
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 02(42), THÁNG 6 – 2024
11
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ TÀI CHÍNH VÀ HỖ TRỢ PHÁP LÝ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
SOLUTIONS TO COMPLETE FINANCIAL SUPPORT AND LEGAL
SUPPORT POLICIES FOR CREATIVE STARTUPS
LÊ THỊ HOÀI THƯƠNG, lehoaithuong83@gmail.com
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
THÔNG TIN
TÓM TẮT
Ngày nhận: 20/5/2024
Ngày nhận lại: 10/6/2024
Duyệt đăng: 20/6/2024
Mã số: TCKH-S02T6-2024-B02
ISSN: 2354 - 0788
Khởi nghiệp và sáng tạo được coi là sự chủ động, chìa khóa thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Cơ chế, chính sách hỗ
trợ của Nhà nước là động lực then chốt giúp quá trình khởi
nghiệp sáng tạo phát huy tối đa các nguồn lực nhằm chuyển đổi
từ mô hình lao động giản đơn và khai thác tài nguyên thiên
nhiên, sang mô hình tăng trưởng mới dựa trên tri thức và đổi
mới sáng tạo. Bài viết tập trung phân tích thực trạng về cơ chế,
chính sách tài chính hỗ trợ và chính sách hỗ trợ pháp lý đối với
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo hiện nay.
Từ khóa:
khởi nghiệp, sáng tạo, chính sách hỗ
trợ tài chính, hỗ trợ pháp lý.
Keywords:
financial support policy,
innovation, legal support policies,
startup.
ABSTRACT
Entrepreneurship and innovation are considered key
initiatives to promote the development of the national
economy. State support mechanisms and policies are a key
driving force to help the creative start-up process maximize
resources to transform a simple labor model and natural
resource exploitation, into a model of new growth based on
knowledge and innovation. This article focuses on analyzing
the reality of mechanisms, financial support policies and legal
support policies for the current creative startups.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019
của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính
sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư Đảng ta đã nhận định “Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều
cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức
đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và
đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước”,
trước bối cảnh đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng
ta là “ chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu
khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược
đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội” và “phát huy
tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho
việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công

LÊ THỊ HOÀI THƯƠNG
12
nghiệp lần thứ tư, xác định nguồn lực bên trong
là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; nguồn
lực bên ngoài là quan trọng, đột phá”. Đồng thời,
Nghị quyết số 52-NQ/TW cũng nêu rõ, “hoàn
thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ để tạo điều kiện
cho quá trình chuyển đổi số quốc gia”.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có
hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và để hỗ trợ nền
kinh tế sáng tạo Chính phủ các nước đều ban
hành các cơ chế, chính sách đối với các đối
tượng hoạt động trong lĩnh vực này. Ở Việt Nam,
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (KNST) “là
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
pháp luật để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai
thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh
doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”
(theo Điều 3.2 Nghị định 94/2020/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi
đối với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia
ngày 21 tháng 8 năm 2020). Theo báo cáo của
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, năm 2021
Việt Nam xếp thứ 44/132 quốc gia và nền kinh tế
trong bảng xếp hạng đổi mới sáng tạo toàn cầu.
Đồng thời, là một trong 4 quốc gia có thu nhập
trung bình được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
đánh giá là đang bắt kịp đà tăng chỉ số đổi mới
sáng tạo của thế giới. Hiện chưa có thống kê
chính thức về số lượng doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo tại Việt Nam, nhưng theo Thống
kê của Tạp chí Echelon (Singapore), Việt Nam
hiện có trên 3.000 doanh nghiệp KNST; khoảng
gần 50 cơ sở ươm tạo khởi nghiệp, tổ chức thúc
đẩy kinh doanh đang hoạt động trên cả nước. Với
sự xuất hiện ngày càng nhiều các không gian làm
việc chung, vườn ươm, chương trình tăng tốc và các
cuộc thi dành riêng cho khởi nghiệp sáng tạo, cùng
với sự ưu tiên hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trong
chương trình nghị sự của Chính phủ và các bộ,
ngành, địa phương, Việt Nam đã và đang nhanh
chóng trở thành một ngôi sao sáng trong bức tranh
khởi nghiệp ở khu vực Đông Nam Á. Đây là tín hiệu
tích cực cho thấy tinh thần khởi sự kinh doanh, khởi
nghiệp sáng tạo, đã và đang được nhiệt liệt hưởng
ứng và lan tỏa rộng rãi trên cả nước.
Sỡ dĩ, có số lượng tương đối lớn như trên là
nhờ Nhà nước đã ban hành cơ chế, chính sách và
nhiều khung pháp lý liên quan để tạo điều kiện
hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo.
Trong đó, chính sách hỗ trợ tài chính, hỗ trợ
pháp lý được xem như là đòn bẩy đối với doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thúc đầy nền kinh tế,
khoa học công nghệ phát triển.
2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH, PHÁP
LUẬT VỀ HỖ TRỢ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
2.1 Hệ thống chính sách, pháp luật về hỗ trợ
đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra
yêu cầu “xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý,
thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy...
khởi nghiệp sáng tạo” nhằm “phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm
trung tâm”. Nhà nước ta đã ban hành hệ thống
thể chế để thúc đẩy đổi mới sáng tạo khá phong phú,
đa dạng; bao gồm Nghị định của Chính phủ,
Thông tư của các Bộ như Khoa học và công nghệ,
Kế hoạch và đầu tư, các ngành tài chính, ngân hàng,
các quỹ... Đây là nền tảng thể chế quan trọng để
hệ sinh thái khởi nghiệp - sáng tạo phát triển
mạnh mẽ tại Việt Nam. Nhìn chung, các quy
định hiện hành tập trung làm rõ nội dung về hỗ
trợ chung đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) gồm (hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ
mặt bằng sản xuất; hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ mở
rộng thị trường; hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý;
hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực); và một số nội
dung hỗ trợ riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa khởi nghiệp sáng tạo. Cụ thể như sau:
- Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng
05 năm 2016 của Thủ tướng chính phủ về việc
phê duyệt đề án “hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 02(42), THÁNG 6 – 2024
13
- Nghị định 34/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng
3 năm 2018 của Chính phủ về thành lập, tổ chức
và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Nghị định 38/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3
năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.
- Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng
4 năm 2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn.
- Nghị định 39/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 5
năm 2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng
6 năm 2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Nghị định 80/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng
8 năm 2021 của Chính phủ qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quyết định số 897/QĐ-TTg ngày 26 tháng 07
năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp” giai
đoạn 2022 - 2030.
- Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21 tháng 4
năm 2023 của Chính phủ về một số chính sách,
giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ
động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền
vững đến năm 2025.
- Thông tư 07/2020/TT-BKHCN ngày 11
tháng 12 năm 2020 của Bộ Khoa học và Công
nghệ hướng dẫn về việc thành lập cơ sở ươm tạo
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở kỹ thuật hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu làm việc chung hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo.
- Thông tư 132/2018/TT-BTC ngày 28
tháng 12 năm 2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn
Chế độ kế toán cho doanh nghiệp siêu nhỏ do Bộ
trưởng Bộ Tài chính ban hành.
- Thông tư số 06/2022/TT-BKHĐT ngày 10
tháng 5 năm 2022 của Bộ Kế hoạch và đầu tư hướng
dẫn một số điều của Nghị định số 80/2021/NĐ-CP
ngày 26 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thông tư 52/2023/TT-BTC ngày 08 tháng
8 năm 2023 của Bộ Tài hướng dẫn cơ chế sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước chi thường
xuyên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy
định tại Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26
tháng 8 năm 2021 của Chính phủ.
Nhìn chung, các qui định pháp luật đều đề
cập rõ ràng các định hướng và công cụ hỗ trợ
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, trong các qui định pháp luật,
chính sách hiện hành vẫn chưa có quy định pháp
luật dành riêng cho hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo, các quy định về hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được quy định
trong các văn bản pháp luật khác nhau nên thiếu
tính hệ thống, khó theo dõi, khó nắm bắt đối với
chủ thể được hỗ trợ; hơn nữa, các quy định pháp
luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
hiện nay hầu như mới chỉ đề cập tới các biện
pháp hỗ trợ mà chưa đề cập tới việc triển khai
thực thi các quy định này cũng như cách thức xử
lý nếu như doanh nghiệp không thực hiện đúng
các quy định nhằm nhận hỗ trợ.
2.2. Thực trạng chính sách tài chính, hỗ trợ pháp
lý đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Doanh nghiệp KNST phần lớn là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, do đó vốn khởi nghiệp và
cách tiếp cận các nguồn vốn luôn là vấn đề được
các doanh nghiệp khởi nghiệp quan tâm trong
suốt quá trình hoạt động và phát triển. Các doanh
nghiệp khởi nghiệp luôn cần có các cơ chế,
chính sách tài chính phù hợp, nhất là trong điều
kiện hội nhập như hiện nay. Chính sách tài chính đối
với doanh nghiệp khởi nghiệp có vai trò hết sức
quan trọng, vừa tác động tới môi trường kinh doanh,
vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển đúng mục tiêu đề ra. Theo đó,
chính sách tài chính đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp bao gồm: Chính sách thuế, chi ngân sách
nhà nước, tài chính đất đai, tín dụng - lãi suất.

LÊ THỊ HOÀI THƯƠNG
14
Ngoài ra còn có các quỹ khởi nghiệp nhằm hỗ trợ
về mặt tài chính đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.
2.1.1. Về chính sách ưu đãi về thuế:
Hiện có hai hình thức thực hiện chính sách
ưu đãi thuế là ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
(là ưu đãi thuế suất) và ưu đãi về thời gian miễn
giảm thuế. Đối với doanh nghiệp hưởng ưu đãi
về thuế bao gồm: ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông
thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; ưu
đãi về miễn, giảm tiền thuế thu nhập doanh
nghiệp được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số
thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với
khoản thu nhập này và thời gian miễn thuế,
giảm thuế được tính liên tục từ năm đầu tiên có
thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư mới được hưởng
ưu đãi thuế. Trường hợp không có thu nhập chịu
thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh
thu từ dự án đầu tư mới thì thời gian miễn thuế,
giảm thuế được tính từ năm thứ tư. Đối với nhà đầu
tư cho doanh nghiệp KNST khoản ưu đãi về thuế,
được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có
thời hạn đối với thu nhập từ khoản đầu tư vào
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo theo quy định
của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
2.1.2. Về trợ cấp tài chính và hỗ trợ tín dụng đối
với doanh nghiệp KNST
Hiện nay, các nguồn vốn chủ yếu mà doanh
nghiệp KNST đang tiếp cận là (i) nguồn vốn đầu
tư từ nhà đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài,
(ii) nguồn vốn đầu tư từ nhà đầu tư, quỹ đầu tư mạo
hiểm trong nước và (ii) nguồn vốn vay.
Quỹ phát triển DNNVV được thành lập,
thực hiện các chức năng: Cho vay, tài trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh
nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành,
chuỗi giá trị; tiếp nhận và quản lý nguồn vốn vay,
tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức,
cá nhân để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hỗ trợ tín dụng được thực hiện dưới các
hình thức như: (1) cho vay trực tiếp và hỗ trợ lãi
suất khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện
pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ để kiểm soát
hoạt động của các tổ chức tín dụng theo hướng
tập trung phục vụ các nhu cầu vốn đối với các
lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV); (2) cung cấp bảo
lãnh tín dụng cho DNNVV vay vốn.
Những chính sách của Trung ương ban
hành trong thời gian qua đã thúc đẩy, hỗ trợ
doanh nghiệp gia nhập thị trường góp phần hoàn
thiện hành lang pháp lý và tạo nên chuỗi hỗ trợ
có hệ thống, tập hợp được các nguồn lực cần
thiết trong nước và quốc tế để cùng triển khai các
hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Tạo điều kiện cho các địa phương xây dựng và ban
hành đề án, chương trình, kế hoạch hỗ trợ DNNVV
gồm các nội dung hỗ trợ chung và hỗ trợ trọng tâm
theo quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV; nhiều địa
phương ban hành riêng Đề án/Kế hoạch hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (Hà Nội, Đà
Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ninh, v.v).
Tuy nhiên, so với kỳ vọng, chính sách ưu
đãi thuế doanh nghiệp KNST thời gian qua còn
nhỏ lẻ, mang tính chất giải quyết khó khăn theo
từng thời điểm và chưa mang tính liên tục, quá
trình triển khai vẫn còn hạn chế và chưa đạt được
hiệu quả cao trong ứng dụng vào thực tiễn. Do
(1) hiện tại nhà nước vẫn chưa có chính sách đặc
thù và quy định cụ thể về chính sách thuế, tài
chính đối với doanh nghiệp KNST và hướng dẫn
cụ thể về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
dành riêng đối với các doanh nghiệp KNST. Hầu
hết chính sách ưu đãi thuế hiện nay là ưu đãi cho
các DNNVV nói chung, trong đó bao gồm các
doanh nghiệp KNST (Hiện nay, mức thuế suất
áp dụng chung cho các doanh nghiệp đều là
20%, không phân biệt quy mô doanh nghiệp).
(2) các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chưa
phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp KNST
do đặc thù sản phẩm của các doanh nghiệp KNST
là các sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường, ứng
dụng công nghệ cao, vốn của doanh nghiệp KNST

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 02(42), THÁNG 6 – 2024
15
thường bắt nguồn từ người sáng lập, tiềm ẩn nhiều
rủi ro… Vì vậy, các doanh nghiệp KNST rất khó
khăn trong việc đáp ứng các điều kiện để được
hưởng ưu đãi. (3) chính sách ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp chưa đủ mạnh, thiếu sức hấp dẫn để
khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn lớn vào hoạt
động khởi nghiệp sáng tạo. Do đó, nhiều dự án
khởi nghiệp sáng tạo không thể thực hiện.
Thủ tục nhận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
nước ngoài, doanh nghiệp nhận vốn phải thực
hiện 02 lần thủ tục (đầu tiên thủ tục về tái cơ cấu
để thành lập công ty mẹ ở nước ngoài, sau đó thủ
tục rót vốn vào công ty mẹ). Thời gian thẩm định
và đánh giá của các thủ tục đầu tư cũng gây khó
khăn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Với một số loại hình doanh nghiệp KNST
đặc biệt ngoài các khoản hỗ trợ từ nhà nước, vốn
góp cổ phần từ nhà đầu tư thiên thần hay từ quỹ
đầu tư, thì nguồn vốn vay cũng rất cần thiết để
doanh nghiệp có thể đảm bảo dòng tiền kinh doanh.
Tuy nhiên, phương án được vay từ ngân hàng của
doanh nghiệp tương đối hạn chế. Doanh nghiệp
KNST thông thường không có tài sản đảm bảo, do
đó phải thực hiện vay từ các quỹ cho vay nước
ngoài hoặc các hình thức tín dụng khác ở Việt Nam
thì thường phải chịu lãi suất tương đối cao.
Ngoài ra, các quy định pháp lý còn trùng
lặp gây khó khăn cho việc khơi thông dòng vốn
và tiềm lực nội địa để thực hiện đầu tư cho doanh
nghiệp KNST. Chẳng hạn, có sự trùng lặp khi
doanh nghiệp phải kê khai ngành nghề đầu tư
bởi khi đăng ký hoạt động kinh doanh ngay từ
đầu doanh nghiệp đã đăng ký ngành nghề và xin
các giấy phép theo quy định của pháp luật thành
lập doanh nghiệp, nhưng Nghị định 38/2018/NĐ-CP
lại quy định Quỹ đầu tư doanh nghiệp tiếp tục
phải kê khai ngành nghề của các doanh nghiệp
KNST mà quỹ sẽ thực hiện đầu tư; hay nhiều
quy định tại Luật hỗ trợ DNNVV đã có nhưng
trên thực tế trong các văn bản hướng dẫn cụ thể
lại thiếu hướng dẫn thực thi chẳng hạn vấn đề
quy định quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được
hưởng ưu đãi về thuế nhưng được ưu đãi như thế
nào, áp dụng ra sao thì chưa được hướng dẫn;
chưa có hướng dẫn về hạch toán kế toán cho quỹ
đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo pháp luật về kế
toán, cũng như về kê khai và nộp thuế theo pháp
luật về thuế.
2.2. Chính sách hỗ trợ pháp lý
Đối với bất kì doanh nghiệp nào pháp lý
luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình khởi
nghiệp và hoạt động. Một doanh nghiệp sẽ phải
đối mặt với nhiều rủi ro nếu không có nền tảng
pháp lý vững chắc. Các doanh nghiệp KNST
thường có quy mô nhỏ và vừa; nguồn lực còn
hạn chế chưa có điều kiện tổ chức được bộ phận
pháp chế nội bộ nên thường gặp khó khăn trong
tuân thủ pháp luật. Luật Hỗ trợ doanh nhỏ và vừa
năm 2017, xác định hỗ trợ pháp lý là một trong
bảy hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã kịp thời ban hành
Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 6
năm 2019 thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP
ngày 28 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nội dung
hỗ trợ pháp lý bao gồm hai nhóm (i) Hoạt động
xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và
sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật và (ii) hoạt
động xây dựng và tổ chức thực hiện các chương
trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nghị định đã tạo hành lang pháp lý thống nhất cho
công tác hỗ trợ pháp lý cho DNNVV. Đồng thời
mang ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ pháp lý triển
khai có chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, hướng đến
đối tượng thực sự có nhu cầu là DNNVV.
Thời gian qua, công tác hỗ trợ pháp lý cho
DNNVV đạt được các ưu điểm như (1) được
nhiều Bộ ngành, địa phương, tổ chức đại diện
doanh nghiệp triển khai có trọng tâm, trọng
điểm, có sự tập trung vào các mặt như thông tin
pháp luật; (2) các hoạt động bồi dưỡng kiến thức
pháp luật và tư vấn pháp luật từ phía Nhà nước
nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao hiểu biết, ý thức
và thói quen tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro,
vướng mắc pháp lý trong hoạt động kinh doanh,
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của