ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ RỐI LOẠN NHỊP

TIM THƯỜNG GẶP

(Kỳ 6)

Các thuốc dạng tiêm tĩnh mạch (bảng 10-3).

- Procainamide (nhóm IA): là thuốc có thể đợc chọn để chuyển nhịp trong

RN. Có khoảng 1/3 bệnh nhân khi dùng thuốc này có tác dụng phụ (rối loạn tiêu

hoá, huyết học, hội chứng giống Lupus...).

- Amiodarone (Cordarone): là thuốc đợc lựa chọn khi các thuốc khác không

dùng đợc hoặc thất bại. Lu ý là thuốc có thời gian bán huỷ cực kỳ dài (120 ngày).

Thận trọng với các biến chứng khi dùng lâu dài (rối loạn tuyến giáp, nhìn mờ,

viêm phổi kẽ, viêm gan, co giật...). Amiodarone đợc chứng minh là làm giảm tỷ lệ

tử vong do rối loạn nhịp thất. Tuy nhiên, trong các rối loạn nhịp nhanh nhĩ nó cũng

có tác dụng rất tốt đặc biệt là ở bệnh nhân rung nhĩ. Thờng dùng dới dạng truyền

tĩnh mạch pha trong dung dịch đờng hoặc muối đẳng trơng.

- Ibutilide: là một thuốc mới và rất hữu hiệu trong điều trị rung nhĩ. Biến

chứng có thể gặp là cơn xoắn đỉnh (gặp 1-2%).

Các thuốc dạng uống (bảng 10-3).

- Cả Amiodarone và Procainamide đều có ở dạng uống, trong đó

Amiodarone là thuốc hay đợc sử dụng hơn cả, nhất là để duy trì nhịp xoang sau

khi đã đợc chuyển nhịp. Lu ý những tác dụng phụ của Amiodarone khi dùng lâu

dài và thời gian bán huỷ cực kỳ dài của nó. Procainamide khi dùng lâu dài sẽ kém

dung nạp hơn, nên thờng không dùng loại này để duy trì nhịp xoang.

- Quinidine là thuốc trớc đây thờng đợc dùng nhất để chuyển nhịp và duy

trì nhịp xoang. Tuy nhiên Quinidine có rất nhiều tác dụng phụ và bản thân nó cũng

là yếu tố để có thể gây ra các rối loạn nhịp khác. Nó tơng tác với một số thuốc

khác nh Digoxin, kháng vitamin K, Verapamin, làm tăng tác dụng các thuốc này

khi dùng cùng với nhau.

- Sotalol là thuốc thuộc nhóm III nhng có tác dụng chẹn bêta giao cảm. Nó

có thể dùng ở bệnh nhân rung nhĩ, nhng cần chú ý các tác dụng phụ liên quan đến

chẹn bêta giao cảm và có thể gây xoắn đỉnh do làm QT kéo dài.

- Flecainide và Propafenone là thuốc thuộc nhóm IC (bảng 10-3) có tác

dụng tốt ở bệnh nhân rung nhĩ. Chúng là thuốc có khả năng dung nạp tốt nhng có

thể làm tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân có rối loạn nhịp thất do bệnh động mạch

vành. Do đó, các thuốc này thờng không đợc chỉ định ở bệnh nhân rung nhĩ do căn

nguyên bệnh động mạch vành hoặc bệnh có tổn thơng cấu trúc tim.

- Disopyramide thuộc nhóm IA, có tác dụng tơng tự Procainamide và

Quinidine. Tuy nhiên thuốc này gây giảm co bóp cơ tim nhiều, do đó không nên

dùng ở những bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái.

b. Chuyển nhịp bằng sốc điện: Là biện pháp có hiệu quả cao trong chuyển

nhịp từ rung nhĩ về nhịp xoang với tỷ lệ thành công trên 80%.

- Sốc điện điều trị rung nhĩ nên đợc chỉ định khi dùng thuốc thất bại, có dấu

hiệu thiếu máu cơ tim, khó khống chế nhịp thất, suy tim... đặc biệt khi có những

rối loạn huyết động trầm trọng thì cần chỉ định sớm. Sốc điện sẽ thành công cao

hơn khi đã đợc dùng các thuốc trớc đó (ví dụ Amiodarone).

- Sốc điện chuyển nhịp chỉ tiến hành khi bệnh nhân đã đợc dùng chống

đông đầy đủ (xem phần trên). Trong trờng hợp cấp cứu thì cho Heparin và phải

làm siêu âm qua thực quản để loại trừ không có máu đông trong nhĩ.

- Sốc điện phải đợc tiến hành ở những nơi có khả năng cấp cứu và theo dõi

tốt về tim mạch, bệnh nhân đợc gây mê tốt. Các nhân viên y tế phải thành thạo

trong việc áp dụng các biện pháp hô hấp hỗ trợ.

- Các yếu tố ảnh hởng đến kết quả của chuyển nhịp bằng sốc điện là: thời

gian bị rung nhĩ lâu hay nhanh, độ lớn của sóng f, kích thớc nhĩ trái, có hở van hai

lá phối hợp, có suy tim không ? Thời gian bị rung nhĩ càng lâu, sóng f càng nhỏ,

nhĩ trái đo trên siêu âm lớn hơn 45 mm là những yếu tố dự báo thất bại của sốc

điện hoặc khả năng tái phát rung nhĩ cao.

- Năng lợng dùng trong sốc điện điều trị rung nhĩ thờng bắt đầu bằng liều

nhỏ 100J sau đó có thể tăng lên tới 200J, 300J và phải là sốc điện đồng bộ.

4. Các phơng pháp điều trị khác:

a. Đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn: Phơng pháp này đợc chỉ định khi bệnh

nhân không đáp ứng với các cách điều trị trên hoặc khi nhịp thất bị chậm (ví dụ

khi có rung nhĩ kèm theo bloc nhĩ thất cấp III). Việc đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn

đòi hỏi phải đốt đờng đờng dẫn truyền nhĩ thất (nếu còn chức năng) và vẫn phải

dùng chống đông lâu dài.

b. Triệt phá rung nhĩ qua đờng ống thông (catheter ablation): Qua đờng

ống thông đa các điện cực và dùng sóng radio cao tần đốt trong nhĩ trái thành từng

khía tạo hiệu quả giống nh phẫu thuật Maze để triệt phá các vòng vào lại tại cơ

nhĩ. Phơng pháp này có tỷ lệ thành công không cao lắm và có thể có những biến

chứng, nhiều khi phải cần đến cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn. Ngày nay, cùng với sự

tiến bộ của kỹ thuật và các dụng cụ mới đã cho phép tỷ lệ thành công ngày càng

cao hơn và hứa hẹn đây sẽ là một phơng pháp điều trị tốt cho những rung nhĩ dai

dẳng mạn tính.

c. Phẫu thuật cắt các khía ở cơ nhĩ (phẫu thuật Maze), phẫu thuật tạo hành

lang nhĩ, phẫu thuật cô lập nhĩ là những phẫu thuật đã đợc thực hiện để điều trị

rung nhĩ, tuy nhiên tỷ lệ thành công còn phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật và tình trạng

bệnh nhân. Phẫu thuật trong điều trị rung nhĩ thờng chỉ đợc thực hiện trong khi

tiến hành các cuộc phẫu thuật khác ở bệnh nhân (ví dụ khi mổ thay van tim, mổ

làm cầu nối...).