
381
GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO VIỆT NAM
THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ThS. Nguyễn Thị Diệu Thanh
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm tắt
Bài viết tập trung nghiên cứu thực trạng thu hút vốn đầu tư tại các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam thời gian qua. Từ các số liệu thống kê thu thập
được, tác giả nhận thấy, việc đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Việt
Nam có xu hướng tăng mạnh trong một vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, nếu so với thị
trường đầu tư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của khu vực ASEAN nói
chung, thì Việt Nam đang chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng dưới 5%). Điều này cho
thấy dòng vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vẫn còn hạn chế, chưa
tương xứng với tiềm năng của thị trường khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam. Từ đó,
bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thu hút vốn đầu tư khởi
nghiệp sáng tạo tại Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,
giải pháp, thực trạng, vốn đầu tư.
1. Đặt vấn đề
Thời gian qua, khởi nghiệp đã tạo thành làn sóng mạnh mẽ trong cộng đồng
người dân Việt Nam. Năm 2016 cũng đã được Chính phủ chọn là Năm quốc gia khởi
nghiệp. Theo thống kê của Tạp chí Echelon (Singapore) - một trong những tạp chí
lớn về khởi nghiệp ở Đông Nam Á - Việt Nam hiện có khoảng 3.000 DN khởi nghiệp
(DNKN), tăng gần gấp đôi so với năm 2015. Bên cạnh đó, hiện nay, sự hiện diện của
các nhà đầu tư (NĐT) quốc tế ở Việt Nam là rất lớn với số lượng giao dịch chiếm tới
hơn 1/3, giá trị đầu tư từ quốc tế cũng gấp hơn 5 lần so với đầu tư trong nước; các
khoản đầu tư lớn nhất trong năm 2017 vừa qua cũng đều đến từ các NĐT nước ngoài.
Thậm chí đã có một số NĐT nước ngoài còn có ý định sáng lập quỹ đầu tư mạo hiểm
tại Việt Nam. DNKN nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST)
nói riêng đã và đang góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo và tạo
việc làm cho thị trường lao động trong nước. Hai năm trở lại đây, mặc dù Chính phủ
đã có nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy khởi nghiệp, thế nhưng tỷ lệ thất bại ở các
DNKN vẫn chiếm tới 90%. Mặc dù đang có tốc độ tăng trưởng ấn tượng song các
DNKNST tại Việt Nam đang phải đối diện với không ít các rào cản trong quá trình

38
2
phát triển. Cụ thể: theo Báo cáo bảng xếp hàng điều kiện kinh doanh năm 2018 (Báo
cáo Doing Business 2018) của 54 quốc gia, Việt Nam đang dẫn đầu ở các chỉ số: năng
động ở thị trường nội địa (5/54), văn hóa chuẩn mực xã hội (6/54), cơ sở hạ tầng
10/54… song lại đang lép vế ở các chỉ số: tài chính (39/54), giáo dục kinh doanh sau
phổ thông (40/54), chuyển giao công nghệ (34/54)… Rõ ràng, tài chính là một trong
những nguyên nhân quan trong mà các DNKNST Việt Nam đang đối mặt và cần được
giải quyết nhanh chóng, kịp thời trong thời gian tới.
Bài viết phân tích thực trạng gặp phải trong quá trình gọi vốn đầu tư đối với
các DNKNST Việt Nam, đồng thời gợi ý một số giải pháp giúp các doanh nghiệp
(DN) khai thông nguồn vốn trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0),
trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nước nhà.
2. Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam giai đoạn 2011-2018
2.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Theo Blank và Dorf (2012), DNKNST “là tổ chức lâm thời tìm kiếm mô hình
kinh doanh có khả năng tăng tốc phát triển, nhân rộng và mang lại lợi nhuận”. Bên
cạnh khả năng tăng tốc (có tiềm năng tăng trưởng), các DNKNST cũng thường mang
đặc điểm đổi mới sáng tạo (Sarkar, 2016) vì các DN này thường có xu hướng phát
triển hoặc hướng tới tạo ra những sản phẩm và dịchvụ mới cho thị trường. Theo
Schumpeter (1934) - một trong những học giả có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lĩnh
vực khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, doanh nhân là tác nhân của đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi kinh tế. Tuy nhiên, các DNKNST chưa có nhiều thành tựu và thành công
nên NĐT khó có thể hiểu rõ và định giá DN (Holstein, 2015). Vì vậy, DNKNST được
xem là loại hình DN rủi ro và khó tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng. Đây là
một trong nhiều lý do khiến DNKNST phải tìm kiếm các nguồn vốn khác, thường
dựa trên việc trao đổi cổ phần trong các giai đoạn phát triển đầu tiên, bao gồm vốn từ
NĐT thiên thần và vốn đầu tư mạo hiểm (Thiel và Masters, 2014). Tại Việt Nam,
thuật ngữ “khởi nghiệp sáng tạo” lần đầu tiên xuất hiện trong Nghị quyết số 35/NQ-
CP của Chính phủ: Về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 được thông qua ngày
16 tháng 5 năm 2016, tiếp đó được định nghĩa trong Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 8442) được thông qua ngày
18 tháng 5 năm 2016, và sau đó là trong Luật hỗ trợ DN vừa và nhỏ được thông qua
ngày 12 tháng 6 năm 2017. Cả Đề án 844 và Luật này đều tập trung nhấn mạnh các
đặc điểm tiềm năng tăng trưởng cao và tính sáng tạo của DNKNST và cùng định
nghĩa: “DNKNST được thành lập để triển khai một ý tưởng kinh doanh trên cơ sở
khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới và có tiềm năng mở
rộng quy mô nhanh chóng”. Sự khác biệt giữa hai văn bản chính sách này là loại hình
DNKN mà từng văn bản hướng tới. Đề án 844 áp dụng đối với các DNKNST với thời

383
gian hoạt động tối đa 5 năm kể từ ngày đăng ký thành lập trong khi Luật hỗ trợ DN
vừa và nhỏ không quy định giới hạn này. Luật cũng xác định DNKN là DN vừa và
nhỏ (dựa trên quy mô lao động và doanh thu). Khác biệt này quyết định phạm vi và
phổ rộng đối tượng thụ hưởng của hai văn bản.
Trong khuôn khổ của bài viết này, thuật ngữ “DN khởi nghiệp” và “DN khởi
nghiệp sáng tạo” được sử dụng với hàm ý tương đương nhằm đề cập đến những DN
non trẻ có tiềm năng tăng trưởng cao hoạt động dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công
nghệ và/hoặc mô hình kinh doanh mới.
2.2. Sự phát triển của DN khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam giai đoạn 2011-2018
Do định nghĩa DNKNST mới chỉ xuất hiện trong Luật DN nhỏ và vừa mới
được thông qua 6/2017, cũng không có phân loại DNKNST trong thống kê của cơ
quan đăng ký kinh doanh, hiện không có bất kỳ số liệu chính thức nào về số lượng,
quy mô và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các DNKNST ở Việt Nam. Do đó, tác giả
tham khảo số liệu thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư về DNKN nói chung như sau (biểu đồ 1):
Biểu đồ 1: Thống kê số lượng DN và số vốn đầu tư giai đoạn 2011-2018
Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
0 200000 400000 600000 800000 1000000 1200000 1400000 1600000
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
77.548
69.874
76.955
74.842
94.754
110.100
126.859
131.275
513.700
467.265
398.681
432.286
601.519
891.094
1.295.911
1.478.101
54.198
54.261
60.737
67.823
80.858
40.750
38.869
90.651
DN giải thể hoặc tạm dừng hoạt động (đvt: doanh nghiệp)
Số vốn (đvt: tỷ đồng)
Số DN (đvt: doanh nghiệp)

38
4
Qua biểu đồ 1 ta thấy, giai đoạn 2011-2018 là mốc quan trọng đánh dấu sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam so với 20 năm trước đó. Số lượng DN đăng
ký thành lập có xu hướng tăng cả về số lượng lẫn vốn đăng ký. Năm 2011, cả nước có
thêm 77.548 DN đăng ký thành lập mới, năm 2015 là 94.754 và đến năm 2018, cả nước
có 131.275 DN đăng ký thành lập mới, tăng 3,5% về số DN so với cùng kỳ năm 2017.
Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN cũng có sự cải thiện từ 6,6 tỷ đồng năm
2011 lên 11,3 tỷ đồng vào năm 2018. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế
trong năm 2018 là 3.886.892 tỷ đồng, tăng 22,8% so với năm 2017, bao gồm: 1.478.101
tỷ đồng của DN đăng ký thành lập mới và 2.408.791 tỷ đồng vốn tăng thêm của các
DN đang hoạt động với 42.538 lượt đăng ký tăng vốn. Đây là năm thứ tư liên tiếp có
số lượng DN thành lập mới và số vốn đăng ký đạt cao nhất trong lịch sử. Những chỉ số
được đưa ra ở trên là tín hiệu rõ ràng cho thấy niềm tin của những DN đang hoạt động
khi họ tiếp tục bổ sung vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tế này cho thấy,
mục tiêu đạt 1 triệu DN vào năm 2020 là khả thi. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn 2011-
2018, DN tạm ngừng hoạt động có thời hạn có xu hướng tăng. Điều này phản ánh xu
thế thanh lọc mạnh mẽ của thị trường, Việt Nam cũng giống như xu hướng chung của
các DN khởi nghiệp trên thế giới (khó khăn trong những năm đầu hoạt động).
Hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam trong những năm gần đây, nhất là năm
2018, được Chính phủ và DN đặc biệt quan tâm.
Ghi chú: Accelerators: Tổ chức hỗ trợ, thúc đẩy kinh doanh
Pre-seed, Seed investors : Quỹ/NĐT giai đoạn sơ khai
Series A, Series B: Quỹ/ NĐT giai đoạn Series A, Series B
6
22 25
14
4
13 13 9
6
22
27
14
4
14 13 9
0
5
10
15
20
25
30
2016 2017

385
Biểu đồ 2: Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam
Nguồn: Trịnh Đức Chiều (2018).
Biểu đồ 2 cung cấp một số dữ liệu về hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam trong
hai năm 2017 và 2018. Có thể thấy, so với các nước, hệ sinh thái khởi nghiệp của
Việt Nam còn tương đối non trẻ và chưa kết nối chặt chẽ với nhau. Dù 2018 là năm
thứ 4 liên tiếp Việt Nam đạt được mốc thống kê về số lượng DNKN cũng như số vốn
đầu tư rất cao nhưng hệ sinh thái khởi nghiệp lại tăng trưởng chậm. Trong 8 yếu tố
của hệ sinh thái khởi nghiệp, chỉ có quỹ/ NĐT giai đoạn Series A, Series B và khu
làm việc chung có sự tăng trưởng nhẹ về mặt số lượng, 6 yếu tố còn lại hầu như không
có nhiều biến động.
Một số DNKNST ở Việt Nam đã có những thành công ban đầu, có kinh
nghiệm trong các dự án lớn trong và ngoài nước. Một số cá nhân từng làm việc tại
các hãng như: FPT, CMC, VSW, Microsoft Vietnam,... đã tách ra, mở công ty,
hoạt động có kết quả. Tại nhiều đại học đã hình thành việc hợp tác với DN để phát
triển hoạt động khởi nghiệp (ví dụ BKHoldings - một công ty trong lòng Đại học
Bách khoa Hà Nội hợp tác với UP - Coworking Space để phát triển không gian
làm việc chung).
Nhìn chung, DNKNST Việt Nam đang trong quá trình phát triển, hệ sinh
thái khởi nghiệp cũng đang trong quá trình hình thành. Dù những thành tựu đem
lại còn khá khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, tuy
vậy đây vẫn thực sự là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước nhà trong thế kỷ
hội nhập 4.0.
3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư tại các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Việt Nam
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chỉ rõ, mặc dù có tiềm năng đóng góp lớn
cho sự phát triển kinh tế, song các DNKN lại có những trở ngại lớn, xu thế chung là
gặp khó khăn trong những năm đầu khởi sự. Tại Anh, tỷ lệ DN còn tồn tại sau 3 năm
hoạt động là 70%. Tại New Zealand, tỷ lệ này là dưới 50%. Ở 26 nước trong khu vực
Liên minh châu Âu (EU), tốc độ gia tăng số lượng DN thành lập mới và DN giải thể
ở mức tương đương nhau, tỷ lệ DN tồn tại sau 5 năm là 46%. Tại Mỹ, tỷ lệ DN tồn
tại sau 5 năm hoạt động là dưới 50% (Phạm Tiến Đạt, 2018). Trong những trở ngại
mà DNKN gặp phải, trở ngại đầu tiên, cũng giống như mọi sự bắt đầu khác, là vốn
đầu tư. Trong mọi hoạt động kinh doanh, đều cần đến vốn đầu tư, song DNKNST cần
một lượng vốn lớn do đặc điểm kinh doanh gắn với công nghệ hoặc mô hình kinh
doanh mới. Vì vậy, thu hút vốn đầu tư luôn là vấn đề được quan tâm không chỉ đối
với DNKN mà còn quan tâm hơn đến DNKNST.
3.1. Phương thức thu hút vốn đầu tư tại các DN khởi nghiệp sáng tạo