
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
26
1. Nhận thức về văn hóa kinh doanh
Về khái niệm văn hóa: Có thể nói chưa
bao giờ khái niệm văn hoá được đề cập nhiều
trong học thuật cũng như trong thực tế đời
sống như hiện nay. Bởi vì, nói tới văn hoá là
nói tới ý thức, cái gốc tạo nên “tính người”
cùng những gì thuộc về bản chất nhất làm
cho con người trở thành chủ thể năng động,
sáng tạo trong cuộc sống, trong lao động sản
xuất. Nói tới văn hoá còn là nói tới những
nguồn nội lực để con người có thể “gieo
trồng” (sáng tạo, xây dựng) và “điều chỉnh”
(cải tạo) cuộc sống của mình theo định hướng
vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ.
Được xem là cái “nền tảng”, “vừa là mục
tiêu vừa là động lực” làm cho sự phát triển
của con người và xã hội ngày càng thăng
bằng và bền vững hơn, văn hoá có tác dụng
tích cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân
cũng như toàn bộ cộng đồng. Nội lực của một
dân tộc trước hết là mọi nguồn lực tập hợp từ
vốn văn hoá truyền thống đã tích luỹ trong
lịch sử của chính dân tộc đó. Ví dụ, qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước, gần nhất là
qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế
quốc trong thế kỷ vừa rồi, ai cũng thấy rõ về
vai trò, vị trí của những nguồn lực vĩ đại như
vậy của văn hoá Việt Nam.
Về khái niệm kinh doanh:Ngày nay, kinh
doanh được hiểu là loại hình hoạt động kinh
tế đặc thù trong quá trình sản xuất, khai thác,
chế biến, buôn bán hàng hóa và dịch vụ với
chức năng cơ bản là tìm kiếm những nhu cầu
của xã hội chưa được đáp ứng và tập hợp
những nguồn lực cần thiết để đáp ứng các
nhu cầu đó. Luật Doanh nghiệp Việt Nam xác
định: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
ThS. KIềU ANH Vũ
Trưng Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Khi đặt vấn đề nghiên cứu về văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, chúng tôi băn
khoăn trước câu hỏi: Việt Nam vốn là nước có truyền thống nông nghiệp, đa phần
dân số làm nghề nông, với nền kinh tế tự túc tự cấp, trong suốt một thời kỳ lịch sử
lâu dài, người nông dân Việt Nam chỉ loanh quanh sau lũy tre làng, bản thân nghề
kinh doanh không được coi trọng trong các xã hội phong kiến Việt Nam, vậy về mặt
lý luận, văn hóa kinh doanh ở Việt Nam được hiểu như thế nào?
Theo quan điểm của chúng tôi, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
điều kiện vật chất và sinh hoạt vật chất của xã hội. Vì vậy, văn hóa kinh doanh của
một xã hội, về thực chất, là sự phản ánh thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh
của xã hội đó. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm văn hóa, kinh doanh
và văn hóa kinh doanh, qua đó làm sáng tỏ bản chất, triết lý, vai trò, sự tương tác
giữa văn hóa và văn hóa kinh doanh..
Từ khóa: văn hóa, kinh doanh, văn hóa kinh doanh, bản chất, vai trò

27
tHs. kiều anH vũ
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”1.
Còn trong quan niệm truyền thống, kinh
doanh được hiểu đơn giản là cách làm giàu
của con người trên thương trường, là hành
vi buôn bán để kiếm lợi . Tuy nhiên, dù hiểu
khái niệm này theo nghĩa truyền thống hay
hiện đại thì có một điều chắc chắn là trong
mỗi hoạt động kinh doanh tối thiểu phải có
hai nhân vật tham gia là chủ thể kinh doanh
và khách hàng - đối tượng của chủ thể kinh
doanh đó. Hai nhân vật này luôn ràng buộc,
gắn bó và quy định lẫn nhau. Khách hàng cần
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Còn chủ thể
kinh doanh lại cần khách hàng mua hàng hóa
hay dịch vụ của mình để có thể thu được lợi
nhuận, nhờ đó có thể duy trì và phát triển
công việc kinh doanh.
Về khái niệm văn hóa kinh doanh, đó là
những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt động
kinh doanh (mua bán - khâu nối liền giữa sản
xuất và tiêu dùng) một món hàng hoá (một
thương phẩm / một dịch vụ) cụ thể trong toàn
cảnh mọi mối quan hệ văn hoá - xã hội khác
nhau của nó. Đó là hai mặt mâu thuẫn (văn
hoá: giá trị >< kinh doanh: lợi nhuận) nhưng
thống nhất: giá trị văn hoá thể hiện trong hình
thức mẫu mã và chất lượng sản phẩm, trong
thông tin quảng cáo về sản phẩm, trong cửa
hàng bày bán sản phẩm, trong phong cách
giao tiếp ứng xử của ngưi bán đối với ngưi
mua, trong tâm lý và thị hiếu tiêu dùng, rộng
ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh
doanh với toàn bộ các khâu, các điều kiện
liên quan của nó... nhằm tạo ra những chất
lượng - hiệu quả kinh doanh nhất định.
2. Bản chất, vai trò và sự tương tác
giữa văn hóa và văn hóa kinh doanh
Văn hóa gắn liền với sự tồn tại của con
người. Thước đo giá trị nhân bản của con
người là văn hóa, là những hành động gắn
1 Điều 4 - Luật Doanh nghiệp Việt Nam, năm 2005
liền với chân, thiện, mỹ. Theo nghĩa đó, một
hoạt động của con người được đánh giá là
có hàm lượng văn hóa cao khi nó gắn bó với
những giá trị chân, thiện, mỹ (tất nhiên những
chuẩn mực của chân, thiện, mỹ có tính chủ
quan, việc xem xét những giá trị đó phải căn
cứ vào hoàn cảnh cụ thể; song, bao giờ nó
cũng có những chuẩn mực chung nhất trong
từng xã hội và chuẩn mực mang tính phổ quát
đối với toàn nhân loại). Nói cách khác, những
hoạt động nào càng hướng đến cái đúng, cái
tốt, cái đẹp đem lại những giá trị tích cực cho
cộng đồng thì hoạt động đó càng biểu hiện rõ
tính nhân bản, tính văn hóa.
Khi kết hợp những giá trị văn hóa vào trong
hoạt động kinh doanh sẽ làm cho cái lợi gắn bó
với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Bản chất của hoạt
động kinh doanh là để kiếm lợi. Tuy nhiên,
kinh doanh như thế nào để cái lợi gắn liền với
cái thiện, cái tốt, cái đẹp thì đó là vấn đề thuộc
về văn hóa kinh doanh. Từ đó, có thể hiểu văn
hóa kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền
văn hóa chung của một dân tộc, phản ánh hoạt
động kinh doanh và mức độ gắn kết giữa cái
lợi với những giá trị chân - thiện - mỹ của con
ngưi trong từng giai đoạn lịch sử.
Bản chất của văn hóa kinh doanh là sự gắn
kết giữa cái lợi mà con người đạt được trong
quá trình kinh doanh với cái chân - thiện - mỹ
là những giá trị mang tính nhân bản cao quý
của con người (tức là hành vi kiếm lợi dựa trên
cơ sở của những giá trị mang tính nhân văn).
Văn hóa kinh doanh của một cộng đồng, dân
tộc phụ thuộc vào thực tiễn hoạt động kinh
doanh và hoàn cảnh kinh tế, văn hóa - xã hội
cụ thể. Vì vậy, mức độ đậm nhạt của văn hóa
kinh doanh thể hiện khác nhau trong từng xã
hội, tùy theo tính chất của các hoạt động kinh
doanh và tâm lý xã hội của từng cộng đồng,
dân tộc đối với hoạt động kinh doanh. Theo
đó, có thể khẳng định, văn hóa kinh doanh Việt
Nam đã được hình thành từ lâu đời và phát
triển theo sự phát triển của xã hội, của thực
tiễn hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
28
Kinh doanh không chỉ gói gọn trong khâu
lưu thông, phân phối các chiến lược “thâm
nhập thị trường” của các doanh nghiệp đối
với các sản phẩm của mình mà nó còn phải
bao quát các khâu có quan hệ hữu cơ nhau
tính từ sản xuất cho tới cả tiêu dùng. Có nghĩa
rằng, xây dựng nền văn hoá kinh doanh là
một việc làm có tính thực tế mà mục tiêu cụ
thể là nhằm làm cho toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh, tức yếu tố đóng vai trò rất
quyết định đối với nền sản xuất của đất nước
trở nên ngày càng mang tính văn hoá cao thể
hiện trên cả ba mặt:
1) Văn hoá doanh nhân: Văn hoá thể hiện
hết ở đội ngũ những con người (gồm cả các
cá nhân và các tập thể) tham gia sản xuất kinh
doanh chủ yếu thể hiện ở trình độ khoa học
kỹ thuật, công nghệ và vốn tri thức tổng hợp,
ở kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng, phương
pháp tác nghiệp, ở năng lực tổ chức sản xuất
kinh doanh và sự nhạy bén với thị trường,
ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm hạnh làm
người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ về
chính trị - xã hội v.v…
2) Văn hoá thương trường: Văn hoá thể
hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp
chế, các chính sách chế độ, trong mọi hình
thức hoạt động liên quan quá trình sản xuất
kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh v.v… tất
cả nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh
thuận lợi tốt đẹp…
3) Văn hoá doanh nghiệp: Văn hoá tập
trung và tỏa sáng trong các thiết chế, các đơn
vị tổ chức sản xuất kinh doanh thể hiện qua
những biểu trưng (symbol) chung thuộc về
hình thức (logo, đồng phục…) cùng các yếu
tố tạo nên thương hiệu của doanh nghiệp, qua
năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản
xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm
và những thành tích, truyền thống, qua phong
cách giao tiếp, ứng xử thống nhất của toàn
đơn vị (đối với nội bộ, đối với khách hàng)
trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh v.v...
Xây dựng nền văn hoá kinh doanh vì vậy
về thực chất chính là việc thực hiện các điều
kiện khách quan, chủ quan trên cơ sở phát
huy các nhân tố tích cực, tự giác nhằm đẩy
nhanh quá trình văn hoá hoá trong toàn bộ
mọi yếu tố cấu thành nền sản xuất kinh doanh
của đất nước, trước hết tập trung lấy phát triển
văn hoá doanh nghiệp làm điểm tựa đầu tiên.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, theo cách
thức đó chúng ta có thể tạo ra quá trình tích
hợp và phát huy mạnh mẽ những giá trị vốn
có trong nền văn hoá truyền thống của dân
tộc (thí dụ những truyền thống yêu nước và
thương người, đoàn kết cộng đồng và trong
tín nghĩa, cần cù, năng động và linh hoạt
v.v…) kết hợp với các thành tựu văn hoá thế
giới (thí dụ về nếp tư duy, phong cách và trình
độ khoa học kỹ thuật công nghệ, về phương
pháp, năng lực tổ chức quản lý kinh tế - xã
hội trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp
hoá - hiện đại hoá v.v…)… nhằm làm cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta sẽ ngày càng được trật
tự, lành mạnh và đạt hiệu quả cao hơn, hướng
đến những mục tiêu kinh tế - xã hội toàn diện,
bền vững lâu dài của đất nước đồng thời vừa
có thể đem lại những lợi ích thiết thực ngay
trước mắt cho các doanh nghiệp. Cụ thể hơn,
xây dựng văn hoá doanh nghiệp để góp phần
vào chiến lược phát triển văn hoá kinh doanh
Việt Nam hiện nay không thể khác đó là việc
nâng cao bản lĩnh, trình độ đội ngũ doanh
nhân theo hướng ngày càng “chuyên nghiệp
hoá” nhiều hơn, trước hết ở cung cách, khả
năng sử dụng tốt các phương tiện, các thành
tựu khoa học kỹ thuật trong lao động, tổ chức
sản xuất, năng lực cạnh tranh và hội nhập với
thị trường (nội địa lẫn quốc tế), trong giao
tiếp với khách hàng, tuyên truyền quảng bá
thương hiệu, giới thiệu và bán sản phẩm…
Bên cạnh đó việc nâng cao năng lực và điều
kiện, biện pháp để chăm lo đội ngũ (cả về đời
sống văn hoá cá nhân lẫn đời sống văn hoá
tập thể), không ngừng tăng cường cơ sở vật
chất - kỹ thuật cùng một nề nếp, kỷ cương

29
tHs. kiều anH vũ
hoạt động theo phong cách công nghiệp, hiện
đại dựa trên nền tảng phát huy tốt những giá
trị văn hoá truyền thống (đạo lý, nghĩa tình…)
kết hợp xây dựng bản chất tiên tiến của giai
cấp công nhân (kỹ thuật, khoa học…) cho
mọi lực lượng lao động vì mục tiêu xây dựng
hệ thống doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh
toàn diện cả về chuyên môn lẫn tư tưởng, tổ
chức v.v… tất cả đều là những công việc có ý
nghĩa rất chiến lược.
Toàn bộ nội dung nói trên không những
nhằm mục đích tạo ra nguồn nội lực vững
chắc cho việc liên tục nâng cao chất lượng
sản phẩm hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thương trường mà hơn nữa, đó
là điều kiện quyết định để có thể huy động
cao nhất các nhân tố chủ quan, khách quan
khác nhau đối với việc tập trung xây dựng
thương hiệu của bản thân từng sản phẩm,
từng doanh nghiệp (cả dân doanh lẫn nhà
nước), góp phần xây dựng hệ thống thương
hiệu Việt Nam nói chung. Mục tiêu cuối cùng
chính là vì một hiệu quả kinh doanh bền vững
dựa trên cơ sở chất lượng sản phẩm và trình
độ phục vụ vừa thoả mãn được nhu cầu, thị
hiếu của khách hàng để “vui lòng khách đến
vừa lòng khách đi” đồng thời vừa đáp ứng tốt
các yêu cầu của xã hội (về kinh tế, văn hoá,
chính trị, xã hội…) Cụ thể là, lợi nhuận thu
được qua việc “làm ăn, mua bán” trong mọi
quá trình sản xuất kinh doanh phải là những
“đồng tiền sạch” với nghĩa là lãi suất đó phải
đặt lợi ích con người và xã hội lên trên hết,
không thể chấp nhận quan điểm “lợi nhuận
bất cứ giá nào”, kể cả triệt để chống tình trạng
hàng gian, hàng giả, hàng lậu, trốn thuế v.v..
Nói cách khác, việc tiêu thụ được sản phẩm,
tăng lợi nhuận, đảm bảo khả năng tái sản xuất
mở rộng trong kinh doanh không những chỉ
dựa trên cơ sở thiết lập mối quan hệ “Vốn -
Thị trưng - Khách hàng” mà còn phải là sự
giải quyết hài hoà (không có mâu thuẫn) giữa
các lợi ích (của doanh nghiệp, của người tiêu
dùng, của toàn xã hội) cả trước mắt lẫn trong
hướng lâu dài. Tác dụng tích cực nhất của
toàn bộ vấn đề chính là nhằm tạo ra những
“chất xúc tác” đồng thời vừa là “chất keo” để
gắn kết mọi nguồn lực, mọi lực lượng trên cơ
sở phát huy tính chủ thể (cơ chế tự quản, tự
chủ) của từng cá nhân , đơn vị tham gia sản
xuất kinh doanh trong quá trình thực hiện các
quy chế, các biện pháp tổ chức, các luật lệ,
chính sách của nhà nước để trước mắt (trực
tiếp) là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc
phát huy năng lực, trình độ làm chủ thị trường
của các doanh nghiệp chính là vì sự phát triển
bền vững của hiệu quả kinh doanh thương
phẩm /dịch vụ, gây dựng thương hiệu và góp
phần xây dựng thương trường, xây dựng nền
văn hoá kinh doanh Việt Nam nói chung.
Sản xuất kinh doanh nói riêng, xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội nước ta nói chung
đang ở bối cảnh cạnh tranh thị trường (trong
nước, thế giới) ngày càng gay gắt và quá trình
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhưng
cũng hết sứcphức tạp. Lộ trình hội nhập với
AFTA chẳng hạn, đâu phải chỉ góp phần xây
dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN mà
thực chất còn là chúng ta đang và sẽ từng
bước thực hiện quá trình “khu vực hoá” một
khu vực văn hoá - lịch sử từng có mối quan
hệ đặc biệt trong quá khứ và hứa hẹn nhiều
triển vọng lớn lao trong tương lai trên nhiều
mặt… Xây dựng nền văn hóa kinh doanh
Việt Nam không dừng lại chỉ vì chúng ta cần
một “triết lý” hoặc một “đạo lý” trong kinh
doanh mà hơn nữa, đây là việc xây dựng một
“trường phái kinh doanh Việt Nam”, việc làm
cần thiết và có ý nghĩa chiến lược trong tiến
trình hội nhập đặc biệt như vậy. Một thương
trường luôn phát triển có trật tự, kỷ cương,
có “ý thức tự giác” đầy đủ, cùng một đội ngũ
đông đảo doanh nhân có trình độ, phẩm chất
văn hoá tương ứng (với những yêu cầu như
đã nêu ở trên, với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa…) thông qua một hệ
thống doanh nghiệp các loại luôn lấp lánh toả
sáng những giá trị văn hoá dân tộc nhân loại-
thời đại với chất lượng - hiệu quả cao trong
mọi hoạt động. Đó chính là một trong những

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
30
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế
đất nước gắn với các chiến lược xây dựng văn
hoá - xã hội giai đoạn hiện nay. Công việc ấy
hoàn toàn phù hợp với đất nước này, một đất
nước từng có “ngàn năm văn hiến” đồng thời
nó cũng hoàn toàn phù hợp với những yêu
cầu của thời đại, với xã hội thông tin và nền
kinh tế tri thức… đặc biệt là phù hợp với các
mục tiêu, phương hướng chiến lược đã xác
định của Đảng, Nhà nước ta hiện nay: “Xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” trong quá
trình tiếp tục thực hiện “đổi mới”, “mở cửa”,
“đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” và “phát triển kinh tế thị trưng định
hướng xã hội chủ nghĩa” tất cả nhằm mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
3. Tính tất yếu của văn hóa kinh doanh
Văn hóa luôn là môi trường tinh thần của
cuộc sống trong bất cứ cộng đồng xã hội nào.
Văn hóa kinh doanh cũng vậy, càng ngày xã
hội càng nhận thức được vai trò quan trọng
của nó trong đời sống, đặc biệt là trong hoạt
động kinh doanh. Tuy nhiên, khi nói đến văn
hóa kinh doanh, người ta vẫn có nhiều cách
hiểu rất khác nhau. Có quan điểm cho rằng:
Nói đến kinh doanh là nói đến những hoạt
động thu lợi nhuận mà để có lợi nhuận, con
người thường có xu hướng xâm hại đến lợi ích
của người khác. Còn nói đến văn hóa là nói
đến cái tốt, cái đúng, nói đến đạo đức, thẩm
mỹ và những gì tốt đẹp nhất. Cho nên cần
phải làm thế nào đó để đưa nhân tố văn hóa
vào kinh doanh để làm cho hoạt động kinh
doanh lành mạnh hơn và ngược lại, đưa các
nhân tố kinh doanh vào văn hóa mà không
làm tổn hại đến văn hóa. Cách hiểu như vậy
đưa đến một kết luận là muốn cho hoạt động
kinh doanh lành mạnh thì phải đưa các yếu tố
văn hóa vào đời sống kinh doanh. Điều đó có
nghĩa là, phải xây dựng văn hóa kinh doanh.
Chính vì thế mà trong xã hội đang xuất hiện
phong trào xây dựng văn hóa doanh nhân,
văn hóa doanh nghiệp, với mục đích là dùng
yếu tố văn hóa để gia tăng giá trị thẩm mỹ và
đạo đức cho cộng đồng kinh doanh.
Văn hóa kinh doanh cũng như văn hóa
nói chung, là một tất yếu. Bởi vì kinh doanh
là một hoạt động bản năng của con người,
là quá trình diễn ra liên tục trong đời sống
con người. Những gì lắng đọng lại sau các
chuỗi hành vi liên tục ấy chính là văn hóa
kinh doanh. Trong kinh doanh luôn có mặt
yếu tố văn hóa, chúng luôn đan xen và có tác
động qua lại lẫn nhau. Vấn đề là phải nhận
biết được văn hóa kinh doanh mà chúng ta
đang có như thế nào. Văn hóa kinh doanh ấy
lạc hậu hay tiên tiến? Văn hóa ấy có khả năng
thúc đẩy một cách tích cực sự phát triển của
hoạt động kinh doanh hay sự phát triển của
nền kinh tế không? Văn hóa kinh doanh ấy
có khuyết tật gì làm cản trở sự phát triển của
cộng đồng kinh doanh không?
Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự
tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng
đồng, một dân tộc, do đó văn hoá chính là
cuộc sống. Quá trình hình thành văn hóa là
một quá trình tự nhiên và khách quan. Văn
hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và chấp
nhận sự bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo
ra cuộc sống, nói cách khác, nếu không có
sự chấp nhận lẫn nhau và bình đẳng giữa các
thành tố cấu tạo ra cuộc sống thì không có
văn hoá lành mạnh. Trong quá trình đi đến sự
chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự
đấu tranh bình đẳng của các thành tố. Yếu tố
đảm bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh
và hoà hợp giữa các yếu tố của cuộc sống
không gì khác chính là tự do. Tự do đem lại
cho con người sự phong phú về nhận thức và
đến lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ
tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Trong một
môi trường có sự bình đẳng giữa các khuynh
hướng, con người được tự do nhận thức và đi
đến thoả thuận. Trạng thái tự do sẽ là động
lực cho sự sáng tạo của con người và chính