
32
Chương 2. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HSSV HỌC NGHỀ
Học sinh, sinh viên học nghề thường bao gồm những thanh niên đã tốt nghiệp
phổ thông trung học, một số ít sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở có tham gia lao động
ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội hoặc vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự để
được vào học các trường dạy nghề (độ tuổi khoảng từ 17 đến 20). Đó là những người ở
độ tuổi sung sức, có thể chất phát triển nhất trong cuộc đời.
Quá trình học tập ở các trường dạy nghề đòi hỏi các em phải tách khỏi cuộc
sống gia đình và gắn liền với tập thể trong mọi hoạt động từ học tập, sinh hoạt, ăn ở
đến lao động, hội họp. Vì vậy, trong mọi hoạt động, các em phải điều chỉnh các hành
vi, cử chỉ của mình cho thích hợp với cuộc sống tập thể. Đó là thời kỳ chuẩn bị cho
các em chuyển hóa từ học sinh dần dần thành những người lao động trong các tập thể
lao động ở các ngành kinh tế và các lĩnh vực hoạt động xã hội. Sau này, họ sẽ là những
công nhân, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ trên mọi lĩnh vực: sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ, y tế... của xã hội.
2.1.1. Đặc điểm nhận thức
Do sự hoàn thiện của hệ thần kinh mà khả năng nhận thức của thanh niên học
nghề rất phát triển. Sự tiếp thu tri thức nghề nghiệp và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp được gắn liền với việc rèn luyện các phẩm chất đạo đức của thanh niên học
nghề – những người lao động mới, người công dân trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tính chất và nội dung các môn học hoàn toàn thay đổi so với thời kỳ học
phổ thông trước đó. Các phương thức lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp cũng hoàn toàn khác trước. Điều đó không chỉ thể hiện ở số lượng, mức
độ sâu sắc của các sự kiện được nhận thức, mà còn ở chính bản thân các quá trình tâm
lý, các trạng thái tâm lý. Các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng, chú ý, trí
nhớ, ngôn ngữ, cảm giác, tri giác và biểu tượng kỹ thuật của các em đã được phát triển
với chất lượng mới. Khả năng phân biệt màu sắc, ánh sáng, độ tinh của thính giác cũng
như sự tri giác không gian tăng lên rất nhiều so với lứa tuổi trước. Khả năng tập trung
và phân phối chú ý tăng lên rõ rệt nhờ sự ý thức được trong quá trình chú ý, nhờ khả
năng tự kiềm chế mình. Nhìn chung, thanh niên học nghề có có khả năng chú ý có chủ
định tốt, nhưng cũng có hiện tượng vờ chú ý, một hiện tượng không có trong tuổi nhỏ.
Tư duy của họ khá phát triển, đặc biệt là tư duy trừu tượng logic. Ở họ cũng có khả
năng tìm hiểu, tự học, tự quan sát các sự vật hiện tượng và rất nhạy cảm đối với các
hành vi của những người xung quanh. Nhờ khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh đã
phát triển nên họ có khả năng nhìn ra những gì là chủ yếu, thứ yếu ở các đối tượng,
các vấn đề đang được họ quan tâm. Càng về cuối, tính độc lập trong học tập, trong rèn
luyện càng được bộc lộ rõ hơn.
2.1.2. Đặc điểm tình cảm, ý chí
Tuổi thanh niên học nghề là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời. Chính vì vậy, ta
thường gọi lứa tuổi này bằng một từ rất đẹp: tuổi xuân (tuổi thanh xuân). Đây là thời
kỳ trẻ trung, sung túc của các loại cảm xúc, tình cảm như: tình yêu cuộc sống, yêu đời,

33
yêu thích nghề nghiệp, yêu bạn bè, tình yêu nam nữ. Nhìn chung, tình cảm ở họ
thường nở rộ trên nhiều mặt.
Thanh nên học nghề thường rất yêu đời và lạc quan. Tình yêu cuộc sống thường
làm cho họ nhìn thiên về mặt thuận lợi, mặt “hồng” của cuộc sống. Họ thường xuyên
xây dựng mơ ước của mình bẵng những thuận lợi, đẹp đẽ. Ở họ, thường ít lường trước
những khó khăn, vấp váp trong cuộc sống. Nhưng cũng nhờ có sự yêu đời, lạc quan
mà ở thanh niên học nghề thường có một phẩm chất rất quý: đó là sự vươn tới phía
trước, bất chấp những khó khăn thử thách, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để thực hiện
mục đích đã được ý thức, đã được đặt ra.
Đây cũng là lứa tuổi có nhiều bạn hơn các lứa tuổi khác. Một mặt, do sự giao
tiếp, do chưa có gia đình; mặt khác, do các loại hoạt động xã hội đa dạng của lứa tuổi
trẻ mà ở họ dễ xây dựng và giữ lại tình bạn. Trong đó, những thanh niên có xu hướng
xã hội rõ ràng, tế nhị trong giao tiếp, rộng lượng, ân cần giúp đỡ người khác và có tâm
hồn phong phú thường là những người có nhiều bạn hơn những người khác. Tình bạn
của thanh niên học nghề chi phối và ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động cũng như sự
hình thành nhân cách của họ. Thanh niên học nghề cần có bạn và cần tình bạn, họ
không thể sống một cách cô độc mà không có bạn. Loại tình cảm này ở họ được xây
dựng trên nhiều cơ sở khác nhau: có khi từ cùng sở thích và hứng thú, có khi từ sự
tương hợp các nét tính cách, có khi từ sự giống nhau về năng lực, cùng quê hương…
Nhìn chung, tình bạn ở họ được xây dựng với thái độ chân thành, dễ thấy. Khi đã là
bạn thân, họ thường tâm sự với nhau những điều thầm kín nhất, cùng hành động, giúp
nhau khi hoạn nạn, san sẻ với nhau những lúc vui, lúc buồn.
Do đặc điểm trên mà ở thanh niên học nghề, ta thường thấy tình bạn ở họ có
nhiều biểu hiện cụ thể, dễ thấy. Tình bạn đã làm cho họ hẹn gặp nhau trò chuyện, thư
từ cho nhau, đi chơi với nhau, ăn với nhau.... Những hành vi đó chúng ta thấy khá
nhiều ở ngoài giờ lên lớp, người giờ thực tập ở trường. Vì vậy, giáo viên cần giúp đỡ
học sinh để họ xây dựng được tình bạn với mục đích chân chính. Quan hệ bạn bè tốt
đẹp phải là quan hệ bình đẳng, cùng giúp nhau học tập, tu dưỡng để tiến bộ. Mọi sinh
hoạt của các cặp bạn bè và các nhóm cũng phải theo hướng đó. Chỉ có như vậy mới
hạn chế được những lêch lạc trong tình bạn của các em.
Trong thanh niên học sinh học nghề, còn có một loại tình cảm mới chớm nở
nhưng khác hẳn thanh niên học sinh phổ thông là lòng yêu nghề. Nhìn chung, lòng yêu
nghề càng ngày càng được hình thành và phát triển đúng đắn trong quá trình học tập
tại các trường dạy nghề và sau này khi trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Khi
nguyện vọng của học sinh phù hợp với sự phân công công việc của tổ chức và khi
thanh niên ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của xã hội thì lòng yêu
nghề có cơ sở để phát triển. Nhờ có lòng yêu nghề mà học sinh yên tâm học tập, hăng
say học tập và lao động, công tác cũng như tu dưỡng.
Tuy nhiên, tình cảm nghề nghiệp này chỉ được xây dựng lành mạnh trên cơ sở
cá nhân có nhận thức đúng đắn. Khi mới bước chân vào các trương nghề, lòng yêu
nghề của học sinh có khi chưa được hình thành hoặc nếu mới chớm nở thì cũng chỉ mơ

34
hồ, chưa có cơ sở đúng hướng vì họ chưa thực sự bước vào nghề. Sự đánh giá về nghề
nghiệp thường là do dư luận xã hội và do những nhận thức sai lệch ở cùng lứa tuổi gây
nên. Mặt khác, họ thường có mơ ước vào học tiếp ở các trường Cao đẳng và Đại học.
Nhưng khi sự mơ ước không phù hợp với năng lực và trình độ hiện tại thì các em phải
đi vào trường dạy nghề. Sự thất vọng thường bao trùm lên suy nghĩ làm cho các em
không nhận ra được rằng nghề nào cũng cao quý trong xã hội là khi và chỉ khi nào con
người làm nghề gì, việc gì phù hợp với khả năng, trình độ của mình thì người đó mới
thật sự hạnh phúc. Vả lại, con đường học tập và nghiên cứu của các em không phải đã
chấm dứt khi bước vào các trường dạy nghề, con đường ấy vẫn mở ra cho các em và
xã hội vẫn chờ đón những điều đó ở thanh niên học nghề. Tuy nhiên, không phải tất cả
mọi thanh niên học nghề đều nhận thức được đầy đủ điều đó. Do đó, việc bồi dưỡng
để có nhận thức đúng đắn về nghề đã học và xây dựng lòng yêu nghề là một yêu cầu
rất quan trọng trong công tác giáo dục học sinh ở các trường dạy nghề. Vì chỉ có yêu
nghề, có hứng thú với nghề, học sinh học nghề mới say sưa học tập, lao động, tu
dưỡng. Từ đó, ở họ mới nảy sinh sự sáng tạo, tìm tòi và đi sâu vào ngành nghề mình
học. Và ngược lại, chỉ khi nào con người đi sâu vào nghề thì mới tìm thấy cái hay, cái
hấp dẫn ở đó. Do đó, lòng yêu nghề làm cho con người đi sâu vào nghề hơn và cũng
nhờ quá trình tìm tòi, đi sâu vào nghề mà lòng yêu nghề càng có cơ sở để phát triển
cao hơn nữa.
Một loại tình cảm nữa cũng được hình thành và phát triển ở thanh niên học
nghề là tình yêu nam nữ. Ở thanh niên học nghề, tình cảm này thường có màu sắc đặc
biệt: thơ mộng, thuần khiết và dễ dãi. Họ thường mến nhau vì cùng chung lý tưởng,
cùng sở thích, hứng thú và vì sự hấp dẫn bởi vẻ đẹp của con người cũng như các phẩm
chất đạo đức. Trong tình yêu, họ không tính toán đến mặt vật chất và ít lường thấy hết
những khó khăn. Tình yêu nam nữ ở lứa tuổi này cũng có nhiều mặt tốt. Chẳng hạn, vì
người mình yêu, vì những nhận xét tác động của bạn bè cùng lứa tuổi mà nam nữ
thanh niên thường ý tứ, e dè trong sinh hoạt. Tình yêu được nhận thức đúng cũng sẽ
giúp các em học tập tích cực hơn, biết giúp nhau học tập và tu dưỡng tốt hơn. Tuy
nhiên, những mặt hạn chế thường xảy ra nhiều hơn, đặc biệt ở những thanh niên chưa
thực sự trưởng thành. Các em bỏ ra nhiều thời gian cho việc gặp gỡ, thư từ, cho việc
chăm sóc bề ngoài của mình. Hơn nữa, các em chưa thực sự bước vào cuộc sống lao
động, chưa có đủ kinh nghiệm và kiến thức thực tế cần thiết để xây dựng tình yêu nên
tình yêu ở các em thiếu cơ sở chắc chắn, thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng. Cho nên, tình yêu
trong họ thường khó thành công. Điều đó đã làm tổn thương trong suy nghĩ, tình cảm
ở các em và gây ảnh hưởng không tốt tới học tập, lao động và tu dưỡng.
Vì vậy, các giáo viên trong các trường dạy nghề cần làm cho học sinh nhận thức
rõ điều đó để các em có thể tập trung vào học tập, tu dưỡng, giúp các em có cơ sở để
xây dựng tình yêu chân chính và tạo dựng cuộc sống hạnh phúc. Biện pháp giáo dục
phải tế nhị, tránh cấm đoán thô bạo, phải có thái độ tôn trọng tình cảm đó ở các em và
có tác động khéo léo để giáo dục các em tôn trọng các chuẩn mực đạo đức, không nên
quá dễ dãi, buông lỏng trong tình cảm. Đó cũng là trách nhiệm của những người đi
trước, những người làm công tác giáo dục.

35
Một số nét ý chí của thanh niên học nghề như tính độc lập, tính kiên quyết hay
lòng tự trong cao.v.v... cũng được bộc lộ khá rõ nét. Các em thể hiện sự vươn tới vị trí
ngang bằng với người lớn ở sự tự chủ. Các em tách mình ra khỏi những người ở lứa
tuổi thấp hơn, cố gắng đặt mình trong hàng ngũ những người lớn, những người cùng
tuổi. Họ nhiều khi ngại ngùng khi đi cùng cha mẹ hoặc phải nghe cha mẹ hướng dẫn
khi có những người lạ, những bạn bè cùng tuổi mới quen biết. Họ muốn tự chủ trong
mọi công việc. Tính độc lập còn biểu hiện khá rõ nét ở việc phán đoán các hiện tượng
xảy ra, trong việc quyết định hành động và trong việc biểu lộ các ý kiến, quan điểm
của mình. Nhờ ý thức bản ngã phát triển mà tính độc lập ở họ còn được biểu hiện ở sự
tự kiểm tra và sự tự đánh giá các hành vi ở chính bản thân mình. Trong gia đình, tính
độc lập biểu hiện rõ trong việc tự lo lắng và thu xếp công việc của bản thân và của
những người thuộc lứa tuổi thấp hơn. Thanh niên học nghề thường có ý kiến trái hẳn
lại ý kiến của cha mẹ và điều đó thường gây ra sự “xung đột” trong quan hệ cha mẹ -
con cái. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện thượng này là thanh niên học
nghề có đặc điểm bồng bột, thẳng thắn và chân thành, những ý kiến của thanh niên
thường có tính chất khẳng định, dứt khoát, họ cho rằng chỉ nên nói những điều mà
mình nghĩ là đúng. Một nguyên nhân nữa thường là sự không phù hợp giữa cách thức
đối xử của cha mẹ với thanh niên, hầu như các bậc cha mẹ vẫn giữ cách tác động cũ
khi thanh niên đã thay đổi hẳn so với tuổi thiếu niên.
Thanh niên học nghề cũng thường rất quý trọng sự thẳng thắn, dũng cảm. Đối
với họ, sự thẳng thắn và dũng cảm dám nhận trách nhiệm, dám nhận khuyết điểm có
sức thuyết phục rất lớn và họ đòi hỏi ở nhau trong giao tiếp, trong quan hệ tình bạn,
trong công việc những nét tính cách này. Họ cũng rất nhạy cảm với sự đánh giá của
người khác, đặc biệt là nhận xét, đánh giá của những người cùng lứa tuổi và những
người có uy tín. Chính vì vậy, nhiều khi họ hành động theo nhận xét của bạn bè và
theo sự khuyên bảo của những người mà họ quan niệm là “mẫu người”. Do đó, giáo
viên cần tạo ra các dư luận tập thể lành mạnh để giáo dục học sinh học nghề, mặt khác,
giáo viên cần gương mẫu về mọi mặt để có uy tín tốt trước các em.
2.1.3. Đặc điểm tính cách
Ở lứa tuổi này, thế giới quan được hình thành và phát triển khá rõ nét. Thế giới
quan là toàn bộ “bức tranh” về thế giới trong ý thức con người. Nhờ việc tiếp thu hàng
loạt các kiến thức khoa học và kỹ thuật khác nhau mà ở thanh niên học nghề có những
quan điểm đúng về hiện thực.
Lý tưởng của thanh niên học nghề cũng được hình thành khá rõ rệt, nhất là sau
khi họ đã xác định được con đường lao động và học tập cho cả cuộc đời. Sống để làm
gì, cho ai, đó là câu hỏi trả lời cho lý tưởng. Do được sinh ra trong thời kỳ đổi mới của
xã hội nên thanh niên học nghề thường có khát vọng vươn tới lý tưởng cao đẹp ở hai
loại mục tiêu: đó là xã hội tốt đẹp và những con người ưu tú có phẩm chất, năng lực
kiệt xuất. Niềm khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ, lớn lao thường có ảnh hưởng
lớn hành vi của họ. Những biểu hiện cụ thể trong học tập, tu dưỡng, công tác, lao động
ở trường nghề chính là các hành vi thiết thực phấn đấu cho lý tưởng. Sự hi vọng dễ

36
nảy sinh, dễ xây dựng nhưng khi gặp trở ngại, thất bại thì nỗi thất vọng cũng dễ làm
cho họ khó định hướng trở lại. Đó là biểu hiện của sự bồng bột, thiếu chín chắn, thiếu
kinh nghiệm, chưa từng trải trong việc xây dựng các ước mơ, hoài bão ở thanh niên
học nghề.
Sự hình thành thế giới quan và lý tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo nên
các niềm tin trong thanh niên học nghề. Nhờ có những hiểu biết nhất định mà niềm tin
của thanh niên học nghề đã có cơ sở. Mặt tình cảm của niềm tin biểu hiện ở họ khá rõ
nét: khi đã tin tưởng về một cái gì đó và được xác định là đúng đắn thì ở họ có những
cảm xúc đặc biệt, đó là sự say sưa mang màu sắc lý tưởng. Niềm tin của thanh niên
học nghề dễ nhận thấy, không chỉ biểu hiện ở sự trao đổi, tranh luận mà còn biểu hiện
cụ thể ở sự hăng hái, nhiệt tình trong hành động của họ. Sở dĩ như vậy là vì niềm tin ở
thanh niên khá tuyệt đối và dứt khoát, ranh giới giữa cái tin và sự không tin biểu hiện
khá rõ ràng. Chính vì vậy, khi thanh niên học nghề đã tin vào cái gì, họ thường dốc hết
tâm trí và hành động để thực hiện niềm tin ấy.
Do đặc điểm của lứa tuổi, thanh niên học nghề thường có hứng thú riêng, trong
đó nổi bật lên là hứng thú nhận thức. Họ là những người ham hiểu biết, cho nên, hứng
thú của họ không chỉ bó hẹp trong việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà
còn vượt ra xa khỏi phạm vi nghiên cứu.
Do đặc điểm dễ nắm bắt những cái mới nên những giáo viên trong các trường
nghề phải làm cho các em thấy được những cái mới nào là có lợi, là phù hợp và cái
mới nào là có hại, là xa lạ với chúng ta. Có nhận thức đúng về cái mới thì ở các em
mới có hành động theo cái mới một cách đúng đắn. Mặt khác, khi những biểu hiện
lệch lạc trong việc tiếp thu và hành động theo cái mới đã nảy nở ở thanh niên học
nghề, ta cần tìm hiểu để nắm được nguyên nhân xảy ra, mức độ thể hiện và phạm vi có
hại của nó để tìm các biện pháp thích hợp uốn nắn họ.
Một đặc điểm nữa là thanh niên học nghề rất thích hoạt động tập thể. Họ
thường có khuynh hướng muốn khẳng định khả năng của mình trước tập thể. Họ thích
giao thiệp rộng rãi và thích giao du với bạn bè. Điều đó thể hiện khả năng hiếu động
của tuổi trẻ. Cho nên, những hoạt động tập thể thường có tác dụng khích lệ họ rất cao.
Bởi lẽ, thông qua các hoạt động này thanh niên học nghề mới được trải nghiệm, được
thử thách, có kinh nghiệm, làm phong phú và cân bằng nhân cách của mình, năng lực
tổ chức, hoạt động tập thể của họ cũng được nâng cao, có bản lĩnh vững vàng
hơn.v.v…
Vì vậy, các trường dạy nghề cần tổ chức các hoạt động tập thể có tính đa dạng,
phù hợp với khả năng của thanh niên học nghề để cuốn hút các em như các hoạt động
đáu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong sinh viên, trong xã hội, các hoạt động thi
đua nâng cao tay nghề hay các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.v.v…
Nhìn chung, ở thanh niên học nghề có nhiều phẩm chất tâm lý tốt, nhân cách
của các em cũng đã được định hình tương đối rõ nét. Điều đó giúp chúng ta có thể phát
huy các mặt này và từ đó, khắc phục các mặt nhược điểm vốn có của tuổi trẻ. Tuy
nhiên, cần hiểu rằng, các đặc điểm tâm lý lứa tuổi phụ thuộc rất nhiều vào các điều