ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM TRUNG HÒA

GIẢI QUYẾT LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Chuyên ngành: Luật Quốc tế

Mã số: 60 38 0108

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Năng

HÀ NỘI – 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Trung Hòa

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

- BLTTDS Bộ luật tố tụng Dân sự

- CP Chính phủ

- HĐTTTP Hiệp định tương trợ tư pháp

- HNGĐ Hôn nhân gia đình

- NCPL Nghiên cứu pháp luật

- NĐ Nghị định

- SL Sắc lệnh

- TTLB Thông tư liên Bộ

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LY HÔN CÓ YẾU

TỐNƢỚC NGOÀI ............................................................................................... 7

1.1. Khái niệm về ly hôn, ly hôn có yếu tố nước ngoài ........................................ 7

1.1.1. Khái niệm ly hôn ......................................................................................... 7

1.1.2. Khái niệm ly hôn có yếu tố nước ngoài........................................................ 9

1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn, ly hôn có yếu tố nước ngoài ............................ 13

1.2.1. Quan hệ nhân thân ..................................................................................... 13

1.2.2. Quan hệ tài sản .......................................................................................... 16

1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài ............... 17

1.3.1. Các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài ...... 17

1.3.2. Mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có

yếu tố nước ngoài ................................................................................................. 19

1.4. Nguyên tắc và phương pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài .... 20

1.4.1. Nguyên tắc điều chỉnh ................................................................................ 20

1.4.2. Phương pháp điều chỉnh ............................................................................ 21

Kết luận chƣơng 1 .............................................................................................. 25

CHƢƠNG 2THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐIỀU ƢỚC

QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM KÝ KẾT VÀ THAM GIA VỀ VIỆC GIẢI

QUYẾT LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI ............................................ 27

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về ly hôn có yếu

tố nước ngoài ........................................................................................................ 27

2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 ......................................................................... 27

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 .... 28

2.1.3. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ... 30

2.1.4. Giai đoạn từ 2000 đến trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ..... 33

2.1.5. Từ năm 2014 đến nay ................................................................................. 34

2.2. Quy định hiện hành của Việt Nam về giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ..... 35

2.2.1. Vấn đề chọn pháp luật áp dụng ................................................................. 35

2.2.2. Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ................................. 38

2.2.3. Thủ tục giải quyết các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài ...................... 40

2.3. Quy định của các Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế về giải quyết ly hôn

có yếu tố nước ngoài ............................................................................................ 42

2.3.1. Các Điều ước quốc tế về giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ............. 42

2.3.2. Ly hôn có yếu tố nước ngoài theo các hiệp định tương trợ tư pháp của

Việt Nam .............................................................................................................. 43

2.3.3. Ly hôn và giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo tập quán quốc tế . 45

2.3.4. Sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về giải

quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ....................................................................... 46

Kết luận chƣơng 2 .............................................................................................. 50

CHƢƠNG 3HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

GIẢI QUYẾT LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM .... 52

3.1. Thực tiễn giải quyết các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

hiện nay ................................................................................................................ 52

3.1.1. Những thành tựu đạt được ......................................................................... 53

3.1.2. Những hạn chế ........................................................................................... 56

3.1.3 Nguyên nhân dẫn đến các thực trạng trên .................................................. 60

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết ly hôn có

yếu tố nước ngoài ................................................................................................. 61

Kết luận chƣơng 3 .............................................................................................. 66

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 71

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,

quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình

cũng bị tác động mạnh mẽ. Ngày nay, ly hôn đã được nhìn nhận đúng với bản

chất tích cực và tiến bộ của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là

một chế định độc lập của Luật Hôn nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Tòa án và

các bên đương sự giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu tình đạt lý, góp phần

giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc không cần thiết khi tình cảm vợ

chồng không còn. Nhà nước đặt ra chế độ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến

bộ, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, bền vững ngay cả khi gia đình

đó tan vỡ thì sự bình đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm

bảo. Đó là sự tiến bộ thể hiện quyền tự do ly hôn của hai vợ chồng.

Thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Nhà nước đã tuyên

truyền và phổ biến rộng rãi để mọi người dân hiểu biết trong việc bảo vệ quyền

lợi của mọi thành viên và xây dựng hạnh phúc gia đình xã hội chủ nghĩa. Tuy

nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly hôn cho thấy, còn tồn tại một số vướng

mắc như vấn đề xác định căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn. Ở nước ta,

những năm gần đây, do việc mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu mọi mặt về kinh

tế, văn hóa, chính trị, xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm

cho quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Cùng với việc gia

tăng số lượng các quan hệ hôn nhân là việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với

người nước ngoài đã và đang ngày càng trởlên phổ biến trong xã hội.

1

Việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài không chỉ đơn thuần bằng

việc áp dụng các văn bản luật trong nước mà còn bằng cả hệ thống luật pháp

quốc tế có liên quan bao gồm các Điều ước quốc tế, (trong đó có các Hiệp định

tương trợ tư pháp) và Tập quán quốc tế.

Cùng với sự phát triển giao lưu quốc tế nói chung và giao lưu dân sự nói

riêng, quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài và ly hôn có yếu tố nước

ngoài trên thực tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Pháp luật Việt Nam cũng đã

tích cực hoàn thiện nhằm giúp cho công tác giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố

nước ngoài vừa việc đạt được hiệu quả cao vừa vẫn đảm bảo được về mặt pháp

lý, phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế.

Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với

thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa thì vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng phong phú và cũng nảy

sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp đòi hỏi phải được nghiên cứu sâu hơn, toàn

diện hơn nữa và xử lý kịp thời, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc bảo vệ

các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể. Nhìn chung, những vấn đề pháp

lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong việc xây

dựng và phát triển xã hội. Nếu những vấn đề pháp lý không phù hợp sẽ làm xã

hội hỗn loạn và hậu quả là làm cho xã hội suy yếu. Ngược lại, nếu phù hợp thì

không những làm cho xã hội ổn định mà còn làm cho xã hội vững mạnh, mối

quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới cũng được phát triển,

khăng khít. Bởi vì như đã nêu trên, ly hôn cũng có những điểm tích cực trong

việc thúc đẩy sự phát triển một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên,

pháp luật Việt Nam hiện nay thực sự vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa thể

giúp giải quyết được kịp thời và hiệu quả các vụ việc ly hôn có yếu tố nước

ngoài phát sinh trên thực tế.

2

Nhận thức nói trên chính là xuất phát điểm để tác giả xác định chủ đề và

thực hiện việc nghiên cứu đề tài: “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo

quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật” trong phạm

vi quy mô của một Luận văn thạc sĩ luật học. Đề tài mang không chỉ mang ý

nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn, hi vọng sẽ đóng góp phần xây

dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp

luật trong giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Ở Việt Nam trước đây hôn nhân có yếu tố nước ngoài nói chung và ly hôn

có yếu tố nước ngoài nói riêng là một loại quan hệ không phổ biến. Tuy nhiên,

trong gần hai thập kỷ qua, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hôn

nhân có yếu tố nước ngoài không còn là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống xã

hội. Có lúc hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã trở thành một hiện tượng khá phổ

biến. Cũng như mọi quan hệ khác, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cần

có sự điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan

tới quan hệ này trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.

Do vậy, vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam đã có nhiều đề

tài, nhiều công trình nghiên cứu cùng rất nhiều các bài viết khoa học đăng trên

các báo, tạp chí chuyên ngành. Trong các công trình nghiên cứu này có những

công trình nghiên cứu đã đi sâu vào vấn đề lý luận về ly hôn có yếu tố nước

ngoài, có những công trình lại đi tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định về ly

hôn có yếu tố nước ngoài để tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật. Tiêu biểu như

Nguyễn Thanh Hoa (Luận văn thạc sĩ), Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố

nước ngoài ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp; Đỗ Thị Vân Anh (Luận văn

thạc sĩ),Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án

3

nhân dân thành phố Hà Nội; Nguyễn Hồng Nam, Vài ý kiến về thẩm quyền giải

quyết của Tòa án Việt Nam đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tạp

chí Tòa án, số 13/2009, Nông Quốc Bình (Luận án tiến sĩ luật học), Pháp luật

điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; Nông Quốc

Bình – Nguyễn Hồng Bắc (2006), Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Bùi Thị

Minh Nhã (Luận văn thạc sĩ), Vấn đề ly hôn giữa công dân Việt Nam với người

nước ngoài theo pháp luật Việt Nam…

Nhìn chung, các khía cạnh của vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài đều đã

được phân tích ở những góc độ khác nhau. Tuy vậy, do cuộc sống luôn luôn thay

đổi, các vấn đề thực tế về ly hôn có yếu tố nước ngoài cũng không nằm ngoài

quy luật này và đã có nhiều thay đổi, luôn luôn phát sinh ra những vấn đề mới,

những trường hợp đặc biệt mà các quy định của pháp luật chưa dự liệu tới.Các

công trình nghiên cứu trước đây cũng chưa nghiên cứu đầy đủ hoặc sâu sắc. Mặt

khác, trong bối cảnh Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế

quốc tế, đề tài “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp

luật Việt Nam và hướng hoàn thiện” vẫn là vấn đề có tính thời sự.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm một số vấn

đề lý luận cơ bản vềly hôn có yếu tố nước ngoài, thực trạng nội dung các quy

định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về

ly hôn có yếu tố nước ngoài, thực trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

hiện nay và hướng hoàn thiện, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện

pháp luật và nâng cao hiệu quả thực tiễn giải quyết vấn đề ly hôn có yếu tố nước

ngoài ở nước ta trong thời gian tới.

4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu khái lược các quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước

Quốc tế về vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài mà Viêt Nam ký kết và tham gia.

- Phân tích sâu thêm một số vấn đề lý luận về về ly hôn có yếu tố nước

ngoài, các quy định hiện hành các quy định của pháp luật Việt Nam về ly hôn có

yếu tố nước ngoài, từ đó đánh giá tính phù hợp với thực tế, tính tương thích đối

với pháp luật quốc tế về vấn đề này.

- Trên cơ sở thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về ly

hôn có yếu tố nước ngoài, xác định những điểm hạn chế và đề xuất phương

hướng, giải pháp hoàn thiện trong các quy định của pháp luật về vấn đề này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật Việt Nam và

các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về ly hôn có yếu tố nước

ngoài.Thực tiễn giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay để

từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao

hiệu quả giải quyết vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta trong thời gian

tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các quy định hiện hành của pháp luật Việt

Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về ly hôn có yếu tố nước

ngoài, thực tiễn giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5

Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của

Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối của Đảng về Nhà

nước và pháp luật.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học chuyên ngành như lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so

sánh, diễn giải, suy diễn logic v.v…để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

6. Điểm mới của luận văn

So với những công trình nghiên cứu có liên quan trước đây, bên cạnh việc

làm rõ thêm những vấn đề lý luận, lịch sử mang tính cốt lõi đã được đề cập, luận

văn này tập trung đi sâu phân tích toàn diện hơn các quy định hiện hành của

pháp luật Việt Nam về ly hôn có yếu tố nước ngoài; làm rõ hơn được tính tương

thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về vấn đề ly hôn có yếu tố

nước ngoài, từ đó xác định những mặt tích cực cũng như những hạn chế trong

việc xây dựng các quy định của pháp luật Việt Nam và đề xuất phương hướng,

giải pháp hoàn thiện.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương sau đây:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về ly hôn có yếu tố nước ngoài;

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt

Nam ký kết và tham gia về việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài;

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết ly hôn

có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và phương hướng hoàn thiện pháp luật.

6

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ

NƢỚC NGOÀI

1.1. Khái niệm về ly hôn, ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài

1.1.1. Khái niệm ly hôn

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, chế định ly hôn được

quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều 42 Bộ luật Dân sự Việt

Nam năm 2005 (BLDS 2005) quy định “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền

yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn” [5]. Khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Dân sự

năm 2015 quy định “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ

chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi

con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ

và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình” [6].

Tuy nhiên, khái niệm ly hôn chỉ được quy định rõ tại Luật Hôn nhân và

gia đình. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình

hiện hành năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [32].

Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng khoảng

trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng đồng thời

nó cũng là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn là hình thức

vì tình cảm vợ chồng còn, hôn nhân không có tiếng nói chung. Trong quan hệ

7

hôn nhân, việc kết hôn giữa nam và nữ được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, hợp

pháp mà tình cảm và sự đồng cảm giữa hai bên là nguồn cội của sự tự nguyên.

Khi tình cảm không vợ chồng không còn, kết hợp với nhiều yếu tố khác khiến

cho quan hệ hôn nhân rạn nứt thì giải pháp hữu hiệu nhất và cũng là thông dụng

nhất mà các cặp vợ chồng hướng tới là ly hôn. Như vậy, pháp luật không có

quyền yêu cầu nam nữ phải kết hôn khi họ không tự nguyện và cũng không có

quyền từ chối khi họ có nhu cầu ly hôn. Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ,

chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau khổ hiện tại, giúp chồng thoát khỏi những

mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải quyết được.

Về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng được phát sinhkể từ khi vợ, chồng được

cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hônvà chỉ

chấm dứt khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án công nhận

về việc ly hôn. Trên thực tế, có nhiều cặp vợ chồng không còn tỉnh cảm với

nhau, không sống cùng nhau, độc lập về kinh tế cũng như các hoạt động cá nhân

khác nhưng không có Quyết định hoặc bản án của Tòa án công nhận về việc ly

hôn giữa hai vợ chồng thì về mặt pháp lý quan hệ giữa hai người vẫn là quan hệ

vợ chồng, vẫn bị ràng buộc với nhau bởi các quy định của pháp luật liên quan

đến quan hệ giữa vợ và chồng.

Trên cơ sở đó có thể hiểu một cách tổng quát nhất ly hôn là chấm dứt

quan hệ hôn nhân do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả

hai vợ chồng, hủy bỏ trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của hôn nhân và các

ràng buộc dân sự khác. Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán

quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hôn của Tòa án

được thể hiện dưới hai hình thức: bản án hoặc quyết định. Nếu hai bên vợ chồng

thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải quyết được tất cả các nội dung quan

8

hệ vợ chồng khi ly hôn thì Tòa án công nhận ra phán quyết dưới hình thức Quyết

định. Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án ra phán quyết dưới

dạng bản án ly hôn.

1.1.2. Khái niệm ly hôn có yếu tố nước ngoài

Luật Hôn nhân và Gia đình đã dành nhiều điều luật để quy định về vấn đề ly

hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ

sung Luật hôn nhân và Gia đình cũng như các văn bản pháp luật khác vẫn chưa có

quy định rõ ràng, định nghĩa cụ thể thế nào là “Ly hôn có yếu tố nước ngoài”.

Tại Khoản 2 Điều 663 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về khái

niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các

trường hợp sau đây:

- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;

- Các bên tham gia đều là công dân Viê ̣t Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng

viê ̣c xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

- Các bên tham gia đều là công dân Viê ̣t Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng

đối tượng của quan hê ̣ dân sự đó ở nước ngoài [6].

Quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước

ngoài nói riêng thuộc phạm trù quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoàinên có thể

áp dung toàn bộ quy định của Bộ Luật Dân sự về vấn đề quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngoài để kết hợp với luật chuyên ngành để giải quyết quan hệ ly hôn có

yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc xây dựng được khái niệm ly hôn có yếu tố

nước ngoài một cách đầy đủ, toàn diện và chuẩn mực trong đạo luật chuyên

ngành là cần thiết.

Với tinh thần đó, Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

đã quy định rõ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau:

9

“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân

và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam

định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là

công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo

pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan

hệ đó ở nước ngoài.” [32]

Mặt khác, ly hôn theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm

2015 được xem là một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Điều 464 Bộ luật này có quy định rõ thế nào là một vụ việc dân sự. Theo đó, “Vụ

việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường

hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ

chức nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt

Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra

tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam

nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”. [8]

Với hai quy định nêu trên ta thấy, tại Điều 464 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015

không quy định chủ thể trong vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là “người Việt Nam

định cư nước ngoài” nhưng tại Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lại quy định

chủ thể này. Lý giải cho vấn đề này ta có thể hiểu, Điều 464 Bộ luật tố tụng Dân sự

(BLTTDS) 2015 là văn bản luật hình thức áp dụng chung có các quan hệ có yếu tố

nước ngoài. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra trên thực tế thì cần áp dụng luật chuyên

ngành, trên sơ sở luật chung để giải quyết một vấn đề cụ thể. Mặt khác, chủ thể theo

quy định tại Điều 464 BLTTDS 2015 đã bao hàm cả “người Việt Nam định cư ở nước

ngoài”. Như vậy, có thể thấy rằng, liên quan đến vấn đề “có yếu tố nước ngoài”

trong các quy định nêu trên của các văn bản pháp luật Việt Nam đã có sự thống

nhất với nhau.

10

Theo đó, ta có thể hiểu “Ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc chấm dứt

quan hệ vợ chồng giữa vợ và chồng mà ít nhất một trong hai bên là người nước

ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc giữa công dân Việt Nam với

nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân theo pháp luật

nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; hoặc tài sản liên quan đến việc ly hôn ở

nước ngoài”.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014 có quy định về vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau: “ 1. Việc ly

hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với

nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt

Nam theo quy định của Luật này. 2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam

không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được

giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ

không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam. 3. Việc

giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật

của nước nơi có bất động sản đó.” [32].

Như vậy, khi giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài thì Tòa án không

những chỉ áp dụng pháp luật của Việt Nam mà còn phải chú ý tới pháp luật nước

ngoài. Vấn đề lựa chọn pháp luật để áp dụng trong ly hôn có yếu tố nước ngoài

cũng là một điều khá trọng. Nếu lựa chọn không đúng thì bản án hoặc Quyết

định có thể bị hủy. Đặc biệt là pháp luật cùa nước nơi thường trú chung của vợ

chồng hay là pháp luật nơi có bất động sản của vợ chồng.

Từ các cơ sở trên ta có thể thấy quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài có

một trong các yếu tố sau:

- Yếu tố chủ thể:

11

Quan hệ ly hôn được coi là có yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một trong các

bên chủ thể tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Pháp luật Việt Nam quy định người nước ngoài là người không có quốc tịch

Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch.

- Yếu tố làm chấm dứt quan hệ hôn nhân:

Bao gồm căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân. Đó

chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều kiện để xác định

việc ly hôn có yếu tố nước ngoài hay không trong trường hợp này là sự kiện

pháp lý đó phải theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài.

Đối với những quan hệ này, yếu tố chủ thể không được đặt ra. Nghĩa là,

trong trường hợp các bên chủ thể tham gia đều là công dân Việt Nam, nhưng nếu

sự kiện pháp lý là chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài hoặc theo

pháp luật nước ngoài thì quan hệ đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

- Yếu tố vị trí của tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn:

Trong trường hợp này, không cần xét đến hai yếu tố trên, nếu tài sản liên

quan đến quan hệ ly hôn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà ở nước ngoài, thì

quan hệ đó cũng được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Bên cạnh đó, một quan hệ ly hôn khi không xét đến cả ba yếu tố trên nhưng

nếu quan hệ ly hôn chấm dứt bằng một bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ

quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thì đó cũng là một trong những dấu hiệu

xác định quan hệ ly hôn đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Như vậy, để xác định một quan lệ ly hôn có yếu tố nước ngoài cần xét đến

một trong các yếu tố trên, nếu đáp ứng điều kiện đối với ít nhất một yếu tố để

quan hệ ly hôn đó trở thành quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì không cần

xét đến các yếu tố còn lại.

12

1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn, ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài

Nếu kết hôn là cơ sở pháp lý để hình thành các quan hệ nhân thân và tài

sản giữa vợ và chồng thì ly hôn chính là cơ sở pháp lý để làm thay đổi hay chấm

dứt các quan hệ đó.

Luật Hôn nhân và Gia đình không có những điều khoản cụ thể, riêng biệt

quy định về quan hệ nhân thân, tài sản đối với trường hợp ly hôn có yếu tố nước

ngoài. Việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài phải áp dụng các quy định

pháp luật chung về điều kiện, căn cứ ly hôn.

1.2.1. Quan hệ nhân thân

Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng là những quyền liên quan đến lợi ích

tinh thần gắn liền với nhân thân của vợ chồng trong quan hệ vợ chồng, không có

nội dung kinh tế, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho

người khác.Quyền nhân thân giữa vợ và chồng có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, quyền nhân thân giữa vợ và chồng phát sinh trên cơ sở kết hôn,

gắn liền với quan hệ vợ chồng trong suốt thời kì hôn nhân. Các quyền và nghĩa

vụ này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tức là, quan hệ nhân thân giữa

vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được bắt đầu bằng việc đăng ký kết hôn.

Theo đó, vợ và chồng sẽ có thêm các quyền về hôn nhân gia đình theo quy định

của pháp luật. Còn sau khi quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có

hiệu lực hoặc khi một trong hai bên bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ nhân thân

giữa vợ và chồng chấm dứt.

Thứ hai, quyền nhân thân là quyền gắn liền với cá nhân và không thể là

đối tượng chuyển dịch cho người khác, quyền này có tính độc lập, cá biệt hoá cá

nhân này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. Vì vậy, quyền nhân thân của vợ

chồng không thể chuyển giao cho người khác, không thể do người khác thực

hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ chồng.

13

Thứ ba, các quyền nhân thân giữa vợ và chồng được pháp luật thừa nhận

và bảo vệ. Quyền nhân thân của cá nhân được quy định cụ thể tại BLDS và được

cụ thể hóa tại Luật HNGĐ với chủ thể cụ thể là vợ chồng. Quyền nhân thân của

vợ chồng được pháp luật quy định trong các quy phạm pháp luật nên có thể thấy

quyền này đã được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.

Thứ tư, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thể hiện mỗi liên hệ tình cảm

giữa vợ và chồng.Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình

nghĩa vợ chồng:"1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng,

quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc

trong gia đình.2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ

chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập,

tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng

khác."Nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, quan tâm, chăm sóc nhau được điều

chỉnh bằng các nguyên tắc đạo đức, truyền thống và theo phong tục, tập quán của

người Việt Nam rồi sau đó được nâng dần lên thành luật. Vi phạm những quy tắc

đạo đức chỉ bị xã hội lên án, vi phạm các quy tắc pháp luật sẽ bị xử phạt theo

quy định.Về nghĩa vụ chung sống, có thể hiểu rằng hôn nhân trước hết là cuộc

sống chung giữa người đàn ông và người phụ nữ: chung nhà, chung bàn ăn và

chung chăn gối. Tất nhiên, vợ và chồng không nhất thiết phải ở chung, ăn chung,

ngủ chung một cách liên tục, thường xuyên trong suốt thời kỳ hôn nhân; song, ít

nhất giữa họ luôn phải có mối liên hệ sâu đậm về phương diện sinh hoạt vật chất

và thân xác. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận một cách rõ ràng

nghĩa vụ chung sống; tuy nhiên, không thể nói rằng mục đích của hôn nhân đã

đạt được một khi hai bên kết hôn không thực sự chung sống với nhau. Việc

không chung sống liên tục trong một thời gian dài có thể dẫn đến những khó

14

khăn trong việc duy trì cơ sở đạo lý và cơ sở thực tế của quy tắc suy đoán con

chung của vợ chồng.

Thứ năm, các quyền và nghĩa vụ nhân thân thể hiện tính dân chủ, bình

đẳng giữa vợ, chồng:Vợ,chồng có quyền bình đẳng trong việc lựa chọn chỗ ở,

nơi cư trú theo Điều 20 Luật hôn nhân và gia đình 2014: "Việc lựa chọn nơi cư

trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập

quán, địa giới hành chính."Vợ,chồng có quyền bình đẳng trong việc lựa chọn tín

ngưỡng: Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân

phẩm, uy tín cho nhau. Ngoài ra, vợ chồng còn có quyền bình đẳng trong việc

lựa chọn việc làm, tham gia vào công tác xã hội theo quy định tại Điều 23 Luật

hôn nhân và gia đình: "Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau

chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ;

tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội."Vậy quan hệ pháp luật

hôn nhân và gia đình chủ yếu là các quan hệ nhân thân mang tính chất lâu dài,

bền vững được nhà nước quy định cụ thể, chặt chẽ và phù hợp trong Luật hôn

nhân và gia đình 2014.

1.2.1.1. Quan hệ giữa vợ và chồng sau ly hôn:

Cũng như các trường hợp ly hôn không có yếu tố nước ngoài, việc ly hôn

sẽ được coi là căn cứ làm chấm dứt quan hệ vợ chồng. Việc chấm dứt này có thể

xuất phát từ yêu cầu ly hôn đơn phương hoặc do cả hai bên yêu cầu công nhận

thuận tình ly hôn và phải được Toà án công nhận bằng bản án ly hôn hoặc quyết

định công nhận sự thuận tình ly hôn của các đương sự. Sau khi bản án hoặc

quyết định của Toà án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng sẽ chính thức chấm dứt.

1.2.1.2. Quan hệ giữa cha, mẹ và con cái sau ly hôn:

15

Ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng nhưng không làm chấm dứt quan

hệ giữa cha, mẹ và con chung. Việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái là quyền lợi

đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ trước và sau khi ly hôn. Tuy nhiên, sau khi ly

hôn sẽ làm phát sinh một vài vấn đề trong quan hệ giữa cha mẹ và con chung. Ví

dụ như sau khi ly hôn, đương nhiên con cái không thể chung sống được với cả

cha lẫn mẹ. Do vậy, việc giao con chưa thành niên cho một trong hai người nuôi

dưỡng, chăm sóc, giáo dục là điều cần thiết. Khi quyết định giao con chưa thành

niên cho ai (trong hai vợ chồng) nuôi dưỡng Toà án phải xem xét đến hoàn cảnh

thực tế của mỗi bên, nhằm đảm bảo lợi ích về mọi mặt cho đứa trẻ. Bên cạnh vấn

đề giao con cho ai nuôi thì việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn, thay đổi nuôi con

sau ly hôn… cũng là những vấn đề mới phát sinh trong quan hệ cha mẹ, con cái

sau khi ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

1.2.2. Quan hệ tài sản

Cũng giống như quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cũng

sẽ chấm dứt kể từ sau khi bản án hay quyết định của Toà án về việc ly hôn có

hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, việc chia tài sản sau ly hôn là vấn đề hết sức phức

tạp, từ việc chia tài sản chung của vợ chồng đến việc xác định tài sản riêng của

các bên trong thời kỳ hôn nhân…Đặc biệt, việc giải quyết quan hệ tài sản trong

ly hôn có yếu tố nước ngoài còn gặp khó khăn hơn nữa bởi việc xác định khối tài

sản khi tài sản đó ở nước ngoài, việc lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài

trong trường hợp tài sản là bất động sản ở nước ngoài. Do đó, khi giải quyết vấn

đề tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam phải kết

hợp việc vận dụng các văn bản pháp luật trong nước, điều ước quốc tế, tập quán

quốc tế, đôi khi cả pháp luật nước ngoài.

16

Đối với trường hợp ly hôn có liên quan đến tài sản là bất động sản ở nước

ngoài thì việc giải quyết vấn đề tài sản tuân theo pháp luật nơi có tài sản. Luật

Hôn nhân và Gia đình năm 2014 không có những điều khoản cụ thể và riêng biệt

về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản đối với trường hợp ly hôn có yếu tố nước

ngoài. Vì vậy, thông thường khi giải quyết vấn đề này, Thẩm phán sẽ áp dụng

pháp luật chung về điều kiện, căn cứ ly hôn. Ví dụ thẩm quyền giải quyết vụ việc

ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Tòa án Việt Nam sẽ áp dụng Luật HNGĐ Việt

Nam, BLDS Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan để giải quyết các vấn

đề hậu quả pháp lý của việc ly hôn nói chung, bao gồm quan nhân thân và quan

hệ tài sản giữa vợ và chồng.

1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài

1.3.1. Các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài

Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài gồm hai

loại là nguồn pháp luật quốc gia và nguồn pháp luật quốc tế. Trong đó, nguồn

pháp luật quốc gia giữ vai trò chủ yếu.

1.3.1.1. Nguồn pháp luật quốc gia

Nguồn pháp luật quốc gia bao gồm tất cả các quy định của pháp luật quốc

gia liên quan đến vấn đề điều chỉnh pháp lý quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu

tố nước ngoài nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

Nguồn pháp luật quốc gia ở mỗi nước có thể là nguồn thành văn nếu thuộc hệ

thống Civil Law cũng có thể là nguồn không thành văn nếu thuộc hệ thống

Common Law hoặc có thể gồm cả nguồn thành văn và không thành văn.

Các quy định nói trên ở Việt Nam được quy định chủ yếu trong các văn

bản pháp luật sau đây:

17

- Hiến pháp. Quyền của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói

chung và hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng bao gồm cả lĩnh vực

ly hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những quyền cơ bản được Hiến pháp

khẳng định. Đó là nhân quyền – quyền tối cao của công dân được Nhà nước và

pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Do vậy,trong các bảnHiến pháp của Việt Nam: Hiến

pháp năm 1946; Hiến pháp năm 1960; Hiến pháp năm 1980; Hiến pháp năm

1992, đặc biệt là bản Hiến pháp năm 2013 đều quy định rất rõ quyền này.

Đây là những quy định có tính nguyên tắc và trên tinh thần của các quy

định này, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã ban hành các bộ Luật,

đạo luật và một hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật nhằm điều chỉnh

lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung và hôn nhân gia đình có yếu tố nước

ngoài nói riêng, bao gồm cả lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài,

- Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 1995, Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm

2005, Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi

hành đều có những quy định liên quan đến vấn đề hôn nhân gia đình nói chung

và vấn đề ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

- Luật Hôn nhân và Gia đình. Đây là đạo luật chuyên ngành điều chỉnh

quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố

nước ngoài. Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chúng đã từng có

các đạo luật hôn nhân và gia đình sau đây: Luật Hôn nhân và Gia đình năm

1959, Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người

nước ngoài năm 1993, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2000. Đi kèm theo từng đạo luật là hệ thống các văn bản hướng

dẫn thi hành cụ thể.

1.3.1.2. Nguồn pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài

18

a. Điều ước quốc tế

Về mặt lý luận, nguồn quốc tế điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình,

trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là các Điều

ước quốc tế toàn cầu, Điều ước quốc tế khu vực và Điều ước quốc tế song

phương. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay mới chỉ có các Điều ước quốc tế

khu vực và song phương giữa các quốc gia có quy định về vấn đề ly hôn có yếu

tố nước ngoài. Song các Điều ước quốc tế loại này không điều chỉnh cụ thể mà

chỉ quy định nguyên tắc chọn pháp luật để áp dụng khi giải quyết vấn đề ly hôn

có yếu tố nước ngoài. Ví dụ như Công ước La Haye về tư pháp quốc tế năm

1902, công ước Bustamante năm 1928 và nhiều Điều ước quốc tế song phương

về tương trợ tư pháp.

b. Tập quán quốc tế

Về mặt lý luận, tập quán quốc tế cũng là nguồn pháp luật điều chỉnh quan

hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố nước

ngoài. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào hệ thống hóa hay tổng hợp

được các tập quán quốc tế cụ thể đã và đang được áp dụng khi giải quyết vấn đề

này trên thực tế. Nó chủ yếu được vận dụng với tính chất tập quán quốc gia trong

khuôn khổ loại nguồn quốc gia và do từng quốc gia tự xác định.

1.3.2. Mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn

có yếu tố nước ngoài

Như đã trình bày ở Mục 1.3.1, nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn

có yếu tố nước ngoài gồm hai loại là nguồn pháp luật quốc gia và nguồn pháp

luật quốc tế. Trong đó, nguồn pháp luật quốc gia giữ vai trò chủ yếu. Hai loại

nguồn này tác động qua lại và bổ sung cho nhau trong việc điều chỉnh quan hệ ly

hôn có yếu tố nước ngoài.

19

Theo thông lệ và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia

với các Điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viêntrong lĩnh vực dân sự nói

chung và trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, nếu cùng một vấn

đề mà quy định của Điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên khác với quy

định của pháp luật quốc gia thì áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế đó.

Trên thực tế hiện nay, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, không có các quy

phạm thực chất thống nhất mà mới chỉ có các quy phạm xung đột thống nhất. Vì

vậy, khi giải quyết vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài nếu quy định của Điều

ước quốc tế mà quốc gia là thành viên khác với quy định của pháp luật quốc gia

thì ưu tiên áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế đó.

1.4. Nguyên tắc và phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài

1.4.1. Nguyên tắc điều chỉnh

Trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói

chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, ngoài việc phải tôn trọng các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia, pháp luật hôn nhân và gia đình quốc

gia được áp dụng theo chỉ dẫn của quy phạm xung đột chúng ta còn phải tuân

theo một số nguyên tắc đặc thù. Cụ thể bao gồm các nguyên tắc sau đây:

- Tôn trọng và bảo vệ quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng phù hợp với pháp

luật quốc gia theo chỉ dẫn của quy phạm xung đột và điều ước quốc tế mà quốc

gia là thành viên.

- Dành cho người nước ngoài chế độ đãi ngộ quốc dân trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

20

- Không áp dụng pháp luật nước ngoài theo chỉ dẫn của quy phạm xung

đột, nếu xét thấy hậu quả áp dụng pháp luật nước ngoài trái với trật tự công cộng

hay các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia của mình.

Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng nêu trên hoàn toàn phù

hợp với những nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế hiện

đại và sẽ là cơ sở để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá

nhân trong giao lưu dân sự quốc tế góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế,

thương mại giữa các quốc gia.

1.4.2. Phương pháp điều chỉnh

Về mặt lý luận cũng như trên thực tế, hiện nay có hai phương pháp điều

chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Đó là phương pháp

thực chất (áp dụng quy phạm thực chất thống nhất) và phương pháp xung đột

(phương pháp áp dụng quy phạm xung đột).

Như đã trình bày ở Mục 1.3.2, hiện nay, trên thế giới chưa có quy phạm

thực chất thống nhất điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêngnên trong lĩnh vực này

hiện chỉ có phương pháp áp dụng quy phạm xung đột. Và như vậy, các vấn đề cụ

thể về ly hôn có yếu tố nước ngoài sẽ được giải quyết theo pháp luật quốc gia

được quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng.

Các quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly

hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm quy phạm xung đột do quốc gia tự xây dựng

và quy phạm xung đột thống nhất do các quốc gia thỏa thuận xây dựng bằng

cách ký kết các Điều ước quốc tế để cùng áp dụng. Tuy nhiên, quy phạm xung

đột do quốc gia tự xây dựng là chủ yếu. Hiện nay, các nước trên thế giới áp dụng

21

các quy phạm xung đột chủ yếu sau đây để hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh

quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài:

- Quy phạm xung đột quy định áp dụng luật theo quốc tịch của đương

sự. Đây là quy phạm chủ yếu và được áp dụng rộng rãi trên thế giới để giải quyết

xung đột pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói

chung và trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng được quy định

trong pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới và cả trong Công ước La

Haye về tư pháp quốc tế năm 1902, công ước Bustamante năm 1928 và nhiều

điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp.

- Quy phạm xung đột quy định áp dụng luật theo nơi cư trú của đương

sự. Quy phạm này được áp dụng trong những trường hợp không áp dụng luật

theo quốc tịch của đương sự mà pháp luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế quy

định. Ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và một số nước Nam Mỹ quy phạm này còn

là quy phạm chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về hôn nhân

và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố

nước ngoài nói riêng.

- Quy phạm xung đột quy định áp dụng luật theo nơi có tài sản của vợ

chồng. Quy phạm này được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực sở hữu, thừa kế bất

động sản v.v…có yếu tố nước ngoài nhưng trong một số trường hợp cũng được

áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài nói chung và trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

- Quy phạm xung đột quy định áp dụng luật theo nơi tòa án có thẩm

quyền giải quyết vụ việc. Quy phạm này được quy định trong pháp luật quốc gia

của các nước và trong cả các Điều ước quốc tế, đặc biệt Điều ước quốc tế về

tương trợ tư pháp và được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực tố tụng dân sự có yếu

tố nước ngoài nhưng trong một số trường hợp cũng được áp dụng để giải quyết

22

xung đột pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và

trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

Việc áp dụng quy phạm xung đột nào cụ thể do từng quốc gia tự quy định

trong pháp luật quốc gia hoặc thỏa thuận với nhau để quy định trong Điều ước

quốc tế. Ví dụ, theo Điều 17 Bộ Luật Dân sự Đức, việc ly hôn được giải quyết

theo luật của nước người chồng mang quốc tịch khi xin ly hôn, và cho phép dẫn

chiếu ngược trở lại hoặc dẫn ciếu đến luật của nước thứ ba. Đồng thời còn quy

định chỉ cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết việc ly hôn khi nội

dung của nó phù hợp với điều kiện ly hôn mà pháp luật của Đức quy định.

Theo quy định của các nước Đông Âu, vấn đề ly hôn được giải quyết theo

pháp luật của nước mà vợ chồng mang quốc tịch lúc xin ly hôn (Điều 21 Luật Tư

pháp quốc tế của cộng hòa Séc, Điều 17 Luật Tư pháp quốc tế của cộng hòa

Balan, Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia định của Bungary…). Trường hợp vợ

chồng có quốc tịch khác nhau lúc xin ly hôn thì áp dụng luật nơi chung sống của

vợ chồng (theo pháp luật Balan) hoặc luật của nước có tòa án giải quyết việc ly

hôn (theo pháp luật của cộng hòa Séc)v.v…

Việc áp dụng luật nơi cư trú của vợ chồng cũng được nhiều nước quy

định. Ví dụ, theo pháp luật của Pháp, việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật

nơi cư trú chung của hai vợ chòng; trường hợp vợ chồng không có nới thường

trú chung thì áp dụng pháp luật của nước mà vợ chồng mang quốc tịch. Tòa án

Pháp cũng vẫn công nhận một số trường hợp việc ly hôn được giải quyết trên cơ

sở pháp luật nước ngoài mặc dù điều kiện ly hôn không được pháp luật của pháp

quy định.

Việc áp dụng luật của nước mà tòa án giải quyết việc ly hôn là thực tiễn

phổ biến ở các nước như Anh, Hoa Kỳ, Singapore, Thụy Sỹ và Trung Quốc….

23

Như vậy, việc xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết vấn đề ly

hôn cũng đồng thời là xác định luật áp dụng cho bản thân việc ly hôn. Ở các

nước này, thẩm quyền của tòa án thường được xác định theo nơi cư trú của

đương sự (theo quy định của nước Anh, là nơi cư trú của người chồng), mặc dù,

về nội dung, khái niệm nới cư trú ở các nước không hoàn toàn giống nhau.

24

Kết luận chƣơng 1

Từ những nội dung đã trình bày ở trên, có thể nói chương 1 đã góp phần lý

giải rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản làm nền tảng cho việc phân tích và

đánh giá nội dung các vấn đề sẽ được trình bày ở các chương 2 và 3. Cụ thể,

chương 1 đã làm rõ khái niệm “ly hôn có yếu tố nước ngoài”, sự thống nhất của

các văn bản pháp luật Việt Nam trong việc xác định khái niệm này. Tác giả đã

rút ra kết luận của mình như sau: “Ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc chấm dứt

quan hệ vợ chồng giữa vợ và chồng mà ít nhất một trong hai bên là người nước

ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc giữa công dân Việt Nam với

nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân theo pháp luật

nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; hoặc tài sản liên quan đến việc ly hôn ở

nước ngoài”.

Tác giả cũng đã phân tích làm rõ thêm hậu quả của việc ly hôn; nguồn

pháp luật điều chỉnh vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài, mối quan hệ giữa các

loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài; các nguyên

tắc và các phương pháp điều chỉnh vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Đặc biệt, tác giả đã nhấn mạnh rằng hiện nay trên thế giới chưa có quy

phạm thực chất thống nhất điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêngnên trong lĩnh vực

này hiện chỉ có phương pháp áp dụng quy phạm xung đột. Và như vậy, các vấn

đề cụ thể về ly hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay được giải quyết theo pháp luật

quốc gia được quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng.

Các quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly

hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm quy phạm xung đột do quốc gia tự xây dựng

25

và quy phạm xung đột thống nhất do các quốc gia thỏa thuận xây dựng bằng

cách ký kết các Điều ước quốc tế để cùng áp dụng. Tuy nhiên, quy phạm xung

đột do quốc gia tự xây dựng là chủ yếu.

Tác giả cũng đã phân tích một số quy phạm xung đột chủ yếu hiện nay

đang được các quốc gia trên thế giới áp dụng. Đây cũng chính là các bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và thực thi pháp luật quốc gia

cũng như ký kết các Điều ước quốc tế để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia

đình có yếu tố nước ngoài nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hoàng Thùy Dương Ngọc Anh (Luận văn Thạc sĩ) (2007), Một

số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài.

2. Nông Quốc Bình (2002), “Các nguyên tắc pháp lý cơ bản điều chỉnh

quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí luật học, số

5/2002, Tr. 12 – 15.

3. Nông Quốc Bình (Luận án tiến sĩ luật học) (2003), Pháp luật điều chỉnh

quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.

4. Bộ luật Dân sự 1995.

5. Bộ luật Dân sự 2005.

6. Bộ luật Dân sự 2015.

7. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004.

8. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

9. Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi

con quốc tế.

10. Các Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam với Pháp

(01/02/2000); Đan Mạch (26/5/2003); Italia (13/06/2003); Ailen (23/09/2003);

Thụy Điển (04/02/2004); 3 cộng đồng ngôn ngữ thuộc vương quốc Bỉ

(17/3/2005); Canada (27/06/2005); bang Quessbec – Canada (15/9/2005); Thụy

Sĩ (20/12/2005) và Tây Ban Nhà (05/12/2007).

11. Các Mác – Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia.

12. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam (2008), Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

13. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946).

71

14. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1959).

14. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1980).

16. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1992).

17. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2013).

18. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình,

lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nýớc

Cộng hòa dân chủ Đức (1980), Hà Nội.

19. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình,

lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết(1981), Hà Nội.

20. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình,

lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc(1982), Hà Nội.

21. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Bugari.

22. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang Nga.

23. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Hungari.

24. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

25. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ba Lan.

26. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ucraina.

27. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Mông Cổ.

28. Lưu Thị Hương (Khóa luận tốt nghiệp) (2011), Quan hệ hôn nhân có

yếu tố nước ngoài trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với

nước ngoài.

29. Luật Hôn nhân và Gia đình 1959.

30. Luật Hôn nhân và gia đình 1980.

72

31. Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

32. Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

33. Nguyễn Hồng Nam (2009), “Vài ý kiến về thẩm quyền giải quyết của Tòa

án Việt Nam đối với vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Tòa án, số 13/2009.

34. Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 về việc hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

35. Nghị quyết số 01/2003/ NQ - HĐTP ngày 16/4/2003 về việc hướng

dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn

nhân gia đình.

36. Nghị quyết số 01/2005/NQ - HĐTP ngày 31/3/2005.

37. Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 về việc hướng thi

hành các quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ

thẩm" của Bộ luật tố tụng Dân sự.

38. Nghị quyết số 03/2012/NQ - HĐTP ngày 03/12/2012 về việc hướng

thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "những quy định chung" của Bộ

luật tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Bộ luật tố tụng dân sự.

39. Nghị quyết số 04/2012/NQ - HĐTP ngày 03/12/2012 về việc hướng

thi hành một số quy định về "Chứng minh và chứng cứ" của Bộ luật tố tụng Dân

sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật

tố tụng dân sự.

40. Nghị quyết số 05/2012/NQ - HĐTP ngày 03/12/2012 về việc hướng

thi hành một số quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết tại Tòa án cấp

sơ thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng Dân sự.

73

41. Lê Thị Thanh, Trương Hồng Quang (2011), “Pháp luật Việt Nam về quan

hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí luật học, số 9/2011, Tr. 50 – 59.13.

42. Bành Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Tiến, (2012), “Quan hệ hôn nhân có

yếu tố nước ngoài tại Việt Nam – nhìn từ góc độ thực tiễn”, Tạp chí khoa học

pháp lý, số 5/2012, Tr. 34 – 41.14.

43. Bành Quốc Tuấn (2015), “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ

hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí nghên cứu lập pháp, số

21/2013, Tr. 28 – 34.

44. Bành Quốc Tuấn (2015), “Những điểm tiến bộ của luật Hôn nhân và

gia đình 2014 về luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước

ngoài”, số 2/2015, Tr. 57 – 63.

74