NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO KHỞI NGHIỆP SÁNG TO – NHỮNG NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NỀN KINH TẾ
MỚI NỔI XU HƯỚNG CHO CÁC NGHIÊN CỨU TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Minh Thành*
1
TÓM TT: Các nghiên cứu trước đây chỉ ra một thực tế: để có được tăng trưởng bền vững cần phải đầu tư
cho các startups trong lĩnh vực đổi mới, sáng tạo; và nguồn lực tài chính là vấn đề phải quan tâm đầu tiên.
Các nguồn lực tài chính cho các startups có thể là: (i) nguồn vốn từ các thể chế: các khoản vay nợ ngân hàng
(banks, MFIs), vốn đầu tư mạo hiểm (venture capitals); (ii) vốn phi thể chế: các khoản đầu tư từ nhà đầu tư
thiên thần (angel investors), các chương trình tăng tốc (accelerators), các nhóm đầu tư (crowdfunding). Các
khoản vay nợ ngân hàng vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu của các startups, tuy nhiên, không dễ để họ có
thể tiếp cận được các dòng vốn này. Các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đã có những đầu tư cho
công nghệ tài chính và thị trường cho vay kiểu mới và điều này đang phát huy tác dụng. Vốn đầu tư mạo
hiểm thường có xu hướng tìm tới các startups trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo. Các khoản đầu tư
thiên thần, các chương trình gia tốc hay các nhóm đầu tư cũng đã hình thành ở nhiều nền kinh tế phát triển
và đang phát triển. Bài viết tổng hợp một số nghiên cứu tiêu biểu tại các nền kinh tế đang phát triển có sự
tương đồng với Việt Nam để làm bài học kinh nghiệm cho các nghiên cứu cũng như việc hoạch định chính
sách liên quan tới nguồn lực tài chính cho các startups tại Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Nguồn lực tài chính; khởi nghiệp; sáng tạo.
1. KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO – ĐỘNG LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
1.1. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
Khủng hoảng tài chính toàn cầu (Global Financial Crisis) giai đoạn 2008 2009 được nhiều sử gia
trong lĩnh vực kinh tế xem như cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng2 (The Great
Depression). Tuy nhiên, giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu này cũng được nhớ tới bởi do đây
lần đầu tiên trong lịch sử mà các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển có những đóng góp vào sản lượng
toàn cầu3 nhiều hơn so với các nền kinh tế phát triển (International Monetary Fund, 2017). Kể từ đó cho tới
nay, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển không ngừng gia tăng những đóng góp cho GDP toàn cầu,
theo dự báo của IMF (2017) thì đến năm 2020, GDP của các nền kinh tế này sẽ chiếm 60% GDP toàn
cầu. Xa hơn, tới năm 2035, Goldman Sachs còn dự báo khối 04 nền kinh tế mới nổi lớn nhất - BRICs sẽ
GDP vượt khối các nền kinh tế phát triển - G7 (Goldman Sachs, 2003).
* Khoa Kế Toán, Học viện Tài chính, Nội, Việt Nam, tác giả nhận phản hồi: TS. Nguyễn Minh Thành. Tel.: +84 - 912691315.
E-mail address: nguyenminhthanh.hvtc@gmail.com
1 Còn được gọi là Đại suy thoái diễn ra từ năm 1929 đến hết các năm 1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau
sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall vào 29 tháng 10 năm 1929 (Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/
Great_Depression)
2 Được đo lường thông qua chỉ tiêu “Sức mua tương đương” (PPP - Purchasing Power Parity).
756 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
Hầu hết các nền kinh tế mới nổi đều có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Theo thống kê của IMF, năm
1980, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc mới chỉ bằng 17% so với Mỹ; nhưng đến năm 2016, chỉ số
này của Hàn Quốc đã bằng 67% so với Mỹ. Dựa vào sự phát triển này IMF đã phân loại Hàn Quốc
một nền kinh tế phát triển. IMF cũng dự báo chỉ số này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Tương tự là trường
hợp của Trung Quốc, GDP bình quân đầu người của quốc gia này chỉ bằng 2% so với Mỹ vào năm 1980
nhưng đến năm 2016 đã tương đương 27% (International Monetary Fund, 2017).
1.2. Khởi nghiệp sáng tạo – xu thế phát triển của tương lai
Dự án nghiên cứu năm 2003 của Goldman Sachs đã thu hút được sự quan tâm rất lớn từ cả những nhà
đầu lẫn những nhà hoạch định chính sách. Hầu hết đều đồng ý với dự báo Goldman Sachs đưa ra,
đó là: các nền kinh tế mới nổi sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh, sự tăng trưởng này phải dựa trên sự phát
triển của khoa học công nghệ. Nhiều nghiên cứu về vấn đề nền tảng của sự phát triển như của Abramowitz
(1956) hay Solow (1957) và một vài nghiên cứu gần đây đều chỉ ra rằng: một nền kinh tế phát triển ngày
nay không thể có khả năng đạt được mức thu nhập cao nếu như không có tốc độ thay đổi công nghệ nhanh
chóng. Điều này cũng có nghĩa rằng một nền kinh tế mới nổi/đang phát triển ngày nay sẽ không thể thu hẹp
được khoảng cách về thu nhập với các quốc gia phát triển nếu họ không liên tục đổi mới, sáng tạo.
Quan điểm về một nền kinh tế ngày nay mà nếu chỉ dựa vào gia tăng các yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất sẽ không thể duy trì được tăng trưởng bền vững đang được số đông các nhà khoa học trên thế giới
đồng tình. Tăng trưởng bền vững cần một sự đổi mới về chất chứ không phải một sự tăng cường về lượng.
Biến đổi về chất chính những đổi mới, sáng tạo trong linh vực công nghệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
tranh luận xoay quanh vấn đề đổi mới, sáng tạo (Furman, Porter, & Stern, 2002). Chủ đề tranh lun đầu
tiên có thể kể tới như: (i) những ảnh hưởng tới tốc độ thay đổi công nghệ và (ii) sự thay đổi vai trò của đổi
mới, sáng tạo trong bối cảnh của các quốc gia đang phát triển nhằm hướng tới những mức độ thịnh vượng
cao hơn của nền kinh tế. Hay như chủ đề về tầm quan trọng của khởi nghiệp trong đổi mới, sáng tạo tại các
nền kinh tế mới nổi/đang phát triển cũng đang được nhiều học giả quan tâm (Casanova, Cornelius, & Dulta,
2017). Vai trò của khởi nghiệp trong đổi mới, sáng tạo đã được nhiều nghiên cứu thực hiện trong bối cảnh
của các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những nghiên cứu như thế này tại các nền kinh tế mới nổi/đang
phát triển vẫn còn nhiều khoảng trống. chủ đề thứ ba vẫn còn được tranh luận là chủ đề về nguồn lực tài
chính cho khởi nghiệp trong đổi mới, sáng tạo (Casanova, Cornelius, & Dulta, 2017). Casanova và cộng sự
thống kê và cho thấy có nhiều nghiên cứu thực chứng chỉ ra rằng việc thiếu hụt những nguồn lực tài chính
là trở ngại đáng kể cho hoạt động khởi nghiệp trong đổi mới, sáng tạo tại các nền kinh tế phát triển trở
ngại này thậm chí còn lớn hơn tại các nền kinh tế mới nổi/đang phát triển.
Tóm lại, các vấn đề thuyết được đưa ra như sau: một nền kinh tế trong bối cảnh ngày nay nếu
muốn hướng tới phát triển bền vững thì cần phải liên tục đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ. Và
với sự năng động, nhạy bén thích nghi nhanh của mình thì các doanh nghiệp khởi nghiệp (startups)
những chủ thể trong nền kinh tế thể đẩy nhanh tốc độ đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ. Để
các startups thể phát huy được hết vai trò của mình thì nguồn lực tài chính cùng cần thiết cần
phải được quan tâm đầu tiên. Đã nhiều nghiên cứu tại các quốc gia phát triển chứng minh cho các vấn
đề lý thuyết này. Tuy nhiên, những lý thuyết này có đúng tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hay
không vẫn còn cần phải có những nghiên cứu tiếp theo để cung cấp thêm bằng chứng.
2. NHỮNG VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH CHO KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO TẠI CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NỔI
Các phân tích của Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD - Organization for Economic
Cooperation and Development) đều chỉ ra rằng các doanh nghiệp trẻ năng động những doanh nghiệp
757
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
chấp nhận rủi ro với tiềm năng tăng trưởng cao – đã có những đóng góp rất lớn trong việc tạo ra việc làm.
Trong một báo cáo năm 2016 của mình, OECD đã cung cấp thông tin về khả năng tạo việc làm của các
startups trong 21 nước thuộc OECD và những quốc gia không thuộc OECD. Theo đó, những doanh nghiệp
số năm hoạt động nhỏ hơn 5 năm chỉ sử dụng 21% lao động nhưng lại tạo ra 47% lượng công việc
(OECD, 2016). Các doanh nghiệp này có có những đột phá trong lĩnh vực công nghệ và xây dựng mô hình
kinh doanh kiểu mới. Các nhà hoạch định chính sách tại các quốc gia này nên cung cấp cho các startups
một môi trường kinh doanh thuận lợi nhất, cho phép các nguồn lực (bao gồm chủ yếu nguồn lực tài
chính) đầu tư dễ dàng vào họ và tạo điều kiện để họ được thực hiện và thử nghiệm các ý tưởng của họ trên
thị trường. Về mặt tài chính, hiện nay có các nguồn tài chính có thể cấp vốn cho các startups như: (i) nguồn
vốn từ các thể chế: các khoản vay nợ ngân hàng, vốn đầu tư mạo hiểm; (ii) vốn phi thể chế: các khoản đầu
tư từ nhà đầu tư thiên thần, các chương trình tăng tốc, các nhóm đầu tư.
2.1. Ngân hàng, hạn chế của tín dụng ngân hàng và vai trò của phát triển công nghệ tài chính
Ngân hàng – nguồn vốn chủ yếu cho các startups
Ngày nay, các khoản vay nợ tài chính từ các ngân hàng vẫn kênh huy động vốn chủ yếu của các
startups. Xuất phát từ mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính với tăng trưởng kinh tế1, nhiều nhà khoa học
cho rằng khởi nghiệp sáng tạo chỉ có thể phát triển trong môi trường mà các startups có thể tiếp cận với các
nguồn tài chính bên ngoài (Rajan & Zingales, 1998; Demirgüҫ-Kunt & A., 1998; De Gregorio & Guidotti,
1995; Dabla-Norris, et al., 2015; Rousseau & Wachtel, 2011; Gennaioli, Shleifer, & Vishny, 2012). Nghiên
cứu của Ayyagari năm 2015 dựa trên số liệu khảo sát doanh nghiệp của World Bank cho 47 nền kinh tế mới
nổi đã tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa tỷ lệ đầu tư được tài trợ bởi nguồn vốn bên ngoài của công ty với
mức độ đổi mới, sáng tạo của công ty. Ngược lại, ở những nước mà các công ty chủ yếu phụ thuộc vào quỹ
nội bộ, hợp đồng thuê nhà, gia đình và bạn bè, và các nguồn không chính thức khác, các công ty ít sáng tạo
hơn. Tỷ lệ đầu tư của các công ty được tài trợ bởi ngân hàng cũng mối quan hệ thun chiều với thu nhập
bình quân đầu người (Casanova, Cornelius, & Dulta, 2017). vậy, để thúc đẩy sự phát triển, các quốc
gia cần phải liên tục nâng cấp hệ thống tài chính của mình để các startups có thể tiếp cận được càng nhiều
nguồn vốn vay từ ngân hàng càng tốt. Cũng những đóng góp của các startups đối với đổi mới, sáng tạo
mà trong báo cáo “Doing Business” của mình, World Bank từ lâu đã ủng hộ việc cải cách khu vực tài chính
như một điều kiện tiên quyết cho việc tiếp cận dễ dàng hơn về tài chính của các startups, qua đó đẩy mạnh
những tiến bộ về công nghệ và tăng trưởng kinh tế (World Bank, 2016).
Hạn chế của dòng vốn từ ngân hàng
Mặc các dòng vốn vay từ ngân hàng hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp, tuy nhiên, một lượng
lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nền kinh tế mới nổi chưa tiếp cận được các dòng vốn này, đặc biệt
các doanh nghiệp mới thành lập rất ít tài sản hữu hình không kinh nghiệm vay nợ ngân hàng
trong quá khứ. Theo ước tính của McKinsey (2016) dựa trên dữ liệu của IFC Enterprise Finance Gap
SME Finance Forum, chênh lệch giữa nhu cầu vốn vay của các MSMEs2 với khả năng cung cấp tín dụng
của các ngân hàng là khoảng 2,2 nghìn tỷ USD. Và có khoảng 200 triệu MSMEs không được phục vụ hoặc
không được các ngân hàng chấp nhận cho vay. Trong số này, không ít các startups khả năng đổi mới,
1 Phát triển tài chính là một phần quan trọng và không thể tách rời của quá trình tăng trưởng kinh tế. Các hệ thống tài chính hoạt
động tốt giúp huy động tiết kiệm, thúc đẩy chia sẻ thông tin, cải thiện việc phân bổ nguồn lực và tạo điều kiện đa dạng hóa
quản lý rủi ro (Levine, 2005).
2 MSMEs: Micro, Small & Medium Enterprises.
758 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
sáng tạo, tạo việc làm đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Một số rất ít được tiếp cận với các
khoản vay ngắn hạn nhưng với những khoản vay trung dài hạn – những khoản vay vô cùng quan trọng
với các startups thì không hề tồn tại.
Ngay cả khi các startups này có khả năng vay vốn ngân hàng nhưng vẫn còn có nhiều yếu tố khác hạn
chế khả năng tiếp cận tín dụng của họ. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở những nước đang phát triển còn
trong cả những nước phát triển, số lượng các doanh nghiệp mới thành lập phải sử dụng tài sản đảm bảo cho
những khoản vay nhiều gấp đôi so với các doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm (Chavis, Klapper, & Love,
2012). Và giá trị tài sản đảm bảo của các startups tại các nền kinh tế mới nổi thường nhiều gấp hai đến ba
lần1 so với các startups tại các nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, lãi suất cho vay tại các nền kinh tế mới nổi
cũng thường cao hơn lãi suất cho vay tại các nền kinh tế phát triển (Dabla-Norris, et al., 2015). Những giới
hạn/khó khăn tín dụng này đã giải thích cho việc tại sao mật độ các doanh nghiệp siêu nhỏ nhỏ tại các
nền kinh tế mới nổi lại cao hơn nhiều, cũng như sự vắng mặt của các doanh nghiệp vừa lớn tại các nền
kinh tế này khi so sánh với các nền kinh tế phát triển (Banerjee & Duflo, 2005).
Sử dụng dữ liệu khảo sát của World Bank, Chavis (2012) chỉ ra rằng có 18% các doanh nghiệp tại các
nền kinh tế mới nổi sử dụng tín dụng ngân hàng trong 02 năm đầu tiên sau khi thành lập, trong khi đó
trên 30% sử dụng những nguồn vốn không chính thức, và phần còn lại thì sử dụng tín dụng thương mại và
các nguồn khác. Các doanh nghiệp đã tồn tại trên 10 năm thì ít sử dụng nguồn không chính thức hơn.
khoảng 10% doanh nghiệp loại này sử dụng tín dụng thương mại khoảng 35 40% dựa vào tín dụng
ngân hàng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tuổi doanh nghiệp với nguồn vốn tài trợ có thể phức tạp hơn nghiên
cứu của Chavis rất nhiều. Thực tế, trong nghiên cứu của Chavis và cộng sự, họ đã chỉ ra những tình huống
đặc biệt khác biệt giữa các quốc gia: các doanh nghiệp trẻ có khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng tốt hơn
các công ty các quốc gia hệ thống lut pháp mạnh hơn thông tin tín dụng tốt hơn2. Và điều này
cũng phù hợp với những khuyến nghị, ủng hộ của World Bank về việc cải cách khu vực tài chính tại các
quốc gia trong báo cáo “Doing Business” của tổ chức này. Bổ sung thêm vào những nghiên cứu này, Alfaro
et al (2015) cho rằng cải cách khu vực tài chính tại các quốc gia sẽ thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng
nước ngoài và sự tham gia này khuyến khích sự hình thành doanh nghiệp tại các nền kinh tế mới nổi.
Các tổ chức tín dụng vi mô (MFIs) và tín dụng nhỏ
Khoảng cách vốn 2,2 nghìn tỷ USD đối với các MSMEs đã dẫn tới việc hình thành các tổ chức tín
dụng vi mô (MFIs – Microfinance Institutions). Sự ra đời và phát triển của MFIs đã trở thành sự kiện toàn
cầu, mặc dù những đóng góp của MFIs cho việc xóa đói giảm nghèo thông qua khuyến khích sự phát triển
các startups không thực sự ràng. Tín dụng vi lần đầu xuất hiện vào giữa những năm 1970 tại
Bangladesh nhằm tháo gỡ những khó khăn đã dẫn tới tình trạng đói nghèo kéo dài tại quốc gia này. Được
chính thức thành lập vào năm 2012 được xem như những đổi mới, sáng tạo về tài chính của Diễn đàn
Kinh tế Thế giới, đến nay tín dụng vi mô đã trở thành một hiện tượng lớn với hơn 200 triệu người vay trên
toàn thế giới (Casanova, Cornelius, & Dulta, 2017). Các tổ chức tài chính vi thường duy trì mối quan
hệ chặt chẽ với khách hàng của họ bằng cách tập hợp một nhóm những người vay liên quan đến nhau,
những người vay này đồng thời chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nợ của các thành viên khác trong nhóm, qua
1 Theo khảo sát của World Bank, giá trị tài sản đảm bảo so với giá trị khoản vay bình quân là 124% tại các nền kinh tế mới nổi,
trong khi đó, tỷ lệ bình quân tại các nền kinh tế phát triển chỉ là 50%.
2 Cung cấp thông tin tín dụng tốt hơn bao gồm: thiết lập một văn phòng hoặc cơ quan tiếp nhận đề nghị cấp tín dụng của các startups;
cung cấp dữ liệu lịch sử về các giao dịch tín dụng thành công; bảo đảm quyền lợi của bên đi vay khi khai báo dữ liệu theo luật; cung
cấp thông tin tín dụng online; cung cấp dữ liệu nhà bán lẻ và tiện ích của họ; và cung cấp điểm tín dụng (credit score).
759
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
đó họ luôn cố gắng để đảm bảo rằng những người khác trong nhóm sẽ trả nợ (Banerjee & Duflo, Poor
Economics. A Radical Rethinking of the Way to Fight Global Poverty, 2011). Một điểm khác biệt nữa của
các MFIs đó là họ không sử dụng các chính sách thu hồi nợ mang tính cưỡng bức, thay vào đó họ sử dụng
“sức mạnh của sự xấu hổ” bằng cách thông qua các mối liên kết với những người trong nhóm và các mạng
lưới xã hội khác để gây sức ép lên những người không trả nợ và theo Banerjee et al (2015) cốt lõi của hình
thức cho vay tín dụng vi đó là “không có sự lựa chọn”. Các tổ chức tín dụng vi mô hoạt động dưới nhiều
hình thức. Đầu tiên, các tổ chức này hoạt động như những ngân hàng chính sách nhằm mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo bằng cách tài trợ cho những hoạt động kinh doanh nhỏ. Ngày nay có khoảng 1100 tổ chức hoạt
động theo cách này, với các khoản cho vay hàng năm khoảng 23 tỷ USD tổng nợ tín dụng vào cuối
năm 2015 89 tỷ USD. Thứ hai, họ phát triển từ các tổ chức phi lợi nhuận thành các doanh nghiệp có lợi
nhuận, họ đặt trọng tâm nhiều hơn vào các chương trình tiết kiệm nhằm sinh lời, tổng các khoản tiền gửi lên
tới 37 tỷ USD (Casanova, Cornelius, & Dulta, 2017). Ngoài ra, họ còn đa dạng hóa các sản phẩm bảo hiểm
vì lợi ích của khách hàng và chính bản thân các tổ chức tín dụng vi mô. Cuối cùng, các tổ chức tín dụng vi
đã thay đổi rất nhiều. Sự tham gia của các quỹ đầu tư tài chính quy mô nhỏ đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo nguồn cho các MFIs này. Mặc dù tham gia tạo nguồn cho các MFIs vẫn là nhà đầu tư cá nhân, tuy
nhiên một lượng không nhỏ các tổ chức như các nhà đầu tổ chức, quỹ lương hưu, công ty bảo hiểm
quỹ tương trợ cũng rất quan tâm tới việc đầu tư vào các MFIs (Goodman, 2007).
Ngoài những ưu điểm có được, các tổ chức tài chính vi mô cũng có hạn chế là những ràng buộc tương
tự với các ngân hàng truyền thống. Theo đó, họ dựa chủ yếu vào quy trình thủ công và tiền mặt, dẫn đến chi
phí giao dịch cao và hạn chế khả năng đạt được quy mô lớn hơn (Casanova, Cornelius, & Dulta, 2017). Điều
này dẫn chúng ta tới vai trò tiềm năng của tài chính số (digital finance) để nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức tín dụng và thúc đẩy sự xuất hiện của các hình thức trung gian tài chính mới.
Công nghệ tài chính và thị trường cho vay kiểu mới
Tài chính số một hệ thống dịch vụ tài chính được cung cấp qua sở hạ tầng kỹ thut số. Thay
giao dịch bằng tiền mặt thông qua các chi nhánh ngân hàng truyền thống, nhân doanh nghiệp được
kết nối với sở hạ tầng thanh toán số hóa thông qua điện thoại di động, máy tính thiết bị điểm bán
hàng (point-of-sales). Trong những năm gần đây, đầu tư vào công nghệ tài chính (fintech) đã phát triển trên
khắp thế giới, đặc biệt tại Mỹ Châu Á (theo tính toán của Casanova et al (2017) dựa trên dữ liệu của
KPMG CB Insights). Các dịch vụ tài chính, trung gian vốn… sẽ được cải thiện thông qua hạ tầng kỹ
thuật số. Thống của Viện nghiên cứu toàn cầu McKinsey (2016), 80% người trưởng thành tại các nền
kinh tế mới nổi sử dụng điện thoại di động, nhưng chỉ 55% tài khoản ngân hàng, tương đương
khoảng hai tỷ người đang không sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Thống này cho thấy tiềm năng
thể khai thác từ dịch vụ thanh toán thông qua điện thoại tại các quốc gia đang phát triển. Nghiên cứu của
Beck et al (2015) tại Kenya cho thấy có sự liên kết mạnh mẽ giữa việc sử dụng thanh toán qua điện thoại di
động1 với việc tiếp cận với tín dụng thương mại. Kết quả khảo sát các doanh nghiệp tại Kenya của Beck et
al cho thấy sự sẵn của công nghệ thanh toán trên di động làm tăng sản lượng kinh tế tới từ các startups
lên khoảng 0,33% đến 0,47%.
Mặc dù tất cả các nước thể lợi từ công nghệ tài chính, tuy nhiên, tiềm năng của được cho
lớn nhất ở các nền kinh tế mới nổi, nơi sự phát triển thường bị giới hạn bởi các hệ thống tài chính kém phát
triển. Nếu tài chính kỹ thuật số giúp các quốc gia này vượt qua được những giới hạn kể trên thì các công
1 Thanh toán thông qua tài khoản của thuê bao điện thoại.