
167
1. Kinh doanh là một hoạt động cơ bản
của xã hội loài người xuất hiện và đồng hành
cùng với kinh tế hàng hóa và thị trường.
Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện một tầng lớp
những người làm nghề kinh doanh (doanh
nhân). Nếu ta xem xét dưới góc độ công nghệ
- kỹ thuật thì hoạt động kinh doanh bao gồm
nhiều công đoạn trong một quá trình: đầu tư,
sản xuất, marketing, dịch vụ bảo hành; mục
đích cuối cùng của kinh doanh với tư cách là
một nghề là đạt được, đem lại lợi nhuận cho
chủ thể kinh doanh. Xã hội kinh doanh cần
cho cuộc sống cũng như cuộc sống cần kinh
doanh; kinh doanh là một nghề chính đáng
xuất phát từ nhu cầu cầu phát triển của xã hội,
do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn
đề kinh doanh như thế nào, đem lại lợi ích
cho ai? Đó chính là vấn đề của văn hóa kinh
doanh “kinh doanh l việc thực hiện một, một
số hoặc tất cả các công đon của quá trình
đầu tư từ sản xuất đn tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng các dịch vụ trên thị trưng nhằm
mục đích sinh lợi1”. Đối với chủ thể kinh
tế thì văn hóa tồn tại tiềm ẩn trong họ như
một hệ giá trị, nguồn lực. Để khơi dậy, phát
huy vai trò của các giá trị văn hóa trong hoạt
động kinh doanh cần có thời gian, môi trường
cũng như sự tác động phù hợp. Bên cạnh đó,
cần nhìn nhận văn hóa kinh doanh là một bộ
phận, cái đặc thù so với văn hóa chung của
dân tộc, do vậy cần tránh đồng nhất văn hóa
kinh doanh với văn hóa dân tộc, cũng như
phân biệt một cách rõ rang các đặc trưng văn
hóa mà các chủ thể kinh tế khác nhau tạo ra.
Có thể hiểu: “Văn hóa kinh doanh l việc
sử dụng các nhân tố văn hóa vo trong hot
động kinh doanh của chủ thể, l văn hóa m
các chủ thể kinh doanh to ra trong quá trình
kinh doanh, hình thnh nên kiểu kinh doanh
ổn định v đặc thù của h2”.
1. Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, HN,
1999, tr 7.
2 . Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nxb
Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr 71.
TM TT
Hi nhp kinh t quc t đ, đang, sẽ l mt xu hưng ln m bt kỳ mt quc
gia no trên con đưng pht triển đu phi tri qua. Trong qu trnh đ vic để tồn
tại v pht triển cc doanh nghip cần tạo dng cho đơn v mnh mt mô hnh văn
ha kinh doanh phù hp nhằm ti ưu ha li nhun. Xây dng văn ha kinh doanh
l mục tiêu nhưng lại l thch thức ln đi vi hầu ht cc doanh nghip, doanh
nhân Vit Nam trong bi cnh ton cầu ho. Hơn lc no ht, chng ta cần nhn
thức rõ nhng hạn ch, bt cp trong văn ha kinh doanh trong gii doanh nghip
Vit Nam, t đ tm ra hưng đi cho doanh nghip, doanh nhân để c thể pht huy
vai tr tích cc, ch đng ca lc lưng ny trong hi nhp, lm nn tng cho s pht
triển bn vng nn kinh t đt nưc trong thi gian ti.
T kha: Văn ha kinh doanh, kinh t th trưng, hi nhp, thch thc, doanh nghip
NgUyễN DUy QUý
XÂY DỰNG VĂN HA KINH DOANH Ở VIỆT NAM
THI KỲ HI NHP, NHỮNG VẤN Đ ĐĂT RA
NgUyễN DUy QUý
Trưng Đi hc Sư phm, Đi hc Đ Nng

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
168
2. Ngày nay, vai trò của các nhân tố văn
hóa trong hoạt động kinh doanh ngày càng
lớn, hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn trong
chiến lược phát triển của đơn vị đều quan
tâm đến. Có thể thấy, văn hóa kinh doanh là
nguồn lực quan trọng, một dạng tài sản vô
hình và là cách thức phát triển bền vững đối
với các chủ thể kinh tế. Chúng ta nhận thấy
rằng, giữa văn hóa và kinh tế có sự tương tác
với nhau, không thể có văn hóa suy đồi mà
kinh tế lại phát triển cao. Văn hóa bao giờ
cũng là động lực quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế, bên cạnh đó, kinh tế phát triển là
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của văn
hóa, xã hội. Nói cách khác, văn hóa và kinh tế
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong
đó, kinh tế đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt tối
thiểu của con người, sau đó là đảm bảo điều
kiện cho văn hóa phát triển, kinh tế khó có
thể phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, văn
hóa không chỉ phản ánh hoạt động kinh tế mà
còn là yếu tố tác động đến hoạt đọng này. Với
mối quan hệ như vậy, sự phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu
quả, có tốc độ cao, chỉ có được khi quốc gia
đó đạt được sự phát triển hài hòa giữa kinh tế
và văn hóa. Thực tế cho thấy hiện nay trong
hoạt động kinh doanh đang tồn tại hai hình
thức kinh doanh: kinh doanh có văn hóa và
kinh doanh không (vô, phi) văn hóa.
Kinh doanh có văn hóa là lối kinh doanh
có mục đích và theo phương thức cùng đạt
đến cái lợi ích, cái thiện và cái đẹp, trong thực
tế có nhiều nhà kinh doanh đã dung tài sản
của mình để làm từ thiện, lập các quỹ phát
triển văn hóa, khoa học, công nghệ…quỹ Bill
& Melinda Gates; quỹ Ford….
Trái lại, lối kinh doanh vô văn hóa sẵn
sàng chà đạp lên mọi giá trị và khồng từ bất
kỳ thủ đoạn nào để kiềm lời. “Với một lợi
nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm.
Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì
ngưi ta có thể dung tư bản vo đâu cũng
được; được 20 phần trăm thì nó hot bát hẳn
lên; được 50 phần tram thì nó trở nên thật sự
táo bo; được 100 phần trăm thì nó ch đp
lên mi luật lệ của loi ngưi; được 300 phần
trăm thì không còn tội ác no l nó không
dám phm3”. Có thể thấy, những lời nhận xét
nói trên không chỉ đúng với những nhà tư bản
thời kỳ đầu của xã hội cộng nghiệp mà còn rất
chuẩn xác với nhiều trường hợp, nhiều chủ
thể kinh doanh ngày nay.
Thực tế cho thấy, hiện nay chỉ có kinh
doanh một cách có văn hóa mới đạt được hiệu
quả cao và sự phát triển bền vững của các chủ
thể kinh tế. Đây cũng được xem là phương
thức kinh doanh của tương lai, bởi vì khi hoạt
động kinh doanh ngày càng phát triển, trong
thời đại công nghệ thông tin, khách hàng ngày
càng được tiếp cận nhiều hơn các thông tin
xác thực về nhà kinh doanh, doanh nghiệp,
và đặc biệt là các thông số về sản phẩm thì
lối kinh doanh vô văn hóa sẽ mất dần không
gian tồn tại.
Các nhân tố văn hóa đã, đang tác động
tích cực tới hoạt động kinh doanh, mặt khác
kinh doanh phát triển bền vững cũng có sự tác
động trở lại cổ vũ cho hoạt động văn hóa phát
triển. Dễ dàng nhận thấy điều đó qua việc
mua bản quyền truyền hình của các chương
trình ăn khách hiện nay, hoặc qua giá trị của
các thương hiệu hàng đầu. Mặt khác, hiện nay
nhiều loại hình văn hóa, thể thao đang nhận
được nhiều nguồn tài trợ của các tập đoàn,
doanh nghiệp thành đạt. Chính những chủ
thể kinh doanh khi quyết định tài trợ cho sự
phát triển văn hóa đều đã nhận thức được vài
trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã
hội nói chung, với kinh tế và kinh doanh nói
riêng; họ hiểu rằng kinh doanh cần dựa vào
văn hóa và hướng tới các mục tiêu có tính
văn hóa, mục tiêu nhân văn và phát triển bền
vững.
3. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, có không ít doanh nghiệp Việt Nam
đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh
mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các
3. C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, HN, 1993, t,23, tr1056.

169
doanh nghiệp này đã và đang coi trọng đúng
mức việc xây dựng văn hóa kinh doanh cho
đơn vị mình. Tuy nhiên, hiện còn không ít
doanh nhân, doanh nghiệp chưa nhận thức
được vai trò, động lực của văn hóa kinh doanh
trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh
đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu cực
đến năng lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Có thể chỉ ra
một số bất cập trong quá trình xây dựng văn
hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay.
3.1. Trong làm ăn doanh nghiệp nước ta
còn xem nhẹ chữ “Tín”. “Một lần bất tín- vạn
lần bất tin”, là bài học cho bất cứ ai muốn trở
thành một doanh nhân thành đạt. Trong thời
khắc khó khăn hiện nay của doanh nghiệp nó
không chỉ biểu hiện cho triết lý kinh doanh
bền vững mà xa hơn còn là nhân cách của
người làm nghề doanh nhân. Kinh doanh
phải biết giữ chữ “tín”, đó chính là biểu hiện
VHKD được hình thành từ khi thị trường
hình thành, khẳng định được thương hiệu của
doanh nghiệp. Giữa các doanh nghiệp, giữ
chữ “tín” chính là thực hiện đúng những cam
kết chính là Hợp đồng kinh tế, nó bao gồm
nhiều điều khoản mà quan trọng nhất (với
doanh nghiệp thực hiện) là giá cả, số lượng,
chất lượng và thời hạn giao hàng. Do chịu
ảnh hưởng của nền kinh tế tiểu nông nhiều
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đề cao
chữ “tín”. Theo nhiều doanh nghiệp, nhà kinh
doanh nước ngoài, các doanh nhân Việt Nam
không coi trọng chữ tín, thường viện dẫn các
lý do khách quan để khước từ việc thực hiện
cam kết đã ghi trong hợp đồng, gây nhiều
phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước
ngoài. Thậm chí, bản thân các chủ thể kinh
doanh người Việt chưa tin người Việt. Nếu
có chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các
công ty ngoại quốc, nhất là của các nước Âu,
Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho
các cơ sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi
mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường
Việt Nam cho các cơ sở kinh tế của châu Âu,
Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng, hàng
không… ồ ạt vào kinh doanh tại Việt Nam
trong thời gian tới đây.
3.2. Thiếu minh bạch, nặng về “quan hệ”,
“dựa dẫm”, chạy chọt. Một thực tế, ở nước ta,
đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng
cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại
vào sự bảo hộ của Nhà nước vẫn tồn tại khá
phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời
gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân
vật quan trọng của đối tác, coi các mối quan
hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể
hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm
quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc
bán. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào
mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào thực lực
kinh doanh. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng
như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng lực
của chủ thể kinh tế. Những cái lợi mà việc
thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất
nhiều so với cái cực nhọc phải đầu tư để đổi
mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đa phần các nhà kinh doanh dường như hiển
nhiên công nhận mối quan hệ tốt hay xấu có
tính chất quyết định tới sự thành bại trong
làm ăn. Họ cho rằng, nếu “thân quen” được
với sếp của đối tác thì về cơ bản là đã thành
công, lúc này thì mọi trở ngại về chất lượng
sản phẩm, dịch vụ, thậm chí giá cả cũng chỉ
là chuyện “nhỏ”. Cám dỗ về đặc quyền, đặc
lợi, dựa dẫm đang là lực cản rất lớn. Cuộc
đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và làm
trong sạch bộ máy công quyền sẽ là một trong
những yếu tố có tính quyết định trong việc
xóa bỏ tình trạng đi cửa sau và phục hồi luật
chơi minh bạch trên thương trường.
3.3. Các doanh nghiệp nước ta còn thiếu
tính liên kết trong việc làm ăn, kinh doanh.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài
có sức mạnh và tiềm lực lớn về vốn, kinh
nghiệm quản lý, lại hơn chúng ta cả trăm năm
kinh nghiệm mà doanh nghiệp Việt Nam lại
vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh
chưa cao thì chúng ta rất cần đến sự liên kết,
đoàn kết, sự chia sẻ. Nhưng một thực tế, hiện
nay không ít doanh nghiệp lại không cởi mở,
NgUyễN DUy QUý

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
170
liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi
xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau.
Hệ quả là không những không nâng cao được
sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh
mua, tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau.
Trên thực tế, vấn đề liên kết doanh nghiệp đã
được đặt ra rất nhiều lần ở tất cả các hiệp hội,
ngành nghề. Tuy nhiên, những nhà điều hành,
cơ quan có thẩm quyền cũng “bó tay” trước
thói quen cố hữu của rất nhiều doanh nghiệp
là “mạnh ai nấy làm”; “thân ai nấy lo”. Xét
về khía cạnh liên kết, hợp tác của các doanh
nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh
để cùng phát triển và theo nguyên tắc cùng
có lợi, tính cộng đồng của doanh nhân Việt
Nam còn quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện
ở ngay trong phạm vi một ngành nghề, một
địa phương và rộng hơn là trong phạm vi cả
nước. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nước
ta chưa có thói quen trọng luật pháp quốc tế,
am hiểu về đối tác, kết quả là doanh nhân,
doanh nghiệp Việt Nam dễ bị thua thiệt khi
làm ăn với các đối tác nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém
thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế
do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo
lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện
chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn
đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước
đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm
cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình
để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối
phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giật quyền lợi
riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến
cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không
có khả năng tổ chức sản xuất và kinh doanh
ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu thị trường.
Trái với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam,
nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào làm
ăn tại thị trường Việt Nam đã biết kết hợp với
các doanh nghiệp trong nước để thâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường. Có thể kể đến như
trường hợp Hãng Pepsi kết hợp với Kinh Đô;
các hãng điện tử như Samsung, LG, Toshiba
kết hợp với hệ thống siêu thị Nguyễn Kim…
Tại sân nhà, rất nhiều sản phẩm của chúng
ta đang bị áp đảo và phải cạnh tranh gay gắt
trước sức mạnh liên kết của các công ty, tập
đoàn nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay,
hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước
ngoài là một cách tốt để doanh nghiệp tồn tại
và nâng cao khả năng cạnh tranh.
3.4. Cách thức sản xuất – kinh doanh của
các doanh nghiệp nước ta còn thể hiện sự
thiếu tầm nhìn, tư duy ngắn hạn. Xuất thân
từ nền kinh tế tiểu nông với lối làm ăn nhỏ
lẻ, manh mún con người Việt Nam thường
có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và
muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi
kết quả lâu dài. Bên cạnh đó, xuất phát điểm
từ trình độ công nghệ và văn minh thấp cộng
với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, vẫn nặng
tính tự cung tự cấp, tính thương mại và thị
trường còn yếu. Do ảnh hưởng bởi tư duy
ngắn hạn nên các doanh nghiệp nước ta chưa
quan tâm đúng mức vào chất lượng của sản
phẩm, dẫn đến tình trạng chất lượng hàng nội
thường thấp, tính cạnh tranh không cao trước
những sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Vì
vậy, thói quen sính đồ ngoài ngày càng phát
triển gây nen nhiều bất lợi cho các nhà sản
xuất trong nước. Mặt khác, các doanh nghiệp
nước ta hiện đang thiếu chiến lược kinh
doanh dài hạn, nóng vội muốn đạt thành công
nhanh chóng, vì không có tầm nhìn dài hạn
nên các doanh nhân Việt Nam thường không
xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch
đầu tư thích hợp. Những năm vừa qua xã hội
ghi nhận nhiều trường hợp các chủ thể kinh
tế nước ta chạy theo xu hướng “ăn xổi”, đầu
tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên
môn, thế mạnh của mình. Trong khi các nhà
đầu tư nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu
tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam
thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại
đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư
mang tính đầu cơ ngắn hạn như kinh doanh
bất động sản, chứng khoán… mà quên đi các
lĩnh vực kinh doanh cốt lõi. Hậu quả là có quá

171
nhiều vốn đổ vào những lĩnh vực nói trên, khi
thị trường bất động sản, chứng khoán “hạ
nhiệt” thì khả năng quay vòng vốn gặp nhiều
khó khăn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
của các doanh nghiệp.
3.5. Các chủ thể kinh tế ở nước ta thường
có thói quen thích quy mô lớn, coi trọng
những cái đồ sộ, mà xem nhẹ triết lý sản xuất
“cái nhỏ là cái đẹp”, thiếu truyền thống đầu tư
sản xuất theo chiều sâu và cách thức phát triển
bền vững. Mặt khác, cơ chế quản lý vĩ mô nền
kinh tế còn phức tạp, với bộ máy cồng kềnh,
thủ tục hành chính rườm rà với nhiều giấy tờ
cũng đã góp phần kìm hãm sự phát triển kinh
doanh của doanh nghiệp nước ta trong thời kỳ
hội nhập. Bên cạnh đó, với lối quản lý “nặng
tình nhẹ luật” dẫn đến thói chủ quan, cảm tính
và tệ nạn tham nhũng cũng đã góp phần kéo
lùi sự phát triển của xã hội nói chung và của
các doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
4. Văn hóa kinh doanh ngày càng đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển ổn
định, bền vững của mỗi chủ thể kinh tế. Nếu
thiếu nó, doanh nghiệp khó thể tồn tại và phát
triển được trong bối cảnh khó khăn của nền
kinh tế hiện nay. Từ thực tiễn những bất cập
nói trên chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp dành cho doanh nghiệp Việt Nam
trong quá trình xây dựng văn hóa kinh doanh
trong thời kỳ hội nhập.
4.1. Trước hết, để xây dựng nền tảng văn
hóa kinh doanh vững mạnh cần thiết phải chú
trọng xây dựng văn hóa doanh nhân. Doanh
nhân là một nghề, xã hội ghi nhận vai trò của
lực lượng này đối với sự phát triển, họ cũng
là những nhà quản lý, nhà điều hành doanh
nghiệp, do đó, xây dựng văn hóa doanh nhân
có thể coi là nền tảng để xây dựng văn hóa
kinh doanh. Doanh nhân có văn hóa phải là
người làm giàu bằng tri thức, bằng trí tuệ
thực sự của mình. Họ luôn xác lập rõ mục
tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh của doanh nghiệp và
hoạch định các chiến lược phát triển một cách
bài bản chính xác, sử dụng các nguồn lực một
cách hiệu quả thực hiện các mục tiêu để dẫn
dắt doanh nghiệp đi đến thành công. Họ luôn
khiến cho toàn thể nhân viên của mình nhận
thấy rằng con đường doanh nghiệp họ đang
đi sẽ dẫn đến một tương lai đầy tươi sáng. Ở
đó tất cả những đóng góp, nỗ lực lao động và
sự sáng tạo sẽ có được thành quả xứng đáng
được công ty đãi ngộ và trân trọng, được xã
hội ghi nhận và tôn vinh. Họ biết cách tạo ra
một môi trường lành mạnh với những nguyên
tắc ứng xử đầy tính khoa học và nhân văn để
khích lệ sự cống hiến trên nền tảng giá trị và
niềm tin mãnh liệt của người lao động đối với
đơn vị.
Thách thức lớn nhất đối với doanh nhân
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đó là tầm nhìn và ý thức hội nhập
chứ không phải là vốn hay công nghệ. Thiếu
vốn có thể vay được, thiếu công nghệ có thể
mua nhưng thiếu tầm nhìn, thiếu ý thức thì
rất khó cạnh tranh và thành công trên trường
kinh doanh quốc tế. Điều kiện quyết định để
giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh,
hội nhập kinh tế quốc tế chính là nâng cao
tư duy và tầm nhìn của mỗi doanh nhân. Khi
có một tầm nhìn đủ rộng, đủ xa và thực hiện
bằng cái đạo kinh doanh, nghĩa là dùng sản
phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình
như là phương tiện để giải quyết các vấn đề
của xã hội, doanh nghiệp Việt Nam ắt hẳn sẽ
có một vị thế xứng đáng trong cuộc đua tranh
toàn cầu.
4.2. Để xây dựng được văn hóa kinh doanh
đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế nhất thiết
Việt Nam cần cải thiện hơn nữa môi trường
kinh doanh. Nền kinh tế hội nhập chỉ thành
công khi doanh nghiệp, doanh nhân được giải
phóng, được tập trung trí tuệ của mình cho tư
duy sáng tạo, cho việc tìm và nắm bắt cơ hội,
cho sự thành công của sự nghiệp kinh doanh.
Để doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam hội
nhập kinh tế thành công, chúng ta phải xây
dựng môi trường kinh doanh minh bạch, hạn
chế nảy sinh tiêu cực; phải có một hệ thống
pháp luật đủ mạnh và có tính khả thi cao và
quan trọng đó là thực hiện hiệu quả hơn nữa
NgUyễN DUy QUý