

do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo bằng cách trực tiếp tham gia nghĩa quan hoặc ủng

hộ lương thực, tiền bạc. Năm 1875, để trả thù và răn đe, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh

phạt 11 làng của Bến Tre vì đã tham gia khởi nghĩa của Thủ khoa Huân. Làng Bình

Đại bị phạt 3.000 francs, An Hóa, An Hồ, Châu Hưng, Nguyệt Thạnh, Phú Thuận,

Lộc Thuận bị phạt 1.000 francs, Phú Long, Phước Thuận, Thới Lai, Thọ Phú bị phạt

500 francs [66, tr.315].

Với hòa ước Giáp Tuất (1874), triều đình Huế chính thức giao trọn quyền cai

trị 6 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Từ đây, phong trào đấu tranh ở Bến Tre chỉ

còn nổ ra lẻ tẻ. Năm 1878, một toán nghĩa quân đốt chợ Giồng Keo làng Tân Thành,

tổng Minh Thuận. Năm 1879, một toán khác đã đốt chợ Thom, làng An Thạnh, tổng

Minh Đạo. Năm 1895, ở Mỏ Cày có cuộc nổi dậy của Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương.

Trong Địa phương chí (1930), người Pháp nhận xét: “có điều đáng chú ý là

tất cả những phong trào, những sự ướm nổi dậy là một điều thường xuyên có trong

những năm đầu ta đặt nền cai trị nhưng tất cả đều bị bóp nghẹt lúc vừa khởi ra. Vì

vị trí địa lý của tỉnh này giúp cho nhà cầm quyền can thiệp lập tức đến những nơi bị

uy hiếp và khoanh lại cuộc nổi dậy” [46, tr.17].

Song song với việc vũ trang khởi nghĩa, ở nhiều nơi, nhân dân Bến Tre còn

chống Pháp dưới hình thức bất hợp tác với giặc. Ở những nơi thực dân Pháp chiếm,

nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, bỏ nhà cửa, ruộng vườn ra đi.

Người Pháp cho biết: “trong thời gian này, nhiều làng trọn vắng ngắt bỏ

trống vì dân làng đi trốn (…) vì họ không muốn bị khai thác, nên họ bằng lòng để

mất của cải và trốn sang những vùng ít rối loạn” [46, tr.18-19].

Bên cạnh cuộc đấu tranh vũ trang, còn có một phong trào khá nổi bật khác,

đó là phong trào tị địa, thu hút nhiều nhân sĩ yêu nước và nhân dân các tỉnh bị giặc

chiếm. Để thể hiện thái độ bất hợp tác với giặc, họ đã bỏ vùng đất bị giặc chiếm để

chuyển sang Vĩnh Long hoặc ra Bình Thuận. Tiêu biểu cho phong trào là cụ

Nguyễn Đình Chiểu. Với quyết tâm không chung sống với giặc, khi thành Gia Định

bị chiếm, Nguyễn Đình Chiểu bỏ Gia Định về Cần Giuộc. Khi Cần Giuộc bị chiếm,

ông lại tiếp tục bỏ nơi đây để về Ba Tri, Bến Tre. Tại đây, ông vừa bốc thuốc trị

bệnh, vừa chống giặc bằng ngòi bút, sáng tác nhiều tác phẩm ca ngợi cuộc chiến

đấu oanh liệt của nhân dân ta.

Như vậy, từ khi có tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp đến những năm

cuối thế kỷ XIX, nhân dân Bến Tre đã liên tục đứng lên kháng chiến. Dù phải đối

mặt với một kẻ thù có ưu thế vượt trội về trang bị, kỹ thuật, song nhân dân Bến Tre

đã kiên cường, bất khuất, không nề hy sinh, tổn thất. Dù không đạt được mục tiêu

đánh bại quân xâm lược, song tinh thần đấu tranh của họ đã góp phần tô thắm

truyền thống đánh giặc giữ nước của quê hương, dân tộc.

Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cơ bản đã ổn định được bộ máy cai trị, dập tắt

các cuộc khởi nghĩa vũ trang. Trong hoàn cảnh mới, phong trào yêu nước của nhân

dân Bến Tre vẫn tiếp tục phát triển với nhiều hình thức.

Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo, phong trào

chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Nam Kỳ tạm thời lắng xuống.

Đầu thế kỷ XX, phong trào được khôi phục.

Thiên Địa Hội là tổ chức có nguồn gốc từ Trung Quốc, vừa mang tính chất

tương tế, vừa mang tính chính trị của nông dân, được hình thành sau khi nhà Minh

bị nhà Thanh lật đổ, với khẩu hiệu là “phản Thanh, phục Minh”. Khi du nhập vào

Nam Kỳ, Thiên Địa Hội thu hút phần đông nông dân, dân nghèo thành thị, tiểu

thương, người làm nghề tự do, công nhân thất nghiệp, những người làm nghề bói

toán…, khẩu hiệu được đổi thành “phản Pháp, phục Nam”.

Thiên Địa Hội được thành lập ở nhiều nơi trong tỉnh như Giồng Trôm, Thạnh

Phú, Mỏ Cày. Hoạt động nổi bật của Thiên Địa Hội ở Bến Tre là cuộc tấn công của

150 hội viên vào bọn phong kiến và tay sai của Pháp tại Tân Phú Tây và chợ Bavát

(tổng Minh Thiện, quận Mỏ Cày) năm 1916 dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Đáng.

Địa phương chí (1930) ghi lại sự kiện này như sau: “trước tết Nguyên Đán

năm 1916, dưới sự chỉ huy của Tám Đáng và “một Phù thủy” tên Chín Sửu, một

toán khoảng 50 người đã xông vào nhà cựu Hương cả Trần Trung Bình ở làng Tân

Phú Tây, tổng Minh Thiện. Trần Trung Bình trốn thoát, họ bắt con trai của y làm

con tin, sau đó tiến vào chợ Bavat, đập phá hai tiệm buôn, rồi bao vây nhà cựu

chánh tổng Minh Thiện và phó chánh tổng Lê Phước Toàn. Trong khi đó, một toán

khác khoảng 100 người đánh chiếm nhà việc làng Tân Phú Tây. Lúc bắt đầu cuộc

tấn công, họ nổi trống báo cho nhân dân biết là họ đi đánh người Pháp, để nhân dân

không khiếp sợ. Chủ quận đưa lính sen đầm đến đàn áp, Tám Đáng bị bắt” [46,

tr.18-19].

Tại Mỏ Cày, cùng thời gian này cũng đã nổ ra cuộc biểu tình của khoảng 200

hội viên “Nghĩa Hòa Đoàn” – một tổ chức biến tướng của Thiên Địa Hội. Cuộc biểu

tình được võ trang giáo mác, gậy gộc nhằm trừng trị bọn nhà giàu gian ác.

Song song với hoạt động của Thiên Địa Hội, một phong trào yêu nước khác

cũng diễn ra khá sôi nổi, đó là phong trào quyên góp vật chất ủng hộ cho phong trào

Đông Du. Phong trào này thu hút khá đông trí thức nho học, thanh niên, quan lại

yêu nước. Hoạt động mạnh mẽ nhất trong phong trào này ở Bến Tre có các nhân vật

như Nguyễn Thế Hiển, Nguyễn Quyền, Nguyễn Thiện Kế, Lê Hoán. Những năm

1925 – 1926 còn có Trần Nguyên Phụ. Chính ông là người đã liên lạc với Hội Việt

Nam thanh niên cách mạng đồng chí, chọn người ở Bến Tre gửi đi học các lớp ở

Quảng Châu.

Cuối 1925, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Bến Tre hưởng ứng mạnh

mẽ cuộc đấu tranh đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội Châu. Năm 1926, nhân dân

Bến Tre tích cực tham gia vào việc tổ chức lễ tang và lễ truy điệu cụ Phan Chu

Trinh.

Những năm 1927 – 1928, nhân dân Bến Tre lại nô nức hửng ứng cuộc vận

động chống Pháp của Nguyễn An Ninh. Hội kín Nguyễn An Ninh phát triển khá

mạnh ở Bến Tre, gây cho Pháp nhiều lo ngại.

Ngoài các phong trào trên còn có các hoạt động của các nhân sĩ trí thức, quan

lại yêu nước với việc tham gia sáng tác thơ văn, giảng dạy thơ văn, khơi dậy lòng

yêu nước, căm thù giặc trong nhân dân. Đáng chú ý là hoạt động của Nguyễn Đình

Chiêm, Nguyễn Văn Vinh, Sương Nguyệt Anh, Hà Đăng Đàn…

Từ 1925-1926 trở đi, cũng như nhiều địa phương khác, ở Bến Tre cũng đã

nhen nhóm một phong trào yêu nước mang màu sắc cách mạng vô sản. Khoảng cuối

năm 1926, đầu năm 1927, tỉnh bộ Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí

được thành lập ở Bến Tre, do đồng chí Hoài Nghĩa làm bí thư, trụ sở đặt tại thị xã

Bến Tre. Sau đó, nhiều chi bộ cũng được thành lập ở nhiều xã trong tỉnh. Dưới sự

lãnh đạo của tỉnh bộ, các chi bộ thực hiện nhiệm vụ trườc mắt là giác ngộ cách

mạng cho quần chúng để phát triển thêm hội viên mới. Hoạt động của các chi bộ đã

tạo tiền đề về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bến

Tre vào năm 1930.

Trên cơ sở những đảng viên được kết nạp cùng với số đảng viên từ các chi

bộ Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí chuyển sang, cuối tháng 4 năm

1930, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Bến Tre được thành lập ở Tân Xuân, Ba

Sau khi thành lập, chi bộ Tân Xuân đi vào hoạt động ngay. Chi bộ tổ chức Tri. Chi bộ gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Văn An làm Bí thư.

các buổi diễn thuyết bí mật, rải truyền đơn, treo cờ đảng, tổ chức các đoàn thể như

Nông hội, Công hội, Thanh niên… Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, 1-5-

1930, chi bộ tổ chức một cuộc biểu tình để biểu dương lực lượng tại địa phương,

thu hút trên 200 quần chúng tham dự. Cuộc biểu tình đầu tiên này đã tạo được khí

thế cách mạng trong quần chúng.

Tháng 6 năm 1930, Liên Tỉnh ủy Bến Tre - Mỹ Tho được thành lập. Được sự

lãnh đạo của Liên Tỉnh uỷ, phong trào cách mạng tiếp tục phát triển. Nhiều cuộc

mittinh, biểu tình lên án bọn đế quốc, đòi dân sinh, dân chủ đã được tổ chức ở nhiều

nơi như Phú Lễ, Phú Ngãi, Bảo Thạnh, Mỹ Chánh, Châu Bình, Thị xã.

Cuối năm 1930 đầu năm 1931, hưởng ứng chủ trương chống khủng bố trắng,

ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh, một cuộc biểu tình lớn đã được tổ chức, thu hút hơn

1000 quần chúng vùng Ba Châu (Châu Phú, Châu Thới, Châu Bình). Từ tháng 3

đến tháng 5 năm 1931, phong trào lên đến đỉnh cao. 16 cuộc biểu tình đã nổ ra ở

nhiều nơi trong tỉnh. Tháng 5 năm 1931, Tỉnh ủy Bến Tre được thành lập, đồng chí

Nguyễn Văn Nguyễn được cử làm Bí thư.

Trước khí thế cách mạng, giặc Pháp tăng cường đàn áp. Hàng trăm cán bộ,

đảng viên và quần chúng bị bắt. Từ cuối 1932, phong trào cách mạng tạm thời lắng

xuống.

Năm 1936 phong trào được khôi phục. Số đảng viên cốt cán được ra tù, trở

về các địa phương củng cố, khôi phục các tổ chức cơ sở Đảng. Giữa năm 1936,

hưởng ứng cuộc vận động đòi triệu tập Đông dương Đại hội, nhiều Ủy ban hành

động được thành lập để thu thập ý kiến của nhân dân. Phong trào đấu tranh đấu

tranh đòi dân sinh, dân chủ nổ ra liên tục. 130 công nhân các xưởng gỗ ở Bến Tre

đình công đòi tăng lương, 35 nông dân nông dân ở Phước Long (Giồng Trôm) đấu

tranh đòi giảm thuế và đấu giá công điền, 30 công nhân ở Định Thủy (Mỏ Cày) đòi

được tham gia phân phối công điền, đòi bỏ thuế thân, tù nhân trong khám Bến Tre

đã tuyệt thực để phản đối chế độ hà khắc của nhà tù.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình hình

này, thực dân Pháp đã đàn áp phong trào, ban lệnh tổng động viên, vơ vét sức

người, sức của phục vụ cho chiến tranh. Trước tình hình đó, những cán bộ, đảng

viên hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp phải chuyển sang hoạt động bí mật.

Thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy, đêm 22 rạng 23/11/1940, Tỉnh ủy lãnh đạo

nhân dân Bến Tre nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Các đơn vị tự vệ đã

phá sập cầu Cái Chát lớn, Cái Chát nhỏ (Mỏ Cày), làm gián đoạn giao thông từ Bến

Tre qua Trà Vinh; hạ cây ngăn cản tỉnh lộ 26 từ Bến Tre đi Ba Tri; đường dây thép

Bến Tre – Mỏ Cày, Bến Tre – Ba Tri cũng bị cắt đứt. Nhân dân các xã Lương Quới,

Phong Mỹ (Châu Thành), Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh Hoà, Tân Xuân (Ba Tri) đã mitinh,

biểu tình, lùng bắt hội tề. Thực dân Pháp nhanh chóng đàn áp cuộc nổi dậy. Chúng

bắt hơn 400 người, một số bị tra khảo đến chết, một số bị đày đi các nhà tù Bà Rá,

Tà Lài, Côn Đảo. Đảng bộ Bến Tre một lần nữa bị tổn thất nặng nề.

Phong trào 1930-1931, 1936-1939 và cuộc nổi dậy hưởng ứng khởi nghĩa

Nam Kỳ tại Bến Tre tuy bị đàn áp, tổn thất, nhưng đã mang lại nhiều kinh nghiệm

quý báu cho việc giành chính quyền ở tỉnh năm 1945.

Từ giữa năm 1943 đến đầu 1944, một số đảng viên đã tìm cách vượt ngục, về

các địa phương liên lạc với các đảng viên còn lại, xây dựng lại các cơ sở Đảng và

các tổ chức quần chúng. Trên cơ sở khôi phục được nhiều Chi bộ, nửa cuối năm

1944, các Quận ủy Châu Thành, Thạnh Phú, Ba Tri, Mỏ Cày lần lượt được thành

lập. Do các tổ chức Đảng không liên lạc được với nhau nên lúc này Bến Tre có hai

Tỉnh ủy. Đến tháng 3/1945, hai Tỉnh ủy đã tổ chức hội nghị thống nhất, đồng chí

Nguyễn Tẩu được cử làm Bí thư.

Tháng 2/1945 Mặt trận Việt Minh của tỉnh được thành lập, tập hợp các tầng

lớp, các giới tham gia. Đến tháng 7 năm 1945, các nghiệp đoàn có 900 người, nông

hội thu hút được 7000 người. Tỉnh ủy đưa nhiều người vào nắm những chức vụ chủ

chốt của Đoàn thanh niên Tiền Phong, một tổ chức được thu hút đông đảo công

chức, trí thức và học sinh.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta đã kịp thời đề ra khẩu hiệu

đánh đuổi phát xít Nhật và phát động cao trào kháng chiến cứu nước mạnh mẽ là

tiền đề cho tổng khởi nghĩa.

Tháng 7/1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại ngã tư Giồng Dầu (ngã tư Phú

Khương) quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa và tổ chức các đội cứu quốc quân

tỉnh, huyện, xã. Chỉ trong một thời gian ngắn, vừa tổ chức vừa luyện tập, lực lượng

cứu quốc quân đã có đến hàng ngàn đội viên. Khí thế cách mạng lên cao, lực lượng

chính trị và quân sự đã sẵn sàng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.

Thực hiện chủ trương tổng khởi nghĩa, ở Bến Tre, đêm 23/8/1945 theo kế

hoạch của Ủy ban khởi nghĩa, khắp nơi trong tỉnh đã treo biểu ngữ, phát truyền đơn

kêu gọi nhân dân nổi dậy lật đổ chính quyền tay sai, thiết lập chính quyền cách

mạng. Ngày 24/8, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh ra lệnh cho các quận huy động lực lượng

kéo về tỉnh. 16 giờ ngày 25/8, lực lượng khởi nghĩa đã chiếm trại Bảo An, bót cảnh

sát, tòa án, bưu điện, kho bạc, nhà máy điện… Trước khí thế khởi nghĩa của quần

chúng, quân Nhật và tay sai không dám kháng cự. Tỉnh trưởng Phan Văn Chỉ đầu

hàng và xin chuyển giao chính quyền cho cách mạng. Thắng lợi ở thị xã đã tạo đà

cho lực lượng khởi nghĩa ở các huyện trong tỉnh giành thắng lợi ngay trong đêm 25,

rạng 26. Ngày 26/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Bến Tre làm lễ ra mắt

đồng bào tại sân vận động Thị xã.

Thắng lợi của nhân dân Bến Tre trong tổng khởi nghĩa tháng tám 1945 đã

góp phần cùng cả nước đập tan ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và tập

đoàn phong kiến nhà Nguyễn, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng ở Nam Bộ được

thiết lập chưa đầy một tháng, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp đựơc quân đội Anh

giúp sức đã nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh hòng cướp nước ta

một lần nữa.

Nhân dân Nam Bộ với gậy tầm vông vạt nhọn và giáo mác đã nhất tề đứng

lên chống giặc. Song, trước cuộc chiến đấu không ngang sức, lực lượng kháng

chiến tạm rút khỏi các thành thị, lui về xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng nông

thôn. Đến cuối tháng 1/1946, thực dân Pháp đã chiếm được các thành phố và

những đường giao thông quan trọng ở Nam Bộ.

Trong khi các tỉnh khác Nam Bộ bị quân Pháp đánh chiếm thì Bến Tre do

cách trở về địa lý, nên vẫn còn là vùng tự do. Nhờ thế, Bến Tre có thời gian để

chuẩn bị, củng cố lực lượng để bước vào cuộc chiến mới.

Ngay từ lúc giặc Pháp gây hấn ở Sài Gòn, ngày 23/9/1945, Tỉnh ủy Bến Tre

đã tổ chức Hội nghị để nhận định tình hình, xác định các nhiệm vụ trước mắt. Trên

cơ sở nhận định sớm muộn gì giặc Pháp cũng sẽ tiến chiếm Bến Tre, Tỉnh ủy đã

nhận rõ việc phát động cho nhân dân trong tỉnh khẩn trương chuẩn bị chiến đấu là

nhiệm vụ hàng đầu.

Để phù hợp với tình hình, bên cạnh Ủy ban hành chính, Ủy ban kháng chiến

cũng được thành lập từ tỉnh đến huyện, xã để điều hành công việc chuẩn bị kháng

chiến. Sau một thời gian ngắn, theo chủ trương chung, hai ủy ban này đã hợp nhất

thành Ủy ban Kháng chiến - Hành chính ở các cấp.

Do tình hình khẩn trương, được sự chấp thuận của Trung ương, ngày

25/12/1945, nhân dân Bến Tre đã nô nức tham gia Tổng tuyển cử bầu đại biểu

Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Thực hiện sắc lệnh của Chính phủ lâm thời, chính quyền cách mạng của tỉnh

đã ban hành một số chính sách nhằm đem lại những quyền lợi thiết thực cho nhân

dân như: xoá bỏ các thứ thuế vô lý và bất công, giảm thuế điền thổ xuống 20%, chia

lại ruộng, công bố mức giảm tô, xoá nợ cho dân… Chủ trương của chính quyền

cách mạng đã tạo được không khí phấn khởi thực sự trong nhân dân.

Các phong trào tăng gia sản xuất, xoá nạn mù chữ, bài trừ hủ tục, mê tín dị

đoan, ăn ở theo nếp sống mới,… được phát động và cũng được các tầng lớp nhân

dân tích cực hưởng ứng, mang lại một diện mạo mới cho xã hội Bến Tre. Cùng với

cả nước, nhân dân Bến Tre cũng tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Tuần lễ vàng”

và “Tuần lễ đồng” để lập “Quỹ độc lập” xây dựng đất nước và mua sắm, rèn đúc vũ

khí đánh giặc. Kết quả, nhân dân Bến Tre đã góp được 700 lượng vàng và hàng

chục tấn đồng thau cho các công binh xưởng.

Trên khắp địa bàn tỉnh nhân dân xây dựng các phòng tuyến chống giặc trên

những hướng mà địch có thể tấn công, đào đường, đắp ụ, đắp đập cản ngăn bước

tiến của giặc. Nhân dân ở thị xã và các thị trấn được vận động di tản về nông thôn.

Bộ đội tỉnh, huyện, tự vệ chiến đấu ở các xã được kiện toàn và tổ chức huấn luyện,

trang bị thêm vũ khí. Không khí nô nức tòng quân cứu nước được dấy lên trong

thanh niên. Để cung cấp vũ khí cho lực lượng vũ trang, công binh xưởng đầu tiên

của tỉnh cũng được thành lập. Mặt trận Việt Minh của tỉnh ra sức vận động, tập hợp

đông đảo nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo cùng các tầng lớp nhân dân thành một

khối đoàn kết thống nhất.

Như vậy, tận dụng 135 ngày đêm tự do vô cùng quí báu, được sự lãnh đạo

của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Bến Tre đã tích cực xây dựng, củng cố lực lượng về

mọi mặt để chủ động bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi chúng

trở lại xâm lược Bến Tre.

Ngày 20/1/1946, thực dân Pháp cho máy bay bắn phá chợ Mỹ Lồng, cho tàu

chiến bắn phá vàm Bến Tre và hai bờ sông Hàm Luông, Cổ Chiên, chuẩn bị cho

cuộc tiến chiếm Bến Tre. Ngày 08/02/1946, lực lượng của Pháp gồm bộ binh, pháo

binh có máy bay và tàu chiến yểm trợ, hình thành 3 cánh quân tiến đánh Bến Tre:

mũi chính từ sông Hàm Luông theo rạch Bến Tre đánh vào Thị xã, mũi thứ hai từ

Ba Lai theo đường số 6, mũi thứ ba từ sông Tiền theo kênh Giao Hoà.

Lực lượng vũ trang của tỉnh chặn đánh địch rất quyết liệt ở 3 hướng. Song,

do so sánh lực lượng quá chênh lệch, nên ngay trong ngày đầu, địch đã chiếm được

thị xã, tiến chiếm Ba Tri. Ngày 10/2/1946, chúng chuyển quân đánh chiếm Mỏ Cày,

Thạnh Phú. Đánh chiếm đến đâu, chúng tung quân càn quét, tàn phá nhà cửa, cướp

của, bắn giết bừa bãi đến đó nhằm uy hiếp tinh thần nhân dân. Bọn tay sai, hội tề,

công chức cũ được chúng sử dụng để lập nên bộ máy nguỵ quyền. Bọn lưu manh,

ác ôn được chúng chiêu tập làm do thám, chỉ điểm để đánh phá cơ sở cách mạng.

Sau những khó khăn, tổn thất ban đầu, hệ thống tổ chức Đảng và các đoàn

thể từ tỉnh đến cơ sở được phục hồi, tiếp tục chỉ đạo, tổ chức kháng chiến.

Tháng 4/1946, tỉnh ủy đã tổ chức chuyến vượt biển cho Nguyễn Thị Định và

các đại biểu khu quốc hội khu VIII ra thủ đô báo cáo với trung ương đảng về tình

hình Nam bộ và xin chi viện cho chiến trường miền Nam. Chuyến đi này đã mở ra

con đường tiếp tế vũ khí trên biển của Trung ương cho chiến trường Nam Bộ sau

đó. Tháng 5 năm 1946, Tỉnh ủy chuyển căn cứ từ rừng Thạnh Phú về huyện Tán Kế

(Giồng Trôm ngày nay) để tiện việc chỉ đạo kháng chiến. Mặt trận Việt Minh và các

đoàn thể cứu quốc của tỉnh được quan tâm củng cố.

Cùng với sự phát triển của lực lượng dân quân du kích, nhiều đơn vị bộ đội

tập trung của tỉnh cũng đã được thành lập ở cù lao Bảo và cù lao Minh. Thực hiện

chủ trương của quân khu, ngày 6/5/1946, đơn vị vệ quốc đoàn đầu tiên của Bến Tre

được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng trong toàn tỉnh, do Đồng Văn

Phong trào du kích chiến tranh đã làm cho bộ máy ngụy quyền bị phá rã từng Cống và Nguyễn Công Trung chỉ huy.

mảng, nhiều tên ác ôn bị trừng trị, địa bàn kiểm soát của chúng bị thu hẹp. Cuối

năm 1946, vùng tự do được mở rộng, chiếm 2/3 đất đai của tỉnh. Chính quyền cách

mạng được lập lại ở nhiều xã.

Ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng

chiến. Lời kêu gọi cứu nước của Bác và đường lối kháng chiến được trung ương

vạch ra đã tiếp thêm nghị lực, niềm tin và soi đường cho quân dân Bến Tre đẩy

mạnh cuộc kháng chiến ở tỉnh nhà.

Phối hợp với chiến trường toàn quốc, lực lượng vũ trang Bến Tre đã liên tục

tấn công các đồn bót, bẻ gãy các cuộc hành quân của pháp trên địa bàn tỉnh nhà.

Ngày 23/1/1947, chi đội 19 đã chặn đánh, tiêu diệt gần trọn một tiểu đoàn của địch

ở Tân Hào (Giồng Trôm). Ngày 18/2/1947, chi đội 19 tiếp tục tấn công diệt đồn

Vàm Nước Trong (Định Thủy, Mỏ Cày). Đêm 15/3/1947, chi đội 19 tiếp tục diệt

đồn Tân Định (Bình Đại). Ngày 19/5/1947, hai trung đội của chi đội 19 phục kích

tiêu diệt 132 tên địch trong cuộc hành quân của chúng từ thị trấn đến Tân Xuân (Ba

Tri) [7, tr. 91-92].

Lực lượng vũ trang của tỉnh, gồm 3 thứ quân, được gấp rút xây dựng củng

cố. Tháng 7/1947, sau khi được bổ sung quân số và vũ khí, chi đội 19 được chuyển

thành trung đoàn chủ lực của tỉnh. Mỗi huyện có hai trung đội tập trung. Lực lượng

dân quân ở xã được tổ chức đều khắp. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Việt Bắc

năm 1947, phối hợp với chiến trường chung, lực lượng vũ trang của tỉnh đã liên tiếp

tấn công quyết liệt vào lực lượng cơ động của địch, bao vây uy hiếp hệ thống đồn

bót, đánh phá các đường giao thông, bảo vệ vùng tự do của ta.

Để bồi dưỡng sức dân, chính quyền cách mạng đã tiến hành tịch thu 5.000 ha

ruộng đất của bọn Việt gian và địa chủ theo giặc cấp cho nông dân. Tháng 3/1948,

Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh phát động rộng rãi phong trào thi đua yêu

nước. Nhân dân trong tỉnh sôi nổi hưởng ứng các hoạt động tăng gia sản xuất,

chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng nếp sống mới, bài trừ thủ tục, mê tín dị đoan…

Sau thất bại ở chiến dịch Biên giới năm 1950, thực dân Pháp chuyển sang thế

phòng ngự chiến lược. Chúng trở lại càn quét, bình định, cố bám giữ chiến trường

Nam Bộ, nơi đông dân, nhiều của. Ở Bến Tre, từ tháng 10-1950 đến tháng 2-1951,

địch tập trung đánh chiếm lại các vùng giải phóng ở các huyện Chợ Lách, Mỏ Cày,

Thạnh Phú. Đến tháng 7-1951, toàn bộ vùng giải phóng của tỉnh đã bị địch chiếm

lại. Một hệ thống đồn bót được thiết lập dày đặc như mạng nhện. Toàn tỉnh có 1.036

đồn, bót và tháp canh [66, tr.369].

Tình hình mất đất, mất dân đặt ra nhiệm vụ vô cùng cấp bách là phải nhanh

chóng khôi phục lại phong trào kháng chiến, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau

lưng địch, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ trong chiến lược Đông – Xuân

1953-1954 để lật đổ ách thống trị của kẻ thù. Cuộc tiến quân trở về bám đất, bám

dân lần này, Đảng bộ Bến Tre đã phải trả một giá khá đắt: trên 600 cán bộ, đảng

viên hy sinh. Đã có biết bao tấm gương kiên trung, bất khuất làm xúc động lòng

người và buộc chính kẻ thù phải khâm phục, kính nể. Với quyết tâm bám đất, bám

dân của Đảng, phong trào cách mạng của tỉnh nhà từng bước được hồi phục và phát

triển nhanh chóng.

Với ý chí quyết chiến quyết thắng, chấp hành quyết tâm chiến lược của trung

ương, thực hiện kế hoạch Đông – Xuân do Tỉnh ủy đề ra, chỉ trong thời gian ngắn,

từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1954, quân và dân Bến Tre đã vùng lên đập vỡ từng

mảng hệ thống đồn bót dày đặc của địch, làm tan rã bộ máy ngụy quyền ở nông

thôn, giải phóng ¾ đất đai trong tỉnh. Thành quả kháng chiến của Bến Tre đã góp

phần cùng cả nước giành thắng lợi trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, để

rồi, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp phải ký Hiệp định Genève (20-7-1954)

chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Như vậy, từ ngày 23-9-1945 đến 20-7-1954, nhân dân Bến Tre đã cùng với

đồng bào cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ,

hy sinh nhưng vô cùng anh dũng, tự hào. Chiến công của nhân dân Bến Tre đã góp

phần làm vẻ vang trang sử 9 năm kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Bến Tre (1954-1975)

Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương

được ký kết. Theo đó, miền Bắc nước ta được giải phóng, miền Nam tạm thời nằm

trong tay giặc, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Với âm mưu phá

hoại hiệp định, chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền

tay sai Ngô Đình Diệm.

Ở Bến Tre, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành lập bộ máy ngụy quyền từ

tỉnh đến xã, tích cực bắt lính, buộc dân phải vào các tổ chức phản động do chúng

lập ra, tiến hành lôi kéo, lợi dụng các lực lượng tôn giáo. Thực hiện chính sách “tố

cộng, diệt cộng”, chúng đàn áp dã man những người yêu nước. Bọn ngụy quyền

còn tước đoạt ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân, bóp

nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ. Ở Bến Tre, nhiều khu trù mật được lập ra như

Thành Thới (Mỏ Cày), An Hiệp (Châu Thành), An Hiệp (Ba Tri), Thới Thuận

(Bình Đại). Năm 1957, nha cảnh sát Sài Gòn đã tăng cường cho Bến Tre 4 tiểu đoàn

“Công an Ngô quyền”, “Công an Duyên hải”, với số lượng trên 3000 tên [66,

tr.382]. Đây là thời kỳ đen tối của phong trào Cách mạng Bến Tre.

Trong tình hình mới, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy

Nam Bộ, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam nói chung, Bến Tre nói

riêng chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.

Từ cuối 1954, nhân dân Bến Tre đã tổ chức nhiều cuộc mittinh, biểu tình

mừng chiến thắng, đòi hiệp tương tổng tuyển cử, tôn trọng các quyền tự do, dân

chủ, chống trả thù những người kháng chiến cũ. Tiêu biểu là các cuộc mittinh, biểu

tình của gần 15.000 đồng bào ở huyện Bình Đại (19/8/1954), biểu tình của 5.000

người ở Châu Thành (25/8/1954) và biểu tình của 10.000 đồng bào ở huyện Mỏ Cày

(13/9/1954).

Trong hai năm 1955-1956, đã nổ ra liên tiếp các cuộc đấu tranh đòi dân chủ

dân sinh, chống khủng bố, đòi giảm tô, chống bầu cử quốc hội riêng lẻ ở miền Nam

(3/1956). Thực hiện công tác binh vận, ta đã cài người vào hàng ngũ quân địch để

nắm tình hình, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và làm nội ứng sau này. Đến năm

1956, Bến Tre có hơn 2.000 cơ sở hoạt động trong lòng địch, tỉnh được công nhận

là nơi có phong trào binh vận mạnh nhất Nam Bộ [66, tr.382].

Trước sự đàn áp và khủng bố của địch, dù được nhân dân hết lòng đùm bọc,

che chở nhưng lực lượng cách mạng vẫn bị tổn thất nặng nề, đến cuối năm 1959,

toàn tỉnh chỉ còn 18 chi bộ và 162 đảng viên. Tháng 5 năm 1959 Tỉnh ủy họp tại ấp

Phước Lý, xã Bình Khánh (Mỏ Cày) vạch phương hướng hành động mới, đi lên

trong tình hình cách mạng đang thoái trào, tạo nên sự chuyến biến căn bản. Không

thể để cho địch đàn áp, cách mạng bị tiêu diệt, nhân dân ta đã tổ chức trừ gian diệt

ác.

Trong lúc phong trào Cách mạng gặp khó khăn, Nghị quyết 15 của Trung

ương Đảng ra đời. Nghị quyết chủ trương: “giải phóng miền Nam tránh khỏi ách

thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có

ruộng… con đường phát triển cơ bản của Cách mạng miền Nam là con đường bạo

lực, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu”. Xứ ủy Nam Bộ đã tổ

chức hội nghị quyết định phát động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch,

giành quyền làm chủ nông thôn. Ngày 1/1/1960, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức hội nghị,

quyết định phát động một tuần lễ nổi dậy trong toàn tỉnh, lấy 3 xã Định Thủy,

Phước Hiệp, Bình Khánh làm điểm.

Ngày 17/1/1960, ở Định Thủy, ngày 18/1 ở Phước Hiệp, ngày 20/1 ở Bình

Khánh, các tổ hành động kết hợp với lực lượng quần chúng và các cơ sở binh vận

đã diệt các tên ác ôn, phá đồn bót, giải tán tề xã. Phong trào lan mạnh sang các

huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Châu Thành, Thạnh Phú, Bình Đại. Đến cuối 1960,

nhân dân Bến Tre đã giải phóng hoàn toàn 51 xã trong tổng số 115 xã, 21 xã giải

phóng một phần, làm chủ 300 trong tổng số 500 ấp, diệt hơn 100 đồn bót, thu 1.700

súng các loại [66, tr.392]. Phát biểu tại hội nghị tổng kết cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre, đại tướng Hoàng Văn Thái cho rằng: “Phong

trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu. Nó đã có một vị

trí xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng

đáng được gọi là quê hương đồng khởi với tất cả nội dung và tính chất của nó” [66,

tr.1091].

Ngày 28/12/1960, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng Tỉnh Bến Tre được

thành lập và ra mắt nhân dân tại chợ Bến Bàu (xã Mỹ Chánh, Ba Tri). Thắng lợi

trong đồng khởi đã tạo ra thế và lực mới, đưa phong trào Cách mạng của tỉnh tiếp

tục tiến lên.

Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi ở miền Nam đã làm thất bại chiến lược

“Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chuyển sang chiến

lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Ở Bến Tre, Mỹ ngụy tăng cường cố vấn, phương tiện chiến tranh và nhiều

tiểu đoàn chủ lực để phối hợp với quân ngụy địa phương phản kích phong trào cách

mạng. Địch tăng cường bắt lính để bổ sung cho lực lượng chủ lực, xây dựng lực

lượng dân vệ trở thành lực lượng thường trực, quân số từ 5.135 tên năm 1961 lên

7.341 tên năm 1962 [7, tr.202]. Chúng lập các khu quân sự, tiến hành gom dân lập

hàng trăm ấp chiến lược, gây nhiều khó khăn cho cách mạng.

Sau cuộc Đồng Khởi, ở các xã đã giải phóng, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải

phóng cấp xã ra đời, đảm nhận chức năng chính quyền, tự quản, điều hành mọi công

việc ở xã, ấp. Về lực lượng vũ trang, bộ đội tỉnh, huyện và du kích xã được xây

dựng để chống địch càn quét lấn chiếm, đồng thời hỗ trợ cho mũi đấu tranh chính trị

của quần chúng. Từ thực tiễn đấu tranh, đội quân chính trị của quần chúng xuất

hiện, nòng cốt là “Đội quân tóc dài”. Đây là một đội hình đấu tranh được tổ chức

chặt chẽ, được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi đấu tranh.

Trong hai năm 1961-1962, quân dân Bến Tre tiếp tục tổ chức các cuộc tấn

công vào đồn bót địch. Đội quân chính trị của quần chúng, với hàng chục ngàn

người tổ chức nhiều cuộc biểu tình, đưa đơn kiến nghị đòi địch ngưng càn quét, bắn

phá. Sau chiến thắng Ấp Bắc ở Mỹ Tho (22/1/1963), cũng như nhiều địa phương

khác ở miền Nam, Tỉnh ủy Bến Tre đã phát động phong trào “ Thi đua Ấp Bắc giết

giặc lập công”. Ngày 5/7/1963 lực lượng vũ trang tỉnh tiến công tấn công đồn Cái

Mít, phục kích diệt viện, làm thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch ở Gò Keo (Thạnh

Phú Đông). Đầu năm 1964, địch mở cuộc hành quân “Phượng Hoàng TG I”, với

6.000 quân, có không quân yểm trợ, đánh vào 2 xã Thạnh Phong và Giao Thạnh

(Thạnh Phú), nhằm phá hủy căn cứ tiếp vận, cắt đứt sự chi viện Bắc – Nam. Quân

dân Thạnh Phú đã bẻ gãy cuộc hành quân này, diệt và làm bị thương 1.240 tên, bắn

rơi và hỏng 47 máy bay, thu trên 200 súng [66, tr.399]. Thực hiện chủ trương của

trung ương nhằm mở rộng vùng giải phóng, năm 1964 quân dân Bến Tre mở nhiều

cuộc tấn công như: tiêu diệt tiểu đoàn “Ó Đỏ” (18/3/1964) ở Ba Tri, diệt tiểu đoàn

“Ó Vàng” (9/4/1964) ở Mỏ Cày, san bằng cứ điểm Xã Diệu (18/4/1964) mở hành

lang ven biển Ba Tri, Bình Đại, diệt tiểu đoàn “Cọp Đen” (20/8/1964). Đến đầu

năm 1965, vùng giải phóng được mở rộng gồm 72 xã với 550.000 dân, chiếm ¾ đất

đai.

Trên chiến trường Bến Tre, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với quốc sách

“Ap chiến lược” của Mỹ ngụy đã bị thất bại. Để cứu vãn thất bại, giữa năm 1965,

Mỹ đã chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu

vào Việt Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.

Bến Tre được Mỹ ngụy xác định là một trong những chiến trường trọng

điểm, chúng tăng cường cố vấn Mỹ nắm quyền chỉ huy từ bộ máy quân sự hành

chính tỉnh, quận đến các đại đội quân ngụy, sử dụng nhiều loại phương tiện chiến

tranh hiện đại đánh phá vùng giải phóng, bao vây chia cắt ngăn chặn sự liên lạc vận

chuyển của ta.

Trước tình hình mới, Đảng bộ đã mở đợt sinh hoạt chính trị nêu cao quyết

tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Các đội đặc công, đội

săn tàu, đội pháo được thành lập. Tháng 1/1967, ta đã đánh bại các cuộc càn quét

“Cửu long 1” và “Sóng Thần 5” ở Thạnh Phú, đánh phá kế hoạch bình định trọng

điểm ở Ba Tri, chủ động mở chiến dịch Châu Hưng (Bình Đại), tổ chức các trận

đánh địch tại Thị xã làm tiêu hao sinh lực địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến

tranh. Trong 3 năm 1965-1967, nhiều cuộc đấu tranh chính trị, binh vận nổ ra chống

địch rãi chất độc hoá học, đòi Mỹ cút về nước, vận động binh lính đào ngũ…

Thực hiện chủ trương của Đảng mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa ở

miền Nam, trong đêm 31/1 (tức Mồng Một Tết) quân dân Bến Tre đã nổi dậy tổng

công kích vào các cơ quan đầu não của ngụy ở tỉnh, huyện; lực lượng cách mạng

đánh Dinh Tỉnh trưởng, Đài phát thanh, căn cứ chỉ huy của Trung đoàn 10, bãi quân

xa, bãi pháo, sân bay. Để cứu nguy, Mỹ đã đưa 2 tiểu đoàn Mỹ xuống thị xã phản

kích, ta chặn đánh địch ở đầu cầu Cá Lóc, Phú Khương. Sau đó, lực lượng cách

mạng rút khỏi nội ô thị xã để củng cố lực lượng.

Ngày 5/5/1968 ta mở đợt tấn công thứ hai với trận đánh vào Phú Khương,

làm tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn ngụy. Để đối phó với cuộc tấn công lần này, địch đã

bổ sung nhiều tiểu đoàn lính Mỹ cùng với hạm đội nhỏ trên sông Bến Tre. Chúng

cho máy bay B52 rãi hàng nghìn quả bom xuống khu vực Hữu Định, Phước Thạnh

(Châu Thành). Lực lượng ta đã chặn đánh địch ở sông Ba Lai (Châu Thành), Đồng

Gò, Tân Hào (Giồng Trôm). Ngày 25/5/1968, lực lượng vũ trang Bến Tre đã lập

được chiến công lớn, đánh chìm 28 tàu chiến, diệt trên 700 tên địch tại sông Giồng

Trôm.

Tháng 12/1968 Bến Tre được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải

phóng miền Nam tặng danh hiệu “Anh dũng đồng khởi – Thắng Mỹ diệt Ngụy”.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam đã làm thất bại hoàn

toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng phải chuyển sang chiến

lược: “Việt Nam hoá chiến tranh”. Thực chất của chiến lược này là dùng người

Việt đánh người Việt bằng phương tiện chiến tranh Mỹ.

Ở Bến Tre chúng tăng cường bắt lính và xây dựng thêm một số đơn vị mới.

Đến cuối năm 1969, quân số địch đã tăng lên gần 30.000 quân. Chúng tập trung chủ

lực như: sư đoàn 7, một bộ phận sư đoàn 9, một số tiểu đoàn biệt động quân, thuỷ

quân lục chiến, 40 đoàn cán bộ bình định cùng quân địa phương để thực hiện

chương trình “bình định cấp tốc” ở Ba Tri, rồi lan sang các huyện Mỏ Cày, Giồng

Trôm, Bình Đại, Thạnh Phú.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chủ trương phát động quân dân toàn tỉnh kiên

quyết chống địch càn quét. Lực lượng ta đã chặn đánh địch khắp nơi. Tuy nhiên, do

lực lượng ta bị tiêu hao, giảm sút chưa được củng cố kịp thời, đến đầu năm 1971,

quân ngụy đã lấn chiếm gần hết các xã giải phóng, đóng đồn bót dày đặc. Cuộc

kháng chiến của quân dân Bến Tre đứng trước những khó khăn thử thách quyết liệt.

Trước tình hình địch lấn chiếm giành gần hết đất trong tỉnh, Tỉnh ủy chủ

trương sắp xếp lại lực lượng, tăng cường cán bộ phụ trách huyện xã, lực lượng vũ

trang được phân tán thành từng tiểu đội, bám giữ các địa bàn. Nhân dân dù bị địch

kìm kẹp uy hiếp vẫn hết lòng bảo vệ Đảng, nuôi giấu cán bộ. Tháng 11/1971, Hội

nghị Tỉnh ủy mở rộng chủ trương “Động viên toàn đảng, quân dân Bến Tre khắc

phục khó khăn, chuẩn bị hợp đồng với chiến trường toàn miền, tiến hành tấn công

nổi dậy xuân – hè 1972” [7, tr.280].

Chấp hành Chỉ thị của Quân khu Tám, tháng 4/1972 ta mở chiến dịch tổng

hợp tấn công địch ở Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Trong tháng 7/1972 ta mở

đợt tấn công thứ hai, trọng điểm là Mỏ Cày. Lúc này tương quan lực lượng có lợi

cho ta vì ngụy phải rút quân chủ lực của vùng 4 khỏi chiến trường Bến Tre. Trong

khi đó ta lại thành lập Trung đoàn Đồng Khởi và được tăng cường Trung đoàn 1

của Quân khu. Chiến dịch tổng hợp đã đẩy địch vào thế bị động lúng túng, tan rã tạo

thế và lực mới để ta giành thế chủ động trên chiến trường.

Do thất bại dồn dập trên chiến trường Nam – Bắc, ngày 27/1/1973 Mỹ phải

ký “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Dù hiệp định

đã ký, nhưng Mỹ – Ngụy vẫn tập trung quân lấn chiếm các xã giải phóng ở Mỏ Cày,

Giồng Trôm, Châu Thành, Bình Đại. Chỉ hơn 4 tháng chúng đã lấn chiếm 64 ấp giải

phóng, đóng thêm 119 đồn bót. Từ tháng 10/1973, thực hiện Nghị quyết 21 của

BCH TW Đảng, quân dân Bến Tre đã kiên quyết đánh trả hành động lấn chiếm của

địch, tiến công tiêu diệt nhiều đồn bót. Đến cuối năm 1974, ta đã có 33 ấp giải

phóng hoàn toàn, 21 xã giải phóng cơ bản, mở thế làm chủ.

Cuối năm 1974, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương án giải

phóng miền Nam, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định mở chiến dịch mùa khô 1974-1975.

Trong đợt 1 của chiến dịch từ ngày 9/12/1974 đến cuối tháng 1/1975 ta đã

tiêu diệt 111 đồn bót. Tháng 3/1975, ta mở tiếp đợt 2, trọng điểm là Ba Tri và Chợ

Lách, đã tiêu diệt hàng trăm đồn bót, giải phóng hoàn toàn 3 xã, chuyển 80 xã do

địch kiểm soát thành vùng tranh chấp. Lúc này, trên chiến trường Tây Nguyên và

miền Trung, địch bị thất bại nặng nề. Từ ngày 25/3 đến ngày 31/3, Bộ Chính trị

họp, nhận định: thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh

vào sào huyệt của địch đã hoàn toàn chín muồi, ta cần có quyết tâm lớn hoàn thành

trận quyết chiến chiến lược cuối cùng tốt nhất là trong tháng 4/1975.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy đã chỉ thị cho toàn Đảng bộ,

quân dân Bến Tre khẩn trương chuẩn bị. Với tinh thần xã giải phóng xã, huyện giải

phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh, cả tỉnh sục sôi khí thế cách mạng, hàng ngàn

thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ; đội quân chính trị 20 vạn người trong tư

thế sẵn sàng; các đơn vị bộ đội chủ lực áp sát thị xã. Quân ngụy hoang man dao

động cực độ, nhiều tên bỏ ngũ, xin hàng hoặc làm nội ứng cho ta.

Ngày 27/4 Ban Chỉ đạo chiến dịch quyết định thực hiện phương án tấn công

chi khu Lương Quới, mở mặt trận diệt quân tiếp viện ở Đồng Gò, cắt tỉnh lộ 26, tạo

điều kiện đánh chiếm thị xã khi có thời cơ. Đến ngày 29/4, bộ đội phối hợp với du

kích và quần chúng khởi nghĩa tấn công chi khu Lương Quới diệt 1 đại đội bảo an.

Sáng 30/4, bọn chỉ huy cho 5 tiểu đoàn bảo an tiểu khu Bến Tre đi giải toả, nhưng

tổng thống Dương Văn Minh đã tuyến bố đầu hàng vô điều kiện. Chiều 30/4 lực

lượng vũ trang và quần chúng khỡi nghĩa triển khai vào nội ô thị xã Bến Tre và các

thị trấn. 20 giờ đêm 30/4 địch đầu hàng. Sáng 1/5/1975 quân ta cùng hàng vạn quần

chúng tiến vào tiếp quản thị xã Bến Tre và các thị trấn. Tỉnh Bến Tre được hoàn

toàn giải phóng.

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre có 7 vạn thanh

niên lên đường cầm súng cứu nước. Kết thúc chiến tranh, có 34.715 liệt sĩ (hy sinh

gần 50%), 15.132 thương binh, 9.187 người nhiễm chất độc hóa học. Toàn tỉnh có

43 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 90 đơn vị tập thể anh hùng, 14 người

được phong quân hàm cấp tướng.

Nhân dân Bến Tre thực hiện tinh thần đồng khởi mới, xây dựng lại quê

Là địa phương đất hẹp, người đông, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề suốt hương (1975 – 2000)

30 năm, bước sang giai đoạn mới, Bến Tre phải đương đầu với nhiều khó khăn

nghiêm trọng. Nông thôn bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn, chất độc hóa học, rừng

ven biển hầu như bị hủy diệt. Đường sá, cầu cống hầu như bị phá nát. Nền kinh tế

của tỉnh chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu. Công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp kém phát triển; toàn tỉnh không có một cơ sở công

nghiệp nào quan trọng.

Trên cơ sở xác định 3 thế mạnh của tỉnh là nghề ruộng, nghề vườn, nghề cá,

Đảng bộ Bến Tre đã động viên nhân dân phát huy tinh thần “Đồng khởi”, ra sức

xây dựng lại quê hương.

Nhờ biết tập trung vào mặt trận hàng đầu là nông nghiệp, nên từ chỗ thiếu

lương thực, Bến Tre chẳng những đã cơ bản tự trang trải được nhu cầu lương thực

của tỉnh mà còn thừa cho xuất khẩu. Hai cây công nghiệp chủ lực là mía và dừa

được quan tâm đầu tư, tăng nhanh về diện tích. Hoạt động khai thác, chế biến, nuôi

trồng thủy hải sản phát triển nhanh cả về quy mô, phương tiện khai thác, chế biến,

mang lại cho tỉnh một khoản ngoại tệ đáng kể nhờ hoạt động xuất khẩu.

Các hoạt động văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế… đều có bước phát triển.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị đầu tư cho việc giảng dạy, chữa bệnh, giải trí… không

ngừng được tăng cường. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hoá” được phát động đều khắp các xã. Đến năm 2000, toàn tỉnh có hơn 133 ấp văn

hoá, 176.114 hộ được cấp bằng công nhận gia đình văn hoá.

3.3. Đặc điểm tính cách của con người Bến Tre

Tính cách của con người được hình thành, phát triển trong sự tác động của

điều kiện lịch sử, chịu ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động hàng ngày của

con người. Tính cách thể hiện trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để tạo dựng

cuộc sống, thể hiện qua các mối quan hệ xã hội, qua đấu tranh xã hội.

Nam Bộ đầu thế kỷ XVII vẫn còn hoang sơ. Khó khăn mà lưu dân gặp phải ở

Bến Tre buổi đầu khai phá không chỉ có rừng hoang, thú dữ, mà còn khó khăn ở địa

thế bị cách bức, địa hình bị chia cắt bởi nhiều sông rạch, phần lớn đất bị ngập nước,

nhiễm phèn, nhiễm mặn. Để có thể khai phá được vùng đất này đòi hỏi con người ở

đây phải có nghị lực phi thường, ý chí, quyết tâm cao.

Một trong những đặc tính khá nổi bật của người Bến Tre đó là tinh thần tự

lực tự cường. Đất Bến Tre là vùng đất cù lao, ba bề sông biển bao bọc, trông chờ

dựa dẫm vào người khác rất khó. Vì vậy, khi có vấn đề nảy sinh, suy nghĩ đầu tiên

của con người xứ cù lao là phải dựa vào sức mình là chính, phải tự mình giải quyết

khó khăn, tự mở đường mà tiến, không thể ỷ lại, trông chờ.

Tinh thần tự lực tự cường được in dấu khá rõ nét trong kỹ thuật đào mương

lên liếp, biến vùng đất thường xuyên bị ngập nước ven sông rạch thành đất vườn.

Từ đó, một nghề mới trong nông nghiệp xuất hiện, đó là nghề làm vườn, lợi nhuận

thu về cao gấp nhiều lần so với canh tác lúa. Nếu cho rằng “đào mương lên liếp” là

phát kiến riêng của người Bến Tre thì chưa thoả đáng, song không thể không ghi

nhận đóng góp có giá trị của cư dân Bến Tre trong kỹ thuật cải tạo đất bằng cách

đào mương lên liếp, tạo ra hệ thống tưới tiêu tự chảy, hình thành và phát triển ngành

kinh tế vườn ở Nam Bộ.

Tinh thần tự lực còn thể hiện trong việc chinh phục vùng đất nhiễm phèn,

nhiễm mặn. Vùng đất Bến Tre không phải là nơi có nhiều thuận lợi cho việc trồng

lúa. Trở ngại lớn nhất đối với việc trồng lúa ở đây là hiện tượng xâm nhập mặn. Để

có thể thâm canh tăng vụ, việc xây dựng hệ thống thủy lợi có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng.

Với bản lĩnh và quyết tâm cao, nông dân Bến Tre đã biết xây dựng hệ thống

thủy lợi (đắp đập ngăn sông - đập Ba Lai, đắp đê ven sông Hàm Luông) để ngăn

mặn, đào nhiều kênh mương để phục vụ tưới tiêu cho những vùng bị nhiễm mặn,

đưa nước ngọt vào đồng ruộng, tạo điều kiện cho việc thâm canh tăng vụ, biến một

vùng đất vốn không thích hợp đối với cây lúa trở thành nơi chẳng những giải quyết

tương đối ổn nhu cầu lương thực của địa phương mà còn thừa cho xuất khẩu.

Để có thể tự lực vươn lên đòi hỏi người dân nơi đây phải nỗ lực học tập. Một

đặc điểm đáng lưu ý khác của người Bến Tre đó là tinh thần hiếu học. Do hiểu

được cái giá của thất học, lập làng xong, cư dân liền tìm thầy để dạy chữ cho con.

Bến Tre cách xa Gia Định, đi lại khó khăn, nhưng việc học ở đây phát triển khá

sớm. Năm 1867, khi xâm lược Bến Tre, thực dân Pháp thừa nhận, trên 2 cù lao Bảo

và Minh có 70 trường dạy chữ Hán. Đất Bến Tre là nơi sản sinh những con người

hiếu học, thông minh, có trình độ học vấn uyên thâm như Phan Thanh Giản, Trương

Vĩnh Ký.

Những thế hệ con cháu của các bậc tiền nhân quê dừa cũng đã sớm thấy vai

trò của khoa học, tìm đến với khoa học, rất cần mẫn, thông minh trong việc tiếp thu

và ứng dụng khoa học vào cây trồng. Người ta rất say sưa tìm tòi những bí ẩn sinh

học của cây trồng để bồi dưỡng, thuần hoá và cải tạo nó. Việc du nhập và kỹ thuật

lai tạo, ghép cây, chiết cành, tạo ra những giống mới, có năng suất cao cũng nảy

sinh từ đất Vĩnh Thành (Chợ Lách, Bến Tre) từ cuối thế kỷ XVIII đến nay. Từ thuở

xa xưa chỉ có cây dừa, cây cau, cây chuối, dây trầu là những loại cây trồng phổ

biến, ngày nay, chủng loại cây trồng trên đất Bến Tre rất phong phú. Mỗi loại cây

qua sự thuần dưỡng của con người đều có sự phát triển, đổi mới, hơn hẳn về số

lượng và chất lượng so với nguồn gốc cũ. Bến Tre đang dẫn đầu phong trào tạo ra

lúa cao sản, dừa cao sản, mía cao sản, đưa cây hồ tiêu và cây ca cao vào đất vườn,

biết khai thác ba tầng sinh thái trong đất vườn. Đời nọ qua đời kia, tinh thần ham

học hỏi, nhạy bén và sáng tạo trong đời sống đã nối tiếp thành truyền thống.

Địa thế đất cù lao, bị cách bức với các vùng lân cận, điều kiện giao lưu bị

hạn chế chắc chắn có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành, phát triển tính cách,

tâm lý của con người. Nói đến vùng đất bị cách bức với các vùng lân cận như đất

đảo hay đất cù lao của Bến Tre, người ta thường nhấn mạnh đến tính chất bảo thủ,

trì trệ, chậm thay đổi. Bến Tre cũng khó thoát khỏi những hạn chế chung đó. Tuy

vậy, thiên nhiên cách trở cũng tạo ra cho người Bến Tre tư thế sẵn sàng đón nhận

tinh hoa văn hóa từ nơi khác. Bởi lẽ, nếu đóng cửa, chối từ đồng nghĩa với việc tự

đào sâu ranh giới ngăn cách, tự làm cho mình thụt lùi so với các địa phương khác.

Tuy bị cách bức, nhưng Bến Tre không phải là vùng đất heo hút. Nhờ hệ thống sông

lớn và biển bao bọc, Bến Tre có điều kiện thuận lợi về giao thông thuỷ. Tận dụng,

khai thác lợi thế này, từ rất sớm, người Bến Tre đã mở rộng giao lưu buôn bán với

bên ngoài. Từ Bến Tre, ghe thuyền có thể ra tận miền Bắc, miền Trung, đến Sài

Gòn và sang cả vịnh Thái Lan. Qua giao lưu buôn bán, đến được nhiều nơi, tiếp xúc

với người của nhiều địa phương, người Bến Tre đã biết học tập, tiếp thu những cái

hay, cái tốt của những nơi khác để làm giàu thêm kiến thức của mình trong phát

triển kinh tế và văn hoá.

Những lớp lưu dân đầu tiên đến với vùng đất Bến Tre hầu hết là nông dân,

lính tráng, tội đồ. Vốn chữ nghĩa của họ không có hoặc rất ít ỏi. Vào vùng đất mới,

mọi công sức đều dồn vào việc giành giật miếng cơm, manh áo. Bọn phong kiến,

thực dân lại không bao giờ nghĩ đến việc mở mang trường học, truyền bá văn hoá

cho nhân dân. Cho nên, không phải chỉ có họ mà cả những thế hệ về sau của họ vẫn

là những người nông dân chất phác, thật thà, thẳng thắn, bộc trực, ít văn chương

rào đón trong cư xử, giao tiếp. Đặc điểm này trải qua bao thế hệ vẫn được bảo tồn.

Đó là một nét đẹp trong tính cách của con người nơi đây.

Do lâm vào cảnh bế tắc, phải rời bỏ quê hương ra đi vì không còn đất sống,

họ là những người mang trong mình đầu óc mạo hiểm, bị buộc phải liều. Cùng

chung cảnh khổ, phải ra đi tìm cái sống trong muôn ngàn cái chết, phải đoàn kết

nhau để vượt qua những trở ngại của thiên nhiên, do vậy, người ta rất chuộng nghĩa

khí, quý trọng bè bạn, tình huynh đệ giang hồ, lòng nghĩa hiệp, coi tiền tài như cỏ

rác, sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Tiêu chuẩn đạo lý làm người là “Kiến nghĩa bất vi vô

dũng giả” đã trở thành phương châm ứng xử của nhiều người.

Làm việc nghĩa là bênh vực những người yếu đuối, sa cơ thất thế, chống lại

cường quyền hoặc bạo lực phi nghĩa, như trường hợp Vân Tiên cứu Nguyệt Nga.

Tuy nhiên, nếu vì nghĩa được mở rộng đến mức không phân biệt cái tốt, cái xấu, cái

đáng bênh vực và cái không đáng bênh vực thì dễ dẫn đến những hành động liều

lĩnh, có hại.

Trong Gia Định Thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết: “Ở Gia Định, khách

đến thì mời ăn trầu trước, thết nước chè rồi đến ăn cơm ăn bánh, cốt phải phong

hậu. Không kể người thân hay sơ, lạ hay quen, tung tích thế nào, đã đến tất phải tiếp

nhận thết đãi…” [18, tr.146]. Phải chăng do thiên nhiên hào phóng nên con người

hào phóng. Có lẽ vì cùng chung cảnh khổ với nhau, người ta rất dễ cảm thông, chia

sẻ lẫn nhau. Đó chính là nguồn gốc nảy sinh tinh thần nhường cơm sẻ áo, hiếu

khách, hào phóng, một trong những đức tính đáng quý của người Bến Tre, bất kể là

người giàu hay người nghèo. Tinh thần hào phóng, hiếu khách, lấy tình nghĩa làm

trọng còn bảo lưu khá tốt ở Bến Tre. Tinh thần này được thể hiện ở sự tiếp đãi ân

cần, cách bày biện, nấu nướng, thái độ hòa nhã, lịch sự. Các món đặc sản của địa

phương thường được mang ra đãi khách, tặng, biếu lúc khách ra về.

Vì nghĩa lớn và tinh thần hào phóng, khi có quốc gia đại sự, người dân Bến

Tre sẵn lòng quyên góp tiền tài, vật chất ủng hộ kháng chiến, nuôi giấu cán bộ.

Những câu chuyện về việc nhân dân Bến Tre tự nguyện góp 700 lạng vàng trong

“Tuần lễ vàng” để lập quỹ Độc lập xây dựng đất nước và mua sắm vũ khí trang bị

cho quân đội, chuyện Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương – Phái Cao Đài Ban

Chỉnh Đạo tự nguyện hiến cho Chính phủ kháng chiến 130 mẫu rừng lá ở Giồng

Bãi – Thạnh Phú, rất nhiều người dân sẵn sàng hiến đất của mình để xây dựng các

công trình công cộng… là những minh chứng cho tinh thần hào phóng, nghĩa hiệp

của người dân Bến Tre.

Trước những trở ngại của thiên nhiên người ta xem nhẹ tính mạng, sống liều

lĩnh, ngang tàng, dũng cảm, không lùi bước, do vậy họ cũng sẽ không bao giờ chấp

nhận những bất công của xã hội, quyết tâm, kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng.

“Trời xanh cây cứng lá dai

Gió lay mặc gió chiều ai không chiều”

Tinh thần đấu tranh vì lẽ phải được thể hiện qua việc các cụ già ở Ba Tri

bằng sức của đôi chân đã vượt đường sá xa xôi, nguy hiểm, đến tận kinh thành Huế

kiện việc bất bình. Không chỉ có “ông già”, cả “bà già” cũng có tinh thần, ý chí,

quyết tâm, kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng như trường hợp của bà Phan Thị Tỏ –

chủ hãng kẹo dừa Thanh Long, bị giả mạo nhãn hiệu sản phẩm, đã sang tận Trung

Quốc để đấu tranh đòi lẽ công bằng.

Kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng là một đức tính đáng yêu của cư dân Bến

Tre. Thế nhưng, nếu không xác định được thế nào là lẽ phải, chỉ lo cho lợi ích của

bản thân, đấu tranh bất chấp kỷ cương, phép nước như các trường hợp cố chấp

khiếu nại đòi đất vào tập đoàn sản xuất, khiếu nại vượt cấp, tụ tập đông người gây

rối trật tự công cộng thì lẽ phải trở thành điều phi lý.

Từ mảnh đất hoang sơ biến thành ruộng vườn tươi tốt, đó là cả một quá trình

mà con người nơi đây đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức. Chính vì vậy, người

ta vô cùng quý trọng thành quả lao động. Họ yêu ruộng, yêu vườn, từ đó mà phát

triển thành tình yêu quê hương, đất nước.

Yêu nước là đặc tính cơ bản của mọi người Việt Nam, được hun đúc nên

trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Nói về đồng bào Nam Bộ, trong đó

có Bến Tre, không ít ý kiến đã bình phẩm, ngợi ca tinh thần yêu nước, bất khuất

của họ với những biểu hiện đặc biệt so với các vùng đất khác.

Ngay từ buổi đầu chống Pháp, Nguyễn Ngọc Thăng – người con của xứ dừa

đã có mặt trên tuyến đầu ở đại đồn Kỳ Hoà. Sau khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay

giặc, Bến Tre trở thành một trong những vùng “tị địa” của những sĩ phu và nghĩa

dân yêu nước, bất hợp tác với giặc. Khi ấy, người Bến Tre cũng có mặt và chiến đấu

dũng cảm trong các đơn vị quân đội của triều đình như Lê Quang Quan (Tán Kế),

trong những đội quân ứng nghĩa của Trương Định như Trịnh Viết Bàng, Huỳnh Văn

Thiệu. Chủ tướng mất, những người này vẫn giữ vững ý chí, lui về quê nhà, chiêu

mộ nghĩa quân, tiếp tục tổ chức chiến đấu đến cùng.

Khi ba tỉnh miền Tây tiếp tục rơi vào tay giặc, nhân dân Bến Tre đã giáng

những đòn phủ đầu ngay từ khi bọn Pháp xâm lược mới đặt chân lên vùng đất cù

lao, tại những nơi như Hương Điểm (Giồng Trôm), Giồng Gạch, Bảo Thạnh (Ba

Tri). Tiếp theo là những cuộc khởi nghĩa, tự động nổi dậy của nhân dân ở cả ba dãy

cù lao với những tên tuổi như Phan Tòng, Phan Tôn, Phan Liêm, Lê Văn Nghiêm,

Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương… Không chỉ đánh địch ở quê nhà, nhân dân xứ cù lao

còn tham gia khởi nghĩa của Thủ khoa Huân ở bên kia sông Tiền. Vì thế, trong tổng

số 47 làng bị Thống đốc Nam Kỳ ký lệnh phạt, Bến Tre chiếm đến 11 làng.

Trong cuộc chiến bảo vệ quê hương, không chỉ có nông dân tham gia chiến

đấu, mà có cả những trí thức Nho giáo cũng có mặt trên tuyến đầu chống giặc.

Người thì chiến đấu bằng ngòi bút như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, có người

thì cầm gươm xông pha vào trận mạc như thầy giáo Phan Tòng – người chỉ huy trận

Giồng Gạch, cử nhân Âu Dương Lân – người đã cùng Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo

cuộc khởi nghĩa ở Định Tường…

Truyền thống yêu nước bất khuất của người Bến Tre đã được các thế hệ nối

tiếp nhau kế thừa một cách xuất sắc, từ buổi đầu chống xâm lược, qua thời xây

dựng Đảng rồi đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau này.

Chiến tranh xảy ra, người dân đã biến ngôi nhà, mảnh vườn của mình thành

nơi nuôi giấu cán bộ, bộ đội, thành căn cứ địa cách mạng vây hãm quân thù. Giặc

phá vườn, cào nhà, gom dân, người dân nơi đây đã dũng cảm bám ruộng vườn, đánh

trả quân thù bằng tất cả bản lĩnh, tài năng và trí sáng tạo của họ. Nhân dân Giồng

Trôm sử dụng bè cây kết bằng hàng trăm cây dừa phá sập cầu Bình Chánh, Nguyễn

Văn Tư đánh giặc bằng ong vò vẽ, Lê Chính làm giàn thun để bắn lựu đạn vào đồn

giặc, Hoàng Lam mang thuốc nổ lội sông đánh tàu giặc… Mỹ dùng chất độc hoá

học huỷ diệt cây vườn, người dân Bến Tre đã phát triển nghề trồng mía để phủ xanh

địa hình, giữ vững thế chiến tranh du kích. Mía xen dừa, vườn Bến Tre thêm thế

mạnh mới về kinh tế, phát triển nghề làm đường, bảo đảm cuộc sống bộ đội và nhân

dân trong thời kỳ chiến tranh và mở rộng giao lưu kinh tế sau này. Có thể xem đó là

những điển hình đánh giặc với kiểu cách độc đáo của người dân Bến Tre.

Trong điều kiện bị cách bức, khó khăn trong liên lạc và nhận sự chi viện từ

các vùng xung quanh, Bến Tre không thể ngồi im trông chờ mà phải tự suy nghĩ,

tìm cách khắc phục những vấn đề nan giải.

Trong kháng chiến chống Pháp lần hai và kháng chiến chống Mỹ, để tăng

cường khả năng chiến đấu cho địa phương, Tỉnh uỷ Bến Tre đã mạnh dạn tổ chức

những chuyến vượt biển, ra thủ đô Hà Nội để xin chi viện. Không phải ngẩu nhiên

mà người ta gọi Bến Tre là “Quê hương Đồng khởi”. Theo Đại tướng Hoàng Văn

Thái, trong bài phát biểu ở Hội nghị tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

của nhân dân Bến Tre, ngày 17.7.1982: “Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã mở

đầu cho cuộc tấn công và nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu

cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ, Diệm. Rõ ràng, phong trào

Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí

xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng

được gọi là quê hương Đồng khởi với tất cả nội dung và tính chất của nó” [66,

tr.1091]. Từ phong trào Đồng khởi, “đội quân tóc dài” đã ra đời và phát triển rộng

khắp toàn miền Nam, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng

ở miền Nam. Đặc công thuỷ ở Bến Tre, một loại binh chủng đặc biệt, với quân số

chưa đến 100 người nhưng chiến công của họ thì lẫy lừng, diệt hàng trăm tàu địch,

hàng ngàn tên giặc bị nhấn chìm xuống đáy sông Hàm Luông.

Xin được nêu vài con số minh chứng cho tinh thần yêu nước của người Bến

Tre. Trong thời chống Pháp và chống Mỹ, Bến Tre có 7 vạn thanh viên lên đường

cầm súng cứu nước. Không những chỉ chiến đấu trên quê hương mình, con em xứ

dừa còn ra đi chiến đấu trên khắp các chiến trường Nam Bộ và cả ở nước bạn

Campuchia. Kết thúc chiến tranh, toàn tỉnh có hơn 34.715 liệt sĩ (hy sinh gần 50%),

15.132 thương binh, 43 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 90 đơn vị anh hùng

tập thể, 14 người được phong quân hàm cấp tướng.

Trải qua ba thế kỷ khai phá, xây dựng và bảo vệ quê hương, các thế hệ người

dân Bến Tre đã dày công hun đúc, tôi luyện nên những truyền thống tính cách đáng

quý. Đó là tinh thần yêu nước, bất khuất, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần hiếu học,

sự chất phác, thật thà, chuộng nghĩa khí, hào hiệp, mến khách…Truyền thống tính

cách mà các thế hệ cha anh đã để lại là hành trang quý giá để các thế hệ con em Bến

Tre học hỏi, phát huy, tiếp tục xây dựng quê hương Bến Tre thêm giàu đẹp.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu diện mạo văn hoá – xã hội của Bến Tre trong các thế kỉ

XVII – XX, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Khi xem xét diện mạo văn hoá của vùng đất Bến Tre cần xem xét những

đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng đất này.

Văn hoá là một mảng của đời sống xã hội, là sản phẩm của hoạt động đấu

tranh với tự nhiên và đấu tranh xã hội, gắn bó hữu cơ với tổ chức cuộc sống của

cộng đồng dân cư. Văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng dân cư sáng tạo ra trong

điều kiện tự nhiên và xã hội cụ thể. Đặc điểm của cộng đồng dân cư, môi trường tự

nhiên và xã hội là những nhân tố tác động đến sự hình thành diện mạo văn hoá.

Bến Tre là vùng đất cù lao cửa sông, giáp biển. Bến Tre nằm trong vùng khí

hậu nhiệt đới với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Thời tiết nhìn chung thuận lợi, ít chịu

ảnh hưởng của bão. Nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm thuận lợi cho sự phát triển của nhiều

loại cây trồng, vật nuôi, song gần một nửa diện tích đất bị nhiễm phèn, mặn, gây

nhiều trở ngại cho sự phát triển của nông nghiệp.

Sông ngòi, kênh rạch chằng chịt đã chia cắt địa hình Bến Tre, gây trở ngại

cho giao thông đường bộ nhưng là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao thông

thuỷ, góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hoá. Sông mang phù sa về cho vùng

đất, cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, cung cấp tôm cá cho bữa ăn

của người dân. Sông rạch góp phần làm đẹp cảnh quang, điều hoà khí hậu.

Từ thế kỉ VI đến thế kỉ XVI, người Khơme là cư dân chủ yếu ở Nam Bộ nói

chung, Bến Tre nói riêng. Do số lượng cư dân ít ỏi, trình độ kỹ thuật còn hạn chế

nên thành quả khai phá chưa nhiều. Đầu thế kỉ XVII, Bến Tre vẫn còn là vùng đất

hoang nhàn với rừng rậm, thú dữ, phần lớn diện tích đất chưa được khai phá. Từ thế

kỉ XVII, diện mạo vùng đất Bến Tre có sự thay đổi với sự xuất hiện của những lưu

dân đến đây khai phá.

Lưu dân đến khai phá vùng đất Bến Tre từ nhiều nguồn khác nhau. Đa số lưu

dân là người Việt, có nguồn gốc từ miền Ngũ Quảng. Phần đông là những nông dân

bần cùng, không thể sống được ở quê cũ. Bên cạnh đó còn có những tội đồ, lính

tráng bị nhà Nguyễn lưu đày. Một ít trong số đó là những người giàu có, muốn tìm

cơ hội làm giàu ở vùng đất mới. Trong số lưu dân đến khai phá vùng đất này còn có

một bộ phận người Hoa, do bất mãn triều Thanh đã xin chúa Nguyễn vào Nam khai

phá. Song, tộc người chiếm số đông, giữ vai trò quyết định sự phát triển của vùng

đất là người Việt.

Hành trang mà lưu dân mang theo không chỉ có tư liệu sản xuất mà còn có cả

những vốn văn hoá đã được tích luỹ từ quê cũ. Đến vùng đất Bến Tre, vốn văn hoá

mang theo được bộc lộ trong điều kiện tự nhiên mới, được gặp gỡ văn hoá của các

tộc người khác, đã phát triển thành văn hoá Bến Tre.

Một trong những nét đáng lưu ý đối với môi trường xã hội của cư dân nơi

đây là làng Việt mang những nét riêng so với làng Việt Bắc Bộ. Làng ở đây là làng

khai phá, có tuổi đời còn non trẻ hơn nhiều so với làng Việt Bắc Bộ. Làng ở Bến

Tre không là đơn vị biệt lập, khép kín với luỹ tre bao bọc như làng ở Bắc Bộ mà

kéo dài trên diện rộng, ven hai bờ sông rạch hoặc trục lộ giao thông. Dân cư đa số là

những người mới đến khai phá, do vậy tính cố kết trong quan hệ dòng họ không

chặt chẽ.

Về tiến trình lịch sử, công cuộc khai phá của cư dân nơi đây, từ thế kỉ XVII

đến 1867 vẫn đang tiến hành, chưa thật sự ổn định thì bị thực dân Pháp xâm lược.

So với cả nước, Nam Bộ, trong đó có Bến Tre trở thành nơi đầu tiên chịu sự thống

trị của thực dân Pháp cho đến 1945. Trong hoàn cảnh đó, văn hoá của cư dân nơi

đây đã được tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Từ năm 1945 đến 1954, nhân dân

Bến Tre cùng với nhân dân Nam Bộ và nhân dân cả nước tiến hành kháng chiến

chống Pháp. Năm 1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng nhân dân Bến Tre cùng

với nhân dân miền Nam còn phải tiếp tục kháng chiến chống Mĩ. Bến Tre trở thành

một trong những trọng điểm bình định của kẻ thù. Đến năm 1975, Bến Tre mới

được giải phóng. Cùng với Nam Bộ, Bến Tre đã phải “đi trước” nhưng lại “về sau”.

Chịu sự tác động, chi phối bởi những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, lịch sử,

xã hội của vùng đất Bến Tre, diện mạo văn hoá nơi đây chắc chắn sẽ mang những

đặc điểm riêng.

2. Văn hoá Bến Tre là sản phẩm của quá trình kế thừa và phát triển

những di sản văn hoá truyền thống Việt Nam trong điều kiện môi trường tự

nhiên, xã hội và giao tiếp văn hoá tộc người trên vùng đất Bến Tre.

Đến với vùng đất Bến Tre, tài sản mà lưu dân mang theo chủ yếu chỉ là

những giá trị văn hoá truyền thống. Đó là năng lực thích ứng với thiên nhiên, sự

siêng năng, lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường… Những vốn liếng quý giá

này là động lực, sức mạnh để lưu dân đối đầu, vượt qua những khó khăn, trắc trở

của điều kiện tự nhiên, biến vùng đất cù lao hoang nhàn thành đồng ruộng, vườn

cây trái xanh tốt. Trên vùng đất mới, các giá trị văn hoá truyền thống đã được thử

thách bản lĩnh, chẳng những được giữ gìn mà còn được vun đắp thêm, làm cho bức

tranh văn hoá Việt Nam có thêm những sắc màu mới.

Bức tranh văn hoá Bến Tre mang đậm dấu ấn của thiên nhiên vùng đất cù

lao, đặc biệt là môi trường sinh thái sông nước.

Môi trường thiên nhiên sông nước Bến Tre tác động và ghi dấu khá rõ nét

trên bức tranh sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân Bến Tre.

Sông rạch như những mạch máu len lỏi khắp cơ thể của vùng đất Bến Tre,

mang chất dinh dưỡng về cho đất nuôi cây trồng, mang nguồn thực phẩm tôm cá về

cho con người, giúp con người đi lại, giao lưu kinh tế, văn hoá.

Văn hoá Bến Tre là sản phẩm của cuộc đấu tranh của cư dân nơi đây đối với

thiên nhiên sông nước, là quá trình cư dân Bến Tre thích nghi, tận dụng, khai thác,

chinh phục các dòng sông. Cuộc sống của người dân nơi đây gắn liền với sông

nước. Quá trình ấy đã để lại nhiều sản phẩm văn hoá.

Trong sinh hoạt kinh tế, tận dụng dòng chảy của các con sông theo chế độ

thuỷ triều cư dân Bến Tre đã nạo vét hệ thống kênh mương để thau chua, rửa mặn

cho đồng ruộng. Người ta đã sáng tạo ra cách “đào mương lên liếp” để khắc phục

tình trạng đất ngập nước, đưa phù sa vào mương vườn để bồi đắp cho cây. Từ đó,

một ngành kinh tế mới đã xuất hiện đó là nghề làm vườn. Nghề làm vườn phát triển

đã kéo theo sự ra đời của nghề sản xuất cây giống phục vụ cho nó.

Để khai thác nguồn tôm cá dồi dào mà sông nước Bến Tre mang lại, cư dân

nơi đây có nghề khai thác cá đồng, bưng, rạch, nghề đánh bắt cá biển. Nghề đóng

ghe cũng đã ra đời để cung cấp phương tiện đi lại, đánh bắt cá của cư dân.

Việc ăn ở, đi lại của người dân cũng gắn liền với sông nước.

Cơ cấu bữa ăn vẫn theo công thức cổ truyền “cơm – rau – cá”, song bữa ăn

của người dân Bến Tre mang đậm dấu ấn của thiên nhiên sông nước với khá nhiều

tôm cá và trái cây miệt vườn. Dừa có mặt ở nhiều món ăn và là loại nước uống đặc

trưng của vùng đất Bến Tre.

Nhà cửa được dựng lên dọc các bờ sông, các tuyến kênh, thuận tiện cho việc

đi lại, làm ăn và có thể đón gió mát từ sông, kênh. Sông rạch là môi trường sống của

một bộ phận khá đông dân cư. Buôn bán trên sông, sống lênh đênh trên sông, chợ

được họp theo con nước.

Thiên nhiên của vùng sông nước Bến Tre là nguồn cảm hứng, tạo nên những

nét đặc trưng cho những sáng tác văn học dân gian. Các sáng tác dân gian Bến Tre

đã bổ sung cho bức tranh thiên nhiên Việt Nam những hình ảnh của vùng đồng bằng

với những dòng sông cuộn chảy, những con rạch đôi bờ xanh ngát, những rừng dừa

nước, rừng bần, cây trái miệt vườn… Cũng từ các sáng tác ấy, hiện lên phẩm chất

và bản lĩnh của con người Bến Tre với những đức tính của người miền Nam như

cương trực, nghĩa khí, phóng khoáng, chân chất, ngang tàng.

Bức tranh văn hoá – xã hội Bến Tre phản ánh cách thức tổ chức cuộc sống

của cộng đồng cư dân Bến Tre trong môi trường thiên nhiên sông nước. Văn hoá

Bến Tre mang sắc thái của một vùng văn hoá sông nước. Nhìn từ trên cao, bức

tranh văn hoá Bến Tre hiện ra những vườn cây trái, nhà cửa, chợ búa ven sông, ven

rạch; theo con nước lớn ròng, ghe thuyền đi lại, chở đầy ắp cây trái miệt vườn, thóc

lúa, vật liệu, buôn bán tấp nập trên sông; có cầu khỉ bắt qua mương; có những

đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau ra khơi; có mái chèo khua nhẹ đưa thuyền trôi

lững lờ theo dòng nước dưới ánh trăng, xa xa văng vẳng mấy câu hò…

Đất Bến Tre là vùng đất cù lao ba bề sông biển, bị cách bức với các vùng lân

cận. Nói đến vùng đất cù lao, người ta thường nhấn mạnh đến tính chất bảo thủ, trì

trệ, chậm thay đổi. Song, chính vì sống ở vùng đất cù lao nên con người nơi đây

không thể ỷ lại, trông chờ mà phải luôn có tâm thế phải tự lực vươn lên. Tự lực tự

cường là một trong những đặc tính nổi bật của con người Bến Tre. Bên cạnh tinh

thần tự lực, con người nơi đây cũng luôn có ý thức học hỏi, tiếp thu những kinh

nghiệm từ nơi khác để làm giàu cho quê hương mình, bởi lẽ nếu đóng cửa, không

giao lưu học hỏi cũng đồng nghĩa với việc đào sâu ranh giới ngăn cách.

Ý thức được giá trị của việc học, sau một khoảng thời gian ổn định cuộc

sống, lưu dân đã quan tâm đến việc giáo dục cho con em mình. Bến Tre cách xa Gia

Định, đi lại khó khăn, nhưng việc học ở đây phát triển khá sớm. Đến khi thực dân

Pháp xâm lược, trên 2 cù lao Bảo và Minh, trong số 152 thôn có đến 70 trường dạy

chữ Hán. Đất Bến Tre là nơi sản sinh những con người hiếu học, thông minh, có

trình độ học vấn uyên thâm như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký. Qua các thời

kỳ, sự nghiệp giáo dục ở Bến Tre đã đào tạo được nhiều lớp nhân tài, là những cán

bộ lãnh đạo, những chiến sĩ cách mạng, đã cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách

mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước.

Bức tranh văn hoá Bến Tre ghi dấu khá rõ nét đặc điểm của cộng đồng

dân cư và hiện thực xã hội trên vùng đất này.

Chủ nhân của văn hoá Bến Tre là những con người Việt Nam từ nhiều nơi

hội tụ về vùng đất Bến Tre, mang trong mình dòng máu Việt Nam và những giá trị

văn hoá truyền thống Việt Nam. Đến vùng đất mới, không gian sống có thay đổi

song họ vẫn là cư dân nông nghiệp, vẫn với những nghề nghiệp quen thuộc. Điều

kiện sống, sinh hoạt kinh tế vẫn mang những nét giống với quê cũ. Do vậy, hầu hết

phong tục tập quán, tín ngưỡng cổ truyền đều được duy trì.

Đời sống tâm linh của người dân gắn với loại hình sinh hoạt kinh tế và vẫn

mang những nét chung với cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ. Với cư dân

nông nghiệp tâm linh của họ gửi gắm vào vị thần ngự trị ở đình làng; sinh hoạt văn

hoá tiêu biểu tập trung ở lễ hội kỳ yên. Cư dân miệt biển tin tưởng và cầu mong sự

phò trợ của vị thần ở ngoài khơi xa; sinh hoạt văn hoá tiêu biểu của họ tập trung ở lễ

hội Nghinh Ông.

Mặt khác, văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng dân cư, nên những đặc

điểm của cộng đồng dân cư chi phối rất lớn đến diện mạo văn hoá. Cộng đồng dân

cư ở vùng đất Bến Tre có một số đặc điểm riêng, không giống với cộng động dân cư

vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, nên diện mạo văn hoá ở Bến Tre cũng có những

nét đặc trưng.

Cộng đồng dân cư ở Bến Tre ngoài người Việt chiếm đa số còn có người

Hoa và người Khơme bản địa. Quá trình cộng cư giữa các tộc người này đã tạo ra

sự giao tiếp văn hoá trên nhiều lĩnh vực.

Trong hoạt động nông nghiệp, người Việt đã học hỏi kỹ thuật làm nông của

người Khơme trong việc dùng chiếc phảng để phát cỏ, chọn giống, dùng nọc cấy,

dùng vòng hái để thu hoạch. Để khai thác có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản phong phú

do sông nước Bến Tre mang lại, bên cạnh các dụng cụ đánh bắt truyền thống như

chài, lưới, đóng đáy, người Việt còn học cách đánh bắt của người Khơme trong việc

sử dụng cái lọp, cây xà búp, cách xom rắn, bắt lươn… Người Khơme dùng đơn vị

đo diện tích đất là công (bằng một mẫu của người việt), người Việt cũng tiếp thu

cách gọi này. Nóp dùng để ngủ, cà ràn để nấu nướng vốn là của người Khơme,

người Việt cũng đã tiếp thu, sử dụng cho nhu cầu của mình.

Trong ăn uống, nhiều món ăn vốn có nguồn gốc từ người Khơme, người

Hoa, người Ấn Độ… đã trở thành món ăn phổ biến của các tộc người trên đất Bến

Tre. Tập quán sử dụng nước cốt dừa trong chế biến các món ăn vốn xuất phát từ

người Khơme đã trở thành tập quán chung của cả người Việt và người Hoa. Trầu

cau của người Việt được xem là lễ vật không thể thiếu trong lễ cưới của cả người

Hoa và người Khơme.

Về trang phục, bộ quần áo bà ba, chiếc nón lá không chỉ là trang phục hàng

ngày của người Việt mà cả người Khơme và người Hoa cũng sử dụng phổ biến.

Khăn rằn, vốn là khăn “krama” của người Khơme, đã được người Việt,

người Hoa sử dụng rất phổ biến.

Về nhà ở, cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều sử dụng lá dừa nước

để lợp nhà, làm vách nhà. Kỹ thuật chằm lá có nguồn gốc từ người Khơme đã được

người Việt và người Hoa tiếp thu.

Trong đời sống tâm linh, cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều có tín

ngưỡng thờ mẫu. Trong quá trình cộng cư, các tộc người đã tiếp nhận tín ngưỡng,

đối tượng thờ cúng của nhau trên cơ sở niềm tin “hữu cấu tất ứng”. Tục thờ bà

Thiên Y Ana (Chúa Ngọc) hay bà Chúa Xứ vốn xuất phát từ người Chăm, tục thờ

bà Thiên Hậu của người Hoa đã trở thành tín ngưỡng chung của các tộc người ở

Bến Tre.

Cộng đồng dân cư ở Bến Tre có tuổi đời còn khá trẻ. Thời gian định cư của

các dòng họ ở vùng đất này chỉ trên dưới mười thế hệ. Quan hệ dòng họ không chặt

chẽ như cộng đồng dân cư ở Bắc Bộ, Trung Bộ.

Với người Bến Tre, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn được bảo tồn và phát

huy, song trong thờ cúng tổ tiên, ở Bến Tre không có các dạng thức như nhà thờ tổ,

giỗ tổ như ở miền Bắc. Làng ở Bến Tre là làng khai phá, có tuổi đời còn non trẻ. Do

vậy, huyền thoại, lý lịch của vị thành hoàng bổn cảnh được thờ ở đình làng chưa

được dày dặn như các vị thành hoàng của các làng ở miền Bắc.

Mối quan hệ gắn bó giữa người với người trong cùng một làng không bị

quan hệ dòng họ chi phối mà chỉ dựa trên cơ sở nghĩa tình của những người đồng

cảnh khổ. Rời quê cũ đến với vùng đất mới, sự chi phối của lễ giáo phong kiến đối

với người dân không còn nặng nề như nơi quê cũ. Tính dân chủ, bình đẳng trong

quan hệ xã hội rất được coi trọng. Tinh thần bình đẳng còn thể hiện cả trong đời

sống tâm linh. Đình làng không chỉ thờ cúng thành hoàng mà còn là nơi thờ nhiều

vị thần gắn bó với đời sống tâm linh của người dân.

Lưu dân đến vùng đất Bến Tre đa số là những người nông dân nghèo khổ,

lâm vào cảnh đường cùng, buộc phải rời bỏ quê hương bản quán ra đi tìm đất sống.

Đến vùng đất mới, người nông dân đã hao tốn không biết bao nhiêu mồ hôi, công

sức để biến vùng đất hoang sơ thành ruộng vườn tươi tốt. Tuy nhiên, thành quả khai

phá của họ dần dần lại bị bọn địa chủ, cường hào chiếm đoạt. Cuộc sống của họ

càng cơ cực hơn khi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ đến xâm lược. Ba thế kỉ khai

phá, đời sống của người nông dân luôn trong cảnh bấp bênh, luôn phải ưu tiên hàng

đầu cho cái ăn, cái mặc. Sống ngày nay nhưng chưa biết cuộc sống ngày mai như

thế nào.

Thực tế cuộc sống bấp bênh, còn đầy rẫy những khó khăn đã tác động đến

tâm lý, lối sống của người dân. Nhà cửa của họ vì thế được xây cất rất giản đơn,

kiểu “nhà đạp”, “nhà đá”. Không sống nổi nơi này thì phá bỏ nhà đi nơi khác. Sự

giản đơn còn thể hiện trong trang phục. Người ta không chú ý lắm đến việc ăn mặc

sang trọng. Khi đi ra đồng, lúc ở nhà hoặc đi đám tiệc, nông dân vẫn quen dùng bộ

trang phục quần áo bà ba giản đơn.

Cuộc sống khó khăn, vốn chữ nghĩa ít, không quan tâm nhiều đến lễ giáo

phong kiến, do vậy tập tục, nghi lễ thường được tổ chức giản đơn. Trong giao tiếp,

người dân Bến Tre rất thẳng thắn, bộc trực, ít văn chương rào đón.

Sự bấp bênh, bế tắc trong cuộc sống, chán nản trong tư tưởng, trong đấu

tranh cũng chính là nguyên nhân đưa đến tình trạng dân cư nặng đầu óc mê tín dị

đoan. Đó chính là cơ sở cho sự ra đời và tồn tại nhiều tôn giáo trên địa bàn Bến Tre.

Ngoài các tôn giáo có từ lâu đời, theo bước chân của những người đi mở đất như

đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, còn có sự hiện diện của các tôn giáo mới

nảy sinh trên đất Nam Bộ đầu thế kỉ XX như đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Dừa.

Để có thể biến vùng đất hoang sơ thành ruộng vườn xanh tốt, cư dân đã phải

đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, công sức. Do vậy người ta rất quý trọng thành quả

lao động của mình. Con Bến Tre đã từng không ngại gian lao, không hề lùi bước

trước những trở ngại của thiên nhiên, cho nên họ cũng không bao giờ chịu khuất

phục trước cảnh áp bức, bất công trong xã hội. Ký ức của người dân nơi đây còn lưu

lại khá nhiều câu chuyện về những nông dân dám dùng dao chém chết địa chủ vì

không chịu nổi cảnh bị áp bức, đè nén. Đối với giặc ngoại xâm, chí căm thù, lòng

yêu nước càng thể hiện cao độ.

Chiến tranh gây ra không biết bao nhiêu đau thương, tang tóc, tàn phá nặng

nề vùng đất Bến Tre, song nó cũng đã thử thách và chứng minh bản lĩnh của những

con người vùng đất cù lao. Bến Tre đã mở đường Hồ Chí Minh trên biển, làm đầu

cầu tiếp nhận vũ khí từ Bắc vào Nam, gần như tay không nổi lên “Đồng khởi”, đấu

tranh chính trị bằng “đội quân tóc dài”… Có thể nói, truyền thống yêu nước, bất

khuất là một trong những đặc tính nổi bật của con người Bến Tre. Mảnh đất Bến

Tre giàu truyền thống yêu nước đã cống hiến cho đất nước 14 vị tướng, trong đó có

vị nữ tướng nổi tiếng Nguyễn Thị Định.

Tinh thần đấu tranh bất khuất trước kẻ thù, truyền thống yêu nước của những

con người trên vùng đất này đã ươm mầm và là nguồn cảm hứng cho sự ra đời của

những áng thơ bất hủ của những nhà thơ yêu nước nổi tiếng như Nguyễn Đình

Chiểu, Phan Văn Trị.

Truyền thống yêu nước của con người nơi đây còn tác động đến cả thái độ

của các tôn giáo. Đại đa số tín đồ các tôn giáo ở Bến Tre đều gắn bó mật thiết với

cách mạng. Thánh thất, nhà thờ, chùa chiền từng là nơi che chở cho các chiến sĩ

cách mạng. Khi Tổ quốc cần, chức sắc tôn giáo sẵn sàng cống hiến ruộng đất, tài

sản và cả những người con yêu quý của mình cho cách mạng.

3. Những vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá

truyền thống ở Bến Tre

Văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là tiền đề

cho sự đi lên con đường giàu mạnh của xứ dừa. Bảo tồn và phát huy những giá trị

văn hoá truyền thống của Bến Tre là nhiệm vụ bức thiết của lãnh đạo và mỗi người

dân Bến Tre.

Lịch sử ba trăm năm khai phá vùng đất đã hun đúc những giá trị truyền thống

tốt đẹp của con người Bến Tre. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự

cường, lòng hào hiệp, mến khách, trọng nghĩa trọng tình, tinh thần cộng đồng,

tương thân tương ái… Nhờ những giá trị tinh thần đó, cư dân Bến Tre đã chiến

thắng biết bao thử thách khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và xã hội để xây dựng

và phát triển quê hương Bến Tre. Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền

thống, trước hết là bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá đó.

Mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động lớn đến đời sống của người dân,

dẫn đến những hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân,

thực dụng. Một bộ phận dân cư Bến Tre, trong đó có lớp trẻ, thiếu hiểu biết về lịch

sử, truyền thống của địa phương, không phân biệt tốt xấu, mang tâm lý sùng ngoại

một cách mù quáng. Thực tế ấy dễ dẫn đến tình trạng xói mòn những nền tảng văn

hoá, tạo điều kiện cho sự xâm nhập của những sản phẩm văn hoá độc hại, ngoại lai.

Do tác động của điều kiện tự nhiên, xã hội nên đại bộ phận dân cư đã đơn

giản hoá trong sinh hoạt vật chất. Sự đơn giản, xuề xoà trong sinh hoạt đã trở thành

tâm lý khá phổ biến của một bộ phận dân cư. Nhà ở của người dân nhìn chung đa số

còn thô sơ, dễ bị sập khi có bão. Quần áo tuy phù hợp với hoạt động sản xuất nông

nghiệp nhưng nhìn chung còn đơn điệu. Cuộc sống bấp bênh, sinh hoạt văn hoá ở

nông thôn chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân, lúc nông

nhàn một bộ phận nông dân thường tìm thú vui với rượu chè, cờ bạc… Đó là những

vấn đề cần lưu ý giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người dân trong

công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn.

Văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, phản ánh và chịu sự tác động

của những điều kiện xã hội. Hiện thực xã hội nào sẽ sinh ra sản phẩm văn hoá ấy.

Sức sống của các hiện tượng văn hoá có cơ sở tồn tại từ hiện thực xã hội. Xây dựng

và phát triển văn hoá phải đi liền với cải tạo điều kiện xã hội. Trong bảo tồn và phát

triển văn hoá, cần tôn trọng quy luật khách quan trong sự vận động và phát triển của

văn hoá, không nên dùng biện pháp cưỡng bức.

Giữ gìn và phát huy không có nghĩa là phục cổ. Truyền thống được hình

thành từ lâu đời và có tính chất trường tồn, song văn hoá lại luôn được bổ sung,

phát triển trong những điều kiện mới. Do vậy, việc kế thừa các giá trị văn hoá

truyền thống phải đi liền với sự điều chỉnh, thích nghi với thực tế cuộc sống.

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến diện

mạo văn hoá – xã hội Bến Tre còn quá ít. Để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện, để có

thể chọn lọc, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của Bến Tre,

thiết nghĩ, trước tiên cần phải quan tâm đến việc tìm hiểu, nghiên cứu mảng đề tài

này.

Trên cơ sở những thành quả nghiên cứu, cần xác định cụ thể những giá trị

tích cực cần phát huy, những hạn chế cần khắc phục; đẩy mạnh công tác giáo dục

truyền thống văn hoá địa phương cho mọi tầng lớp nhân dân.

Thời gian đã và đang tàn phá nhiều giá trị văn hoá. Các di tích lịch sử, văn

hoá cần phải được quan tâm bảo quản, tôn tạo đúng mức để đáp ứng nhu cầu tìm

hiểu, góp phần giáo dục truyền thống văn hoá của địa phương cho nhân dân.

Con đường phát triển đi lên của Bến Tre còn không ít chông gai, trở lực. Bến

Tre bị ngăn cách với các vùng lân cận bởi những con sông lớn, địa hình bị chia cắt

bởi sông rạch chằng chịt, giao lưu đường bộ gặp nhiều khó khăn. Cơ sở hạ tầng của

tỉnh còn rất yếu kém. Đó là những nguyên nhân làm cho nhà đầu tư ngán ngại.

Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ có

tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vốn, kỹ thuật mà còn có nhân tố không kém

phần quan trọng và quyết định đó là nguồn nhân lực, là tiềm năng sáng tạo của con

người. Tiềm năng này nằm trong văn hoá, trong trí tuệ, đạo đức, lối sống, ý chí,

nghị lực của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Để có nguồn nhân lực phục vụ cho sự

nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, lãnh đạo địa phương cần quan tâm đến

công tác đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời cũng cần có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân

tài.

Đi đôi với tranh thủ sự hỗ trợ của trung ương đầu tư kinh phí, cơ sở hạ tầng,

cần phát huy tinh thần tự lực, khai thác tối đa các tiềm năng sẵn có của địa phương.

Cần động viên các tầng lớp nhân dân mang tinh thần “Đồng khởi” năm xưa

vào sự nghiệp phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển văn hoá, cải thiện và nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Xưa kia, yêu nước là tham gia chống

giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Ngày nay, yêu nước là ý chí đưa quê hương, đất

nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đối diện với thiên nhiên đầy hiểm nguy, gian khó ở buổi đầu khai phá, người

dân Bến Tre chẳng những không chùng bước, mà còn tỏ rõ bản lĩnh, nghị lực, khả

năng thích nghi, tinh thần tự lực tự cường. Trong đấu tranh chống áp bức bất công,

chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre cũng tỏ ra gan góc, anh dũng, bất khuất.

Trước muôn ngàn khó khăn, người Bến Tre vẫn bám trụ, thể hiện bản lĩnh và sức

sống trên vùng đất này. Những truyền thống mà các bậc tiền nhân gầy dựng chắc

chắn sẽ là hành trang quý giá, là động lực giúp thế hệ những người đang sống trên

mảnh đất này vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa xứ dừa ngày càng phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2003), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

2. Toan Ánh (2003), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, Nxb Văn

Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ – Con người Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí

Minh.

4. Toan Ánh (2005), Tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Toan Ánh (2005), Phong tục thờ cúng trong gia đình, nơi công cộng Việt Nam,

Nxb Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Toan Ánh (1998), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua tết lễ hội hè, Nxb Văn

Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Ban chấp hành Đảng Bộ tỉnh Bến Tre (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre

1930 – 2000 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Bến Tre.

8. Nguyễn Chí Bền (1996), Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Chí Bền (1997), Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân

Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb TP. Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

12. Lư Xuân Chí (2005), Bến Tre bảo tồn và phát triển di sản văn hóa, Bảo tàng

tỉnh Bến Tre.

13. Cục thống kê Bến Tre (2004), Niên giám thống kê 2003, Bến Tre.

14. PGS. PTS. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa

phương (lịch sử và hiện tại), Nxb Đồng Nai.

15. Lê Anh Dũng (1996), Lịch sử Đạo Cao đài thời kỳ tiềm ẩn 1920 – 1926, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

16. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Vĩnh Long – Bến

Tre – Trà Vinh), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục Tỉnh, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Đình Đầu (1999), Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại,

Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Đình Đầu(1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn quan

lập ấp ở Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Trần Bạch Đằng(1986), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn

Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Phan Lữ Hoàng Hà (2002), Bên vườn xưa lặng lẽ (Tập Phóng sự và Bút ký), Hội

Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre, Bến Tre.

24. Bùi Thị Thu Hà (2002), “Đồng bằng sông Cửu Long thế kỷ XVII – XIX với sự

ra đời các tôn giáo địa phương vào thế kỷ XIX”, in trong Kỷ yếu hội thảo

Nam bộ và Nam Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 249-254.

25. Trần Thị Mỹ Hạnh (2002) “Công cuộc khai phá vùng đất vĩnh long các thế kỷ

XVII, XVIII, XIX và bản sắc văn hóa Vĩnh Long nói riêng, Đồng bằng

sông Cửu Long nói chung”, in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam

Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh, tr. 91-102.

26. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

27. Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam

(khía cạnh văn hóa và tư tưởng) 1954 – 1975, Nxb Thông tin lý luận, Hà

Nội.

28. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

29. Phan Văn Hoàng (2001), Cao Triều Phát – Nghĩa khí Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh..

30. Học viện hành chính quốc gia (2005), Lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam,

Nxb Giáo dục.

31. Lư Văn Hội (2002), Tang lễ người già, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bến Tre, Bến

Tre.

32. Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (1958),

Tiểu sử Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (1881 – 1951), Bến Tre.

33. Hội thánh Cao đài Ban chỉnh đạo (2005), Kỷ yếu 80 năm khai đạo Cao đài, Bến

Tre.

34. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2002), Xóm nghề và nghề thủ công truyền

thống Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

35. Trầm Hương (2002), Đêm trắng của Đức Giáo tông, Nxb Công an nhân dân,

Thành phố Hồ Chí Minh.

36. Huy Khanh (2003), Đất cù lao, Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu

Bến Tre, Bến Tre.

37. Phan Khoang (1996), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí

Minh.

38. Phan Thị Minh Lễ – Chương Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội

nhà văn.

39. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII,

XIX, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Trần Thị Thu Lương (1994), Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ

nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Đỗ Vạn Lý (1989), Tìm hiểu Đạo Cao đài, Q1, California – USA.

43. Huỳnh Minh (2001), Kiến Hòa (Bến Tre) xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.

44. Huỳnh Minh (2001), Định Tường (Mỹ Tho) xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.

45. Huỳnh Minh (2002), Vĩnh Long xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.

46. Monographie de la province de Ben Tre 1930, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng

Bến Tre dịch, 1978.

47. Sơn Nam (2005), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí

Minh.

48. Sơn Nam (2004), Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

49. Sơn Nam (2005), Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh

miệt vườn, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

50. Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam - Cá tính miền Nam – Thuần phong mỹ tục

Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

51. Đào Thị Nhan (2005), Vùng đất Bến Tre trong các thế kỉ XVII – XIX (Luận văn

thạc sĩ), Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

52. Nhiều tác giả (1975), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Tiền phong, Thành phố Hồ Chí

Minh.

53. Nhiều tác giả (1984), Ba Tri đất và người, Ban chấp hành Đảng bộ Ba Tri xuất

bản, Bến Tre.

54. Nhiều tác giả (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, 3 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

55. Nhiều tác giả (1984), Mấy đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện

Văn hóa.

56. Nhiều tác giả (2002), Thế kỉ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, Tạp chí Xưa và nay –

Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

57. Nhiều tác giả (2003), Nam bộ đất và người, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

58. Nhiều tác giả (2003), Nam bộ xưa và nay, Nxb Thành phố HCM - Tạp chí xưa

và nay.

59. Nhiều tác giả (2005), Tuyển tập thơ Bến Tre (1945 – 2005), Hội Văn học Nghệ

thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre, Bến Tre.

60. Nhiều tác giả (1996), Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

61. Nhiều tác giả (1994), Làm đẹp cuộc đời – Huỳnh Tấn Phát con người và sự

nghiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm 1957

đến 1945, Tủ sách Sử học Phủ quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản,

Sài Gòn.

63. Nguyễn Duy Oanh (1994), Quân dân Nam kỳ chống pháp trên mặt trận quân sự

và văn chương (1859 –1885), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

64. Ngô Minh Oanh (2002), “Bối cảnh của quá trình mở đất về phía Nam của người

Việt thế kỷ XVII, XVIII”, in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam Trung

bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh, tr. 165-168.

65. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân

gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

67. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký, Lê Hương dịch, Nxb Kỷ

nguyên mới, Sài Gòn.

68. Nguyễn Phan Quang (2002), Vịêt Nam thế kỷ XIX (1802 –1884), Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

69. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

70. Trần Thị Thanh Thanh (2002), “Nhìn lại việc khai phá của người Vịêt trên đất

Gia Định thế kỷ XVII –XIX” in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam

Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh, tr. 135-139.

71. Nguyễn Phương Thảo, Hoàng Thị Bạch Liên (1988), Văn học dân gian Bến

Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

72. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb

Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.

73. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển, NXB Văn hóa

Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.

74. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Thành Phố

Hồ Chí Minh.

75. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX, Phụ

san Nghiên cứu lịch sử , Hà Nội.

76. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân (1986), Phan Văn Trị cuộc đời và

tác phẩm, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

77. Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Hát sắc bùa Phú Lễ (Ba Tri – Bến Tre), Nxb Thành

Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

78. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin.

79. Tsai Maw Kuey (1968), Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Thư viện quốc gia,

Pari.

80. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên) (1987), Sài Gòn – Gia Định qua thơ văn

xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

81. Nguyễn Thanh Xuân (2003), “Tìm hiểu các cuộc vận động thống nhất Đạo Cao

đài trước năm 1975”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 2), tr. 48-56.

82. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo.

83. Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại (1987), Bình Đại địa chí, Bến Tre.

84. GS. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1995), Bước đầu tìm hiểu Đạo Cao Đài, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

85. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Viện sử học (1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

87. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1983), Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty Văn hóa Thông tin Bến Tre

xuất bản, Bến Tre.

PHỤ LỤC

Tổng Tân An năm 1779. Nguồn: [62, tr.76]

Huyện Tân An năm 1808. Nguồn: [62, tr.78]

] 4 4 1 . r t , 2 6 [ :

N Ồ U G N

] 1 5 . r t , 6 6 [ :

N Ồ U G N

] 4 4 1 . r t , 2 6 [ :

N Ồ U G N

] 5 2 . r t , 6 6 [ :

N Ồ U G N

Sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng - Ảnh: Lư Hội

Sản xuất bánh phồng Sơn Đốc - Ảnh: Thanh Vũ

Nhà cổ Đại Điền (Thạnh Phú) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Chùa Tuyên Linh (Mỏ Cày) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Tòa Thánh Cao Đài Ban Chỉnh (Thị xã Bến Tre) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Tòa Thánh Cao Đài Tiên Thiên (Châu Thành) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Khu di tích Đồng khởi (Mỏ Cày) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Mộ và Đền thờ Võ Trường Toản (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Mộ và Đền thờ Phan Thanh Giản (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Lăng Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Đền thờ Nguyễn Ngọc Thăng (Giồng Trôm) - Ảnh: Ngô Văn Đức

Đình Phú Lễ (Ba Tri) - Ảnh: Lư Hội

Lễ hội Nghinh Ông (Xã Bình Thắng - Huyện Bình Đại) - Ảnh: Lư Hội