289
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP
Economy and Forecast Review
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG CÁC VÙNG DÂN TC THIỂU SỐ GÓP PHẦN
THỰC HIỆN TĂNG TRƯỞNG XANH, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
ThS. Nguyễn Ngọc Linh
Khoa Du lịch - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội / Email: laninguyen@bme.edu.vn
Tóm tắt: Du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và điều hành, được quản
lý hoặc phối hợp ở cấp cộng đồng góp phần vào sự thịnh vượng của cộng
đồng thông qua việc hỗ trợ sinh kế bền vững và bảo vệ các truyền thống văn
hóa - xã hội có giá trị và các nguồn tài nguyên di sản văn hóa tự nhiên.
Loại hình này vừa đảm bảo sinh kế cho người dân địa phương, vừa bảo
tồn, tôn tạo, phát huy những giá trị truyền thống của tài nguyên nhân văn,
cũng như bảo vệ bền vững những tài nguyên tự nhiên của địa phương.
Thông qua việc nghiên cứu trường hợp về hoạt động du lịch cộng đồng của
người Mường và người Thái ở Hòa Bình, tác giả muốn nhấn mạnh tính
hiệu quả của loại hình du lịch này đối với mục tiêu tăng trưởng xanh và
phát triển bền vững.
Từ khóa: tăng trưởng xanh, du lịch cộng đồng, dân tộc thiểu số
1. Giới thiệu
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta hệ thống di sản văn hóa cùng
phong phú, đa dạng. Đây là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng, là tiềm năng,
lợi thế so sánh trong phát triển du lịch, trực tiếp tạo nên các sản phẩm du lịch
di sản mang tính đặc thù. Tính đa dạng, phong phú của các di sản văn hóa tộc
người mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc khác nhau đã tạo nên sức hút
cho du lịch cộng đồng.
Du lịch cộng đồng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tác động mạnh mẽ đến
đời sống kinh tế - hội của người dân nơi đây, góp phần chuyển đổi sinh kế,
nâng cao thu nhập cho cộng đồng các dân tộc tham gia vào các chuỗi du lịch.
Du lịch ở đây dựa trên du lịch cộng đồng gắn với đời sống người dân. Khách du
lịch được trải nghiệm những hoạt động quen thuộc của người địa phương, chứ
người dân không phải thay đổi để làm hài lòng du khách.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số đã đang phát triển loại hình du lịch
cộng đồng, thì người Thái và người Mường ở tỉnh Hòa Bình được ghi nhận rất
nhiều thành công trong việc không những đảm bảo sinh kế, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân bản địa, mà vẫn lưu giữ được các nét văn hóa truyền
thống bản địa, cũng như bảo vệ được các tài nguyên tự nhiên tại địa phương.
Vì thế, việc nghiên cứu trường hợp về hoạt động du lịch cộng đồng của người
Mường người Thái Hòa Bình để thấy tính hiệu quả của loại hình du lịch
này đối với mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
290
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP
Kinh tế và Dự báo
2. Du lịch cộng đồng và nguyên tc phát triển du lịch cộng đồng
2.1. Khái niệm
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch đang nhận được rất nhiều sự quan tâm
trong thời gian gần đây bởi tính nhân văn của loại hình này đối với người dân
bản địa, đối với các tài nguyên của địa phương và hơn cả là đối với toàn xã hội.
Theo Tổ chức mạng lưới du lịch cộng đồng người nghèo: “Du lịch cộng
đồng là một loại hình du lịch bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo
trong môi trường cộng đồng. Các sáng kiến của du lịch cộng đồng nhằm vào
mục tiêu thu hút sự tham gia của người dân địa phương vào việc vận hành
quản lý các dự án du lịch nhỏ như một phương tiện giảm nghèo và mang lại thu
nhập thay thế cho cộng đồng. Các sáng kiến của du lịch cộng đồng còn khuyến
khích tôn trọng các truyền thống văn hóa địa phương cũng như các di sản
thiên nhiên” (trích theo Nguyễn Văn Đính, 2021). Đây khái niệm cho thấy
nhất tính bền vững có sẵn trong nội hàm của loại hình du lịch này và đây cũng
là loại hình du lịch thích hợp với vùng dân tộc thiểu số trong công tác xóa đói,
giảm nghèo.
Việt Nam, theo Khoản 15, Điều 3 - Luật Du lịch năm 2017, “Du lịch cộng
đồng là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng
đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi”.
Theo các khái niệm trên, du lịch cộng đồng đang được coi loại hình du
lịch mang lại nhiều lợi ích phát triển kinh tế bền vững nhất cho người dân bản
địa. Du lịch cộng đồng không chỉ giúp người dân bảo vệ tài nguyên môi trường
sinh thái, mà còn là dịp để bảo tồn và phát huy những nét văn hóa độc đáo của
địa phương.
2.2. Nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng
Theo Bộ tiêu chuẩn du lịch cộng đồng, những nguyên tắc phát triển du lịch
cộng đồng gồm:
Thứ nhất, tham gia và trao quyền cho cộng đồng để đảm bảo quyền sở hữu
quản minh bạch. Nguyên tắc trên cho thấy, du lịch dựa vào cộng đồng một
phương thức, là một quá trình tương tác giữa chủ (người tạo ra sản phẩm du lịch)
và khách (người sử dụng sản phẩm du lịch), mối quan hệ này mang hàm ý tham
gia cho cả hai bên và tạo ra được lợi ích kinh tế và bảo tồn cho cộng đồng và môi
trường địa phương. Nguyên tắc thể hiện du lịch cộng đồng một cách tiếp cận
làm cho văn hóa, thiên nhiên bền vững, cân bằng với các tiêu chuẩn kinh tế, văn
hóa, xã hội, môi trường. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa được khai
thác hợp lý, bảo vệ môi trường sinh thái cảnh quan, môi trường văn hóa.
Thứ hai, thiết lập quan hệ đối tác với các bên liên quan. Thiết lập mối quan
hệ với các đối tác có liên quan, như: các công ty du lịch, các tổ chức chính phủ
phi chính phủ, các đơn vị trực thuộc nhà nước nhằm đạt được những mục
tiêu trọng tâm của hợp tác phát triển, như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất
lượng cuộc sống, phát triển bền vững và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Các
mục tiêu hợp tác phát triển phải tính đến các chiến lược chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
291
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP
Economy and Forecast Review
Thứ ba, dành được sự thừa nhận với các đối tác có liên quan. Để dành được
sự thừa nhận của các đối tác có liên quan, cũng như sự thừa nhận của các quốc
gia khác, thì các cộng đồng có hoạt động du lịch buộc phải đạt được những tiêu
chuẩn đã được thống nhất giữa các bên tham gia cũng như các quốc gia; tuân
thủ nghiêm ngặt những quy tắc đã được đặt ra.
Thứ tư, cải thiện phúc lợi hội và duy trì đời sống dân sinh. Các cộng đồng
địa phương, đặc biệt những cộng đồng nghèo khu vực nông thôn, miền
núi, ven biển, thường có trình độ nhận thức hạn chế, kinh tế kém phát triển, cở
sở vật chất kỹ thuật chưa đầy đủ. Do vậy, phần lớn các cộng đồng địa phương
không thể tự mình đủ các nguồn để quy hoạch phát triển du lịch quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, các chính sách phát triển du lịch cộng đồng như chính sách an
sinh xã hội góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
chất lượng cuộc sống cho dân cần được coi như chiến lược phát triển của địa
phương và quốc gia.
Thứ năm, đảm bảo cơ chế công bằng và chia sẻ lợi ích một cách minh bạch.
Chủ sở hữu hợp pháp các nguồn tài nguyên du lịch cộng đồng địa phương.
Vì vậy, cộng đồng địa phương được tham gia vào tất cả các khâu, các quá trình
phát triển du lịch với vai trò người chủ sở hữu tài nguyên các nguồn lực
phát triển du lịch nói chung. Vì thế, phần lớn nguồn lợi thu được cần giữ lại để
đầu tư cho nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển cộng đồng, cũng chính
là đầu tư cho bảo tồn tôn tạo tài nguyên và phát triển du lịch.
Để tránh nảy sinh các mâu thuẫn trong quá trình phát triển, tránh tiêu cực, tham
nhũng trong quá trình quản lý và sử dụng các nguồn thu từ hoạt động du lịch, việc
phân chia nguồn lợi thu được từ hoạt động du lịch cần được công khai công
bằng giữa các bên tham gia cũng như giữa các thành viên trong cộng đồng.
Thứ sáu, tăng cường liên kết với cộng đồng địa phương các khu vực lân
cận. Đối với một số cộng đồng các điều kiện về sở vật chất hay các tài
nguyên không đủ đáp ứng hoặc chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của du
khách, thì việc liên kết với các cộng đồng khu vực lân cận giúp cho các sản
phẩm du lịch của họ được đầy đủ hơn, phong phú hơn hoặc chí ít thể đáp
ứng được những nhu cầu thiết yếu của khách du lịch, hướng tới đáp ứng được
tất cả những nhu cầu của khách.
Thứ bảy, tôn trọng bản chất văn hóa truyền thống địa phương. Duy trì tính
đa dạng về tự nhiên và sự đa dạng về văn hóa, đặc biệt là sự đa dạng về các hệ
sinh thái đa dạng sinh học chính bảo vệ môi trường sống của cộng đồng
và tạo ra sự đa dạng, tính độc đáo của sản phẩm du lịch, có sức hấp dẫn với du
khách. Do vậy, khi phát triển du lịch phải đi đôi với việc bảo tồn, tôn tạo tài
nguyên du lịch, thu hút các bên tham gia vào hoạt động này phải coi trọng
đầu tư phát triển giáo dục cho các thành viên tham gia.
Thứ tám, góp phần bảo tồn thiên nhiên. Các nguồn lực phát triển du lịch, đặc
biệt là các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đều có một đặc điểm
dễ bị thay đổi, suy giảm theo hướng tiêu cực. vậy, khi quy hoạch phát
292
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP
Kinh tế và Dự báo
triển du lịch cộng đồng cần đưa ra, thực thi các phương cách khai thác, bảo tồn
nguồn lực theo hướng có kiểm soát, tiết kiệm và bền vững, vận dụng các chỉ số
về sức chứa trong quá trình khai thác, không vượt quá khả năng phục hồi, tái
tạo của các nguồn tài nguyên, hài hòa với các yếu tố địa lý tại chỗ và các giá trị
văn hóa bản địa.
Thứ chín, nâng cao sự trải nghiệm của du khách bằng cách nâng cao sự hiếu
khách sự tương tác với khách du lịch. Một trong những nguyên tắc mới được
đưa vào trong Bộ tiêu chuẩn du lịch cộng đồng là mang đến cho khách du lịch
những trải nghiệm mới thông qua sự hiếu khách, cũng như những sự tương tác
khách du lịch cộng đồng địa phương. Du lịch cộng đồng được coi như một
trong những loại hình du lịch mang lại sự gắn kết giữa con người với con người,
giữa con người và thiên nhiên.
Thứ mười, hướng tới việc tự chủ tài chính. Tự chủ tài chính một trong
những mốc quan trọng để đánh dấu sự chủ động, cũng như sự điều hành, quản
lý cho hoạt động du lịch địa phương đã hoàn toàn được trao lại cho người dân
cộng đồng cũng như khẳng định được trình độ quản lý, cũng như cách thức
quản lý của cộng đồng. Ngoài ra, khi tự chủ tài chính thì cộng đồng địa phương
thể đảm bảo lợi nhuận được phân chia công bằng lợi nhuận sẽ được giữ
lại nhiều hơn cho cộng đồng.
3. Hoạt động du lịch cộng đồng tại các vùng dân tộc thiểu số: Nghiên
cứu trường hợp của người Thái và người Mường ở tỉnh Hòa Bình
Vào những năm đầu của thế kỷ thứ 21, du lịch cộng đồng đã dần hình thành
và phát triển tại Hòa Bình. Ban đầu mới chỉ dừng ở việc khách ghé thăm và ra
về trong ngày. Sau đó, khi người dân nhận thấy tiềm năng của việc khách lưu
trú lại qua đêm nên họ đã những thay đổi nhất định trong dịch vụ dần dần
đón được khách lại qua đêm, cũng như tăng cường sử dụng các dịch vụ bổ
trợ tại địa phương. Sau một thời gian, Mai Châu - Hòa Bình đã trở thành một
trong những địa điểm du lịch cộng đồng yêu thích của du khách quốc tế khi đến
Việt Nam và của khách nội địa muốn di chuyển quãng đường ngắn (tính từ nội
thành Hà Nội).
Những chính sách du lịch cộng đồng dựa trên quyền kiến thức văn hóa
truyền thống của địa phương đã tạo động lực cho việc chuyển đổi mô hình kinh
tế từ sản xuất nông nghiệp mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường
trên cơ sở “hàng hóa hóa” văn hóa địa phương để thu hút khách du lịch. Ngoài
ra, sự biến đổi về hình kinh tế cũng kéo theo những thay đổi về văn hóa
tộc người. Với mục đích tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống kinh tế, giúp
người thiểu số “hòa nhập” với mô hình phát triển chung của toàn xã hội, chính
sách phát triển du lịch cộng đồng đã làm thay đổi bản trên một số lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương, cụ thể đối với người Thái và người Mường
thể hiện rõ nét nhất ở 4 khía cạnh cơ bản:
Thứ nhất, hàng hóa hóa văn hóa. Hiện nay, những người dân tộc đây
không chỉ giữ hình thức sinh kế truyền thống đã dần hướng đến các công
việc hoạt động dịch vụ du lịch, như: homestay, bán hàng thủ công, dịch vụ ăn
293
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP
Economy and Forecast Review
uống ẩm thực, chạy xe điện, cho thuê xe đạp… Về cơ bản, hình thức việc làm
và các hoạt động tạo thu nhập từ du lịch đều được diễn ra dựa trên vốn văn hóa
địa phương, như: nhà sàn, ẩm thực, hàng thổ cẩm, biểu diễn văn nghệ… Hay
nói cách khác, người dân đã hàng hóa hóa văn hóa của tộc người để phục vụ
cho mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận phục vụ cho lợi ích của cá nhân,
gia đình.
Thứ hai, biến đổi mối quan hệ hội do tác động của hoạt động kinh tế
du lịch, như: biến đổi trong quan hệ cộng đồng quan hệ với thế giới bên
ngoài - khách du lịch. Trước đây, người Mường và người Thái không có nhu
cầu tư lợi vì ruộng, đất là của Nhà nước và được bản mường quản lý và phân
phối. Thời điểm đó, nhu cầu của người dân cũng không quá nhiều, nên việc
lợi cũng không xảy ra. Tuy nhiên, khu du lịch phát triển tại đây làm biến
đổi nhu cầu của người dân bản địa. muốn thêm nhiều của cải tích lũy
hơn nên người dân buộc phải thay đổi chính mình. Thay ít giao lưu, học
hỏi với bên ngoài, cụ thể là các công ty du lịch, lữ hành, thì bây giờ họ khôn
khéo hơn, biết thiết lập các mối quan hệ với các đối tác để tìm nguồn khách
về với sở kinh doanh lưu trú của mình. Bản thân họ cũng tự học hỏi, trau
dồi thêm kiến thức, cũng như kỹ năng để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách
du lịch. Họ cũng nắm bắt thị trường, thị hiếu của khách tốt hơn trước, nên
sản phẩm đa dạng, phong phú hơn, khách hài lòng đã kéo dài thời gian lưu
trú, cũng như gia tăng mức chi tiêu của mình nhiều hơn. Ngoài ra, người dân
cũng biết bắt tay với các cở sở kinh doanh khác để làm phong phú thêm sản
phẩm của mình…
Thứ ba, biến đổi trong quan hệ gia đình. Trước kia, theo mô hình gia đình
cũ, thì người phụ nữ vừa tham gia các công việc đồng áng, sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ truyền thống, vừa người giữ lửa trong gia đình. Thế nhưng,
tiếng nói của người phụ nữ hầu như ít được coi trọng như tiếng nói của người
đàn ông. Tuy nhiên, hiện nay, khi du lịch xâm nhập vào từng hộ gia đình, thì
vai trò của người phụ nữ tăng lên rõ rệt. Sự bất bình đẳng giới tồn tại trong mỗi
gia đình ngày càng thu hẹp. Hạnh phúc gia đình được cải thiện do chất lượng
sống được cải thiện. Thu nhập từ du lịch giúp các gia đình thêm khả năng
trang trải cho sinh hoạt phí, trẻ em được chăm sóc tốt hơn, được đi học đầy đủ
hơn. Nhu cầu phục vụ các dịch vụ cho khách du lịch tạo thêm công ăn việc làm
cho người dân nên giảm được một số lượng lớn lao động thất nghiệp, người đàn
ông cũng giảm thời gian nhậu nhẹt... Từ đó, chất lượng cuộc sống mỗi gia đình
nâng cao, xã hội được phát triển. Đây chính là điểm tích cực của hoạt động du
lịch đối với xã hội.
Thứ tư, bảo tồn các giá trị truyền thống thông qua các hoạt động trình
diễn bản sắc của tộc người, như: biểu diễn văn nghệ, ẩm thực… Đây là một
trong những sản phẩm du lịch đặc sắc của người Thái người Mường tỉnh
Hòa Bình. Để sản phẩm này đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, thì mỗi
người dân tham gia vào hoạt động văn nghệ phải nắm được các làn điệu
truyền thống, những bài múa của dân tộc mình, vận trang phục trang sức