
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
70
1. Đặt vấn đề
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, các nhà
nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến vai trò của
văn hoá trong kinh doanh. Có nhiều cách hiểu
khác nhau về văn hóa kinh doanh, chủ yếu tập
trung hai xu hướng: xu hướng thứ nhất, coi
chủ thể của văn hóa kinh doanh chính là các
doanh nghiệp, do đó văn hóa kinh doanh là
văn hoá doanh nghiệp (corporate culture) hay
còn gọi là văn hóa tổ chức (organizational
culture). Xu hướng thứ hai, đang ngày càng
phổ biến hơn khi coi kinh doanh là hoạt động
có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội,
nên văn hóa kinh doanh là một phạm trù ở
tầm cỡ quốc gia và mang tính lịch sử, còn văn
hoá doanh nghiệp chỉ là một thành phần trong
văn hóa kinh doanh.
Ở Việt Nam, vấn đề văn hóa kinh doanh
bắt đầu được nghiên cứu từ đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Các công trình trên đã đi
vào nghiên cứu văn hoá kinh doanh ở nhiều
khía cạnh khác nhau với những nội dung
khác nhau. Tuy nhiên các công trình hầu
như không quan tâm đến văn hóa kinh doanh
truyền thống của người Việt Nam. Có thể, đa
phần các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này
đều cho rằng, trong lịch sử Việt Nam nghề
kinh doanh không được phát triển; vì vậy, văn
hóa kinh doanh truyền thống Việt Nam không
có gì để bàn.
Vậy thì, Việt Nam chúng ta có văn hóa
kinh doanh truyền thống hay không? Truyền
thống của giới doanh nhân Việt Nam đã có
tự bao giờ và như thế nào? Tại sao Việt Nam
không có những nhà đại tư sản?
ĐÔI NÉT VỀ VĂN HÓA KINH DOANH CỦA VIỆT NAM
TRONG LCH SỬ
NGUyễN THẾ ANH
Học viện Chính trị khu vực IV
TÓM TẮT
Việt Nam vốn là nước có truyền thống nông nghiệp, đa phần dân số làm nghề
nông, với nền kinh tế tự túc tự cấp, trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài, người
nông dân Việt Nam chỉ loanh quanh sau lũy tre làng, bản thân nghề kinh doanh
không được coi trọng trong các xã hội phong kiến Việt Nam.
Mặc dù hoạt động kinh doanh là nghề không được coi trọng và phát triển rất
chậm trong xã hội phong kiến, song không vì thế mà người Việt Nam không có văn
hóa kinh doanh truyền thống. Coi trọng chữ tín, thái độ hòa nhã cũng như sự phê
phán thói gian dối, lừa đảo… là những giá trị biểu hiện văn hóa kinh doanh truyền
thống của dân tộc.
Nếu văn hoá là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội,
thì văn hoá kinh doanh chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh
doanh của một quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, muốn
đảm bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh của quốc gia, hơn lúc
nào hết, chúng ta cần có sự tìm hiểu và nghiên cứu thấu đáo về lĩnh vực này, để có
thể góp phần định hướng đúng đắn cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

71
nguyễn tHế anH
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định
rằng, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam, để tồn tại trong dòng chảy
khắc nghiệt của lịch sử, người Việt đã phải
chọn gìn giữ và phát triển văn hóa làng xã để
tự bảo vệ; điều này giúp người Việt không bị
đồng hóa, không bị thôn tính và điều này có
tác động rất lớn đến sự phát triển của nghề
kinh doanh ở Việt Nam. Để tìm hiểu hoạt
động kinh doanh và văn hóa kinh doanh của
người Việt Nam trong lịch sử, trước hết chúng
ta cần làm rõ về khái niệm kinh doanh và văn
hóa kinh doanh.
2. Khái niệm văn hóa kinh doanh
2.1. Khái niệm kinh doanh
Ngày nay, kinh doanh được hiểu là loại
hình hoạt động kinh tế đặc thù trong quá trình
sản xuất, khai thác, chế biến, buôn bán hàng
hóa và dịch vụ với chức năng cơ bản là tìm
kiếm những nhu cầu của xã hội chưa được
đáp ứng và tập hợp những nguồn lực cần
thiết để đáp ứng các nhu cầu đó. Luật Doanh
nghiệp Việt Nam xác định: “Kinh doanh là
việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”1
Còn trong quan niệm truyền thống, kinh
doanh được hiểu đơn giản là cách làm giàu
của con người trên thương trường, là hành vi
buôn bán để kiếm lợi. Tuy nhiên, dù hiểu khái
niệm này theo nghĩa truyền thống hay hiện
đại thì một điều chắc chắn là trong mỗi hoạt
động kinh doanh tối thiểu phải có hai nhân
vật tham gia là chủ thể kinh doanh và khách
hàng - đối tượng của chủ thể kinh doanh đó.
Hai nhân vật này luôn ràng buộc, gắn bó, quy
định lẫn nhau. Khách hàng cần hàng hóa, dịch
vụ của chủ thể kinh doanh để thỏa mãn nhu
cầu của mình. Còn chủ thể kinh doanh lại cần
khách hàng mua hàng hóa hay dịch vụ của
mình để có thể thu được lợi nhuận, nhờ đó có
1 Điều 4, Luật Doanh Nghiệp 2014, số: 68/2014/QH13,
Hà Nội ngày 26/11/2014.
thể duy trì và phát triển công việc kinh doanh.
2.2. Văn hóa kinh doanh
Văn hóa gắn liền với sự tồn tại của con
người. Thước đo giá trị nhân bản của con
người là văn hóa, là những hành động gắn
liền với chân, thiện, mỹ. Theo nghĩa đó, một
hoạt động của con người được đánh giá là
có hàm lượng văn hóa cao khi nó gắn bó với
những giá trị chân, thiện, mỹ (tất nhiên những
chuẩn mực của chân, thiện, mỹ có tính chủ
quan, việc xem xét những giá trị đó phải căn
cứ vào hoàn cảnh cụ thể; song, bao giờ nó
cũng có những chuẩn mực chung nhất trong
từng xã hội và chuẩn mực mang tính phổ quát
đối với toàn nhân loại). Nói cách khác, những
hoạt động nào càng hướng đến cái đúng, cái
tốt, cái đẹp đem lại những giá trị tích cực cho
cộng đồng thì hoạt động đó càng biểu hiện rõ
tính nhân bản, tính văn hóa.
Khi nói văn hóa kinh doanh (hay kinh
doanh có văn hoá) là nói đến một vấn đề
cốt lõi, mang tính bản chất của kinh doanh
đó là vấn đề đạo đức của người kinh doanh.
Nói cách khác kinh doanh có văn hoá là kinh
doanh phải có đạo đức. Đạo đức cầu người
kinh doanh không phải là vấn đề trừu tượng,
mà rất cụ thể: tính trung thực, giữ chữ tín
đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống, không
chạy theo lợi ích của cá nhân hay nhóm người
để làm ăn đối trá, lừa đảo, chụp giật, “đánh
quả” bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả việc loại
trừ đối thủ trên thương trường.
Vì vậy, văn hóa kinh doanh của một xã
hội, về thực chất, là sự phản ánh thực tiễn
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội đó.
Cho nên, những hoạt động kinh doanh của
người Việt Nam trong xã hội truyền thống ít
nhiều vẫn được phản ánh bởi văn hóa kinh
doanh truyền thống của họ. Theo đó, có thể
khẳng định, văn hóa kinh doanh Việt Nam đã
được hình thành từ lâu đời và phát triển theo
sự phát triển của xã hội, của thực tiễn hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam.

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
72
3. Văn hóa kinh doanh của Việt Nam
trong lịch sử
3.1. Đôi nét về hoạt động kinh doanh ở
Việt Nam trong thi kỳ Bắc thuộc
Năm 179 TCN, Triệu Đà là Vua nước
Nam Việt (một chính quyền cát cứ ở Nam
Trung Hoa) đánh bại triều An Dương Vương,
thống trị Âu Lạc. Từ đó các triều đại phong
kiến Trung Hoa thay nhau cai trị trên đất
nước ta. Thời kỳ này thường được gọi là thời
Bắc thuộc. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan
quân Nam Hán xâm lược, xác lập nền độc lập
tự chủ một cách vững chắc, chấm dứt 1117
năm đô hộ của các triều đại phong kiến Trung
Hoa. Trong hơn 10 thế kỷ (179 TCN – 938)
không chỉ có Bắc thuộc mà còn có cả chống
Bắc thuộc; có sự tồn tại thường xuyên của
chính quyền đô hộ và xen vào đó trong một
số thời gian ngắn, có những chính quyền tự
chủ - thành quả của các phong trào đấu tranh
giải phóng của dân tộc ta.
Theo các tư liệu lịch sử ghi lại, trong
thời kỳ Bắc thuộc ở Việt Nam có một vùng
đất được coi là trung tâm kinh tế thương mại
lớn có tính quốc tế, đó là Luy Lâu, Long Biên
thuộc vùng Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Tuy nhiên, do chính quyền đô hộ độc
quyền nắm giữ và kiểm soát nên giao thương
giữa người Việt Nam và người nước ngoài
gặp không ít khó khăn. Hàng Việt Nam bán ra
nước ngoài thường là các loại lâm thổ sản quý,
đồ mỹ nghệ... Hàng nhập từ nước ngoài vào
Việt Nam thường là thuốc men, đồ sắt2… Thời
kỳ này, hệ thống thuyền buôn Trung Quốc hoạt
động mạnh đã nối kết Việt Nam với nhiều quốc
gia Đông Nam Á. Hệ thống giao thông, giao
thương đã phát triển, nối liền cácđịa phương
trong một huyện, quận và nối thông cả 3 quận
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Cùng với quá trình giao lưu hội nhập, trao
đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc và hội nhập
2 GS,TS. Nguyễn Trí Dĩnh – PGS,TS. Phạm Thị Quý
(chủ biên). Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb Thống kê,
Hà Nội, 2004, tr.263
văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo giữa nước ta
với các nước trong khu vực. Tại đây, tư tưởng
Nho giáo và văn hóa Hán – Đường đã được
truyền bá liên tục vào nước ta chủ yếu thông
qua hoạt động của bộ máy thống trị và tầng
lớp quan lại. Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu
là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hóa
Hán ở Việt Nam.3
Các chính quyền phong kiến phương
Bắc, mặc dù đã cố gắng tìm mọi cách để đồng
hoá người Việt, song về căn bản trong suốt
thời Bắc thuộc vẫn không thể nào trực tiếp
với tay tới và can thiệp làm biến đổi được cơ
cấu xóm làng cổ truyền của người Việt. Các
xóm làng dựa trên cơ sở công xã nông thôn
vẫn tồn tại như thế giới riêng của người Việt,
là nơi nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa
của văn hoá truyền thống làm cơ sở cho cuộc
đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.
3.2. Đôi nét về hoạt động kinh doanh
trong các triều đại phong kiến Việt Nam
Năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra thời
kỳ phong kiến dân tộc tự chủ ở Việt Nam.
Trong chế độ phong kiến trung ương tập
quyền ở nước ta, cơ sở vật chất của xã hội
dựa vào kinh tế nông nghiệp, ruộng đất là
nguồn tư liệu sản xuất chính, địa tô phong
kiến là nguồn sống, nguồn bóc lột chủ yếu
của nhà nước phong kiến. Vì vậy, các triều
đại phong kiến khi nắm quyền luôn có chính
sách “trọng nông”, “khuyến nông”, tu sửa
đê điều, mở mang thủy lợi, phát triển khai
hoang. Đặc biệt, theo quan niệm “dĩ nông vi
bản, dĩ thương vi mạt”, từ đó đi tới tư tưởng
“trọng nông, ức thương”. Trong xã hội, người
dân chỉ xác định có bốn nghề: sĩ, nông, công,
thương; trong đó chỉ có hai nghề sĩ và nông là
được xã hội đề cao: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo
chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Hai nghề còn lại
là công và thương thì ít được chú trọng hơn.
3 Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh
(chủ biên), Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.367

73
nguyễn tHế anH
Đặc biệt, nghề thương vốn không được xã hội
coi trọng và thường có định kiến, thậm chí
miệt thị: “buôn gian, bán lận”, “thật thà cũng
thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ
chồng”.
Thái độ của xã hội đối với bốn nghề trên
được thể hiện trong một bức tranh di cảo tìm
được ở Bắc Ninh. Bức tranh vẽ bốn người thể
hiện cho bốn nghề khác nhau trong xã hội:
nghề sĩ được thể hiện qua hình vẽ một ông
thầy đồ mặt mũi quắc thước, râu dài đang trầm
ngâm viết chữ nho; thể hiện cho nghề nông là
một nam nông dân khỏe mạnh, đĩnh đạc; thể
hiện cho nghề công là một phụ nữ gầy gò ốm
yếu, mặt nhăn nhúm, tay đang in từng tờ tiền
vàng mã. Nghề thương được thể hiện bằng
hình ảnh một người đàn ông có nét mặt tinh
quái đang ấn chiếc chạc trâu vào tay người
nông dân. Chiếc chạc đó nối với con trâu đực
gầy gò, sừng doãng (trâu sừng doãng là loại
trâu ương bướng, khó bảo, không chịu cày
bừa nên chỉ nuôi để lấy thịt) – ý ám chỉ người
buôn trâu lừa người mua – “buôn gian, bán
lận”4. Bức di cảo trên thể hiện rất rõ sự kỳ thị
đối với nghề kinh doanh, đồng thời cũng là
một bằng chứng cho thấy vì sao trong lịch sử
người Việt Nam không khuyến khích đi vào
hoạt động kinh doanh, vì sao nghề kinh doanh
ở Việt Nam chậm phát triển.
Trong khoảng 5 thế kỷ (từ thế kỉ XI –
XVI), nền kinh tế hàng hóa Việt Nam đã ra
đời và phát triển không ngừng có tác dụng
phần nào trong việc thúc đẩy sức sản xuất
phát triển; tuy vậy nó vẫn ở vào địa vị phụ
thuộc trong toàn bộ nền sản xuất lúc bấy
giờ, mang nặng tính chất tự nhiên, tự cung
tự cấp, tức là vẫn mang tính chất của một
nền kinh tế hàng hóa giản đơn. Kinh tế hàng
hóa hoàn toàn nằm trong phạm vi ảnh hưởng
của những quan hệ sản xuất phong kiến. Nền
công thương nghiệp Việt Nam hoạt động hầu
như chỉ để phục cho nhu cầu của giai cấp
4 PGS,TS. Nguyễn Bá Dương và TS. Đức Uy (chủ
biên), Giáo trình Tâm lý học kinh doanh, Viện Đại học
Mở, Hà Nội, 2007, tr.130.
thống trị, nuôi dưỡng và củng cố nền thống trị
của nhà nước phong kiến. Phạm vi hoạt động
của nó cũng chỉ quanh quẩn ở các nước láng
giềng như Trung Quốc, Ja-va, Xiêm La,…
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội
phong kiến Việt Nam có những tiến bộ về thủ
công nghiệp và thương mại. Thời gian này
những làng, phường thủ công nghiệp, như gốm
Bát Tràng (Hà Nội), dệt Thổ Hà (Bắc Giang),
dệt Phú Xuân (Thừa Thiên)... đã được mở ra.
Trong các phường thủ công nghiệp đã diễn ra
sự phân hóa chủ thợ (ở Phú Xuân đã có những
xưởng dệt thuê 13 thợ). Những hình thức bao
mua sản phẩm, thuê mướn nhân công đã xuất
hiện, đánh dấu những mầm mống manh nha
của chủ nghĩa tư bản.
Cũng trong thời gian này, một số thành thị
phong kiến đã trở nên phồn thịnh, như Thăng
Long, Phố Hiến, Hội An,... nhiều người nước
ngoài đã đến đây sinh sống làm cho các hoạt
động buôn bán trao đổi trở nên khá sầm uất.
Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các
quốc gia phương Tây, như Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha, Hà Lan,... đã tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho việc thúc đẩy sản xuất, canh tân
đất nước. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIX, nhà
Nguyễn đã thực hiện những chính sách kìm
hãm giao lưu kinh tế, thi hành chính sách
thuế khóa nặng nề. Thậm chí, vì sợ nông dân
tụ tập khởi nghĩa, Nhà nước phong kiến thời
Minh Mạng còn ra chính sách cấm họp chợ.
Vì vậy, thương nghiệp và thủ công nghiệp rơi
vào khủng hoảng, bế tắc và không có cơ hội
để phát triển.
Như vậy, trong xã hội phong kiến Việt
Nam, từ quốc sách của Nhà nước cho đến
tâm lý người dân đã càng làm cho yếu tố
“trọng nông ức thương” trở nên sâu đậm
và cản trở việc hình thành kinh doanh trở
thành một ngành độc lập, không phụ thuộc
vào nông nghiệp. Các ngành sản xuất công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển
hơn thời kỳ trước. Sự thành công bước đầu
của một số nhà kinh doanh người Việt, cùng
với việc tiếp thu những tư tưởng mới, đã cải

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
74
thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề
kinh doanh trong con mắt người Việt. Thời kỳ
này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc,
giành lại được độc quyền thương mại từ tay
tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng lòng
tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương mại
và ngoại thương đều phát triển nhanh chóng.
Thậm chí, theo học giả Đào Duy Anh, ngay
từ những năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam,
dưới tên là xứ Đông Pháp, đã đứng thứ hai thế
giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Myanma.
Cũng vào thời kì này ta có những doanh
nhân lớn, làm được nhiều điều cho gia đình,
đất nước và xã hội như Lương Văn Can, Bạch
Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trương Văn Bền
(trong đó đặc biệt quan trọng là vai trò của cụ
Lương Văn Can trong việc cổ xúy người Việt
làm giàu, trau dồi kiến thức và kinh doanh).
Lương Văn Can, một nhà cách mạng,
đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới
doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX,
khi phân tích nguyên nhân không phát triển
của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt
Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm, đó là:
- Người mình không có thương phẩm, tức
là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín;
- Không có thương hội, tức là không biết
liên kết với nhau trong kinh doanh;
- Không có tín thực, tức là không biết giữ
chữ tín;
- Không có kiên tâm, ít theo đuổi một
việc gì đến cùng;
- Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ;
- Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng
vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng
cao các nghề khác;
- Không có thương học, tức là không có
kiến thức về kinh doanh;
- Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt
Nam luôn đóng cửa với thế giới bên ngoài
nên hễ ra ngoài là dễ bị lạc lõng, không hoà
nhập được;
- Không biết tiết kiệm, người Việt Nam
tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những
thứ mình có, thường hoang phí;
- Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính
hàng ngoại.
Trong khi đó, gia đình đại doanh nhân
Trịnh Văn Bô luôn có câu dặn dò con cháu
của mình là: “kiếm được một đồng, các con
hãy giữ lại 7 hào cho gia đình và 3 hào để làm
từ thiện”5. Đây có thể nói là bằng chứng của
việc doanh nhân Việt thể hiện trách nhiệm xã
hội của mình đầu thế kỷ 20.
Như vậy, trong văn hóa kinh doanh cổ
truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù hợp
với kinh doanh có phần ít hơn những yếu tố
tiêu cực. Nhận diện chính xác những yếu tố
này sẽ giúp chúng ta lý giải được phần nào
những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam
trong những giai đoạn tiếp sau.
4. Nhận diện văn hóa kinh doanh
truyền thống Việt Nam
Nhìn chung, mặc dù xã hội phong kiến
không coi trọng hoạt động kinh doanh buôn
bán, nhưng để duy trì cuộc sống hàng ngày
thì hoạt động mua bán, kinh doanh nhỏ lẻ,
manh mún của người dân vẫn diễn ra. Vì vậy,
chúng ta chỉ có thể nhận diện được văn hóa
kinh doanh của thời kỳ này qua những hoạt
động mua bán ở chợ làng trên khắp các miền
quê, bởi mọi giao dịch mua bán, trao đổi của
người dân đều tiến hành ở chợ.
Chợ Việt Nam có lẽ được hình thành từ
thời lập quốc. Trong tâm thức người dân Việt,
chợ Việt Nam không chỉ là nơi trao đổi hàng
hóa, sản phẩm trong cộng đồng và giữa các
cộng đồng người Việt với nhau mà chợ còn
song hành với tiền trình của lịch sử dân tộc;
mang đậm dấu ấn văn hóa đặc sắc... Chỉ cần
nhìn vào chợ quê, người ta cũng có thể thấy
đời sống kinh tế của người dân trong làng.
5 Tọa đàm: Vai trò gia đình doanh nhân VN trong phát
triển kinh tế và hội nhập vào ngày 10/9/2013 tại Văn
Phòng VCCI Hà Nội.