intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Đào tạo Kỹ năng tư vấn: Phần 1

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

155
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 "Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn" trình bày thực trạng, giải pháp phát triển các DNNVV (smes) và thực thi các cam kết của việt nam. Các nội dung cụ thể được trình bày trong phần 1 như: Đánh giá chung về khả năng duy trì và phát triển của các doanh nghiệp NVV khi Việt Nam là thành viên WTO; Một số nhân tố tác động đến sự phát triển của Doanh nghiệp khi Việt Nam là thành viên WTO và các nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Đào tạo Kỹ năng tư vấn: Phần 1

  1. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn 1
  2. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 4 PHẦN I: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC 6 DNNVV(SMEs) VÀ THỰC THI CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM 1. Đánh giá chung về khả năng duy trì và phát triển của các doanh 6 nghiệp NVV khi Việt Nam là thành viên WTO 1.1. Những thuận lợi 7 1.2. Những khó khăn 9 1.3. Những nguyên nhân cơ bản 10 1.4. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết 11 2. Một số nhân tố tác động đến sự phát triển của Doanh nghiệp khi Việt 11 Nam là thành viên WTO 2.1. Tác động của bối cảnh quốc tế 13 2.2. Tác động của việc việt nam gia nhập WTO 23 2.3. Quyền lợi và nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hội 35 nhập kinh tế quốc tế 3. Một số giải pháp phát triển các DNNVV trong hội nhập kinh tế quốc tế 35 3.1. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp 35 NVV trong thời gian tới 3.2. Một số giải pháp vượt rào cản đối với các SMEs 43 3.3. Một số giải pháp cơ bản trong việc ứng phó các vụ kiện chống bán phá 56 giá 3.4. Giải pháp đối với các doanh nghiệp SMEs về thuế chống trợ cấp 62 4. Một số giải pháp chủ yếu tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp và 65 sản phẩm Việt Nam vào mạng lưới sản xuất phân phối toàn cầu 4.1. Lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp 66 4.2. Phát triển và nâng cấp điều kiện hạ tầng cơ sở 68 4.3. Phát triển nguồn nhân lực 69 4.4. Tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế tri thức 69 4.5. Thực hiện mạnh mẽ cải cách hành chính quốc gia, xây dựng khung khổ 70 chính sách và một thị trường minh bạch mang tính bền vững nhằm phát triển xuất khẩu và tăng cường thu hút FDI của Việt Nam 4.6. Tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn cho hội nhập kinh tế quốc tế 71 của Việt Nam 4.7. Thúc đẩy chuyên môn hoá và tính chuyên nghiệp của hoạt động hiệp hội 72 4.8. Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, tham gia mạng lưới hiệp hội nghề 72 nghiệp và ngành hàng khu vực và toàn cầu 4.9. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp 73 PHẦN II: QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP 77 2
  3. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 1. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp 77 1.1.Các yếu tố hợp thành môi trường kinh doanh 77 1.2.Ảnh hưởng của môi trường kinh doanh tới hoạt động kinh doanh 89 1.3.Biện pháp khai thác môi trường kinh doanh 90 2. Phân đoạn thị trường, thị trường mục tiêu, phân đoạn sản phẩm 94 2.1.Phân đoạn thị trường 94 2.2.Chọn thị trường mục tiêu 101 2.3.Định vị sản phẩm 106 3. Quản trị bán hàng của doanh nghiệp 109 3.1.Đặc điểm bán hàng trong cơ chế thị trường 109 3.2.Các hoạt động nghiệp vụ cơ bản của hoạt động bán hàng 110 3.3.Các hình thức và phương thức bán hàng 112 4.Quản trị mua hàng 116 4.1.Hành vi mua hàng của người tiêu dùng 116 4.2.Hành vi mua hàng của tổ chức 122 5.Xúc tiến bán hàng trong hoạt động kinh doanh thương mại 129 5.1.Bản chất của xúc tiến 129 5.2.Các bước tiến hành xúc tiến bán hàng 130 5.3.Hệ thống xúc tiến bán hàng 134 5.4.Xác định ngân sách cho hoạt động truyền thông 138 6.Chi phí, doanh thu và lợi nhuận 139 6.1.Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 139 6.2.Doanh thu của doanh nghiệp 141 6.3.Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp 145 PHẦN 3: KỸ NĂNG TƯ VẤN 149 1. Một số thí dụ thực hành đóng vai tư vấn 149 2.Chức năng tư vấn 152 3. Một số nội dung tư vấn 153 4. Các hình thức tư vấn 153 4.1. Tư vấn gặp mặt trực tiếp 154 4.2. Tư vấn gián tiếp 154 5. Quy trình tư vấn 155 6. Các kỹ năng và phẩm chất cần thiết của cán bộ tư vấn 155 6.1. Kỹ năng của cán bộ tư vấn 155 6.2. Phẩm chất của cán bộ tư vấn 157 7. Các nguyên tắc và biện pháp nâng cao hiệu quả tư vấn 159 TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 3
  4. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Lời nói đầu Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam bước vào một sân chơi rộng lớn với vô số luật lệ vừa đa dạng vừa phức tạp. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp phải tuân thủ những định chế, hiệp định của tổ chức Thương mại quốc tế, cụ thể là những cam kết đã được các nước thành viên WTO và Việt Nam ký kết. Đã bước sang năm thứ năm kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhìn lại toàn cảnh, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là đang có tốc độ phát triển rất mạnh mẽ và bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội của hội nhập kinh tế thế giới là không ít thách thức mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt. Những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong thời kỳ hậu WTO là thiếu hiểu biết về các luật chơi của WTO mà cụ thể là sự tiếp cận với các thị trường xuất khẩu, những cơ hội đầu tư, công nghệ, lực lượng lao động có kỹ năng và thị trường vốn. Tham gia WTO thực chất là chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với tình hình quốc tế, phù hợp với các định chế thương mại của WTO và cam kết mở cửa thị trường hàng hóa. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp có được chính sách kinh doanh ổn định, có điều kiện xuất khẩu hàng hóa ra nhiều thị trường, được nhập khẩu thuận lợi hơn, được quyền tiếp cận thông tin cần thiết nhưng cũng phải cạnh tranh ngay trên sân nhà. Vấn đề cần lưu ý là, ngày nay, sản phẩm của doanh nghiệp được đánh giá không chỉ ở chất lượng, giá cả, mẫu mã mà còn cần phải tiêu chuẩn hóa, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, quan tâm tới người lao động ở khía cạnh môi trường làm việc, an toàn lao động cùng những cam kết về văn hóa doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng của Việt Nam bên cạnh những hoạt động kinh doanh chủ yếu, nên đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh, đồng thời liên kết thành các tập đoàn để mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt cần chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu chung cho sản phẩm “Made in Vietnam”, đa dạng các dòng sản phẩm và dịch vụ. Nhằm tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các khó khăn, thách thức để hệ thống các DNNVV phát triển khi Việt Nam gia nhập WTO và đề xuất các giải pháp tích cực tạo điều kiện hỗ trợ tốt hơn cho khối DNNVV ở Việt Nam phát triển xứng đáng với vị trí và lợi thế trong nền kinh tế. Hiệp hội DNNVV Việt Nam giao cho Viện Khoa học quản trị Doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai dự án “Tăng cường năng lực cho hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên (chú trọng tới DNNVV khu vực nông thôn) trong quá trình hội nhập”. Việc biên soạn giáo trình này nhằm giúp cho Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nâng cao khả năng tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới theo thể chế kinh tế thị trường nhằm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhân đây, Ban Quản lý Dự án chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự tài trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Ôxtrâylia (AusAID) và Bộ phát triển quốc tế Anh (DfID) cho 4
  5. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Dự án thông qua Chương trình HTKT Hậu gia nhập WTO. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Chương trình HTKT Hậu gia nhập WTO, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để Ban quản lý Dự án “Tăng cường năng lực cho hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên (chú trọng tới DNNVV khu vực nông thôn) trong quá trình hội nhập” thực hiện thành công Dự án này. 5
  6. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- PHẦN I: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DNNVV(SMEs) VÀ THỰC THI CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM 1. Đánh giá chung về khả năng duy trì và phát triển của các doanh nghiệp NVV khi Việt Nam là thành viên WTO 1.1. Những thuận lợi Qua nghiên cứu thực tế về hiện trạng và khả năng duy trì và phát triển của doanh nghiệp khi Việt Nam là thành viên của WTO, có thể tổng hợp những thuận lợi của doanh nghiệp như sau: Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế, được đối xử “tối huệ quốc” (MFN), thuế quan thấp hơn cho hàng xuất khẩu thâm nhập thị trường các nước một cách linh động. Đặc biệt, đẩy mạnh thương mại và nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Là nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu gạo mà không cần hạn ngạch nhập khẩu với mức thuế giảm theo Lộ trình đàm phán của Việt Nam với WTO. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, Việt Nam có cơ hội lựa chọn nhập khẩu các loại hàng hóa cao cấp, công nghệ tiên tiến để phát triển các ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Việt Nam được bình đẳng giải quyết tranh chấp trong quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam nâng cao vị thế trong các cuộc đàm phán thương mại. Được hưởng quy chế của WTO đối với các nước đang phát triển, Việt Nam được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ “cấm” trợ cấp xuất khẩu trong thời gian 8 năm. Để bảo đảm tính thống nhất của chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cũng như sự phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế, các quy định của WTO, Việt Nam cần loại bỏ dần những bất hợp lý trong pháp luật về thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Việt Nam có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới của nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang tăng mạnh góp phần chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ 6
  7. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- cạnh tranh trên thị trường, tạo sân chơi cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng, phát triển dịch vụ... Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm... Sau 10 năm gia nhập ASEAN và thực thi các cam kết của AFTA, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN tăng từ 1 tỷ USD năm 1995 lên 2,3 tỷ USD năm 2004; kim ngạch nhập khẩu từ 2,3 tỷ USD lên 6 tỷ USD sau 10 năm. Về quan hệ đầu tư: các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam hơn 650 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 11 tỷ USD và đã thực hiện 5 tỷ USD. Sau 5 năm thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, từ mức xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt khoảng 200 triệu USD vào năm 1995 và khoảng 1 tỷ USD vào cuối năm 2001 (thời điểm Hiệp định bắt đầu có hiệu lực), đến năm 2004, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đã là 5 tỷ USD và đến cuối năm 2005 là khoảng 6 tỷ USD. Đến nay, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư vào Việt Nam 2,6 tỷ USD. Với những kết quả trên có thể đưa ra nhận định: gia nhập WTO sẽ đưa đến khả năng tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại trong tương lai gần. 1.2. Những khó khăn Qua phân tích thực trạng và xem xét các tiêu chí đánh giá năng lực của doanh nghiệp thương mại giai đoạn 2001-2006 cho thấy, những hạn chế chủ yếu, ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thương mại khi hội nhập kinh tế quốc tế là: Công tác chuẩn bị hành trang của doanh nghiệp thương mại như vốn, công nghệ, nhân lực, thị trường, sản phẩm là chưa đáp ứng yêu cầu. Việc nhận thức không rõ ràng về cơ hội và thách thức các cam kết Việt Nam - WTO là nguyên nhân trực tiếp tạo sức ỳ chờ đợi trong khi doanh nghiệp phải tham gia cạnh tranh ngày càng tăng theo cam kết mở cửa thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp đều có thái độ tin tưởng rằng, họ có thể tồn tại và phát triển khi những cam kết được thực thi một cách đầy đủ. Một số khá lớn doanh nghiệp thương mại còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hóa và sở hữu công nghiệp. Giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp thương mại trong nước còn ở mức cao hơn các hàng hóa tương tự trong khu vực và thế giới, điều này không những là trở ngại cho các doanh nghiệp thương mại hiện đang xuất khẩu mà cả ở những doanh nghiệp đang có kế hoạch xuất khẩu. Việc giảm thuế theo lộ trình sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh hàng nhập khẩu ngay trên thị trường nội địa. 7
  8. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Chất lượng sản phẩm còn hạn chế và mẫu mã lạc hậu. Các mặt hàng của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung chất lượng còn thấp, không ổn định nên khó thâm nhập thị trường nước ngoài. Khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế do thiếu thông tin và các dịch vụ hỗ trợ. Các doanh nghiệp thương mại không có đủ nguồn lực để tự tìm kiếm thông tin thị trường, tìm đối tác, bạn hàng... và cũng ít được trợ giúp từ các trung tâm thông tin, tư vấn, ngân hàng, hiệp hội, dịch vụ hỗ trợ thương mại... Nhiều doanh nghiệp phải tự tìm kiếm từ hệ thống bạn hàng, đối tác và khai thác trên mạng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc thuê đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh do các điều kiện, thủ tục phức tạp... Công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Đây là tác nhân chủ yếu làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp và giá thành cao. Tình trạng công nghệ máy móc lạc hậu làm chi phí tiêu hao vật tư nhiều gấp 1,5 lần mức trung bình của thế giới, năng suất lao động thấp làm tăng giá thành sản phẩm, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. So với Thái Lan, trình độ công nghệ của Việt Nam tụt hậu khoảng 25-30%, chi phí đầu vào cao hơn 30-50% so với các nước ASEAN. Năng lực về vốn còn yếu. Do hầu hết các doanh nghiệp thương mại có quy mô nhỏ nên vốn ít, lại khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, nhất là các nguồn vốn trung và dài hạn. Một trong những lý do khiến cho các doanh nghiệp thương mại không tiếp cận được vốn là do các doanh nghiệp này không có tài sản thế chấp. Một số lý do khác như thủ tục để xin vay vốn còn nhiều công đoạn, việc xác định tài sản thế chấp còn nhiều hạn chế, cũng như phụ thuộc nhiều vào năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng. Nguồn nhân lực có kỹ năng còn ít. Lực lượng lao động Việt Nam nhìn chung kỹ năng thấp, giá lao động rẻ nhưng không ổn định và có chiều hướng tăng. Vì vậy, đội ngũ lao động Việt Nam có thể nói vừa thừa vừa thiếu, không đáp ứng nhu cầu thị trường. Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế, hơn 84% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Chênh lệch giữa tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học và kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật có xu hướng ngày càng giãn rộng (1/1,5/1,7) trong khi tỷ lệ hợp lý tại các nước phát triển là 1/4/10. Như vậy, cơ cấu lao động của nước ta không hợp lý, ngoài ra chất lượng đào tạo thấp, không phù hợp với nhu cầu thực tế. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp thương mại có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế- xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, dẫn đến khuynh hướng phổ biến là hoạt động quản lý theo “kinh nghiệm”, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: quản lý tổ chức, phát triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Chưa có chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp dài hạn. Nhiều doanh 8
  9. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- nghiệp hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận thị trường (doanh nghiệp tư nhân) và định hướng khách hàng (doanh nghiệp nhà nước). Hiện nay, do công nghệ lạc hậu, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp trong khi nhu cầu thị trường thế giới đã có sự chuyển dịch. Còn có tình trạng doanh nghiệp bắt chước mẫu thiết kế và mượn nhãn mác sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, không đầu tư vào nghiên cứu, triển khai, tiếp thị và đào tạo. Thay vào đó, các công ty lại nỗ lực tìm kiếm trợ giúp từ phía Chính phủ. Cho đến nay, chiến lược kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn được xây dựng một cách thụ động, dựa chủ yếu vào kinh nghiệm hơn là căn cứ vào sự phân tích thị trường; còn việc xây dựng chiến lược cạnh tranh thì căn bản dựa trên cơ sở năng lực và sản phẩm hiện tại mà ít tính đến lợi thế so sánh, chưa có sự tham gia của yếu tố khách hàng, của đối thủ cạnh tranh và hầu như thường xuyên vắng mặt lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thiếu các nhà quản trị chuyên nghiệp, việc hoạch định chiến lược kinh doanh vẫn còn nặng về thủ tục hành chính, thậm chí dập khuôn theo quy trình hoạch định chiến lược phát triển ở cấp quốc gia hoặc cấp ngành. Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, doanh nghiệp chưa được chủ động trong việc khai thác đất đai, tiềm năng, nhiều nơi tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động quá thoáng, nơi lại quá gò bó, cứng nhắc. 1.3. Những nguyên nhân cơ bản - Hầu hết các doanh nghiệp thương mại Việt Nam chưa nghiêm ngặt thực hiện quy trình xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn. - Chưa đẩy mạnh ứng dụng chiến lược marketing tổng thể, marketing đa dạng sản phẩm và đa thương hiệu. Khi sử dụng chiến lược này, các công ty thường tập trung đi tìm thị trường mới, thay vì tập trung nuôi dưỡng thị trường đã có; thực hiện các công việc marketing mang tính thời vụ và dựa vào kinh nghiệm của bản thân doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể thì 90% các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ). Hơn nữa có quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường khiến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp bị triệt tiêu. - Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện lựa chọn kinh doanh các mặt hàng chất lượng cao, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh. - Phần lớn các doanh nghiệp thương mại chưa xây dựng được mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài. - Hệ thống dịch vụ của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam còn thiếu và yếu. - Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản quý báu của doanh nghiệp, hệ thống quản lý chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu. - Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp 9
  10. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- thương mại chưa chặt chẽ, làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp. - Chi phí kinh doanh còn cao; năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tốt; cơ cấu tổ chức và quản lý hệ thống doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, tiếp cận công nghệ mới, tiên tiến thay cho công nghệ lạc hậu. - Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa thực sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp thương mại nâng cao sức cạnh tranh. Tóm lại, nâng cao năng lực của các doanh nghiệp thương mại là vấn đề bức xúc, là mối quan tâm, lo ngại không chỉ của doanh nghiệp mà cả của Nhà nước.. 1.4. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp thương mại đã và đang đóng góp ngày càng quan trọng hơn trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Các doanh nghiệp thương mại đang đứng trước những thách thức và cơ hội to lớn, đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu ngày càng gay gắt của cơ chế kinh tế thị trường và sức ép hội nhập quốc tế. Để duy trì và phát triển doanh nghiệp thương mại khi Việt Nam là thành viên WTO, cần giải quyết tốt các vấn đề sau: Nâng cao năng lực quản trị kinh doanh của các giám đốc và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp thương mại. Đội ngũ quản lý cần được chú trọng nâng cao những kỹ năng cần thiết và cập nhật những kiến thức hiện đại để đủ sức bước vào nền kinh tế tri thức. Một số kiến thức và kỹ năng cần được hệ thống hóa và cập nhật như: kỹ năng quản trị doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp, kỹ năng thuyết trình, đàm phán, giao tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý thời gian vì những kỹ năng này kết hợp với kiến thức quản trị có hiệu quả sẽ tác đông quyết định đối với các doanh nhân, qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực quản trị chiến lược của cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp thương mại. Sự yếu kém về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong những nguyên nhân của sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có doanh nghiệp hoạt động rất thành công ở qui mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng qui mô. Các doanh nghiệp thương mại phải xây dựng định hướng phát triển một cách bền vững trong cuộc cạnh tranh. Nhiều trường hợp doanh nghiệp phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ (các vụ đổ vỡ như Minh Phụng Epco, Tamexco là những ví dụ đáng xem xét để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm hữu ích). Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến lược cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại, cần chú trọng đặc biệt những kỹ năng: Phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, lý thuyết và quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý. Về mặt chiến lược cạnh tranh, các doanh nghiệp thương mại Việt Nam còn rất yếu về liên kết nhóm, đặc biệt trên phạm vi quốc gia. Vừa cạnh tranh vừa hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh; nếu các doanh nghiệp chỉ thuần tuý chú ý đến mặt cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì sẽ dẫn đến sai lầm, cần hợp tác đi đôi với cạnh tranh để giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. 10
  11. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Tăng cường vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ chức chuyên môn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại. So với nhiều nước có nền kinh tế kém phát triển, vai trò của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ ở nước ta trong việc giao lưu, xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn còn hạn chế, mờ nhạt cả về số lượng, qui mô và nội dung hoạt động. Vì vậy cần chú trọng hơn nữa việc tổ chức các buổi trao đổi sinh hoạt, giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin về ngành và về hoạt động kinh doanh. Những hoạt động đó tuy đơn giản nhưng rất bổ ích, tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện năng lực của các giám đốc và cán bộ quản lý kinh doanh. Nâng cao khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực canh tranh quốc tế của doanh nghiệp thương mại. Hiện nay mặc dù đã có những bước tiến lớn nhưng nếu so với trình độ quốc tế thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn tụt hậu một khoảng cách đáng kể. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế thì chính bản thân các giám đốc và các cán bộ quản lý DN trước hết cần tăng cường khả năng đó. Đây là đòn bẩy nhân tố con người trong các tổ chức kinh doanh. Điều này các doanh nhân và nhà quản lý trong các doanh nghiệp thương mại có thể thực hiện được. Tuy nhiên, con số này còn quá ít và phát triển còn mang tính tự phát. Đã đến lúc ở cấp vĩ mô cần quan tâm có tính hệ thống nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Những kinh nghiệm và sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng được trân trọng, cần chọn lọc và áp dụng. Sự cần thiết hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các doanh nghiệp thương mại, cơ chế chính sách của Nhà nước cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực sự tạo điều kiện hỗ trợ sức cạnh trang cho các doanh nghiệp thương mại trên thương trường trong và ngoài nước. Sự cần thiết hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp thương mại, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. 2. Một số nhân tố tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp khi Việt Nam là thành viên WTO Khi Việt Nam là thành viên của WTO, có nhiều nhân tố tác động đến khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thương mại Việt Nam như: ảnh hưởng chung của bối cảnh kinh tế quốc tế; các yếu tố về công nghệ, bí quyết kinh doanh thành công trong kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. 2.1. Tác động của bối cảnh quốc tế 2.1.1. Xu hướng tự do hoá thuơng mại toàn cầu Xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu là một xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Đây là một quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng. Xu hướng tự do 11
  12. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- hóa thương mại toàn cầu một mặt tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình, tăng trưởng và làm ổn định kinh tế, mặt khác làm gia tăng tình trạng phụ thuộc lẫn nhau và đang đặt ra những thách thức cực kỳ gay gắt cho các nước đang phát triển: sức ép cạnh tranh, sức ép chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian ngắn và sự lệ thuộc ngày càng tăng vào các nhân tố có độ ổn định kém của nền kinh tế thế giới (như luồng vốn đầu tư, chỉ số của thị trường tài chính và thị trường chứng khoán...). Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đ- ường tất yếu khách quan mà đất nước phải trải qua để tiến nhanh, trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả nước ta chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất. Bởi hội nhập kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận động, phải năng động. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hóa thương mại, đa các doanh nghiệp tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp th- ương mại nói riêng một số cơ hội sau: Cơ hội được tiếp cận nhanh chóng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Việc chuyển giao công nghệ sẽ góp phần rút ngắn thời gian nghiên cứu cơ bản mà đi ngay vào nghiên cứu ứng dụng. Việc làm này sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước tận dụng được những nghiên cứu đi trước, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm, bảo vệ thị trường nội địa và chủ động tham gia thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thương mại sẽ có cơ hội lớn hơn về thị trường để mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp có thêm nhiều điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng. Việc tận dụng được nguồn vốn vay ưu đãi chính thức, vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài... sẽ hỗ trợ rất nhiều cho doanh nghiệp trong việc tăng cường năng lực sản xuất hàng hóa và tham gia vào quá trình thương mại hóa toàn cầu một cách thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp thương mại có điều kiện để tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các dây chuyền sản xuất hoặc các công đoạn kinh doanh của các công ty lớn. Với việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, sự vận động các nguồn lực cũng mang tính chuyên môn hóa trên cấp độ quốc tế, và lao động cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực. Bên cạnh những ảnh hưởng mang tính tích cực, cạnh tranh quốc tế đặt các doanh nghiệp của mỗi quốc gia trước những thử thách gay gắt. Đối với các doanh nghiệp th- ương mại Việt Nam, thách thức hàng đầu chính là tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng rào bảo hộ, thuế quan và phi thuế quan, cũng như các chính sách ưu đãi đang dần bị loại bỏ. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới mình, phát triển không ngừng để nâng cao năng lực cạnh tranh. 12
  13. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Một thách thức nữa của hội nhập đối với các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp thương mại Việt Nam nói riêng là hàng hóa dịch vụ sẽ ngày càng phải đương đầu với những rào cản thương mại quốc tế mới. Muốn tránh được tình trạng này, các doanh nghiệp cần phải chủ động cùng với các cơ quan chức năng về pháp lý và xúc tiến thương mại của Chính phủ nắm bắt thông tin liên quan tới các nội dung, lộ trình hội nhập, các vấn đề nóng bỏng phát sinh trong quá trình này. Việc trang bị những kiến thức về thị tr- ường nước ngoài, nắm bắt tập quán và luật kinh doanh ở các thị trường là điều cần thiết để các doanh nghiệp có thể tự bảo vệ mình trong hội nhập. 2.1.2. Xu hướng hợp nhất của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, bình diện kinh tế thế giới đã có sự thay đổi lớn với sự bắt tay của các cường quốc kinh tế, chi phối và ảnh hưởng tới môi tr- ường kinh doanh toàn cầu. Đó là xu hướng hợp nhất các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Xu thế này về thực chất một mặt thúc đẩy, một mặt lại hạn chế quá trình toàn cầu hóa, do có sự phân định ưu đãi tương đối thông qua các quy tắc, thể chế nhằm đem lại những lợi ích riêng cho những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia này. Các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia với những khoản vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học khổng lồ, đội ngũ nhân tài khoa học và kỹ thuật phong phú... đã chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu và vai trò lũng đoạn khoa học và kỹ thuật mới, từ đó mở rộng ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế thế giới. Đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam, xu thế này có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO. Nguy cơ bị thu hẹp sản xuất, chuyển đổi sang lĩnh vực khác, thậm chí nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản do không cạnh tranh được với các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia. Các doanh nghiệp trong nước phải sắp xếp lại, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nhân sự để làm sao hàng hoá sản xuất ra có giá cả, chất lượng, mẫu mã tốt hơn, rẻ hơn trước để đủ sức cạnh tranh. Trong trường hợp tổ chức lại sản xuất rồi, thay đổi nhân sự rồi nhưng hàng hoá sản xuất ra vẫn không cạnh tranh được, thị phần ngày càng giảm đi, hàng hoá sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ thì đương nhiên doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, phải tính toán lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, có thể phải chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, thậm chí nếu hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra không tiêu thụ được, không trả được vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ, phá sản. Nguy cơ này cũng rất rõ ràng bởi vì các doanh nghiệp trong nước thường yếu kém hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài quản lý...về năng lực quản trị, trình độ tiếp thị. Nguy cơ này cũng xuất phát từ chỗ bản thân hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước kém chất lượng hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, về tên tuổi, thương hiệu... Thứ hai, nguy cơ bị các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia thôn tính, mua lại, chèn ép. Trở thành thành viên của WTO cũng có nghĩa là Việt Nam được hưởng mọi quy chế ưu đãi và quy tắc buôn bán, đầu tư ngang với các thành viên khác của WTO, thị 13
  14. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- trường Việt Nam trở thành một bộ phận của thị trường thế giới. Các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị trường, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam. 2.2. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO 2.2.1. Việc thực thi các cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh... Như vậy, các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi hoạt động hay tiến hành đầu tư cần phải tuân thủ một cách đúng đắn các cam kết này. Những tác động tích cực tới các doanh nghiệp Việt Nam do việc gia nhập WTO mang lại thể hiện chủ yếu ở ba mặt: mở rộng thị trường xuất khẩu; mở rộng thị trường cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp, các ngành kinh tế; thúc đẩy các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại, phát triển. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng giá trị xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế của nước ta, khi mà hiện nay giá trị xuất khẩu chiếm khoảng 50% GDP. Nước ta gia nhập WTO, xuất khẩu hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ không chỉ bị bó hẹp trong các hiệp định thương mại song phương và khu vực mà có thị trường mở rộng ra toàn cầu. Các doanh nghiệp và hàng hóa của nước ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp và hàng hóa của các nước khác (theo nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia). Bên cạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu, gia nhập WTO còn mang lại những cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cho cả nền kinh tế đang phát triển mạnh nước ta. Ngoài ra, một trong những yếu tố mang tính tích cực do việc nước ta gia nhập WTO mang lại là: do phải cạnh tranh với hàng hóa, dịch vụ nước ngoài, sức ép tồn tại để tránh thua lỗ, tránh phá sản sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp, các ngành kinh tế trong nước phải nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mại là phải chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế như một loại ngôn ngữ quốc tế thống nhất về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa. Trong khi đó, với trình độ công nghệ, quản lý và khả năng tài chính còn hạn chế, quy mô nhỏ, chi phí sản xuất cao, kiểu dáng sản 14
  15. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị, nhiều doanh nghiệp khó có thể áp dụng ngay tiêu chuẩn quốc tế đối với sản phẩm, hàng hóa của mình. Do vậy, các doanh nghiệp rất khó tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp còn thiếu thông tin về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, đối thủ cạnh tranh cùng loại khiến doanh nghiệp khó có những bước đi thích hợp để tạo lợi thế cạnh tranh hàng hóa cùng loại. Môi trường kinh doanh, pháp lý không ổn định và năng lực quản lý còn yếu là những thách thức của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn hiểu khái niệm về TBT rất mơ hồ, mờ nhạt thậm chí cả cấp chỉ đạo, hoạch định chiến lược,… do chưa hiểu, chưa nhận thức được vài trò và tầm quan trọng của TBT, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện TBT là tất yếu vì chỉ có như vậy hàng hóa của các doanh nghiệp mới có thể “hội nhập” được, nhiều doanh nghiệp hiểu được điều này nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng và tốt được, có nhiều doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn chất lượng của các nước mà họ định xuất khẩu hàng hóa của mình sang nhưng họ lại không đầu tư cho việc mua thiết bị, máy móc để thử nghiệm, đó cũng là hạn chế lớn của các doanh nghiệp. Hầu hết các sản phẩm của các doanh nghiệp giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa, khó thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc bị rỡ bỏ, các sản phẩm của các doanh nghiệp sẽ dễ dàng vào thị trường nước ngoài hơn, nhờ thế sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ. Hội nhập WTO khiến cho hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các doanh nghiệp cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài. Xét về lâu dài, trước áp lực cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ phải tích cực nâng cao năng lực quản lý, đổi mới công nghệ, chú trọng sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng, nghiên cứu kỹ về yêu cầu đối với khu vực thị trường xuất khẩu, pháp luật chi phối, các doanh nghiệp cần trang bị đầy đủ kiến thức về tiêu chuẩn chất lượng, về các rào cản kỹ thuật, về hội nhập kinh tế quốc tế và cải thiện văn hoá doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa (tạo ra được các sản phẩm đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây ảnh hưởng đến môi trường), giá thành thấp từ đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, doanh nghiệp sẽ phát triển bền vững hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế bởi nếu các doanh nghiệp không tuân theo thì chính từ áp lực cạnh tranh mà nhiều doanh nghiệp không có khả năng tồn tại sẽ bị phá sản, ra khỏi thị trường. 2.2.2. Việc thực thi các cam kết về quyền kinh doanh, phân phối Theo đánh giá chung, ngành thương mại là một trong những ngành kinh tế chịu sức ép trực tiếp và đầu tưiên khi thị trường được “mở” bởi các cam kết về quyền kinh doanh, phân phối. Vì việc mở cửa thị trường bán lẻ sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế trong n- ước và chi phối đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, của các doanh nghiệp thương mại nói riêng. Đó là sự thâm nhập, chiếm lĩnh thị phần bán lẻ, bán buôn của các lực lượng, các 15
  16. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- “đại gia” phân phối nước ngoài. Tuy Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới phân phối tương đối rộng khắp nhưng còn nhiều bất cập như vốn nhỏ, nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế... và thiếu tính chuyên nghiệp, thể hiện ở việc tổ chức hệ thống phân phối ở từng địa phương, khu vực và toàn quốc chưa được đồng bộ, chặt chẽ; các công tác xúc tiến thương mại, marketing, dự báo thông tin thị trường chưa được quan tâm và chưa chuyên nghiệp, công tác xây dựng thương hiệu chưa được coi trọng... Một điểm yếu nữa đối với các doanh nghiệp thương mại trong nước là thiếu sự liên kết trong cùng lĩnh vực và bán lẻ để tạo ra các chuỗi cung ứng. Chính những điểm yếu này sẽ khiến các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong thời gian tới sẽ dễ bị chi phối và mất dần thị phần về tay các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc buộc phải tính toán lại phương án liên kết, nhượng quyền kinh doanh hoặc thuê chuyên gia nước ngoài điều hành họat động kinh doanh. Việc các doanh nghiệp thương mại phải đối mặt với sự xuất hiện của hành vi phản cạnh tranh. Do hệ thống văn bản pháp lý mới được định hình ở Việt Nam, có thể xuất hiện những hành vi làm giảm sự cạnh tranh giữa các đối thủ như: các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền; các hành vi tập trung kinh tế (sáp nhập, mua lại) và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đối với hành vi thứ nhất, các doanh nghiệp thương mại lớn sẽ giảm giá thấp hơn chi phí để ngăn cản đối thủ cạnh tranh và sau đó tăng giá. Hành vi này thường diễn ra ở 2 dạng liên kết: liên kết dọc giữa nhà sản xuất, nhập khẩu và nhà bán buôn, bán lẻ; và liên kết ngang giữa các nhà nhập khẩu với nhau, nhà bán buôn với nhau hoặc bán lẻ với nhau. Trên thực tế, hành vi hạn chế cạnh tranh đã diễn ra ở liên kết dọc còn liên kết ngang thì chưa do tính quy mô yếu và phân tán giữa các nhà phân phối. Tuy nhiên, điều này có thể sẽ thay đổi khi các doanh nghiệp thương mại nước ngoài được “mở cửa” hoàn toàn trong thời gian tới. Vấn đề là phải phân biệt được ranh giới trong việc các liên kết này có mang tính hạn chế cạnh tranh hay không. Đặc biệt là khả năng các nhà phân phối nước ngoài có tiềm lực mạnh khi tạo lập hệ thống thông qua các phương pháp như khuyến mại lớn, tín dụng, giảm giá... sẽ rất khó phân biệt. Cũng tương tự, các hành vi tập trung, sáp nhập, mua lại hiện nay là không đáng kể, do quy mô các doanh nghiệp phân phối trong nước nh hiện nay không có nhiều doanh nghiệp lớn. Đáng chú ý hiện nay là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi này hiện nay đang diễn ra ngày càng nhiều. Trên thực tế đã có quá nhiều hành vi thương mại gièm pha sản phẩm của nhau, chỉ dẫn gây nhầm lẫn, hoặc như bán hàng đa cấp bất chính. Ngoài các yếu tố cơ bản chủ quan nói trên, một yếu tố khách quan, vĩ mô ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết về quyền kinh doanh, phân phối của các doanh nghiệp thương mại là vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực phân phối. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là bản thân sự can thiệp của Nhà nước nếu không hợp lý sẽ hạn chế tác động tích cực của chính sách và pháp luật cạnh tranh hoặc thậm chí là giảm sự cạnh tranh. Xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh có đủ chức năng và bộ máy kiểm tra và cân đối quyền lực trên thị trường trong lĩnh vực phân phối để hạn chế những hành vi phản cạnh tranh nói trên. Cục Quản lý cạnh tranh được thành lập từ tháng 6/2006, có đầy đủ nhiệm vụ và 16
  17. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- quyền hạn trong việc điều tra các vụ việc cạnh tranh, kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ và đặc biệt được quyền xử lý, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, do mới thành lập nên chưa thể đánh giá hết những hiệu quả và hạn chế trong hoạt động của cơ quan này. Như vậy, lộ trình mở cửa của Việt Nam khi thực hiện các cam kết về quyền kinh doanh, phân phối sẽ tạo ra những sức ép đáng kể lên hầu hết các doanh nghiệp thương mại. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của các chuyên gia thì mức độ tác động là vừa phải, chứ không quá mạnh để đè bẹp ngay các doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp thương mại trong nước cũng phải tự thân vận động và thích ứng trong điều kiện hội nhập mới 2.2.3. Về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp NVV Việt Nam. (1). Về vốn của doanh nghiệp Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2012, cả nước có 205.689 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 676.400 tỷ đồng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2012) thì quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 38.9% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước (341.600 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 35,2% (309.400 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25,9% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước (226.900 tỷ đồng). Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (theo số liệu gần đây nhất đầu năm 2009, bình quân mỗi doanh nghiệp là 23,95 tỷ đồng), trong đó số doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng có 21.957 doanh nghiệp (chiếm 10,67% tổng số doanh nghiệp), doanh nghiệp có quy mô vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng là 27.233 doanh nghiệp (chiếm 13,24%), số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng là 95.873 doanh nghiệp (chiếm 46.61%), số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng là 26.169 doanh nghiệp (chiếm 12.72%), số doanh nghiệp có số vốn từ 10 đến 50 tỷ là 24.728 doanh nghiệp (chiếm 12,02%), số doanh nghiệp có số vốn từ 50 đến 200 tỷ đồng là doanh nghiệp 6834 (chiếm 3,32%), số doanh nghiệp có vốn từ 200 đến 500 tỷ đồng là 1737 doanh nghiệp (chiếm 0.84%), số doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng là 1158 doanh nghiệp (chiếm 0.58% tổng số). Như vậy, có thể thấy đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là điều đáng lo khi các chính sách - bảo hộ của Nhà nước đến năm 2006 hầu như không còn nữa vì theo lịch trình giảm thuế quan cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng bị các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại. Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và việc huy động vốn trong dân vào đầu tư sản xuất, kinh doanh chưa được cải thiện. Các doanh nghiệp Nhà nước được ưu đãi hơn về vốn trước hết là được cấp vốn ban đầu từ ngân sách, cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh... Còn các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu 17
  18. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- tư nước ngoài chủ yếu dựa vào vốn tự có của cá nhân. Với khả năng tiếp cận nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp có tình trạng phổ biến là chiếm đụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp. (2). Hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu Về hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp: theo một điều tra của tác giả với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên, 84% số doanh nghiệp còn lại cho rằng công tác nghiên cứu thị trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, họ chỉ tiến hành nghiên cứu trước khi có ý định xâm nhập thị trường. Một số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, chỉ chưa đầy 10% số doanh nghiệp là thường xuyên thăm thị trường nước ngoài, chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước, 42% số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có cuộc đi thăm thị trường nước ngoài, và khoảng 20% không một lần đặt chân lên thị trường ngoài nước. Các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân thì khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài hầu như không có. Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường và đã tiến hành nghiên cứu, song "lực bất tòng tâm", vốn ít, ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường rất hạn hẹp, khả năng thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn kém, hiệu quả không cao. Do khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của cán bộ còn yếu, lợi ích đem lại không đủ bù chi phí. Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Các doanh nghiệp còn rất hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học, thống kê trong nghiên cứu thị trường. Đa số các doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được họ tiến hành phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo. Các thông tin sơ cấp về thị trường không có đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ động, không chắc chắn. Về việc xác định thị trường mục tiêu: các doanh nghiệp thường lựa chọn thị trường mục tiêu theo cách phản ứng lại với thị trường, thấy cơ hội của đoạn thị trường nào hấp dẫn thì tập trung vào đoạn thị trường đó. Chẳng hạn, khi hạn hán mất mùa ở Inđônêxia làm xuất hiện nhu cầu nhập khẩu gạo thì họ tập trung vào đó. Cũng tương tự như với thị trường Irắc về đổi lương thực lấy dầu và trả nợ thì các doanh nghiệp lại tập trung vào đoạn thị trường này. Tình trạng phổ biến diễn ra là các doanh nghiệp không chủ động tiếp cận với thị trường để chọn ra cho mình một thị trường mục tiêu, để từ đó có kế hoạch thâm nhập, giữ vững hay mở rộng thị trường. Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh như nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế, ngân hàng dữ liệu... còn hạn chế. Trình độ khai thác và sử dụng thông tin của cán bộ còn thấp, sự quan tâm chưa đúng mức của lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức không tương ứng... Còn có những mặt hàng của doanh nghiệp Nhà nước đang được bảo hộ 18
  19. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- tuyệt đối (ưu đãi độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế...), thậm chí nhiều doanh nghiệp cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. (3). Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp. Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa đặc thù như hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản phẩm nói chung còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ uống, sản phẩm thép và kim loại màu, Ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa... cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cán, lốp xe các loại... Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái... Ngoài ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng sẽ làm. phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như, chi phí vận chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm.... Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp như: điện, viễn thông, cảng biển, vận tải ở Việt Nam cũng được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực Chẳng hạn, cưước viễn thông quốc tế Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực từ 80% - 50% (Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Singapo), cưước vận tải đường biển container cao hơn 40% - 50% so vời Malaixia và Singapo. Theo thống kê sơ bộ, ngoài các khoản chi phí cho dịch vụ vận tải và chi phí thông thường khác, một doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển hoặc đường hàng không phải chịu thêm khoảng 20 loại phí khác, với cách tính phí cũng khác nhau ở mỗi cảng và mỗi đại lý vận tải (ví dụ như: phí đại lý, phí dỡ hàng, phí nâng hạ và chuyển bãi container, phí lưu kho bãi...). Tất cả các khoản chi phí này đều có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp. 19
  20. Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- Chiến lược phân phối. Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương thức này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường. Hiện nay, có một số doanh nghiệp đã tận dụng được các đại lý để phân phối bán lẻ, mà chưa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường gồm đặc tính của các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, tiềm năng, đối thủ cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính mùa vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm...), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thông, vận chuyển..). Xác lập hệ thống này còn mang tính chất "phi vụ” chứ chưa hình thành được chiến lược về kênh phân phối chuẩn. So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, kênh phân phối vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu. Chiến lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với doanh nghiệp nước ngoài như Coca Cola là 20% và Sony là l0%, chất lượng quảng cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả điều tra của Cục xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại cho thấy, một số doanh nghiệp đã quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu, tuy nhiên mới chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu là vũ khí trong cạnh tranh, 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, còn 30% cho rằng thương hiệu sẽ giúp bán được hàng với giá cao hơn và đem lại tự hào cho người tiêu dùng. Trong khi đó có đến 90% người tiêu dùng lại cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho thương hiệu của doanh nghiệp còn quá ít, có 80% doanh nghiệp chưa có bộ phận chức năng lo quản lý nhãn hiệu, 74% doanh nghiệp đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu, 20% không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2