
296 -
ĐỔI MỚI TƯ DUY QUẢN LÝ KINH TẾ –
NHÌN TỪ NHỮNG LẦN SỬA ĐỔI LUẬT DOANH NGHIỆP
ThS Tô Thị Đông Hà*
TÓM TẮT
Luật Doanh nghiệp Việt Nam đã trải qua 4 lần sửa đổi. Mỗi phiên bản của đạo luật này là
một sự đột phá, là một cuộc cách mạng. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính các quy
định pháp luật cụ thể, bài viết đặt mục tiêu làm rõ sự phát triển tích cực về tư duy quản lý
kinh tế của Nhà nước ta, thể hiện trong các phiên bản Luật Doanh nghiệp. Bài viết chứng
minh rằng, các đạo luật về doanh nghiệp không chỉ là kết quả của sự chuyển hướng quản lý
sang nền kinh tế thị trường, mà còn là công cụ để thuận lợi hóa cơ hội tham gia thị trường
cho nhà đầu tư, bảo vệ cổ đông/thành viên/chủ sở hữu, tôn trọng quyền tự chủ của chủ thể
kinh doanh và tăng cường hiệu quả trong quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế.
Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra một số tồn tại chính, cản trở việc đưa những quy định tiến
bộ của Luật Doanh nghiệp vào đời sống kinh doanh.
Từ khóa: Đổi mới tư duy, Luật Doanh nghiệp, quản lý kinh tế, sửa đổi luật.
1. Giới thiệu
Văn bản luật đầu tiên về doanh nghiệp ở Việt Nam là Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân, được ban hành năm 1990. Đây là hai đạo luật đánh dấu sự chính thức thừa
nhận về mặt pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân, đoạn tuyệt với nền kinh tế chỉ tồn tại
thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kể từ đó, cho đến nay, đạo luật về doanh
nghiệp đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1999, 2005, 2014 và năm 2020. Nhằm
so sánh và hệ thống hóa các thành tựu mà các đạo Luật Doanh nghiệp đạt được sau mỗi lần
sửa đổi, như là kết quả của tiến trình đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Nhà nước ta; đồng
thời chỉ ra những rào cản cần tiếp tục gỡ bỏ, để quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
thực sự được giải phóng, tiệm cận với quan niệm của thế giới, bài viết hy vọng góp thêm ý
kiến nhỏ cho công tác xây dựng và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp trong thời gian tới.
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết
Đổi mới tư duy quản lý kinh tế là chủ đề được nhiều công trình khoa học và bài báo
đề cập vào mỗi lần sửa đổi Luật Doanh nghiệp, thể hiện qua các bài viết về những điểm
* Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing.

- 297
mới của Luật Doanh nghiệp, về hiệu quả thực tế mà đạo luật mang lại. Bài viết này cùng
chủ đề nghiên cứu đó nhưng có sự liên kết, hệ thống hóa những thành tựu của đổi mới tư
duy quản lý kinh tế, theo chiều dài lịch sử của các đạo luật về doanh nghiệp. Bài viết dựa
trên cơ sở lý thuyết chủ yếu là quyền tự do kinh doanh của con người, ngọn cờ cho những
sáng tạo lập pháp về doanh nghiệp.
Chủ trương xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường chính là nền tảng quan trọng nhất cho việc ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kinh
doanh, là điều kiện ra đời của quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam. Từ khi thực hiện công
cuộc “Đổi mới”, Quốc hội đã khẩn trương ban hành các đạo luật ghi nhận và đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của công dân Việt Nam và người nước ngoài như Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam 1987, Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990.
Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh trở thành một quyền hiến định ở
Việt Nam:“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57),
và quyền này tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp mới (năm 2013) với phạm vi rộng
và rõ hơn: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm” (Điều 33). Quy định này hàm chứa hai tuyên bố quan trọng: i) mọi người có
quyền tự do kinh doanh; ii) giới hạn của quyền tự do đó là những gì luật cấm. Hiện thực
hóa các quyền tự do kinh doanh tại Hiến pháp, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ngày
càng được hoàn thiện, thể chế hóa các quan điểm quản lý kinh tế tiến bộ của Nhà nước ta,
với mục tiêu tôn trọng quyền con người trong kinh doanh, nhằm giải phóng hết khả năng
sáng tạo của cá nhân, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định tính kết hợp phương pháp so sánh luật
học để làm rõ những thay đổi của Luật Doanh nghiệp qua mỗi lần sửa đổi. Phương pháp
lịch sử được sử dụng để đánh giá các quy định của Luật Doanh nghiệp trong quá khứ,
gắn với bối cảnh và điều kiện xây dựng và thực hiện pháp luật kinh tế của đất nước lúc
đương thời.
4. Kết quả đạt được của các đạo luật về doanh nghiệp qua các kỳ sửa đổi
Đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước không thể không kể đến vai trò của
của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kinh tế, ngày càng tăng về số lượng và hoàn thiện
về chất lượng, cung cấp một khuôn khổ pháp lý hiện đại cho các quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của các đạo luật về doanh nghiệp không nằm ngoài xu thế
chung đó, phản ánh đậm nét những cải cách tích cực trong tư duy quản lý kinh tế của Nhà
nước, nổi bật là các thành tựu chủ yếu sau:

298 -
a. Tháo gỡ các rào cản gia nhập thị trường
Đoạn tuyệt với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, ghi nhận tư cách pháp lý
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nghĩa là sẵn sàng đón nhận sự ra đời của hàng loạt
các doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện kinh nghiệm quản lý nhà nước chưa nhiều.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, khi xây dựng Luật Doanh nghiệp 1999, Nhà nước không thực
hiện chủ trương “quản được đến đâu mở đến đó” mà là “cản đến đâu gỡ đến đó”. Điều này
không những thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường
mà còn trong cả “dọn dẹp” tư duy quản lý cũ. Thể hiện rõ nét mục tiêu này là các quy định
nhằm tháo gỡ các rào cản gia nhập thị trường, để khu vực tư nhân không ngần ngại bỏ vốn
kinh doanh. Trước khi có Luật Doanh nghiệp 1999, thủ tục thành lập doanh nghiệp phải
trải qua 2 bước là: i) thành lập doanh nghiệp tại UBND cấp tỉnh; và ii) đăng ký kinh doanh
tại Trọng tài kinh tế nhà nước. Thời gian trung bình cho việc thành lập một doanh nghiệp
là từ 3 đến 6 tháng, thậm chí đến gần 1 năm với nhiều loại giấy tờ khác nhau. Chẳng hạn
như điều 15 Luật Công ty 1990 quy định: “Công dân, tổ chức có quyền tham gia thành
lập công ty phải có các điều kiện sau đây mới được cấp giấy phép thành lập: 1) Mục tiêu,
ngành, nghề kinh doanh rõ ràng, có phương án kinh doanh ban đầu; có trụ sở giao dịch;
2) Có vốn điều lệ phù hợp với quy mô và ngành, nghề kinh doanh. Vốn điều lệ không được
thấp hơn vốn pháp định do Hội đồng bộ trưởng quy định; 3) Người quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn tương ứng mà pháp luật đòi hỏi đối với một
số ngành, nghề”. Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, doanh nghiệp chỉ mất từ 4
tuần cho đến 6 tuần để thành lập với yêu cầu về hồ sơ đơn giản hơn nhiều (bao gồm đơn,
điều lệ, danh sách thành viên).
Nối tiếp tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 đã bãi bỏ
những thủ tục không còn cần thiết, như bỏ yêu cầu doanh nghiệp phải đăng ký mẫu dấu
trước khi sử dụng; bỏ yêu cầu báo cáo thay đổi thông tin người quản lý doanh nghiệp. Chế
độ gửi thông tin cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập chi nhánh, đặt địa điểm kinh
doanh mới cũng không cần phải thực hiện. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể hơn,
rõ hơn trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh (khoản 2 và 3 điều 15); điều kiện cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (điều 24); rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (còn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ) (khoản 2 điều 15), đồng
thời, quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với từng loại hình
doanh nghiệp (từ điều 16 đến điều 20).
Tuy vậy, theo Luật Doanh nghiệp 2005 doanh nghiệp vẫn còn phải hoàn thành 5 thủ
tục hành chính để có thể bắt đầu kinh doanh: i) đăng ký doanh nghiệp; ii) làm dấu tại cơ sở
khắc dấu; iii) thông báo mẫu con dấu; iv) mở và thông báo việc mở tài khoản; v) xin các
loại giấy tờ thỏa các điều kiện kinh doanh. Ngoài ra, một số thủ tục hành chính khác thực

- 299
sự không rõ mục tiêu quản lý vẫn còn tồn tại trong luật như: yêu cầu về báo cáo thông tin
của người quản lý công ty, yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh thường xuyên gửi thông
tin về đăng ký doanh nghiệp cho tất cả quận, huyện, thị xã...
Những tồn tại của Luật Doanh nghiệp 2005 đã được tiếp tục khắc phục trong Luật
Doanh nghiệp 2014. Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ các yêu cầu về điều
kiện kinh doanh tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp. Thay vào đó, sau khi được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được phép kinh doanh ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện kinh doanh
theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Với quy định này, Luật Doanh nghiệp 2014 đã
chuyển cơ chế đăng ký thành lập doanh nghiệp từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, tạo điều
kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư nhanh chóng được tham gia “sân chơi”. Rõ ràng,
so Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 thì quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014 là một bước tiến dài, thể hiện những chuyển biến mạnh mẽ và cụ thể tư duy
quản lý từ “ dễ quản lý” sang “dễ doanh nghiệp”.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường cho doanh nghiệp chỉ còn ba ngày làm việc
(khoản 2 điều 27). Điều này có được là nhờ hệ thống đăng ký thuế sẽ tự động tạo mã số
thuế mà không cần sự kiểm tra, xem xét của cán bộ đăng ký thuế. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý doanh nghiệp không những giảm bớt thủ tục phiền hà, mà còn minh
bạch hóa quá trình gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp 2014 đã trao việc quyết định về hình thức, số lượng và
nội dung con dấu cho doanh nghiệp. Cụ thể, điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh
nghiệp” (khoản 1). “Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với
cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp” (khoản 2). Bởi vì các nhà làm luật nhận thức rằng, con dấu của doanh
nghiệp chỉ mang tính chất là dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự thiết kế.
Quy định này công nhận quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có việc công
nhận quyền tự sáng tạo mẫu dấu; Nhà nước cũng không hướng tới việc quản lý chặt chẽ đối
với con dấu như quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 (phải lưu giữ và bảo quản tại trụ sở
chính của doanh nghiệp), Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép Điều lệ công ty quy định việc
quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu.
Những thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2014 đã mang lại những kết quả tích cực
trong thực tế. Trong nửa cuối năm 2015 đã có 46.740 doanh nghiệp đăng ký thành lập với
tổng số vốn đăng ký 302.674 tỷ đồng, tăng 24,5% về số doanh nghiệp và tăng hơn 50% về
số vốn đăng ký mới so cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2015

300 -
là 93.868, là số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lớn nhất từ trước tới nay. Đóng
góp của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã lên gần 50% GDP (Tư Giang, 2016).
Những đổi mới về quản lý con dấu của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp 2014
vẫn chưa dừng lại. Luật Doanh nghiệp 2020 đã bãi bỏ điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014
về việc doanh nghiệp phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh; đồng
thời, việc quản lý và lưu giữ dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế
do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu
ban hành (điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020). Cải cách này giảm bớt rất nhiều sự vướng
mắc trong sử dụng con dấu ở ngoài trụ sở chính của doanh nghiệp trong thời gian vừa qua.
Người đại diện theo pháp luật có thể mang con dấu đi bất kỳ địa điểm nào để tiện cho việc
quản lý và sử dụng, mà không lo đã làm trái quy định của pháp luật.
Như vậy, với những cải cách mà các đạo luật doanh nghiệp mang lại, quyền tự do
thành lập doanh nghiệp đã đạt những bước tiến đáng kể với thủ tục ngày càng đơn giản, ít
tốn kém hơn, những trở ngại trong gia nhập thị trường đã được liên tục giải phóng.
b. Mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp
Pháp luật tôn trọng và bảo hộ tích cực quyền tự do kinh doanh của công dân đồng
nghĩa với việc mở rộng ngày càng nhiều quyền tự chủ của doanh nghiệp như: quyền tự
do lựa chọn mô hình kinh doanh, quyền tự do lựa chọn loại hình tổ chức kinh tế, quyền
tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn; quyền tự do cạnh tranh lành mạnh,...
Nói cách khác, khác với nền kinh tế bao cấp, Nhà nước không can thiệp vào công việc của
doanh nghiệp mà chỉ là “bà đỡ” về chính sách, còn chính doanh nghiệp là “chiến binh” trên
thương trường, tự chịu trách nhiệm cho sự hoạt động của mình. Quy định như vậy không
những giảm đáng kể chi phí tuân thủ thực hiện thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính
chủ động, linh hoạt cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Luật Doanh
nghiệp 2014 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có hơn một
người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 13). Dưới góc độ đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, việc cho doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp
luật giúp tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng được mọi cơ
hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật. Đồng thời, quy định này cũng giải
quyết tình trạng người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện
các yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành nội bộ doanh nghiệp
cũng như giao dịch với bên ngoài. Mặt khác, bằng quy định có nhiều hơn một người đại
diện, pháp luật triệt tiêu sự lạm quyền.
Quyền tự chủ của doanh nghiệp được Luật Doanh nghiệp 2020 tiếp tục mở rộng.
Công ty TNHH 2 thành viên có 11 thành viên trở lên không bắt buộc phải có Ban kiểm soát.
Điều 54 Luật Doanh nghiệp quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên