intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Tâm lý học nghề nghiệp: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:52

28
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn giáo trình "Tâm lý học nghề nghiệp" tiếp tục cung cấp tới người học kiến thức trọng tâm về: Tâm lý học sư phạm; Tâm lý học dạy nghề; Đặc điểm nhận thức của học sinh, sinh viên; Đặc điểm lao động sư phạm; Yêu cầu phẩm chất ngành Sư phạm;... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 2 giáo trình tại đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Tâm lý học nghề nghiệp: Phần 2

  1. Chương 2. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 2.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HSSV HỌC NGHỀ Học sinh, sinh viên học nghề thường bao gồm những thanh niên đã tốt nghiệp phổ thông trung học, một số ít sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở có tham gia lao động ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội hoặc vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự để được vào học các trường dạy nghề (độ tuổi khoảng từ 17 đến 20). Đó là những người ở độ tuổi sung sức, có thể chất phát triển nhất trong cuộc đời. Quá trình học tập ở các trường dạy nghề đòi hỏi các em phải tách khỏi cuộc sống gia đình và gắn liền với tập thể trong mọi hoạt động từ học tập, sinh hoạt, ăn ở đến lao động, hội họp. Vì vậy, trong mọi hoạt động, các em phải điều chỉnh các hành vi, cử chỉ của mình cho thích hợp với cuộc sống tập thể. Đó là thời kỳ chuẩn bị cho các em chuyển hóa từ học sinh dần dần thành những người lao động trong các tập thể lao động ở các ngành kinh tế và các lĩnh vực hoạt động xã hội. Sau này, họ sẽ là những công nhân, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ trên mọi lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ, y tế... của xã hội. 2.1.1. Đặc điểm nhận thức Do sự hoàn thiện của hệ thần kinh mà khả năng nhận thức của thanh niên học nghề rất phát triển. Sự tiếp thu tri thức nghề nghiệp và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp được gắn liền với việc rèn luyện các phẩm chất đạo đức của thanh niên học nghề – những người lao động mới, người công dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tính chất và nội dung các môn học hoàn toàn thay đổi so với thời kỳ học phổ thông trước đó. Các phương thức lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cũng hoàn toàn khác trước. Điều đó không chỉ thể hiện ở số lượng, mức độ sâu sắc của các sự kiện được nhận thức, mà còn ở chính bản thân các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý. Các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng, chú ý, trí nhớ, ngôn ngữ, cảm giác, tri giác và biểu tượng kỹ thuật của các em đã được phát triển với chất lượng mới. Khả năng phân biệt màu sắc, ánh sáng, độ tinh của thính giác cũng như sự tri giác không gian tăng lên rất nhiều so với lứa tuổi trước. Khả năng tập trung và phân phối chú ý tăng lên rõ rệt nhờ sự ý thức được trong quá trình chú ý, nhờ khả năng tự kiềm chế mình. Nhìn chung, thanh niên học nghề có có khả năng chú ý có chủ định tốt, nhưng cũng có hiện tượng vờ chú ý, một hiện tượng không có trong tuổi nhỏ. Tư duy của họ khá phát triển, đặc biệt là tư duy trừu tượng logic. Ở họ cũng có khả năng tìm hiểu, tự học, tự quan sát các sự vật hiện tượng và rất nhạy cảm đối với các hành vi của những người xung quanh. Nhờ khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh đã phát triển nên họ có khả năng nhìn ra những gì là chủ yếu, thứ yếu ở các đối tượng, các vấn đề đang được họ quan tâm. Càng về cuối, tính độc lập trong học tập, trong rèn luyện càng được bộc lộ rõ hơn. 2.1.2. Đặc điểm tình cảm, ý chí Tuổi thanh niên học nghề là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời. Chính vì vậy, ta thường gọi lứa tuổi này bằng một từ rất đẹp: tuổi xuân (tuổi thanh xuân). Đây là thời kỳ trẻ trung, sung túc của các loại cảm xúc, tình cảm như: tình yêu cuộc sống, yêu đời, 32
  2. yêu thích nghề nghiệp, yêu bạn bè, tình yêu nam nữ. Nhìn chung, tình cảm ở họ thường nở rộ trên nhiều mặt. Thanh nên học nghề thường rất yêu đời và lạc quan. Tình yêu cuộc sống thường làm cho họ nhìn thiên về mặt thuận lợi, mặt “hồng” của cuộc sống. Họ thường xuyên xây dựng mơ ước của mình bẵng những thuận lợi, đẹp đẽ. Ở họ, thường ít lường trước những khó khăn, vấp váp trong cuộc sống. Nhưng cũng nhờ có sự yêu đời, lạc quan mà ở thanh niên học nghề thường có một phẩm chất rất quý: đó là sự vươn tới phía trước, bất chấp những khó khăn thử thách, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để thực hiện mục đích đã được ý thức, đã được đặt ra. Đây cũng là lứa tuổi có nhiều bạn hơn các lứa tuổi khác. Một mặt, do sự giao tiếp, do chưa có gia đình; mặt khác, do các loại hoạt động xã hội đa dạng của lứa tuổi trẻ mà ở họ dễ xây dựng và giữ lại tình bạn. Trong đó, những thanh niên có xu hướng xã hội rõ ràng, tế nhị trong giao tiếp, rộng lượng, ân cần giúp đỡ người khác và có tâm hồn phong phú thường là những người có nhiều bạn hơn những người khác. Tình bạn của thanh niên học nghề chi phối và ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động cũng như sự hình thành nhân cách của họ. Thanh niên học nghề cần có bạn và cần tình bạn, họ không thể sống một cách cô độc mà không có bạn. Loại tình cảm này ở họ được xây dựng trên nhiều cơ sở khác nhau: có khi từ cùng sở thích và hứng thú, có khi từ sự tương hợp các nét tính cách, có khi từ sự giống nhau về năng lực, cùng quê hương… Nhìn chung, tình bạn ở họ được xây dựng với thái độ chân thành, dễ thấy. Khi đã là bạn thân, họ thường tâm sự với nhau những điều thầm kín nhất, cùng hành động, giúp nhau khi hoạn nạn, san sẻ với nhau những lúc vui, lúc buồn. Do đặc điểm trên mà ở thanh niên học nghề, ta thường thấy tình bạn ở họ có nhiều biểu hiện cụ thể, dễ thấy. Tình bạn đã làm cho họ hẹn gặp nhau trò chuyện, thư từ cho nhau, đi chơi với nhau, ăn với nhau.... Những hành vi đó chúng ta thấy khá nhiều ở ngoài giờ lên lớp, người giờ thực tập ở trường. Vì vậy, giáo viên cần giúp đỡ học sinh để họ xây dựng được tình bạn với mục đích chân chính. Quan hệ bạn bè tốt đẹp phải là quan hệ bình đẳng, cùng giúp nhau học tập, tu dưỡng để tiến bộ. Mọi sinh hoạt của các cặp bạn bè và các nhóm cũng phải theo hướng đó. Chỉ có như vậy mới hạn chế được những lêch lạc trong tình bạn của các em. Trong thanh niên học sinh học nghề, còn có một loại tình cảm mới chớm nở nhưng khác hẳn thanh niên học sinh phổ thông là lòng yêu nghề. Nhìn chung, lòng yêu nghề càng ngày càng được hình thành và phát triển đúng đắn trong quá trình học tập tại các trường dạy nghề và sau này khi trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Khi nguyện vọng của học sinh phù hợp với sự phân công công việc của tổ chức và khi thanh niên ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của xã hội thì lòng yêu nghề có cơ sở để phát triển. Nhờ có lòng yêu nghề mà học sinh yên tâm học tập, hăng say học tập và lao động, công tác cũng như tu dưỡng. Tuy nhiên, tình cảm nghề nghiệp này chỉ được xây dựng lành mạnh trên cơ sở cá nhân có nhận thức đúng đắn. Khi mới bước chân vào các trương nghề, lòng yêu nghề của học sinh có khi chưa được hình thành hoặc nếu mới chớm nở thì cũng chỉ mơ 33
  3. hồ, chưa có cơ sở đúng hướng vì họ chưa thực sự bước vào nghề. Sự đánh giá về nghề nghiệp thường là do dư luận xã hội và do những nhận thức sai lệch ở cùng lứa tuổi gây nên. Mặt khác, họ thường có mơ ước vào học tiếp ở các trường Cao đẳng và Đại học. Nhưng khi sự mơ ước không phù hợp với năng lực và trình độ hiện tại thì các em phải đi vào trường dạy nghề. Sự thất vọng thường bao trùm lên suy nghĩ làm cho các em không nhận ra được rằng nghề nào cũng cao quý trong xã hội là khi và chỉ khi nào con người làm nghề gì, việc gì phù hợp với khả năng, trình độ của mình thì người đó mới thật sự hạnh phúc. Vả lại, con đường học tập và nghiên cứu của các em không phải đã chấm dứt khi bước vào các trường dạy nghề, con đường ấy vẫn mở ra cho các em và xã hội vẫn chờ đón những điều đó ở thanh niên học nghề. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi thanh niên học nghề đều nhận thức được đầy đủ điều đó. Do đó, việc bồi dưỡng để có nhận thức đúng đắn về nghề đã học và xây dựng lòng yêu nghề là một yêu cầu rất quan trọng trong công tác giáo dục học sinh ở các trường dạy nghề. Vì chỉ có yêu nghề, có hứng thú với nghề, học sinh học nghề mới say sưa học tập, lao động, tu dưỡng. Từ đó, ở họ mới nảy sinh sự sáng tạo, tìm tòi và đi sâu vào ngành nghề mình học. Và ngược lại, chỉ khi nào con người đi sâu vào nghề thì mới tìm thấy cái hay, cái hấp dẫn ở đó. Do đó, lòng yêu nghề làm cho con người đi sâu vào nghề hơn và cũng nhờ quá trình tìm tòi, đi sâu vào nghề mà lòng yêu nghề càng có cơ sở để phát triển cao hơn nữa. Một loại tình cảm nữa cũng được hình thành và phát triển ở thanh niên học nghề là tình yêu nam nữ. Ở thanh niên học nghề, tình cảm này thường có màu sắc đặc biệt: thơ mộng, thuần khiết và dễ dãi. Họ thường mến nhau vì cùng chung lý tưởng, cùng sở thích, hứng thú và vì sự hấp dẫn bởi vẻ đẹp của con người cũng như các phẩm chất đạo đức. Trong tình yêu, họ không tính toán đến mặt vật chất và ít lường thấy hết những khó khăn. Tình yêu nam nữ ở lứa tuổi này cũng có nhiều mặt tốt. Chẳng hạn, vì người mình yêu, vì những nhận xét tác động của bạn bè cùng lứa tuổi mà nam nữ thanh niên thường ý tứ, e dè trong sinh hoạt. Tình yêu được nhận thức đúng cũng sẽ giúp các em học tập tích cực hơn, biết giúp nhau học tập và tu dưỡng tốt hơn. Tuy nhiên, những mặt hạn chế thường xảy ra nhiều hơn, đặc biệt ở những thanh niên chưa thực sự trưởng thành. Các em bỏ ra nhiều thời gian cho việc gặp gỡ, thư từ, cho việc chăm sóc bề ngoài của mình. Hơn nữa, các em chưa thực sự bước vào cuộc sống lao động, chưa có đủ kinh nghiệm và kiến thức thực tế cần thiết để xây dựng tình yêu nên tình yêu ở các em thiếu cơ sở chắc chắn, thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng. Cho nên, tình yêu trong họ thường khó thành công. Điều đó đã làm tổn thương trong suy nghĩ, tình cảm ở các em và gây ảnh hưởng không tốt tới học tập, lao động và tu dưỡng. Vì vậy, các giáo viên trong các trường dạy nghề cần làm cho học sinh nhận thức rõ điều đó để các em có thể tập trung vào học tập, tu dưỡng, giúp các em có cơ sở để xây dựng tình yêu chân chính và tạo dựng cuộc sống hạnh phúc. Biện pháp giáo dục phải tế nhị, tránh cấm đoán thô bạo, phải có thái độ tôn trọng tình cảm đó ở các em và có tác động khéo léo để giáo dục các em tôn trọng các chuẩn mực đạo đức, không nên quá dễ dãi, buông lỏng trong tình cảm. Đó cũng là trách nhiệm của những người đi trước, những người làm công tác giáo dục. 34
  4. Một số nét ý chí của thanh niên học nghề như tính độc lập, tính kiên quyết hay lòng tự trong cao.v.v... cũng được bộc lộ khá rõ nét. Các em thể hiện sự vươn tới vị trí ngang bằng với người lớn ở sự tự chủ. Các em tách mình ra khỏi những người ở lứa tuổi thấp hơn, cố gắng đặt mình trong hàng ngũ những người lớn, những người cùng tuổi. Họ nhiều khi ngại ngùng khi đi cùng cha mẹ hoặc phải nghe cha mẹ hướng dẫn khi có những người lạ, những bạn bè cùng tuổi mới quen biết. Họ muốn tự chủ trong mọi công việc. Tính độc lập còn biểu hiện khá rõ nét ở việc phán đoán các hiện tượng xảy ra, trong việc quyết định hành động và trong việc biểu lộ các ý kiến, quan điểm của mình. Nhờ ý thức bản ngã phát triển mà tính độc lập ở họ còn được biểu hiện ở sự tự kiểm tra và sự tự đánh giá các hành vi ở chính bản thân mình. Trong gia đình, tính độc lập biểu hiện rõ trong việc tự lo lắng và thu xếp công việc của bản thân và của những người thuộc lứa tuổi thấp hơn. Thanh niên học nghề thường có ý kiến trái hẳn lại ý kiến của cha mẹ và điều đó thường gây ra sự “xung đột” trong quan hệ cha mẹ - con cái. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện thượng này là thanh niên học nghề có đặc điểm bồng bột, thẳng thắn và chân thành, những ý kiến của thanh niên thường có tính chất khẳng định, dứt khoát, họ cho rằng chỉ nên nói những điều mà mình nghĩ là đúng. Một nguyên nhân nữa thường là sự không phù hợp giữa cách thức đối xử của cha mẹ với thanh niên, hầu như các bậc cha mẹ vẫn giữ cách tác động cũ khi thanh niên đã thay đổi hẳn so với tuổi thiếu niên. Thanh niên học nghề cũng thường rất quý trọng sự thẳng thắn, dũng cảm. Đối với họ, sự thẳng thắn và dũng cảm dám nhận trách nhiệm, dám nhận khuyết điểm có sức thuyết phục rất lớn và họ đòi hỏi ở nhau trong giao tiếp, trong quan hệ tình bạn, trong công việc những nét tính cách này. Họ cũng rất nhạy cảm với sự đánh giá của người khác, đặc biệt là nhận xét, đánh giá của những người cùng lứa tuổi và những người có uy tín. Chính vì vậy, nhiều khi họ hành động theo nhận xét của bạn bè và theo sự khuyên bảo của những người mà họ quan niệm là “mẫu người”. Do đó, giáo viên cần tạo ra các dư luận tập thể lành mạnh để giáo dục học sinh học nghề, mặt khác, giáo viên cần gương mẫu về mọi mặt để có uy tín tốt trước các em. 2.1.3. Đặc điểm tính cách Ở lứa tuổi này, thế giới quan được hình thành và phát triển khá rõ nét. Thế giới quan là toàn bộ “bức tranh” về thế giới trong ý thức con người. Nhờ việc tiếp thu hàng loạt các kiến thức khoa học và kỹ thuật khác nhau mà ở thanh niên học nghề có những quan điểm đúng về hiện thực. Lý tưởng của thanh niên học nghề cũng được hình thành khá rõ rệt, nhất là sau khi họ đã xác định được con đường lao động và học tập cho cả cuộc đời. Sống để làm gì, cho ai, đó là câu hỏi trả lời cho lý tưởng. Do được sinh ra trong thời kỳ đổi mới của xã hội nên thanh niên học nghề thường có khát vọng vươn tới lý tưởng cao đẹp ở hai loại mục tiêu: đó là xã hội tốt đẹp và những con người ưu tú có phẩm chất, năng lực kiệt xuất. Niềm khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ, lớn lao thường có ảnh hưởng lớn hành vi của họ. Những biểu hiện cụ thể trong học tập, tu dưỡng, công tác, lao động ở trường nghề chính là các hành vi thiết thực phấn đấu cho lý tưởng. Sự hi vọng dễ 35
  5. nảy sinh, dễ xây dựng nhưng khi gặp trở ngại, thất bại thì nỗi thất vọng cũng dễ làm cho họ khó định hướng trở lại. Đó là biểu hiện của sự bồng bột, thiếu chín chắn, thiếu kinh nghiệm, chưa từng trải trong việc xây dựng các ước mơ, hoài bão ở thanh niên học nghề. Sự hình thành thế giới quan và lý tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo nên các niềm tin trong thanh niên học nghề. Nhờ có những hiểu biết nhất định mà niềm tin của thanh niên học nghề đã có cơ sở. Mặt tình cảm của niềm tin biểu hiện ở họ khá rõ nét: khi đã tin tưởng về một cái gì đó và được xác định là đúng đắn thì ở họ có những cảm xúc đặc biệt, đó là sự say sưa mang màu sắc lý tưởng. Niềm tin của thanh niên học nghề dễ nhận thấy, không chỉ biểu hiện ở sự trao đổi, tranh luận mà còn biểu hiện cụ thể ở sự hăng hái, nhiệt tình trong hành động của họ. Sở dĩ như vậy là vì niềm tin ở thanh niên khá tuyệt đối và dứt khoát, ranh giới giữa cái tin và sự không tin biểu hiện khá rõ ràng. Chính vì vậy, khi thanh niên học nghề đã tin vào cái gì, họ thường dốc hết tâm trí và hành động để thực hiện niềm tin ấy. Do đặc điểm của lứa tuổi, thanh niên học nghề thường có hứng thú riêng, trong đó nổi bật lên là hứng thú nhận thức. Họ là những người ham hiểu biết, cho nên, hứng thú của họ không chỉ bó hẹp trong việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn vượt ra xa khỏi phạm vi nghiên cứu. Do đặc điểm dễ nắm bắt những cái mới nên những giáo viên trong các trường nghề phải làm cho các em thấy được những cái mới nào là có lợi, là phù hợp và cái mới nào là có hại, là xa lạ với chúng ta. Có nhận thức đúng về cái mới thì ở các em mới có hành động theo cái mới một cách đúng đắn. Mặt khác, khi những biểu hiện lệch lạc trong việc tiếp thu và hành động theo cái mới đã nảy nở ở thanh niên học nghề, ta cần tìm hiểu để nắm được nguyên nhân xảy ra, mức độ thể hiện và phạm vi có hại của nó để tìm các biện pháp thích hợp uốn nắn họ. Một đặc điểm nữa là thanh niên học nghề rất thích hoạt động tập thể. Họ thường có khuynh hướng muốn khẳng định khả năng của mình trước tập thể. Họ thích giao thiệp rộng rãi và thích giao du với bạn bè. Điều đó thể hiện khả năng hiếu động của tuổi trẻ. Cho nên, những hoạt động tập thể thường có tác dụng khích lệ họ rất cao. Bởi lẽ, thông qua các hoạt động này thanh niên học nghề mới được trải nghiệm, được thử thách, có kinh nghiệm, làm phong phú và cân bằng nhân cách của mình, năng lực tổ chức, hoạt động tập thể của họ cũng được nâng cao, có bản lĩnh vững vàng hơn.v.v… Vì vậy, các trường dạy nghề cần tổ chức các hoạt động tập thể có tính đa dạng, phù hợp với khả năng của thanh niên học nghề để cuốn hút các em như các hoạt động đáu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong sinh viên, trong xã hội, các hoạt động thi đua nâng cao tay nghề hay các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.v.v… Nhìn chung, ở thanh niên học nghề có nhiều phẩm chất tâm lý tốt, nhân cách của các em cũng đã được định hình tương đối rõ nét. Điều đó giúp chúng ta có thể phát huy các mặt này và từ đó, khắc phục các mặt nhược điểm vốn có của tuổi trẻ. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, các đặc điểm tâm lý lứa tuổi phụ thuộc rất nhiều vào các điều 36
  6. kiện lịch sử và xã hội cụ thể. Vì vậy, các đặc điểm này luôn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử mặc dù trên cùng một lãnh thổ, một đất nước, cùng một chế độ xã hội. Cho nên, việc giáo dục thanh niên học nghề cần tính đến những thay đổi của các đặc điểm tâm lý ở các giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau và ở từng cá nhân cụ thể. 2.2. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG SƯ PHẠM VÀ YÊU CẦU VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA GVDN 2.2.1. Đặc điểm lao động sư phạm của người GVDN Giáo viên dạy nghề là người làm công tác giảng dạy và giáo dục ở các cơ sở dạy nghề. + Đối tượng lao động sư phạm của người GVDN là nhân cách người học nghề Đó là con người đang trong thời kì chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của cuộc đời mà xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ đều tuỳ thuộc vào nội dung và chất lượng của thời kì chuẩn bị này. Thực chất nội dung của thời kì chuẩn bị này là hình thành những phẩm chất và năng lực của con người mới, đáp ứng được nhu cầu của xã hội đang phát triển. Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh hội, thông hiểu những kinh nghiệm, những tinh hoa mà loài người tích luỹ được và biến chúng trở thành những nét nhân cách của chính mình. Không ai trong xã hội, ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi nữa cũng không thể thay thế được chức năng của người thầy giáo + Công cụ lao động của người GVDN Nghề thầy giáo làm nhiệm vụ dạy học, giáo dục mà công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là nhân cách của chính mình. Trong khi thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác động vào nhân cách của học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, sự giác ngộ về lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu nghề, mến trẻ, trình độ học vấn, sự thành thạo về nghề nghiệp, lối sống, cách xử sự và kĩ năng giao tiếp của thầy giáo. Đó là lí do mà K. D. Uxinkij đã khẳng định rằng người giáo viên phải: “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Hơn nữa nghề đào tạo con người lại là nghề mà lao động sư phạm diễn ra rất nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm chứ đừng nói gì là phế phẩm như ở một số nghề khác. Vì công cụ chủ yếu của lao động sư phạm của người thầy giáo là bản thân nhân cách của chính mình cho nên nghề thầy giáo đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất cao. Nhưng làm sao để có thể có được điều đó? Một giáo viên đã nêu ra câu hỏi rằng “Thế nào là một giáo viên tốt?” - Theo tôi để trở thành một giáo viên tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống chân chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kỹ năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để sau này có khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ. Người giáo viên, một mặt là cống hiến, mặt khác họ như một thứ bọt biển phải thấm hút mình tất cả vào 37
  7. mọi tinh hoa của dân tộc và thời đại, cuộc sống, khoa học rồi họ lại tiếp tục cống hiến những tinh hoa này cho trẻ. + Nghề sư phạm là nghề tái sản xuất sức lao động Để tồn tại, phát triển, xã hội loài người phải sản xuất, tái sản xuất ra đồ vật nhằm sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Cần chú ý đến sức lao động. Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong mỗi con người, cái nhân cách sinh động mà chủ thể cần phải có để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội. Cho nên, chức năng của giáo dục chính là bồi dưỡng, phát huy sức mạnh đó ở trong con người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu trong việc tạo ra sức lao động xã hội đó. Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, ý chí kiên cường, tình thương đồng bào, đồng loại, đức tính cần cù, sáng tạo, tri thức, năng lực để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, lòng yêu lao động, lao động có tổ chức, có kỹ thuật, năng xuất cao v.v... Tác động giáo dục tạo ra sức mạnh không phải ở dạng giản đơn cũng không phải “một vốn bốn lãi” mà có lúc đã tạo ra được những hiệu quả không lường. Có lẽ đây là lí do mà người ta cho rằng đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư có lãi nhất, sáng suốt nhất. Để làm rõ cho ý kiến này ta hãy tiếp xúc với một dẫn chứng. Trong một cuộc hội thảo nọ, khi bàn về sự giàu có của một đất nước, có nhiều ý kiến nêu ra những căn cứ khác nhau. Có người cho rằng cần dựa vào tài nguyên, khoáng sản như dầu mỏ, kim cương, vàng .v.v.. Có ý kiến khác lại cho rằng phải dựa vào thu nhập bình quân tính theo đầu người. Có ý kiến khác lại cho rằng phải lấy số lượng chuyên gia làm căn cứ. Nhưng trong số những ý kiến nêu ra thì ý kiến cho rằng dựa vào trình độ dân trí của người lao động là có căn cứ khoa học nhất. Họ lập luận rằng, chúng ta đang sống trong thời đại cuả cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai. Do đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này quy định mà ngày càng dẫn đến sự thay đổi vị trí của người lao động sản xuất. Nếu như trước đây, người lao động phải dùng chủ yếu là năng lượng cơ bắp để gia công nhằm tạo ra vật phẩm cho xã hội thì ngày nay vị trí đó được thay thế dần bằng các thao tác của máy móc, và như vậy người lao động từ vị trí là của người gia công nay đã ở vị trí là người chỉ huy quá trình gia công. Công việc chính của họ là dùng “năng lượng thần kinh” để “bấm nút”, lập chương trình cho máy móc gia công tạo ra sản phẩm cho xã hội. Nói cách khác, họ lao động chủ yếu bằng sức mạnh tinh thần, sức mạnh trí tuệ. Không thể có sự chối cãi gì khi cho rằng nhà trường, thầy giáo là nơi, là người tạo ra sức mạnh đó theo phương thức tái sản xuất mở rộng sức lao động. + Nghề sư phạm vừa mang tính khoa học, tính nghệ thuật Nghề sư phạm đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và sáng tạo cao trong hoạt động của người giáo viên. Ai có ở trong nghề thầy giáo, có làm việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy hết ý nghĩa của lao động sư phạm qua một giờ giảng trong khuôn khổ nhà trường. Dạy học sinh biết giải một bài toán, đặt một câu đúng ngữ pháp, tiến hành làm một thí nghiệm 38
  8. không phải khó nhưng dạy sao cho các em biết con đường đi đến chân lí, nắm được phương pháp, phát triển trí tuệ v.v... mới là công việc đích thực của ông giáo. Quan niện công việc của nhà giáo như vậy và yêu cầu họ thực hiện chức năng xã hội của mình theo yêu cầu đó thì nó đòi hỏi tính khoa học cao và tính khoa học cao đến mức khi thể hiện mình như một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ, một nhà thơ của quá trình sư phạm. + Nghề sư phạm là nghề lao động trí óc chuyên biệt Lao động trí óc có hai đặc điểm nổi bật: 1) Lao động trí óc đòi hỏi phải có một thời kì khởi động như là việc lấy đà trong thể thao, nghĩa là thời kì để cho lao động đi vào nền nếp, tạo ra hiệu quả. Người công nhân đứng máy sau một thời gian ngắn cho ra sản phẩm nhưng người lao động trí óc phải suy nghĩ trăn trở đêm ngày, có khi trăn trở hàng tháng cho việc làm ra sản phẩm. Lao động của nhà giáo cũng có tính chất như vậy, nhất là khi giải quyết một tình huống sư phạm phức tạp và quyết định; 2) Lao động trí óc có “quán tính” của trí tuệ. Người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm với nghề luôn suy nghĩ nhằm tìm ra các biện pháp tác động có hiệu quả tới sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ. Do những đặc điểm của lao động trí óc chuyên nghiệp như trên cho nên công việc của nghề thầy giáo không hẳn đã bị đóng khung trong không gian lớp học cũng như thời gian qua tám giờ vàng ngọc xác định mà ở khối lượng, chất lượng của tính sáng tạo của công việc. Công việc tìm tòi một luận chứng, cách giải một bài toán, xác định một biện pháp sư phạm cụ thể trong một hoàn cảnh sư phạm nhất định trong thao tác sư phạm của giáo viên nhiều khi có tính quá trình để bừng hiểu - bừng phát ra cũng giống như trường hợp “Eureca” của Acsimet vậy. Tóm lại, thông qua phân tích những đặc điểm lao động sư phạm, chúng ta thấy đặt ra nhiều đòi hỏi về phẩm chất và năng lực của người giáo viên. Điều này càng minh chứng cho tính khách quan trong yêu cầu đối với nhân cách nhà giáo dục. 2.2.2. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực sư phạm của người GVDN a) Yêu cầu về phẩm chất của người giáo viên + Thế giới quan khoa học trong nhân cách người giáo viên: Thế giới quan khoa học giúp cho người thầy nhìn nhận, đánh giá đúng thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy trong mối liên hệ biện chứng và là cơ sở hình thành niềm tin và các giá trị nhân văn khác. Thế giới quan là yếu tố tâm lý quan trọng trong cấu trúc nhân cách. Nó không những quyết định nội dung của niềm tin chính trị mà còn quy định toàn bộ hành vi cũng như sự ảnh hưởng của thầy giáo đối với trẻ. + Lý tưởng: Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo. Lý tưởng được coi như là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo luôn đi lên phía trước, thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác, lý tưởng của thầy giáo cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh. 39
  9. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy hy sinh với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và chân tình v.v… Những cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy vượt qua mọi khó khăn về tinh thần và vật chất, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Những cái đó cũng sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong tâm trí học sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ không phải là cái gì có sẵn, cũng không phải cái gì có thể truyền từ người này sang người khác bằng cách áp đặt. Trái lại, sự hình thành và phát triển là một quá trình hoạt động tích cực trong công tác giáo dục. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng được hình thành sâu sắc. Vì tác dụng to lớn và tầm quan trọng của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong nhân cách người thầy giáo như vậy nên mọi việc làm trong trường sư phạm đều phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu trường sư phạm không giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như A.X. Macarencô đánh giá là “không giáo dục gì hết”. + Lòng yêu người: Lòng yêu người, mến trẻ là một trong những phẩm chất đạo đức của con người, một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo vì lòng thương người đó là đạo lý của cuộc sống. Ở người giáo viên, lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì họ càng làm được nhiều việc bấy nhiêu. Để khẳng định ý nghĩa to lớn của tình thương người, lòng yêu trẻ trong nhân cách người thầy giáo, V.A.Xukhômlinxkij một giáo viên công huân của Liên Xô trước đây (1918-1970) thông qua sự trải nghiệm của mình đã viết: “Tôi nghĩ rằng đối với một nhà giáo dục điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng. Vì khi tạo ra nềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vô giá đó là tình người mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha”. Lòng yêu trẻ của thầy giáo được thể hiện một cách sâu sắc ở thái độ, ánh mắt, hành vi và thái độ trong hoạt động sư phạm. Lòng yêu trẻ còn được thể hiện trong thái độ quan tâm đầy thiện chí và ân cần đối với trẻ, kể cả đối các em học kém và vô kỷ luật. Người thầy giáo có lòng yêu thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần giúp đỡ họ bằng ý kiến hoặc hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị. Đối với họ không bao giờ có thái độ phân biệt đối xử dù có những em chưa ngoan hoặc chậm hiểu. Tuy nhiên, lòng yêu trẻ của người thầy giáo không thể pha trộn với những nét uỷ mị, mềm yếu, thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ mà ngược lại. 40
  10. Tóm lại, có thể nói rằng bí quyết thành công của người thầy giáo xuất sắc là bắt nguồn từ một thứ tình cảm vô cùng sâu sắc - đó là tình yêu trẻ. Khẩu hiệu các trường học hiện nay ở nước ta “Tất cả vì học sinh thân yêu” cũng là xuất phát từ tình cảm đó. + Lòng yêu nghề: Lòng yêu trẻ và yêu nghề luôn gắn bó chặt chẽ và đan xen vào nhau. Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu người giáo viên mới có cơ sở để yêu nghề. Không có lòng thương người, yêu trẻ thì người giáo viên khó mà tạo ra cho mình những động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng và lý tưởng nghề nghiệp. Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ của mình. Trong công tác giảng dạy và giáo dục, họ luôn luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn cải tiến nội dung và phương pháp đào tạo, không tự thoả mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với học sinh. Sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy giáo, càng làm cho họ có nhiều cảm xúc tích cực và niềm say mê nghề nghiệp. Có thể nói rằng, chỉ có người giáo viên nào mà họ hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh, phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người mới làm hạnh phúc cao cả của cuộc đời mình thì mới có thể thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng. + Một số phẩm chất đạo đức khác Khác với các hoạt động khác, hoạt động sư phạm của người thầy giáo được thực hiện nhằm làm thay đổi nhân cách con người học sinh, do vậy mối quan hệ thầy trò được nổi lên như một vấn đề quan trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề dạy học. Nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan hệ tốt với học sinh sao cho qua đó, khơi dậy ở họ tính tích cực hoạt động thì chắc chắn chất lượng dạy - học sẽ được nâng cao. Hơn nữa người thầy giáo, khi giáo dục học sinh không những bằng những hành động trực tiếp của mình mà còn bằng tấm gương của cá nhân mình, thái độ và hành vi của chính mình đối với hiện thực. Để làm được điều đó, thầy giáo phải biết lấy những quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình đồng thời phải có những phẩm chất đạo đức và ý chí cần thiết. Trong những phẩm chất đó, ta có thể nêu lên rằng những phẩm chất đạo đức và ý thức không thể thiếu ở người giáo viên. Đó là tinh thần nghĩa vụ, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, thái độ nhân đạo, lòng tôn trọng, tính công bằng, lòng chính trực, tính ngay thẳng, sự giản dị và khiêm tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm chế, kỹ năng biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm v.v.... Những phẩm chất đạo đức này được coi được coi là nhân tố tinh thần quan trọng góp phần tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm trong các môí quan hệ cụ thể giữa thầy và trò. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm 41
  11. chất, năng lực của người thầy giáo được trở thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh. b) Năng lực sư phạm nghề Năng lực sư phạm nghề là sự tổ hợp các đặc điểm tâm lý nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động sư phạm nghề để đào tạo người học nghề với chất lượng cao". Năng lực sư phạm nghề của người thầy giáo được biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng tựu chung lại đặc trưng ở hai dạng công tác dạy học và giáo dục. Tuy nhiên sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành công tác dạy và học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục, ngược lại, muốn thực hiện nhiệm vụ giáo dục cũng phải thực hiện thao tác, trên cơ sở tổ chức hoạt động dạy học. Vả lại, dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra những cơ sở tâm lý - giáo dục trọng yếu, cơ bản để “xây cất” nên nhân cách cho thế hệ trẻ. Sau đây ta sẽ xét những yếu tố hợp thành của các nhóm của năng lực sư phạm nghề của người giáo viên dạy nghề. + Năng lực chuyên môn nghề Bất cứ làm nghề gì đều đòi hỏi người lao động phải có năng lực chuyên môn của nghề đó. Nội dung của năng lực chuyên môn ở từng nghề có sự khác nhau, nhưng cấu trúc của năng lực chuyên môn ở mọi nghề đều giống nhau. Năng lực chuyên môn nghề là năng lực quan trọng nhất của người dạy nghề, muốn trở thành GVDN nhất thiết phải có năng lực này. Đó chính là sự am hiểu sâu sắc, tường tận và vững vàng hệ thống tri thức lý thuyết của nghề, là năng lực cập nhật và làm chủ được những kiến thức, phát minh mới trong khoa học, công nghệ.v.v... Đó cũng là tiêu chuẩn đầu tiên để tuyển chọn giáo viên dạy nghề, đồng thời cũng là yếu tố để phân biệt giáo viên dạy nghề với giáo viên phổ thông. + Năng lực thực hành nghề Nhiệm vụ chính của người GVDN không chỉ hướng dẫn, điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức chuyên mon nghề mà còn tham gia vào quá trình hướng dẫn, tổ chức cho học sinh học nghề luyện tập, rèn luyện để các em có được những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Năng lực thực hành nghề, bao gồm: - Thực hiện thành thạo các kỹ năng của nghề được phân công giảng dạy; - Thực hiện đúng kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động của nghề. + Năng lực tổ chức, quản lý sản xuất Ngoài hai yếu tố cơ bản đã phân tích ở trên, giáo viên cần phải có năng lực tổ chức sản xuất như: lập kế hoạch sản xuất, tính toán nguyên vật liệu, thiết bị sản xuất, chi phí sản xuất. GVDN cũng phải có khả năng tiếp cận với thực tế, công nghệ sản xuất mới và hiện đại để đưa vào bài giảng. Năng lực tổ chức, quản lý sản xuất, bao gồm: - Lập được kế hoạch tổ chức sản xuất. - Tổ chức thành thạo lao động sản xuất, dịch vụ nghề được phân công giảng dạy; 42
  12. .+ Năng lực dạy học Là năng lực cốt lõi của GVDN. Để tổ chức tốt quá trình dạy học, người GVDN cần có những năng lực: - Năng lực hiểu học sinh Như ta đã biết rằng dạy học là một quá trình vận hành, thống nhất của hai loại hoạt động dạy và học do thầy và trò đảm nhiệm. Trong quá trình đó, chức năng của thầy là tổ chức và điều khiển hoạt động học của trò, còn trò thì hành động để chiếm lĩnh nền văn hoá xã hội. Dạy học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự được điều khiển. Kết quả của sự điều khiển một phần bị phụ thuộc vào “tần số” trao đổi thông tin giữa người dạy và người học. Nói cách khác thầy càng hiểu trò, hiểu kịp thời bao nhiêu thì càng có được căn cứ khoa học để tổ chức và điều khiển quá trình dạy học và giáo dục của mình bấy nhiêu. Vì vậy, năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là phẩm chất tâm lý quan trọng của năng lực sư phạm ở người giáo viên. Nhờ có năng lực này mà giáo viên biết “thâm nhập” vào thế giới bên trong của trẻ, có sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng cũng như biết quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục. Nếu ở thầy giáo có năng lực hiểu học sinh thì khi chuẩn bị bài giảng sẽ biết tính đến mức độ văn hoá, trình độ phát triển của chúng để hình dung được từng em cái gì chúng biết, biết đến đâu, cái gì có thể quên hoặc khó hiểu. Ở những giáo viên ít kinh nghiệm vì không biết đánh giá đúng trình độ học sinh nên đối với họ tài liệu nào cũng dường như cũng đơn giản, dễ hiểu và không đòi hỏi một thủ thuật trình bày đặc biệt nào. Rõ ràng là đối với họ, tất cả học sinh đều như nhau. Sự phân biệt cuả họ có chăng chỉ ở hai loại học sinh cố gắng hoặc lười biếng, học khá hoặc học kém. Do đó, trong khi chế biến và trình bày tài liệu, họ đã chỉ hướng về mình chứ không phải hướng về học sinh. Trái lại, người thầy giáo có kinh nghiệm khi chế biến và trình bày tài liệu lại biết đặt mình vào đúng vị trí của người học. Bên cạnh đó, họ đặc biệt đã biết suy nghĩ về đặc điểm của nội dung mà xác định khối lượng kiến thức, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh. Vì vậy, năng lực hiểu học sinh của giáo viên sẽ biểu hiện ở chỗ, thầy biết xác định được khối lượng kiến thức đã có, mức độ, phạm vi lĩnh hội của học sinh và từ đó, biết xác định mức độ, khối lượng kiến thức mới cần trình bâỳ trong công tác dạy học hay giáo dục. Khi người thầy giáo có năng lực hiểu học sinh thì trong quá trình giảng dậy của mình sẽ biết căn cứ vào một loạt dấu hiệu do quan sát tinh tế để có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời giảng dạy của mình đã được những học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào. Nhiều quan sát tâm lý cho thấy rằng khả năng hiểu học sinh trong quá trình dạy học của người thầy giáo được thể hiện trên hai mức độ. Ở mức độ thấp, giáo viên có thể nhận biết được học sinh hiểu bài mới ra sao bằng cách đề ra câu hỏi, ra bài tập để học sinh làm, trả lời. Ở mức độ cao hơn khi giáo viên có năng lực, ngay trong quá trình dạy học tựa hồ như đẵ nắm vững được phần nào diễn biến của sự lĩnh hội ở chúng và đã biết “đọc” trước cái gì đã diễn 43
  13. ra và diễn ra như thế nào trong óc họ. Quan sát những giáo viên dạy giỏi ta thấy, rằng họ theo dõi học sinh hiểu bài như thế nào không phải chỉ qua các câu trả lời mà chính qua thắc mắc của học sinh hoặc căn cứ vào những dấu hiệu dường như không đáng kể như một sự ngập ngừng trong câu trả lời, một từ, một câu bị dập xoá trong bài làm, một ánh mắt, một nụ cười hay một tiếng xì xào cuả lớp v.v... mà có thể hiểu thấu những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán đúng mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện ra cả mức độ sai lệch của chúng. Người thầy giáo có năng lực hiểu học sinh còn biết dự đoán trước được thuận lợi và khó khăn, biết xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức. Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, đầy tình thương yêu để đi sâu - sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý trẻ em, nắm vững tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần thiết như sự “ tinh ý” sư phạm qua quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp v.v... - Năng lực chế biến tài liệu Điều đó thể hiện năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy giáo đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa đối với đặc điểm tâm lý của từng lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ, kinh nghiệm của các em và đảm bảo tính lôgic của hoạt động sư phạm . Muốn làm được điều đó trước hết đòi hỏi người thầy giáo phải biết đánh giá đúng đắn giá trị của tài liệu. Điều này sẽ giúp cho giáo viên xác lập được đúng đắn mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh nhằm đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình lại vừa làm cho tài liệu đó vừa sức tiếp thu đối với khả năng của trẻ. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tài liệu, người thầy giáo phải biết chế biến, gia công cách trình bày nhằm cho nó vừa đảm bảo được tính lôgic của sự phát triển khoa học vừa phù hợp với logic sư phạm lại thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Trong cơ chế dạy học theo quan điểm hoạt động, người thầy giáo sẽ không phải làm cái việc là chuyển vận nội dung tài liệu từ sách giáo khoa đến đầu trò mà làm chủ việc tổ chức cho trẻ hoạt động để dành lại được tri thức khoa học đã được gửi gắm trong sách giáo khoa, truyền được sức sống của kiến thức, làm cho kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Vì vậy, người thầy giáo ngoài việc nắm được lôgic phát triển của tri thức, hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu, còn phải biết chế biến nhào nặn, biết bổ sung vào tài liệu đó tất cả những điều lấy từ sách vở, tự quan sát và thu thập từ cuộc sống. Để làm được điều đó, người thầy giáo phải có khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức. Khi trình bầy một tài liệu,nhất là tài liệu mới, khó, phức tạp, có nhiều mối tương quan, người thầy giáo phải có khả năng phân tích để thấy cái gì là bản chất, cốt lõi, cái cơ bản, mối quan hệ giữa chúng với những cái chi tiết, cái thứ 44
  14. yếu như thế nào cũng như biết suy nghĩ để tìm cách trình bầy, dẫn dắt làm cho chúng trở nên nổi bật, trở thành đối tượng tiếp thu của trẻ. Hai là người thầy giáo phải có óc sáng tạo. Truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu được không phải là vấn đề đơn giản. Không phải mọi cái mà mình hiểu thì họ sẽ biết nói lại cho người khác cũng hiểu đúng và đầy đủ như mình. Do đó, việc xây dựng lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là làm cho tài liệu trở nên đơn giản, thô thiển, làm hạ thấp trình độ của học sinh. Óc sáng tạo của người thầy giáo khi chế biến tài liệu luôn có sự liên hệ lôgic với khả năng truyền đạt và giáo dục các ý tưởng sư phạm. Cái đó làm cho họ biết trình bầy tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, biết cung cấp cho học sinh những kiến thức tinh giản, chính xác, biết tìm ra mối liên hệ giữa kiến thức cũ với kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, biết liên hệ, vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. Do có óc sáng tạo, người giáo viên sẽ biết cách suy nghĩ đúng để tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm, làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giầu cảm xúc tích cực . Tính nhạy cảm với cái mới và sự giàu sức sáng tạo cũng được coi là yếu tố tâm lý quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của năng lực chế biến tài liệu ở người thầy giáo. - Năng lực tổ chức thực hiện bài dạy Kết quả của việc lĩnh hội tri thức, chiếm lĩnh đối tượng học tập của chủ thể bị phụ thuộc vào ba yếu tố: trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài giảng, cách tổ chức thực hiện bài dạy của giáo viên. Năng lực dạy học được biểu hiện cụ thể ở năng lực thiết kế - thi công bài học. Do đó, yêu cầu thầy phải biết cách chế biến tài liệu, tìm ra cách thức dạy hiệu quả và phải nâng trình độ dạy của mình lên mức độ năng lực. Người lao động ở nghề nào cũng phải có kỹ thuật thao - động tác - cử động theo yêu cầu của ngành nghề của mình. Nghề dạy cũng có kỹ thuật riêng của nó. Nhiều lần đã nói đến rằng hoạt động dạy và hoạt động học luôn có sự thống nhất với nhau trong cùng một quá trình mà không hoạt động nào thay thế cho cho nhau được. Hoạt động của thầy không có mục đích riêng cho mình mà nhằm mục đích tạo lập, tổ chức và làm chủ hoạt động nhận thức tích cực của trò. Quan niệm này dẫn tới một kỹ thuật dạy học hoàn toàn khác với kỹ thuật “rót tri thức” theo kiểu thầy giảng, trò ghi. Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật dạy học này là thầy tổ chức và điều khiển hoạt động của trò nhằm giúp các em lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức này được thực hiện dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi trong khi phát hiện tri thức đó của chủ thể. Vì chỉ có cách đó, học sinh mới thật sự nắm được lôgic nội tại của khái niệm cũng như chân lý của khoa học. Do đó, mọi giáo viên cần phải nắm vững kỹ thuật tổ chức, điều khiển hoạt động của nhận thức của trò, qua bài giảng phải thực hiện tốt toàn bộ thao tác sư phạm cho đạt đến mức như là có năng lực sư phạm. Để nắm vững kỹ thuật dạy học, người 45
  15. giáo viên phải hiểu thấu đáo các yếu tố tâm lý của việc thiết kế, thi công bài học, giao tiếp sư phạm cũng như phương thức sử dụng phương tiện dạy học hiện đại. Giáo viên thành thục kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh biết đứng ở vị trí “người phát minh” trong quá trình dạy học. Giáo viên biết cách truyền đạt tài liệu một cách rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nội dung của nó được vừa sức với học sinh. Trong khi thực hiện các thao tác sư phạm, giáo viên luôn biết cách gây hứng thú, kích thích học sinh suy nghĩ một cách tích cực và độc lập không phải là bằng hô hào mà bằng chính “lực hút” từ bản thân nội dung đối tượng học tập đang được các em nghiên cứu. Giáo viên biết tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập như tiến hành động viên, khơi gợi được sự chú ý, hình thành các kỹ năng, chuyển hoá kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ nhằm làm giảm căng thẳng trong giây lát và ngược lại, khắc phục sự suy giảm các thao tác của hoạt động trong giờ giảng hoặc biết cách làm tiêu tan những thái độ thờ ơ, uể oải ở học sinh. Việc hình thành cho giáo viên có được một năng lực như vậy để nắm vững kỹ thuật dạy như đã nêu trên quả không dễ dàng, trái lại nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc về cả lý luận khoa học cơ bản lẫn lý luận nghiệp vụ và sự rèn luyện tay nghề một cách công phu, cẩn trọng, có ý thức của người giáo viên. + Năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực giáo dục và năng lực tổ chức quản lý - Năng lực giao tiếp sư phạm Năng lực giao tiếp sư phạm của giáo viên được hợp thành bởi các phẩm chất tâm lý như biết định hướng - định vị cũng như thực thi và kiểm tra qúa trình tiếp xúc với các đối tượng theo mục tiêu sư phạm. Để chuẩn bị được các tiền đề tâm lý cần thiết cho giao tiếp, chủ thể phải hiểu rõ ràng xem mình đang tiếp xúc với ai? Họ như thế nào? Tiếp xúc để làm gì? Từ đó, tiến hành xây dựng kế hoạch, chiến lược, tâm thế và phương tiện - điều kiện cho việc tiếp xúc. Khi tiến hành thực thi các nhiệm vụ giao tiếp sư phạm, người giáo viên phải tích cực suy nghĩ và tưởng tượng sáng tạo nhằm xác định được một bức tranh tâm lý trung thực về cả mình lẫn đối phương để giao tiếp cho phù hợp. Nếu tình hình thực tế gay cấn, cần thiết phải thay đổi chiến lược và phản đề nhằm thay đổi chủ đề cho sự tiếp xúc. Phải biết cảm hóa, ám thị đối phương nghĩ và hành động theo mục tiêu giáo dục - đào tạo. Trong quá trình tiếp xúc phải biết kiểm tra, đánh giá quá trình cũng như kết quả của sự tiếp xúc để hiệu chỉnh theo mục tiêu của giao tiếp trong khi thực thi các nhiệm vụ giáo dục - đào tạo. Vấn đề là phải đứng vững trên quan điểm của tâm lý học giao tiếp sư phạm mà tiến hành các thao tác giao tiếp cho liên tục và khái quát ngay từ phút đầu đến phút cuối cùng của mọi quá trình giáo dục - đào tạo trong nhà trường dạy nghề. Việc thực hiện tốt các thao tác giảng dạy là rất khó. Nó đòi hỏi giáo viên phải có năng lực giảng dạy. Trong các quá trình sư phạm, việc thực hiện tốt các thao tác giao tiếp sư phạm thực sự là vấn đề khó khăn nhất đối với mọi giáo viên. Nó đòi hỏi ở mọi giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp sư phạm. - Năng lực giáo dục 46
  16. Năng lực giáo dục được cấu thành bởi các phẩm chất tâm lý của các năng lực bộ phận như: 1) Năng lực cảm hóa, thuyết phục và sai khiến học sinh suy nghĩ, hành động, quan hệ theo ý tưởng sư phạm; 2) Năng lực khai thác tiềm năng giáo dục trong các bài giảng và khả năng dùng đạo đức, các phương tiện, điều kiện cần thiết cho giáo dục toàn diện nhân cách học sinh trong khi thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Trong các quá trình sư phạm kỹ thuật, người giáo viên phải thực hiện cả một hệ thống các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng. Năng lực giáo dục được bao gồm năng lực thấu hiểu học sinh, năng lực tác động hình thành những phẩm chất nhân cách cho năm mặt giáo dục toàn diện cũng như các mặt giáo dục khác và năng lực cải biến nhân cách theo mục tiêu của các quá trình sư phạm. - Năng lực tổ chức, quản lý quá trình đào tạo Những phẩm chất của năng lực quản lý này phải được hiện thực hóa ra trong trong toàn bộ tiến trình hoạt động của người giáo viên từ thông tin đến kế hoạch hóa, tổ chức lãnh đạo - chỉ đạo thực hiện và kiểm tra - đánh giá - hiệu chỉnh theo mục tiêu giáo dục. Nó được cấu thành bởi các phẩm chất tâm lý như: tầm nhìn chiến lược, trình độ thiết kế, óc thực tiễn, tính nhạy cảm, ý chí mạnh, tài tổ chức, biết điều hành, sự đồng cảm, năng lực ám thị, năng lực tự ám thị, năng lực phân tích - hành động trên bình diện trí óc của tư duy lý luận.v.v... Để có thể tiến hành được tốt các nhiệm vụ quản lý các quá trình giáo dục - đào tạo, người giáo viên phải biết cách tiến hành xây dựng tập thể lớp, chuẩn bị nhân cách của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của mọi họat động - quan hệ sư phạm và tạo lập đủ các phương tiện tinh thần, vật chất cũng như các điều kiện tâm - sinh lý cá nhân, tâm lý - xã hội của nhóm và huy động sức mạnh của cả nền kinh tế - văn hóa - xã hội cho việc thực thi công việc dạy nghề. Phương tiện quan trọng của quản lý là tập thể, êkíp lãnh đạo, bầu không khí tâm lý nhóm, truyền thống trường - lớp, dư luận và tâm trạng dạy học tích cực, nhân cách sáng của giáo viên, văn bản pháp quy.v.v... 2.3. TÂM LÝ HỌC DẠY NGHỀ 2.3.1. Hoạt động dạy nghề a) Định nghĩa Hoạt động dạy nghề là quá trình hướng dẫn, tổ chức, điều khiển học sinh học nghề giải quyết hệ thống nhiệm vụ dạy học nhằm giúp cho các em lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng nghề và các phẩm chất đạo đức của nghề để hình thành năng lực, phẩm chất nhân cách cho người học nghề. b) Đặc điểm hoạt động dạy nghề Trong nhà trường thầy giáo đóng vai trò là chủ thể của hoạt động dạy học. Hoạt động dạy nghề của người giáo viên không có chức năng sáng tạo ra tri thức mới, cũng không tái tạo lại tri thức đã có mà là ra tổ chức và chỉ đạo hoạt động học của học sinh học nghề một cách khoa học nhằm tạo ra cái mới trong nhân cách học sinh học nghề. Chính vì vậy, hoạt động dạy của người giáo viên dạy nghề cũng luôn mang tính khoa 47
  17. học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo, tính phát triển nhân cách, tính mẫu mực, tính giao tiếp. - Mục đích của hoạt động dạy nghề là giúp người học nghề lĩnh hội nền văn hoá xã hội, lĩnh hội, tiếp thu hệ thống kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp nhằm làm phát triển năng lực, phẩm chất nghề nghiệp cho người học nghề. Để đạt được mục đích này, người giáo viên dạy nghề cần giúp đỡ, hướng dẫn, điều chỉnh các hoạt động học tập của học sinh, bởi vì, bản thân học sinh không thể tự mình biến năng lực loài người thành năng lực của chính mình được. Do đó, người giáo viên dạy nghề phải thật sự quan tâm, định hướng, chỉ đường cho người học, tránh để họ đi mò mẫm, đi theo con đường thử - sai như các nhà khoa học đã từng đi trong quá trình tìm kiếm chân lý khoa học. Nhưng để hoạt động dạy nghề được định hướng cụ thể, ta phải xác định được các mức độ người học nghề cần phải đạt được trong từng giai đoạn dạy học. Người học nghề cần phải đạt được những nội dung gì về kiến thức, kỹ năng cũng như năng lực nghề nghiệp. Những mục đích đó cần phải được cụ thể trong các nhiệm vụ học tập và người học sinh học nghề cần phải thực hiện. - Đối tượng của hoạt động dạy nghề chính là nhân cách của người học nghề (đầu vào của quá trình dạy học). Học sinh đi học nghề mang trong mình hành trang là vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phẩm chất, năng lực mà họ đã hình thành được ở giai đoạn trước đó. Người giáo viên dạy nghề cần phải hiểu rõ và nắm vững các trình độ này ở người học nghề để coi đó là xuất phát điểm, là cơ sở tâm lý cần thiết trong quá trình định hướng, điều khiển, tổ chức hoạt động dạy của mình. Người giáo viên trong quá trình dạy nghề cần phải tác động vào các khía cạnh đó để nâng cao dần chất lượng của hiểu biết, trình độ kỹ năng, năng lực nghề nghiệp và các phẩm chất đạo đức cho học sinh học nghề. Đó cũng là sản phẩm của quá trình dạy nghề càn phải hướng tới - nhân cách phát triển toàn diện của người học nghề với những năng lực nghề nghiệp cụ thể (đầu ra của quá trình dạy nghề). - Phương tiện của hoạt động dạy nghề Hoạt động dạy nghề buộc phải đưa tri thức mà loài người đã phát hiện vào quá trình dạy. Phòng học, xưởng thực hành, sân bãi, tài liêu giảng dạy, phấn, bảng, máy vi tính, máy chiếu.v.v... cũng chính là những phương tiên cần thiết của hoạt động này. Tuy nhiên, người giáo viên dạy nghề còn phải sử dụng một loại phương tiện đặc biệt quan trọng để thực hiện hoạt động dạy nghề đó là nhân cách nghề nghiệp của chính bản thân. Tất cả các phẩm chất, trình độ, năng lực chuyên môn nghề nghiệp, sự sáng tạo sư phạm, sáng tạo nghề nghiệp và các đặc điểm tâm lý khác của người giáo viên dạy nghề đều được sử dụng trong quá trình dạy học. Đó là công cụ, là phương tiện chủ yếu để tổ chức cho người học tái tạo tri thức, kỹ năng, năng lực nghề nghiệp của nhân loại và hình thành những tri thức ấy, năng lực ấy cho học sinh thông qua đó tạo ra sự phát triển tâm lý học sinh. Cho nên, hoạt động dạy nghề chính là dùng nhân cách của người giáo viên như một công cụ quan trọng để tác động và hình thành lên nhân cách cho học sinh học nghề. c) Các yếu tố tâm lý của hoạt động dạy nghề 48
  18. Hoạt động dạy nghề nhằm giúp học sinh học nghề lĩnh hội được hệ thống kiến thức lý thuyết của nghề, luyện tập, thực hành để hình thành những kỹ năng và phẩm chất của nghề nghiệp mà các em theo học. Người giáo viên dạy nghề là chủ thể của hoạt động dạy nghề. Việc thực hiện hoạt động dạy nghề của giáo viên không nhằm phát triển nhân cách của chính họ mà là hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo học sinh học nghề tái tạo nền văn hoá xã hội, tái tạo lại kiến thức nghề nghiệp cũng như con đường, cách thức, biện pháp khai phá ra hệ thống các kiến thức đó của các nhà khoa học. Trong quá trình đó, người giáo viên dạy nghề sẽ dần dần giúp học sinh học nghề hình thành, sử dụng, rèn luyện và phát triển các phẩm chất như tính tự giác, tích cực, chủ động, hăng say, sáng tạo.v.v... ở chính người học nghề nhằm hình thành nên những hiểu biết, kỹ năng nghề, đạo đức nghề nghiệp một cách khoa học, logic, bài bản lần đầu tiên trong thế giới tâm lý của các em. Thông qua đó, phẩm chất và năng lực nghề nghiệp sẽ dần dần được hình thành ở người học nghề. Hoạt động dạy có những thành phần cơ bản là hoạt động dạy cụ thể, hành động dạy và thao tác dạy. Cấu trúc của hoạt động dạy sẽ được cụ thể hoá bằng nội dung của sơ đồ sau: Hoạt động dạy nghề cụ thể Động cơ dạy Hành động dạy Mục đích dạy Thao tác dạy Phương tiện - điều kiện dạy Hình 2.1. Sơ đồ: Cấu trúc của hoạt động dạy nghề Khi thực hiện nhiệm vụ dạy nghề, người giáo viên dạy nghề ở các nghề khác nhau sẽ phải thực hiện những hoạt động dạy nghề cụ thể. Ví dụ như các giáo viên dạy nghề kỹ thuật sẽ có các hoạt động như dạy vẽ kỹ thuật, dạy cơ kỹ thuật, dạy điện kỹ thuật .v.v... Nội dung của hoạt động dạy cụ thể của người giáo viên dạy nghề là cấu trúc của đối tượng kỹ thuật cũng như nội dung của chương trình, kế hoạch dạy học và giáo trình, sách giáo khoa. Tri thức về chuyên môn kỹ thuật cũng như giáo dục học nghề nghiệp, kỹ năng và phương pháp dạy học nghề được coi là những cơ sở, những tiền đề lý luận, chỉ đạo cho người giáo viên biết cách suy nghĩ đúng để tìm ra phương thức tiến hành các hoạt động dạy nghề một cách hiệu quả. Hoạt động dạy cụ thể sẽ được người giáo viên thực hiện qua các hành động dạy. Nhìn chung có ba loại hành động chuẩn bị dạy, tiến hành thực hiện nhiệm vụ dạy và kiểm tra - đánh giá quá trình cũng như kết quả dạy. Trước khi dạy, người giáo viên sẽ phải tiến hành nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, giáo trình và tìm hiểu tâm - sinh lý học sinh lớp, nhóm mình sẽ dạy. Trên cơ sở đó, họ sẽ phải tiến hành soạn giáo án, viết đề cương bài giảng, xác định lịch trình giảng dạy, làm đồ dùng dạy học, chuẩn 49
  19. bị phương tiện - trang thiết bị kỹ thuật và tâm thế cần thiết cho việc dạy. Khi dạy, người giáo viên phải biết tiến hành truyền thụ kiến thức, rèn kỹ năng, giáo dục nhân cách thông qua việc dùng hệ các phương pháp giảng thuật, giảng giải, giảng diễn, sử dụng sách giáo khoa - tài liệu tham khảo, luyện tập, ôn tập - củng cố - hệ thống hoá kiến thức, kiểm tra - đánh giá và phương pháp độc lập quan sát - làm thí nghiệm.v.v... Ở trên lớp, khi thực hiện nhiệm vụ dạy, người giáo viên phải có kỹ năng biết thực hiện tốt các hành động tổ chức lớp học, thiết kế, chỉ đạo việc thi công bài học và giao tiếp sư phạm. Hành động dạy của người giáo viên sẽ phải tuân thủ được logic môn học cũng như logic của quá trình dạy học và có nghệ thuật sư phạm. Các hành động dạy sẽ được thực hiện bằng hệ thống các thao tác dạy. Khi dạy kỹ thuật, người giáo viên phải có kỹ năng sử dụng các thao tác trí tuệ cũng như động tác đối tượng cảm tính như tay - máy, tay - máy điều khiển - máy sản xuất và động tác tay - chân - cơ thể .v.v... Trong khi thực hiện các hành động dạy ở trên lớp, người giáo viên sẽ phải chú ý thực hiện tốt các động tác giao tiếp, quan sát lớp học, viết bảng, trình bày trực quan, theo dõi tiến độ dạy theo chương trình đã định trong giáo án, kết hợp hài hoà giữa thao tác dạy của mình với thao tác học của học sinh, thực hiện những cử động - thao động tác cho phù hợp với nội dung dạy và tổ chức bài học. Mỗi một hoạt động dạy cụ thể của người giáo viên sẽ được kích thích bằng hệ thống các động cơ. Có động cơ kích thích và động cơ tạo ý. Tất cả những gì về dạy học được người giáo viên nhận thức và do đó, nó kích thích chủ thể đi vào giải quyết một cách có hiệu quả toàn bộ nhiệm vụ dạy đều có thể trở thành động cơ dạy. Tất cả vì sự hoàn thiện năng lực nhận thức cũng như kỹ năng hành động sáng tạo và sự phát triển các phẩm chất, năng lực nghề nghiệp trong nhân cách học sinh học nghề sẽ được coi là động cơ trong sáng, tích cực và cao đẹp nhất của người giáo viên dạy nghề. Những động cơ này sẽ đóng vai trò quan trọng, kích thích hoạt động dạy và được thay đổi, phát triển và hoàn thiện hơn lên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động dạy cụ thể của người giáo viên dạy nghề. Trong hoạt động dạy, mỗi một hành động của người giáo viên dạy nghề đều hướng vào để đạt được những mục đích cụ thể. Các mục đích dạy được xác định theo một cấu trúc - hệ thống, phù hợp với nhiệm vụ dạy lý thuyết nghề hay hướng dẫn thực hành nghề, vận dụng và kiểm tra - đánh giá một khi đã đạt được sẽ góp phần vào việc thực hiện mục đích dạy. Động cơ dạy luôn chi phối mục đích dạy và các mục đích dạy một khi đã thực hiện được sẽ tạo điều kiện tâm lý cần thiết cho động cơ dạy trở thành hiện thực. Trong khi thực hiện các thao tác dạy, ở người giáo viên sẽ phải có đầy đủ được phương tiện vật chất - tinh thần nhất định cùng các điều kiện tâm - sinh lý cá nhân thuận lợi, tâm lý - xã hội tích cực và tiềm lực con người, tiền bạc cùng vật chất của nền kinh tế - văn hoá - xã hội cần thiết cho việc giải quyết nhiệm vụ dạy. Các điều kiện, phương tiện dạy nghề khác nhau sẽ làm cho các thao, động tác dạy nghề của các giáo viên là khác nhau. 2.3.2. Hoạt động học nghề 50
  20. a) Định nghĩa Hoạt động học nghề là quá trình học sinh, sinh viên tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo lĩnh hội, tiếp thu, rèn luyện những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và hình thành các phẩm chất, năng lực nghề nghiệp của bản thân dưới sự hướng dẫn, tổ chức, định hướng, điều khiển của người giáo viên dạy nghề. b) Đặc điểm hoạt động học nghề + Mục đích của hoạt động học nghề Thông thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể (đối tượng của hoạt động) trong khi đó hoạt động học nghề lại làm cho chính chủ thể của hoạt động này thay đổi và phát triển. Điều đó có nghĩa rằng: Hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp mà các nhà khoa học đã tìm ra không hề thay đổi sau khi bị học sinh học nghề chiếm lĩnh. Sự thay đổi trong và sau quá trình học nghề lại chính là hiểu biết, năng lực của người học nghề thông qua quá trình tiếp thu, lĩnh hội và rèn luyện của chính họ. Vì vậy, người học càng giác ngộ được sâu sắc mục đích này bao nhiêu thì sức mạnh vật chất và tinh thần của họ ngày càng được huy động bấy nhiêu, sự thay đổi và phát triển tâm lý của chính họ lại càng lớn lao và mạnh mẽ. Tuy nhiên, ta cũng cần biết rằng, hoạt động học nghề cũng có thể làm thay đổi khách thể, nhưng đó không phải là mục đích tự thân của hoạt động học mà là lại phương tiện của hoạt động học. + Đối tượng của hoạt động học nghề Đối tượng của hoạt động học nghề được coi là hệ thống tri thức chung, những kỹ năng khái quát, kỹ xảo hành động - quan hệ, phương thức thực hiện hoạt động - giao tiếp, cách tổ chức hành động nói chung và đặc biệt là hệ thống kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, năng lực nghề nghiệp. Các đối tượng này luôn tồn tại khách quan trong nền văn hóa xã hội của loài người, trong các nghề nghiệp cụ thể và được chắt lọc, lựa chọn để đưa vào chương trình học trong các cơ sở dạy nghề. Học sinh đi học nghề là chủ động chiếm lĩnh các đối tượng này và chuyển biến chúng thành những hiểu biết, kỹ năng, năng lực nghề nghiệp chủ quan của bản thân. Trong khi tổ chức các hoạt động học nghề, các đối tượng học (tri thức, kỹ năng) được xây dựng sẽ phải tuân thủ đúng các yêu cầu của tâm lý học dạy học như sau: 1) Các tri thức, kỹ năng phải được sắp xếp một cách hợp lý, theo một hệ thống, phù hợp với cấu trúc thực của đối tượng kỹ thuật - quy trình công nghệ: tính phức tạp của chúng luôn tăng dần lên như tiến hành lắp ráp các yếu tố của bộ cơ theo sơ đồ rồi đến phát hiện ra cái thừa - thiếu - sai trong sơ đồ về đối tượng và vận dụng sáng tạo các tri thức - kỹ năng về cơ kỹ thuật đã biết để giải quyết nhiệm vụ kỹ thuật trong quá trình gia công ra sản phẩm; 2) Phương thức giải quyết các nhiệm vụ học sẽ luôn luôn ở trạng thái ẩn tàng vào trong đối tượng học tập mà chúng chỉ có thể được phát hiện ra và nhận thức thông qua chính hành động của chủ thể; 3) Hệ thống các tri thức, kỹ năng được xây dựng theo nguyên lý vừa - đủ và sắp xếp theo một logic xác định, sao cho, sau khi đã giải quyết chúng, học sinh học nghề 51
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2