39
Pgs,ts nguyễn Hồng sơn
1. Nhận thức mới từ góc nhìn văn hoá
học.
Đã có rất nhiều định nghĩa về vấn đề này
. Riêng định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp,
văn hóa kinh doanh cũng trên 300 định
nghĩa dưới nhiều cách tiếp cận không như
nhau. Với cách tiếp cận theo quan điểm mác-
xít quan niệm hiện đại ta thể hiểu văn
hóa kinh doanh khái niệm chỉ sự phát triển
những năng lực bản chất của các doanh nhân
ngưi lao động hướng tới những giátrị
chân, thiện, mỹ. Đây định nghĩa nói lên
bản chất đích thực của văn hóa kinh doanh ,
bởi vì khi nói đến văn hóa nói chung hay văn
hóa kinh doanh không thể tách rời chủ thể của
con người nói chung hay doanh nhân
nói riêng, cũng như tách rời sự phát triển, nếu
tách rời hai khía cạnh nêu trên thì sẽ không
hiểu được bản chất của văn hóa. Không phải
ngẫu nhiên khi xác định bản chất vai trò
của văn hoá, Đảng ta đã xác định: “Văn hoá
nền tảng tinh thần của hội, mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước”. Văn
hóa toàn bộ những giá trị vật chất tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử của chính mình, nó là “thiên nhiên thứ
hai” được “nhân hóa” qua thực tiễn bởi con
người, yếu tố nội sinh của sự phát triển. T
tuệ, lao động sáng tạo, phát minh khoa học,
tình thương - nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa,
nhân đạo; năng lực thẩm mỹ đã tạo thành cái
năng lực bản chất ấy. Từ sự tiếp cận như thế,
nội hàm của văn hóa kinh doanh ít ra bao gồm
các khía cạnh chủ yếu sau đây:
1.1. Minh triết kinh doanh
Triết kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường theo duy luôn luôn nhấn mạnh
đến các quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật tích tụ bản, quy luật giá trị thặng
dư… sự nhận thức vận dụng các quy luật
ấy thường lấy lợi nhuận làm thước đo cao nhất
duy nhất không tính đến chất lượng
sống của những doanh nhân, sự tha hóa con
người trong nền kinh tế thị trường cũng như
môi trường sinh thái sự tăng trưởng kinh
tế bền vững; thường chạy theo tăng trưởng
kinh tế quên đi tăng trưởng xanh, nhấn
mạnh chỉ số tổng sản phẩm quốc gia ít
quan tâm đến tổng hạnh phúc quốc gia; thậm
chí kinh doanh với bất cứ giá nào không cần
đến bình đẳng, công bằng; phớt lờ tính nhân
đạo, tính nhân nghĩa trong kinh doanh. Triết
kinh doanh với cách thành tố bản
VĂN HÓA KINH DOANH
S TIẾP CẬN T GÓC ĐỘ VĂN HÓA HC
PGS,TS NGUyễN HồNG SơN
Học viện Chính trị khu vực III Đà Nẵng
TÓM TẮT
Văn hóa kinh doanh nền tảng tinh thần của hoạt động kinh tế, mục tiêu,
động lực phát triển bền vững của doanh nghiệp, là “hệ quy chiếu” của kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc làm sáng tỏ bản chất, vai trò của văn hóa
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói chung nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng có ý nghĩa trên cả hai phương diện luận
và thực tiễn. Bài viết này thử bàn luận thêm từ góc độ văn hóa học.
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
40
của văn hóa kinh doanh phải khắc phục được
những hạn chế cũng như các quan điểm phi
nhân nghĩa, nhân đạo trong hoạt động kinh tế,
phải trở thành minh triết trong kinh doanh.
Minh triết trong kinh doanh trước hết là phải
mang lại chất lượng sống cho doanh nhân
cộng cộng doanh nghiệp, cái đi ngược lại
với tính người không được xem sự phát
triển; trong kinh doanh phải kết hợp một cách
hài hoà giữa kinh tế văn hoá. Thứ hai,
phải lấy các giá trị văn hoá nhất là các giá trị
phổ biến ích, chân, thiện, mỹ làm mục tiêu,
động lực của kinh doanh, phải chú trọng đến
tổng hạnh phúc của doanh nhân cộng đồng
doanh nghiệp. thể nói minh triết kinh
doanh này sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
sản xuất, kinh doanh cốt lõi của văn hoá
kinh doanh trong xã hội hiện đại.
1.2. Lao động sáng tạo của doanh
nhân
Văn hoá toàn bộ giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử thích ứng nhu cầu đời sống sự đòi
hỏi của sự sinh tồn. Cho nên nói văn hoá thực
chất nói đến lao động sáng tạo phát
minh. Và, như thế khi nói đến văn hoá kinh
doanh không thể không đề cập đến lao động
sáng tạo của doanh nhân người lao động.
Doanh nhân người lao động chính chủ
thể của sản xuất, kinh doanh, vừa là mục tiêu,
động lực vừa là nhân tố ý nghĩa quyết định
thành bại của kinh doanh. Lao động sáng tạo
trong kinh doanh lao động năng suất
cao, lao động mang tính khoa học, lao động
cho mình cho hội, lao động một cách văn
minh (lao động theo Hiến pháp và Pháp luật,
lao động tổ chức, lao động chất lượng
sống tốt đẹp của con người). Xây dựng văn
hoá kinh doanh không thể không chú trọng
các đặc tính đó. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc xây dựng phát triển nguồn nhân lực
vừa “hồng” vừa “chuyên” trong sản suất,
kinh doanh trở thành vấn đề có ý nghĩa quyết
định trong kinh doanh.
1.3. Đạo đức kinh doanh.
Đây vấn đề cốt lõi khi đề cập đến
văn hoá kinh doanh. Phải xem đạo đức vừa
nền tảng, động lực vừa mục tiêu của
kinh doanh. Nói đến đạo đức nói đến cái
thiện, cái cao cả, cái cao thượng, đề cập
đến lương tâm, danh dự, tính nguyên tắc
khẳng khái, trung thực và thẳng thắng, khiêm
tốn lịch thiệp… Như vậy, vấn đề trung
thành, lương tâm, trách nhiệm, cần, kiệm,
liêm, chính, nhân ái, nhân đạo là những nhân
tố tạo thành nền kinh tế nhân văn, nó loại bỏ
được các hiện tượng lãng phí, tham nhũng, xa
hoa, sản xuất hàng giả trong trong kinh doanh
làm cho môi trường kinh doanh minh bạch,
lành mạnh. Chỉ đạo đức kinh doanh mới
làm cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững, mới
giải quyết tốt vấn về môi trường sinh thái. Để
văn hóa đạo đức kinh doanh thực hiện được
vai trò của mình, góp phần loại bỏ tham ô,
lãng phí, xa hoa như Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn, phải xây dựng cho được hệ thống giá
trị, các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh.
Với cái cốt lõi này của đạo đức từ công thức
chung của Liên Hợp Quốc về sự phát triển
kinh tế bền vững chúng ta có thể đưa ra công
thức sự phát triển kinh doanh bền vững theo
quan điểm hiện đại là: Phát triển kinh doanh
bền vững = Doanh thu doanh nghiệp + Tăng
trưởng xanh + Lương tâm trong sạch + Tổng
hạnh phúc doanh nghiệp.
1.4. Nghệ thuật ứng xử trong kinh
doanh
Nếu như giá trị phổ biến của văn hoá
cái hữu ích, cái chân, cái thiện cái mỹ thì
sự phát triển kinh doanh bền vững phải dựa
trên một nền tảng khoa học - công nghệ tiên
tiến, một nền đạo đức kinh doanh tiến bộ, từ
sản xuất, kinh doanh, sản phẩm đến “thương
hiệu”, uy tín và ứng xử trong kinh doanh phải
theo quy luật của cái đẹp hay nói một cách
ngắn gọn đó nghệ thuật ứng xử trong kinh
doanh .
41
Pgs,ts nguyễn Hồng sơn
Nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh bao
gồm nhiều mối quan hệ: mối quan hệ giữa
Nhà nước với các doanh nghiệp; giữa các
doanh nghiệp với các cơ quan hữu quan; mối
quan hệ giữa các doanh nghiệp này với các
doanh nghiệp khác; mối quan hệ giữa lãnh
đạo, quản với các doanh nhân; mối quan
hệ giữa doanh nhân với doanh nhân và người
lao động v.v.. Tất cả các mối quan hệ ấy chỉ
được xem văn hoá ứng xử trong kinh doanh
chỉ khi nào trở thành mối quan hệ “thật
sự người”. Điều đó cũng nghĩa rằng các
mối quan hệ ấy phải thật sự dân chủ, đoàn
kết, đồng thuận, công bằng, bình đẳng, công
khai, minh bạch… thấm đượm tính nhân
bản, nhân văn, lấy lẽ sống “mỗi người vì mọi
người, mọi người mỗi người” làm chuẩn
mực trong kinh doanh. Trong kinh doanh
một khi xuất hiện các mối quan hệ theo kiểu
“chủ - tớ”, “ cá lớn nuốt cá bé”, mối quan hệ
sòng phẳng lạnh lùng trả tiền ngay không cần
tình nghĩa, công bằng theo kiểu ban ơn, đoàn
kết theo kiểu lợi ích nhóm… thì không còn
văn hoá kinh doanh doanh nghiệp ấy có
quy mô lớn đến mức độ nào.
1.5. Bản sắc văn hoá doanh nghiệp.
Văn hoá tất cả những cái làm cho
dân tộc này khác với dân tộc khác từ những
sản phẩm vật thể và phi vật thể từ cổ xưa đến
hiện đại. Đây quan niệm nhấn mạnh đến
bản sắc văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá dân
tộc những phẩm chất đặc biệt đặc trưng
cho nền văn hoá dân tộc để phân biệt nền văn
hoá của dân tộc này với nên văn hoá của dân
tộc khác, nó bao gồm những giá trị bền vững,
tinh hoa cộng đồng, trí tuệ, tưởng, tình
cảm, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc.
vậy, khi nói đến văn hoá kinh doanh phải nói
đến bản sắc văn hoá của doanh nghiệp. Bản
sắc văn hoá doanh nghiệp những giá trị
đặc trưng của những sản phẩm vật chất, tinh
thần của doanh nghiệp do các doanh nhân
người lao động sáng tạo ra trong quá trình sản
xuất, kinh doanh theo hướng phát triển bền
vững, tạo thành “thương hiệu” uy tín cao
trong nền kinh tế thị trường của một quốc gia
hay trên phạm vi quốc tế. Chẳng hạn khi nói
đến chất lượng uy tín trong sản xuất kinh
doanh xe ô số một thế giới không thể không
nói đến các hãng mang thương hiệu Toyota,
Nisan, Hon da (Nhật Bản); BMV (Bayerische
Motorea Werke) của CHLB Đức; Huyndai
(Hàn Quốc) hay khi đề cập đến thương hiệu
thời trang danh tiếng thế giới phải kể đến
những cái tên Hermes, Louis Vuitton, Chanel
(Pháp); Versave, Prada (Ý) còn thương hiệu
nổi tiếng toàn cầu về sản xuất, kinh doanh
tevelison phải nhắc tới những cái tên quen
thuộc ai cũng biết như: Sharp. Sony,
Toshiba (Nhật Bản); Lucky Goldstar - LG,
Sam Sung (Hàn Quốc) v.v..
2. Nhận thức và vận dụng.
Thế giới đã bàn luận nhiều về văn hoá
doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh từ thực
tiễn nền kinh tế thị trường. Ngay từ những
thập niên cuối của thế kỷ XX, Liên Hiệp
Quốc đã cảnh báo cho tất cả các quốc gia trên
thế giới rằng: Phát triển không bền vững là sự
phát triển không việc làm, không có tiếng
nói, không có lương tâm, không có gốc rễ và
không tương lai; tăng trưởng kinh tế
không lấy văn hoá làm mục tiêu động lực thì
kinh tế sẽ trở thành hoang dã, man; kinh
tế thị trường mà tách rời văn hoá sẽ trở thành
chiến trường. Xuất phát từ quan niệm macxít
quan niệm hiện đại cũng như thực tiễn xây
dựng nền kinh tế thị trường trên thế giới và ở
nước ta, Đảng ta đã xác định một cách đúng
đắn rằng: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của
hội, mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hoá phải được dặt ngang
hàng với kinh tế, chính trị, hội”1. “Phát triển
hài hoà giữa kinh tế văn hoá, cần chú ý đầy
đủ đến yếu tố văn hoá con người trong phát
1 Ban Tuyên giáo Trung ương. Tài liệu học tập Nghị
quyết và một số chủ trương của Hội nghị lần thứ chín
BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam khoá XI - NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2014 tr. 15
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
42
triển kinh tế”2. “Thường xuyên quan tâm xây
dựng văn hoá trong kinh tế. Con người thật sự
trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế-
hội. Tạo lập môi trường văn hoá pháp lý,
thị trường sản phẩm văn hoá minh bạch, tiến
bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia
xây dựng phát triển văn hoá. Xây dựng văn
hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân với
ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh
tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững
bảo vệ Tổ quốc”3. “Phát huy ý thức tinh
thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết
các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng
phát triển các thương hiệu Việt Nam
uy tín trên thị trường trong nước và thế giới”4
Như vậy, quan điểm của Đảng ta được thể
hiện trong Nghị quyết về xây dựng phát
triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước tại Hội
nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương
khoá XI nêu trên chính sự nhận thức
vận dụng sáng tạo lý luận văn hoá đương đại
vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa nước ta. Xây
dựng văn hoá trong kinh tế theo quan điểm
của Đảng ta chính là xây dựng văn hoá doanh
nghiệp, văn hoá doanh nhân, văn hoá trong
kinh doanh; phát triển nguồn nhân lực nhất
2 Ban Tuyên giáo Trung ương. Tài liệu học tập… Sdd,
tr 16
3 Ban Tuyên giáo Trung ương. Tài liệu học tập… Sdd,
tr21.
4 Ban Tuyên giáo Trung ương. Tài liệu học tập Nghị
quyêt… Sdd, tr 21.
nguồn nhân lực chất lượng cao đủ trí, đủ tâm,
đủ tầm trong các doanh nghiệp; xây dựng
tưởng, đạo đức, lối sống, lối ứng xử cho
doanh nhân người lao động; xây dựng
phát triển thương hiệu Việt Nam theo hướng
ích, chân, thiện mỹ. Đây quan điểm rất
mới, rất hiện đại được khái quát từ tổng kết
qua 30 năm đổi mới hàng chục năm xây
dựng nền kinh tế thị trường nước ta; đã
trả lời đúng và hết sức thuyết phục nhiều câu
hỏi lớn từ cuộc sống: sao được sự ưu ái
của Nhà nước nhưng hằng năm đến hàng
chục ngàn doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phải
giải thể? Vì sao hiện tượng tham nhũng ngày
càng phổ biến, các vụ tham nhũng lớn thậm
chí đại án tham nhũng lại rơi vào các doanh
nghiệp chủ yếu lại doanh nghiệp Nhà
nước? sao sự bất bình đẳng không thể
chấp nhận được giữa lãnh đạo, quản doanh
nghiệp với doanh nhân người lao động?
sao các doanh nghiệp chưa phát huy hết
tiềm năng sáng tạo của doanh nhân người
lao động? v.v.. Câu hỏi đó đã sự trả lời
chúng ta chưa xây dựng được văn hoá trong
kinh tế, văn hoá doanh nghiệp văn hoá
doanh nhân. Và, chỉ khi nào trong lĩnh vực
kinh tế Văn hoá kinh doanh trở thành nền
tảng tinh thần trong hoạt động kinh tế, mục
tiêu, động lực phát triển bền vững của doanh
nghiệp, “hệ quy chiếu” kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường thì trong hiện thực mới
nền kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa như chúng ta mong muốn./.