125
ts. nguyễn Hồng cử
Việt Nam cách đây vài chục năm
là một nền kinh tế chủ yếu sản
xuất tự cung tự cấp, đời sống văn
hóa về cơ bản là văn hóa làng xã gắn với nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Tuy vậy, dưới
thời phong kiến Pháp thuộc, công thương
nghiệp cũng dần hình thành phát triển. Văn
hóa kinh doanh cũng dần hình thành chịu
sự chi phối sâu sắc của đạo Khổng. Nhiều làng
nghề, phường hội buôn bán ra đời với phương
châm lấy chữ tín, chất lượng sản phẩm làm
đầu. tưởng coi trọng nghề, truyền giữ
nghề được coi là phương thức tồn tại phát
triển của nhiều làng nghề truyền thống. “Nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh” đã thể hiện rất
quan điểm của ông cha ta về vấn đề cốt lõi
“con người nhân tố bản” của văn hóa
kinh doanh. Mặc chưa phải một hội
kinh tế hàng hóa phổ biến nhưng sự phát triển
của công thương nghiệp thời kỳ phong kiến
thuộc Pháp cũng đã hình thành một một
thứ văn hóa kinh doanh Việt Nam với những
đặc điểm nổi trội là: Coi trọng nghề như
phương thức tồn tại lâu dài, coi trọng chữ tín
trong kinh doanh, tôn trọng khách hàng...mà
nền tảng của lấy đức làm trọng. đã
góp phần tạo ra những làng nghề nổi tiếng với
những sản phẩm nổi danh cho đến tận ngày
nay như đồ gỗ Đồng Kỵ, gốm Bát Tràng, vải
lụa Vạn Phúc, đá mỹ nghệ Non Nước, đúc
đồng Bắc Ninh, rượu làng Vân...
Kể từ khi chuyển sang kinh tế thị trường
phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa,
từng bước hội nhập với khu vực thế giới.
Nhiều yếu tố tốt đẹp trong văn hóa kinh
doanh truyền thống vẫn được nhiều người,
nhiều doanh nghiệp kế tục, phát huy song bên
cạnh đó xuất hiện ngày càng nhiều những
tưởng, triết lý, phương thức kinh doanh theo
chiều hướng tiêu cực, không chỉ trái với văn
hóa truyền thống còn bất cập với tiến trình
phát triển một hội hiện đại, hội nhập với
thế giới. Chúng ta thể dễ dàng chỉ ra những
những hạt sạn văn hóa này là:
Cung cách làm ăn tùy tiện, đầu voi đuôi
chuột
Văn hóa kinh doanh truyền thống Việt
Nam trước đây rất coi trọng nghề chữ
HẠT SẠN HAY TẢNG ĐÁ TRONG
VĂN HÓA KINH DOANH VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. NGUyễN HồNG Cử
Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong
hoạt động của mình. Văn hóa được như “quốc hồn” của một dân tộc. Quá trình
phát triển kinh tế thị trường gắn với hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta mặc dù đạt
được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế nhưng đã xuất hiện nhiều hiện
tượng bất cập về văn hóa, nhất văn hóa kinh doanh. Bài viết đề cập đến một số
những hạt sạn trong văn hóa kinh doanh hiện nay Việt Nam khả năng phát
triển của nó trở thành những tảng đá cản trở sự phát triển nói chung, đó thực sự là
một nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Từ khóa: Văn hóa, phát trin, kinh tế, bản sc, hội nhp
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
126
tín, lấy uy tín sự đảm bảo về chất lượng
sản phẩm thương hiệu của mình được lưu
truyền hết từ đời này sang đời khác. Người
học nghề được truyền nghề trước hết phải
có tâm đức nghề nghiệp, coi đó như là những
thứ bảo vật của ông cha để lại, họ phải
trách nhiệm giữ gìn, tôn tạo. Những sản phẩm
làm ra chứa đựng trong đó không chỉ kỹ
thuật tinh xảo mà còn là tâm huyết của người
thợ. Nhưng Việt Nam hiện nay, tưởng
kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp lại
khá tùy tiện, mang nặng kiểu đầu voi đuôi
chuột. Biểu hiện phổ biến doanh nghiệp
nào khi khởi đầu kinh doanh cũng rất rầm
rộ, hứa hẹn đủ điều, đưa ra nhiều chiêu thức
đảm bảo cái này, cái nọ nhưng chỉ sau một
thời gian mọi thứ cứ lụi dần. Nhiều sản phẩm
lúc mới ra đời được nhiều người tin dùng
nó tốt thật nhưng rồi chất lượng cứ dần giảm
sút đi do bớt xén, thay đổi vật tư nguyên liệu
để giảm chi phí. Nhiều nhà hàng lúc khai
trương đã từng được khách hàng lựa chọn
món ăn ngon, giá cả chấp nhận được nhưng
khi đông khách rồi, bắt đầu sự bớt xén
dần rồi tăng giá khiến nhiều khách hàng lại
quay lưng. Tình hình làm ăn theo kiểu đầu
voi, đuôi chuột này không chỉ làm mất sự
tin tưởng của khách hàng trong nước còn
cả khách hàng nước ngoài đối với hàng xuất
khẩu. Người nước ngoài rất “sợ” rất cẩn
thận khi mua hàng của Việt Nam lúc đầu
thường rất tốt nhưng sau thì phải coi chừng.
các nước phát triển, ta thấy sản phẩm của
họ xu hướng ngày càng tốt hơn, liên tục cải
tiến về mọi mặt còn Việt Nam thì ngược lại.
Lối làm ăn này đã thấm sâu vào nhiều doanh
nghiệp, nhiều nhà kinh doanh lây lan trong
mọi ngành, mọi nghề. Theo năm tháng căn
bệnh kinh niên này ngày càng trở nên nặng
bất trị, thậm chí còn được coi thức
thời. Nguy hiểm hơn việc “treo đầu dê, bán
thịt chó” còn xâm nhập vào cả những lĩnh vực
được xem là nhân văn nhất như văn hóa, giáo
dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho con người.
Thói quen làm ăn chụp giựt, thiếu chuyên
nghiệp
Trong cách thức làm ăn của người Việt
Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ,
lạc hậu, tùy tiện vẫn đang tồn tại; phong cách
kinh doanh thiếu chuyên nghiệp. Sự gian dối
trong kinh doanh vẫn còn tồn tại khá phổ
biến, không ít người đã thẳng thắn bộc lộ
“thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm”, thế họ
tìm mọi cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để
làm ăn. Các doanh nghiệp Việt Nam thường
bị kém thế cạnh tranh do cung cách làm ăn
manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà
ít nghĩ đến lợi ích lâu dài. Việc liên kết để
đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận
lợi trong những bước đầu, sau đó, các doanh
nghiệp thường tìm cách lẻ, giành riêng hợp
đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn
nghi kỵ, đối phó lẫn nhau sẵn sàng dùng
mọi chiêu trò để giành giật quyền lợi riêng
cho mình. Nhiều doanh nghiệp không có khả
năng tổ chức sản xuất kinh doanh quy
lớn, không có chiến lược kinh doanh dài hạn.
Sản xuất kinh doanh theo lối chắp vá, được
đâu hay đó hoàn toàn không phù hợp với môi
trường kinh doanh văn minh, hiện đại, nhất
là trong điều kiện hội nhập. Vì không có tầm
nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam
thường không xây dựng mục tiêu dài hạn
kế hoạch đầu thích hợp. Các doanh
nghiệp thường không đầu vào những vấn
đề cốt lõi, lâu dài lao theo xu hướng “ăn
xổi”, đầu cả vào những lĩnh vực không
thuộc chuyên môn của mình.
Xem nhẹ chữ tín trong kinh doanh
không minh bạch
Chữ tín vốn được giữ gìn rất cẩn thận
trong văn hóa làm ăn của những người thợ
thủ công trong các làng nghề truyền thống
Việt Nam. Văn hóa của người Việt cũng rất
trọng chữ tín. Tuy nhiên, cho đến hiện nay
nhiều người Việt Nam cũng như nước ngoài
đều nhận xét nhiều doanh nhân Việt Nam
không coi trọng chữ tín. Phần lớn họ đều hay
127
ts. nguyễn Hồng cử
viện dẫn các do khách quan để khước từ
việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái
trong quan hệ với các đối tác. Trong lĩnh vực
thương mại, chiêu trò lừa gạt, dụ dỗ diễn ra
phổ biến cùng với lập luận “buôn gian, bán
lận” để bao biện hành vi của mình. Hầu như
không ai dám tin ai, kể cả người thân, quen
biết. Các hành vi lừa đảo trong kinh doanh,
gom tiền, hụi hè đã khiến nhiều người cả tin,
nhẹ dạ tiền mất, tật mang. Tính chất của sự
lừa đảo không chỉ xảo quyệt còn cả sự
trắng trợn, thách thức đánh vào lòng tham
của nhiều người đa phần những người
kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm. Thiếu niềm
tin giờ đây đang trở thành hiểm họa cho các
sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài nhất
trong điều kiện hội nhập kinh tế, vươn ra thị
trường quốc tế. Việc xem nhẹ chữ tín đã hạn
chế rất nhiều khả năng liên kết kinh tế giữa
các địa phương, các doanh nghiệp và các chủ
thể kinh tế. Thói quen cố hữu của rất nhiều
doanh nghiệp “mạnh ai nấy làm” khiến
cho liên kết, hợp tác của các doanh nhân theo
nguyên tắc cùng lợi còn quá yếu rời rạc.
Tính cộng đồng của doanh nhân Việt Nam
mức thấp, chủ trương thành lập những tập
đoàn kinh tế vấp phải những rào cản nội tại
do thông tin của doanh nghiệp thường thiếu
độ tin cậy.
Hầu hết các sở kinh doanh đều thiếu
sự minh bạch. Mọi số liệu, chứng từ đều
thể bị chế biến, giả mạo do vậy các báo cáo
chỉ mang tính hình thức, đối phó. Sự không
minh bạch bao trùm tất cả từ chi phí sản xuất,
lợi nhuận, thuế, giá cả và các thông số về chất
lượng hàng hóa. Sự thiếu minh bạch mang lại
những nguồn lợi lớn cho các doanh nghiệp
từ trốn thuế nhưng ngày càng làm cho người
tiêu dùng hoài nghi, gây tác hại lâu dài cho
các doanh nghiệp. Đáng lo ngại hơn tình
trạng này lại tồn tại trong khá nhiều các doanh
nghiệp nhà nước.
Không coi trọng ngưi tiêu dùng
Đây lẽ điều tệ hại nhất trong văn hóa
kinh doanh Việt Nam hiện nay. Những khẩu
hiệu “tất cả khách hàng”, “khách hàng
thượng đế” chỉ được trưng ra như một khẩu
hiệu thời thượng chứ không biến thành
phương châm kinh doanh của doanh nghiệp.
Các ông chủ đã không nhìn thấy mối quan
hệ biện chứng cùng tồn tại của họ khách
hàng. Họ coi khách hàng như một đám
đông thưởng phạt, sẵn sàng hứa hẹn,
sẵn sàng thất hứa, sẵn sàng viện lý do. Họ chỉ
tìm mọi cách chèo kéo, móc túi khách hàng
chứ ít quan tâm đến lợi ích của họ. Người tiêu
dùng Việt Nam luôn được khuyến cáo phải
“thông minh” “tự bảo vệ mình” trước sự
cảm của nhiều doanh nghiệp thể làm
tổn hại đến lợi ích của mình.
Chắc khó thể nói hết những hạt sạn tồn
tại trong văn hóa kinh doanh Việt Nam hiện
nay. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu nguyên
nhân của gì? Điều chắc chắn nhiều
người thường cho rằng nguyên nhân xuất
phát từ bản chất của chế thị trường. Điều
này cũng đúng một phần nhưng vấn đề bản
có lẽ không phải vậy. Theo quan điểm của tôi
nguyên nhân chính là:
Thứ nhất, do xuất thân từ nền kinh tế
tiểu nông, con người Việt Nam thường
tầm nhìn ngắn hạn, hay thay đổi muốn đi
đường tắt, thay kiên nhẫn chờ đợi kết quả
lâu dài. Sự quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một
sốc về duy kinh doanh. Trong khi những
làng nghề vẫn giữ được những nét văn hóa
tốt đẹp trong kinh doanh thì việc hình thành
tầng lớp doanh nhân vốn xuất thân từ nông
dân, thiếu kiến thức kinh doanh không hề
được rèn dũa bởi đại công nghiệp đã mang
vào lĩnh vực kinh doanh cách duy, làm
ăn manh mún, chụp giựt. lẽ hơn lúc nào
hết chúng ta càng cảm thấy thiệt thòi khi con
người Việt Nam chưa được tác phong lao
động kỷ luật lao động do đại công nghiệp
sản sinh ra. Chính thói quen tùy tiện, nông
cạn, hẹp hòi, ích kỷ đã tạo ra một thứ văn
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
128
hóa kinh doanh không mong muốn hàng
ngày, hàng giờ chúng ta phải chứng kiến, phải
chịu đựng. Chúng ta thấy các công ty nước
ngoài, đặc biệt các công ty Châu Âu,
Mỹ, Nhật Bản kinh doanh ở Việt Nam họ bài
bản bao nhiêu thì càng lo lắng cho các công
ty Việt Nam bấy nhiêu. Trong khi các doanh
nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm hội đầu
tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam
thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại
đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu
mang tính đầu như kinh doanh bất động
sản, chứng khoán…mà quên đi các lĩnh vực
kinh doanh cốt lõi.
Hai là, quản kinh tế của nhà nước ta
còn quá yếu kém. Một bộ máy nhà nước vốn
chỉ quen với chỉ huy chiến tranh và phát triển
kinh tế trong điều kiện kế hoạch hóa đã tỏ ra
lúng túng trong quản một nền kinh tế vận
hành theo chế thị trường. Sự yếu kém trong
quản của nhà nước ta nguyên nhân từ
những bất cập của chế quản thiếu đồng
bộ chưa hoàn thiện cộng với trình độ của
cán bộ quản lý không đáp ứng được yêu cầu.
Từ đó đẻ ra tệ nạn tham nhũng tràn lan với
mức độ nghiêm trọng, góp phần tạo ra một
thứ văn hóa kinh doanh không dựa vào năng
lực cạnh tranh công nghệ, sản phẩm lại
dựa vào “quan hệ”, “chạy chọt”. nước ta,
đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng
nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, lại
vào sự bảo hộ của Nhà nước vẫn tồn tại khá
phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời
gian tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật
quan trọng, cho các mối quan hệ cá nhân giữa
người kinh doanh mà cụ thể hơn người bán
hoặc mua với người thẩm quyền quyết định
của bên đối tác mua hoặc bán. Nhiều doanh
nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng
hơn nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa vào
quan hệ rộng như một chủ bài, mạnh hơn
cả năng lực, xu hướng nhờ vả, chạy chọt
hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá
nhiều từ quan hệ nhân, tranh giành đất đai,
dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm
chí dùng cả quyền lực để bóp méo lực lượng
thị trường như phân phối quota xuất nhập
khẩu…là những hiện tượng đang gây bức xúc
trong toàn hội. Những cái lợi từ việc thân
quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều
so với cái cực nhọc đầu để đổi mới công
nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đa phần
các nhà kinh doanh hiển nhiên thừa nhận mối
quan hệ với quan công quyền tốt hay xấu
có tính chất quyết định tới sự thành bại. Cám
dỗ về đặc quyền, đặc lợi, dựa dẫm đang lực
cản rất lớn để hình thành văn hóa kinh doanh
văn minh, hiện đại ở nước ta.
Ba là, trình độ phát triển kinh tế thị trường
còn thấp, môi trường cạnh tranh thiếu lành
mạnh, minh bạch. Đó chất xúc tác cho sự
phát triển một thứ văn hóa trong kinh doanh
theo kiểu “chèn ép” nhằm mục đích gạt bỏ,
bóp chết lẫn nhau thay liên kết, hợp tác với
nhau. Không ít doanh nghiệp không những
không cởi mở, liên kết với nhau, mà còn chơi
xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau.
Hệ quả là không những không nâng cao được
sức cạnh tranh còn yếu đi sự tranh mua,
tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau.
Bốn là, hệ thống luật pháp kinh doanh
còn thiếu không đồng bộ, thực thi luật
pháp không nghiêm. Luật pháp chưa đủ sức
tạo ra một sân chơi bình đẳng và chưa có khả
năng dẫn dắt cuộc chơi của doanh nghiệp theo
hướng lành mạnh. Trên thực tế, khi pháp luật
còn thiếu và yếu thì tất yếu các doanh nghiệp
sẽ bổ sung vào đó một thứ “luật rừng” để ứng
xử với nhau.
Năm là, bản thân các doanh nghiệp nhà
nước không làm gương mà trái lại còn đi đầu
về lối văn hóa kinh doanh theo chiều tiêu cực.
Các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước
nuôi dưỡng và dung túng đã không thực hành
được vai trò phạm kinh doanh, không thể
hiện được vai trò chủ đạo, dẫn đầu về năng
suất, chất lượng còn nêu những tấm gương
xấu về đạo đức kinh doanh, lối làm ăn lại,
dựa dẫm, chèn ép và thiếu minh bạch.
129
ts. nguyễn Hồng cử
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2012.
2. Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam trong thi kỳ hội nhập. PGS.TS. Đinh Công Tuấn Viện Nghiên cứu
châu Âu
3. Những bất cập của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Dương Thị Liễu, Nguyễn Vân
Hà, Tạp chí hoạt động khoa học số 11. 2009.
4. Văn hóa kinh doanh Việt Nam trên đưng phát triển hội nhập, Nguyễn Hoàng Ánh, Tạp chí hoạt
động khoa học số 550, tháng 3 năm 2005.
Phải thừa nhận rằng một số doanh nghiệp
nước ta mặc không nhiều đã nêu tấm gương
sáng về xây dựng văn hóa kinh doanh văn
minh hiện đại: biết đầu tư, cải tiến công nghệ,
không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh,
làm ăn đúng pháp luật, chiến lược kinh
doanh bài bản, tôn trọng người tiêu dùng, coi
văn hóa doanh nghiệp là tài sản tinh thần của
doanh nghiệp, nguồn lực để doanh nghiệp
phát triển bền vững, không ngừng xây dựng
mối quan hệ nhân văn trong doanh nghiệp.
Song phần đông các doanh nghiệp vẫn chưa
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Đất nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ
sang nền kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa, từng bước hội nhập với khu vực
và thế giới. Các giai tầng xã hội, các tầng lớp
dân cư đã và đang có sự thay đổi về thứ tự ưu
tiên của các bậc thang giá trị. Song đáng chú
ý là ở một bộ phận không nhỏ dân cư, nhất là
trong lớp trẻ, giới kinh doanh đang chuyển từ
cực đoan này sang cực đoan khác. Đó là, từ
tưởng sang thực dụng; từ tinh thần sang vật
chất; từ đức sang tài (tiền tài); từ tập thể sang
nhân; từ khoe nghèo, giấu giàu sang phô
trương thói phù hoa xa xỉ kiểu trọc phú… Sự
chuyển biến ấy chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố khách quan đang tạo ra một thứ văn
hóa kinh doanh chúng ta không mong
muốn. thể lúc đầu tồn tại như những
hạt sạn trong văn hóa kinh doanh nhưng nếu
chúng ta không chú ý ngăn chặn tất chúng sẽ
trở thành những tảng đá cản trở sự phát triển
của đất nước.
Đảng ta luôn khẳng định, văn hóa nhu
cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần hội,
thể hiện trình độ phát triển chung của một đất
nước, một thời đại. Đặc biệt trong thời kỳ hội
nhập hiện nay, văn hóa luôn động lực cho
phát triển bền vững đất nước. Nhận thức về
một thứ văn hóa kinh doanh lạc hậu, tiêu cực
đang tồn tại khá phổ biến nước ta hiện nay
đặc biệt những nguyên nhân sinh ra
có ý nghĩa quan trọng. Để khắc phục thứ văn
hóa kinh doanh lạc hậu tiêu cực nói trên,
chúng ta cần phải thực hiện hàng loạt những
biện pháp mạnh mẽ như khắc phục dần tâm
lý, phong cách sản xuất nhỏ, nâng cao trình
độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống luật pháp,
nâng cao hiệu quả quản kinh tế của nhà
nước, đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng
làm trong sạch bộ máy công quyền, phục
hồi luật chơi minh bạch trên thương trường.