intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giúp bé học khi chơi

Chia sẻ: G G | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

53
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

- Định hướng: điều chỉnh từ những gì bé đang làm bây giờ sang những điều bé cần biết; cách định hướng: điều chỉnh các yêu cầu trước khi đưa ra phần thưởng; ví dụ: yêu cầu bé chạm vào một vật bé thích trước khi bé được nhận, sau đó tiến tới yêu cầu bé nói một âm gì đó, rồi một vần, rồi một từ... - Hướng dẫn: hỗ trợ để bé trả lời đúng; hướng dẫn giảm dần từ hướng dẫn bằng tay tới diễn tả, gợi ý bằng lời, ra hiệu, chỉ... ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giúp bé học khi chơi

  1. Source : http://blog.360.yahoo.com/blog-4rio_BM1dK4BRKUYJiOn76y0xpE-?cq=1 Giúp bé học khi chơi - Định hướng: điều chỉnh từ những gì bé đang làm bây giờ sang những điều bé cần biết; cách định hướng: điều chỉnh các yêu cầu trước khi đưa ra phần thưởng; ví dụ: yêu cầu bé chạm vào một vật bé thích trước khi bé được nhận, sau đó tiến tới yêu cầu bé nói một âm gì đó, rồi một vần, rồi một từ... - Hướng dẫn: hỗ trợ để bé trả lời đúng; hướng dẫn giảm dần từ hướng dẫn bằng tay tới diễn tả, gợi ý bằng lời, ra hiệu, chỉ... - Giảm dần sự hướng dẫn (QUAN TRỌNG): làm sao để bé không bị phụ thuộc vào hướng dẫn, tiến tới bé có thể làm đúng, trả lời đúng mà không cần hướng dẫn; ví dụ: dạy bé chạm vào quả bóng: đầu tiên trực tiếp cầm tay bé chạm vào bóng, sau đó chỉ chạm vào cùi trỏ của bé, rồi tiến tới chỉ chỉ vào quả bóng... cho đến khi bảo bé đụng vào bóng là bé biết chạm bóng. - Gắn kết: chia nhỏ các kỹ năng bé cần học thành những động tác nhỏ để gắn kết lại; ví dụ: dạy nói "con", "mẹ", "yêu" rồi gắn lại thành "con yêu mẹ" - Khuyến khích (dùng phần thưởng một cách đa dạng): tuỳ vào các phản ứng của bé, khích lệ bé học điều hay Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Tổng hợp A-Work-in-Progress" trong đĩa CD của bác Kim Tâm --------------------------------------------------------------------------- Một số trò chơi để... chơi Một số trò chơi để bé làm quen (ví dụ: gặp gỡ "giáo viên mới") - cho bé khám phá các đồ chơi để trong túi - các trò chơi với nước: trao cho bé dần dần từng thứ một như cốc múc, bóng nổi, bình xịt... - tiếp xúc thể chất: cù nách, nhong nhong trên gối, quay vòng, nhún nhảy trên giường đệm, trốn mình trong chăn, bọc bé trong chăn rồi đu đưa, kéo bé trên chăn, xoa bụng, thì thầm vào tai, hôn nhẹ, ôm chặt, nhảy theo nhạc, theo các bài hát tự tạo... - đọc những quyển sách bé thích với giọng lôi cuốn, không cần hỏi hoặc bắt bé chỉ hình, cùng xem tranh, ảnh, hình đẹp trên máy tính... - các trò chơi với giác quan: nặn bột, chơi với kem cạo râu, chậu cát, hạt đậu... - vẽ những gì bé thích để bé nhìn theo - chơi trốn tìm - xây nhà, lắp toa xe... rồi cho bé phá đổ - chơi bóng bay - hát những bài hát kèm điệu bộ ngộ nghĩnh Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Tổng hợp A-Work-in-Progress" trong đĩa CD của bác Kim Tâm --------------------------------------------------------------------------- Để bé không thấy nhàm chán Để tránh sự nhàm chán trong giờ học-chơi của bé, cần đảm bảo một số yếu tố sau: "Thiết bị": • Môi trường học tập tự nhiên , thoải mái (ví dụ: lúc bé ngồi ghế, lúc thì chơi trên sàn nhà), bài trí đa dạng • Dụng cụ học tập thú vị, hiệu quả, được bé thích • Phần thưởng phải đa dạng và tự nhiên 1
  2. "Giáo viên": • Giọng nói thể hiện sự sôi nổi, nhiệt tình • Nhiều cách hướng dẫn bé linh hoạt (Đây là gì? Gì đây? Con nhìn gì đấy?...) • Không yêu cầu bé làm mãi một việc mà bé đã nhuần nhuyễn • Không kéo dài bài học khi bé chịu hợp tác, đồng thời phải cân nhắc nếu định rút ngắn bài học khi bé có dấu hiệu quấy phá • Khi bé có hành vi tiêu cực (ví dụ: hét, đánh, ném đồ...), cần tỏ ra không quan tâm đến hành vi đó kẻo bé hiểu sự quan tâm như phần thưởng cho hành vi của bé, lại càng tiếp tục • Duy trì tỷ lệ thành công cao cho bé • Đan xem các loại bài học (ngôn ngữ, trò chơi, tự phục vụ...) Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Tổng hợp A-Work-in-Progress" trong đĩa CD của bác Kim Tâm do cô chú bongkhoang sao cho --------------------------------------------------------------------------- Kinh nghiệm "dạy con từ thuở còn thơ" của Lưu Vệ Hoa Kinh nghiệm "dạy con từ thuở còn thơ" của Lưu Vệ Hoa - kích thích 5 giác quan để giúp bé phát triển trí não - rèn nếp sinh hoạt đúng giờ, không cho ăn vặt, không ăn nhiều đường, muối, duy trì đủ giờ ngủ cho bé - khuyến khích, tạo điều kiện cho bé vận động (ví dụ: bò...) - dạy ngôn ngữ cho bé từ sớm, mở rộng từ vựng thông qua "bình luận bóng đá", hát..., sử dụng ngôn ngữ chuẩn xác của người lớn - khuyến khích bé khám phá thế giới qua giờ đi dạo - cả thiên nhiên và con người, khơi gợi niềm hứng thú của bé, không gò bó, quá câu nệ về vệ sinh - giúp phát triển năng lực khái quát bằng cách giới thiệu với bé nhiều loại đồ vật, sự vật khác nhau cùng một nhóm (ví dụ: đèn, cây, quần áo của ai...) - giúp hình thành và phát triển năng lực liên tưởng và tưởng tượng thông qua trò chuyện trong các tình huống cụ thể - thường xuyên hát múa cùng bé và khuyến khích bé học theo - dạy bé các cách biểu lộ tình cảm bằng ngôn ngữ cử chỉ (ví dụ: dang tay nói "a", hôn gió, hít hoa và kêu "ái chà"...) - rèn tính kiên trì của bé bằng cách dùng phần thưởng (ví dụ: đồ chơi) khuyến khích bé cố gắng thêm (ví dụ: tập rướn, bò...) - rèn năng lực tự kiềm chế bằng cách cho bé hiểu phạm vi những gì bé có thể làm một cách thống nhất ngay từ đầu (không ngăn cản bé - càng khuyến khích bé quậy phá - mà chỉ tìm cách chuyển hướng bằng chỉ dẫn đơn giản) Ảnh: Mỹ Anh hồi 1 tháng tuổi. Thật tiếc hồi giữa năm 2005, chúng tôi bị hỏng máy tính nên mất gần hết ảnh Mỹ Anh hồi còn nhỏ. --------------------------------------------------------------------------- Một số trò chơi - Bôi dấu son lên mũi bé, cho bé soi gương, để bé học cách đưa tay lên mũi mình lau vết son - Bảo bé đi lấy một vật gì đó ở một nơi khác trong nhà - Chơi các trò với tiếng các con vật để bé tập phát âm (gà gáy, chó sủa...) - Giúp bé phân biệt thứ đồ chơi ưa thích; thứ đồ chơi nào bé thích nhất: chấp nhận bé giữ cho riêng bé, còn những đồ chơi khác: khuyến khích bé chia sẻ với bạn bè - Gấp đôi tờ giấy 2
  3. - Làm chiếc cầu với 3 khối vuông - Cho bé chơi thứ đồ chơi bé thích (ví dụ: chuông), sau đó lấy đi và giấu dưới tấm khăn trước mặt bé để bé thấy, rồi đánh lạc hướng bé sang thứ khác, lúc sau hỏi bé: "Chuông đâu?" để bé tìm - Dạy màu sắc: Không chỉ hỏi "Đây là màu gì?" mà khuyến khích bé đi tìm vật có một màu nào đó (ví dụ: màu đỏ) Nguồn: Chắt lọc và suy luận từ các bài test trong tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Bốn kỹ năng người mẹ cần có Bốn kỹ năng người mẹ cần có 1. Kỹ năng thứ nhất là biết cách nhìn đứa con một cách toàn diện và tích cực. Mỗi ngày, bà mẹ phải luân phiên sử dụng sáu chiếc mũ có sáu màu khác nhau để nhìn đứa con mình: Màu trắng: những sự kiện khách quan. Màu vàng: những vốn liếng và khả năng. Màu đen: những khó khăn trắc trở. Màu đỏ: những tình cảm tiêu cực. Màu xanh da trời: những ý nghĩa. Màu xanh lá cây: những cách giải quyết, những tác động cụ thể, tích cực hằng ngày. 2. Kỹ năng thứ hai là sử dụng những vốn liếng tích cực của đứa con để giải quyết những khó khăn và bù trừ những thiếu sót. 3. Kỹ năng thứ ba là cắt nhỏ và tán mỏng những điều đứa con phải học tập, giúp nó xây dựng bản thân và cuộc đời với phương pháp thành công của con kiến: “Kiến tha lâu đầy tổ”. 4. Kỹ năng thứ tư là ngày ngày đối trị những tình cảm tiêu cực, để chấp nhận vô điều kiện sự có mặt của đứa con trong cuộc đời. Nguồn: Trích dẫn tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Sức mạnh của niềm tin "Trong lãnh vực y khoa, tác dụng của những viên thuốc giả hiệu “placebo” cũng có kết quả giống như viên thuốc thực sự. Đó là hiện tượng tự kỷ ám thị trong địa hạt tâm lý. Bà mẹ thực hiện trên đứa con những điều bà dự tưởng về đứa con." (tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Thành, tr. 77) Theo đó, nếu thấy đứa con có những nét khác bình thường mà không tìm hiểu về những nét khác thường ấy, bà mẹ sẽ hình thành hình ảnh về đứa con bất thường, cư xử với con như thể nó bất thường, và "với thời gian, nó trở thành bất thường thực sự đúng như bà tin tưởng và hành động". Ngược lại, những bà mẹ như Lưu Vệ Hoa (người viết cuốn "Harvard girl Liu Yiting") đã tin tưởng: "Đọc hết cuốn "Thiên tài và sự giáo dục từ sớm", trong tôi đã nẩy sinh một tâm nguyện mãnh liệt - chỉ cần sinh ra một đứa trẻ trí lực bình thường, nhất định sẽ nuôi 3
  4. dưỡng nó thành người có năng lực phi thường" (Bản dịch tiếng Việt "Em phải đến Harvard học kinh tế", tr.32) và đã nuôi dưỡng con gái Lưu Diệc Đình thành tài. Mẹ Hoà cũng đã có một số cảm nhận về sức mạnh của niềm tin, gần đây nhất hình như đã ghi trong entry về kinh nghiệm chữa mẹo trong dân gian. Thế thì mẹ Hoà ơi, "học tập kinh nghiệm" là gì, nếu không phải là hướng những hiểu biết ấy vào những điều tích cực. Thời còn đi học phổ thông, mẹ Hoà đã rất thích câu nói này "Aim high - you often get what you go for". Thế thì những lúc quá mệt mỏi, như cái đợt này (đêm qua Mỹ Anh thức dậy 7 lần, nhiều hơn những đêm trước, có lẽ vì lạnh, vì một cái lò sưởi bị cháy ổ cắm, sáng nay mẹ mới gọi thợ đến sửa được), mẹ Hoà đừng ao ước giá như mình được như cô Mai, con ốm thức đêm mệt mỏi thì được bà nội trông hộ, lại được đi bệnh viện khám và điều trị suy nhược thần kinh. Nghĩ là mình mạnh khoẻ thì sẽ mạnh khoẻ thôi. Nghĩ là con mình sẽ phát triển tốt thì rồi con sẽ phát triển tốt. Tất nhiên là phải cố gắng từng giây từng phút một để mẹ con cùng "chơi hết mình" chứ không thì sẽ là AQ chứ không phải theo luận cứ khoa học nào hết đâu! Ảnh: Mẹ Hoà béo ị bế Mỹ Anh hồi ba tháng rưỡi để chụp ảnh làm hộ chiếu cho Mỹ Anh --------------------------------------------------------------------------- Để mẹ con hạnh phúc bên nhau Nguồn: Trích dẫn (có chọn lọc) chương 3.4 tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho Bốn mục tiêu cơ bản cho sự tiếp xúc mẹ - con: 1. Một là điều chế điều hợp với bé 2. Hai là kéo dài khả năng chú ý của bé 3. Ba là phản ảnh nội tâm và những giới hạn của bé 4. Bốn là phát huy khả năng sống tự lập của bé Để đạt được mục tiêu đó, sự tiếp xúc mẹ - con cần đạt được sáu điểm sau: 1. Đặc điểm thứ nhất: Hoà ứng với bé. a. Hoà ứng không phải chỉ là bắt chước điệu bộ của bé một cách máy móc và giả tạo, mà đòi hỏi một thái độ cảm thông, nghe như bé nghe, thấy như bé thấy, hoà điệu với nhịp tim và hơi thở của bé. Từ đó, mẹ có sự đồng điệu về ngôn ngữ và tác phong với bé, để chia sẻ cảm nhận và cách nhìn của bé. b. Tuy nhiên, khi hoà ứng, vẫn có sự khác biệt hay là khoảng cách giữa mẹ và bé, không thể có hiện tượng đồng hoá hoàn toàn hay là xoá bỏ những biên giới tình cảm... c. Mẹ cần chủ động nhưng đồng thời cũng kính trọng quyền chủ động của bé, không áp đặt, cưỡng ép bé làm những điều mẹ đơn phương quyết định. d. Tất cả mục tiêu hoạt động, giáo dục, dạy dỗ chỉ có giá trị và tác dụng nếu xuất phát từ sự năng động và vốn liếng sẵn có của bé. Mẹ phải tận dụng những điểm mạnh của bé để giúp bé khắc phục những khó khăn và cản trở hiện tại. e. Suy cho cùng, điều kiện tiên quyết để chúng ta có khả năng hoà ứng với người khác là lòng tin tưởng mãnh liệt vô điều kiện vào sự năng động tích cực của người khác. 2. Đặc điềm thứ hai: Tương đồng Để có thể tiếp xúc và trao đổi hữu hiệu với người khác, điều kiện cần thiết thứ hai là chấp nhập tính tương đồng, bình đẳng giữa người ấy và chúng ta: Người ấy giống tôi, người ấy như tôi. Khi trao đổi, tôi luân phiên làm hai tác động khác nhau nhưng hoàn toàn bổ túc cho nhau: Nhận và Cho. Mặc dù một trong hai thành viên trao đổi và tiếp xúc là đứa con mới sinh ra của tôi, nó không bao giờ nhận một trăm phần trăm. Và tôi là người mẹ, tôi không cho hoàn toàn một cách tuyệt đối. Luân phiên, đứa trẻ và tôi sẽ đóng vai trò chủ động và bị động. 4
  5. Đứa trẻ cần tôi nhìn nó, mỉm cười với nó. Nhưng đồng thời, tôi cũng cần nó nhìn tôi, mỉm cười với tôi. Tôi không thể lưu tâm đến nó suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Và nó cũng có quyền lợi và nhu cầu “rút lui” giống như tôi. Trong những quan hệ tiếp xúc trao đổi hữu hiệu giữa người với người, không có kẻ thắng người thua. Mọi người đều thắng. Trong bạn có tôi. Và trong tôi có bạn. Với tinh thần tương đồng này, người mẹ sẽ khám phá ra rằng: đứa con giúp cho tôi làm mẹ, để tôi có thể giúp lại nó trở thành một đứa con đang lớn lên, học tập và trưởng thành. Nói tóm lại, tiếp xúc không phải là áp đặt mà là tìm hiểu, tham khảo ý kiến của đứa con về những điều nên làm, cần làm và đáng làm cho nó trong phút giây hiện tại này. 3. Đặc điểm thứ Ba: Tiếp cận Để công việc giao tiếp mang lại những thành quả mong muốn cụ thể, bà mẹ phải tiếp cận với đứa con. Nhằm quán triệt điều này, chúng ta cần ghi nhận những điều kiện tiếp xúc như sau: Thứ nhất: bà mẹ tôn trọng tính cá biệt của đứa con, bằng cách bảo tồn một khoảng cách tối thiểu giữa nó và mình. Nó không phải là chi thể của bà mẹ; nhưng là một chủ thể. Nó phải được cư xử, đối đãi như một chủ thể trong tất cả lề lối kích thích và học tập. Theo F. Dolto, trẻ em là một con người có khả năng và quyền lợi ngôn ngữ ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống, mặc dù chúng nó chưa biết nói. Cho nên, người lớn có nhiệm vụ sử dụng ngôn ngữ để thông báo, tham khảo, đề nghị. Ngôn ngữ phải đi kèm theo tất cả mọi hành vi của bà mẹ, khi bà bồng bế, tắm gội, thay áo quần. Thứ hai: Tiếp cận có nghĩa là hiện diện tích cực, sẵn sàng ghi nhận những ngôn ngữ câm nín, những tín hiệu, những lời nhắn gửi của bé. Biết dừng lại khi đứa con rút lui, Rất nhạy cảm và đề phòng, khi những kích thích âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ bắt đầu vượt quá mức chịu đựng của đứa con. Kéo dài thời gian chú ý của đứa con, để dần dần nới rộng những khả năng thức tỉnh và tiếp xúc. Nhưng không tạo nên cho đứa con những khổ đau, căng thẳng. Thứ ba: Tiếp cận là trả lời một cách thích ứng với câu hỏi, mức độ và nhu cầu hiện tại của đứa con, đặc biệt khi bé ở tình trạng khóc la inh ỏi . Khi bà mẹ trả lời quá sớm, bà không tạo nên khoảng cách cần thiết để trẻ em học tập chờ đợi, hình dung, mơ mộng. Khi bà trả lời quá chậm, bà tạo nên những tâm trạng thất vọng, chán chường. Cũng vì đó, đứa con dần dần tạo nên cho mình một hình ảnh tiêu cực về cuộc sống: “Tôi gọi, không ai nghe. Tôi bất lực. “Không ai lo cho tôi, vì tôi không có giá trị gì !” 4. Đặc điểm thứ tư: Điều hướng Tiếp xúc không phải là dẫm chân tại chỗ, nhưng là bước tới, nới rộng, kéo dài. Công cuộc tiếp xúc như một vũ khúc tình yêu, trong đó cả mẹ lẫn con tiếp nối nhau đóng vai trò chủ động; cùng nhau khám phá những qui luật hoạch định vai trò làm mẹ và làm con. Nhờ đó cả hai người ngày ngày phát huy khả năng biết đợi chờ nhau: mẹ chờ con trả lời. Con chờ mẹ kích thích. Cả hai người học tập tiên liệu và dự phòng những gì sắp xảy tới với nhau và cho nhau. Đợi chờ và tiên liệu là hai yếu tố cơ bản tạo nên hiệu năng và kết quả cụ th ể trong tất cả mọi nỗ lực điều hướng và dạy dỗ. Thứ nhất, nếu bà mẹ không đợi chờ, bà sẽ không chuẩn bị, dọn đường. Thứ hai, nếu bà mẹ không dự trù, tiên liệu một cách thực tế và cụ thể, những đợi chờ của bà sẽ không bao giờ có thể thực hiện. Vai trò trung gian của bà mẹ chính là công cuộc điều hướng nhằm nới rộng và kéo dài những khả năng đang chớm nở của đứa con. 5. Đặc điểm thứ năm: Vừa làm vừa chơi, làm như chơi. 5
  6. Vui thích, hứng thú là những đặc điểm của công cuộc tiếp xúc mẹ con. Chúng ta phải quan niệm công cuộc này như một trò chơi, một nhu cầu tự nhiên của cuộc sống thay vì một bổn phận hay một trách nhiệm. Theo Phân tâm học của Freud, tất cả cuộc sống con người được chi phối và điều hướng bằng hai nguyên tắc chủ yếu. Nguyên tắc thứ nhất là lạc thú. Nguyên tắc thứ hai là thực tế. Thiếu lạc thú, cuộc đời không còn hứng khởi. Thiếu thực tế, cuộc đời mất hết hướng đi. Chính bà mẹ là người đầu tiên có khả năng cung ứng cho đứa con cả hai nguyên tắc ấy. Nhờ sự có mặt của bà, đứa con nhận thấy cuộc đời đáng sống. Đồng thời cũng nhờ bà, đứa con hiểu biết về mình, về người, về thế giới chung quanh. Đặc biệt hơn hết, trong những trò chơi giữa hai mẹ con, đứa con khám phá những qui luật tiếp xúc trao đổi, được sử dụng trong toàn thể cuộc sống xã hội sau này: Qui luật 1. Bao lâu tôi còn sống, bấy giờ tôi còn phải tiếp xúc, trao đổi, truyền đạt, diễn tả. Qui luật 2. Những lúc tôi không trao đổi, diễn đạt, cũng là một hình thức trao đổi diễn đạt. Ví dụ hành vi ngoảnh mặt rút lui của đứa con là một sứ điệp, một lời nhắn gởi: “Thôi, đủ rồi, xin tạm biệt”. Qui luật 3. Trong mọi hình thức trao đổi tiếp xúc truyền đạt, ít nhất là hai thành viên luôn luôn có mặt: một người phát và một người thu. Một người cho và một người nhận. Một người nói và một người nghe. Người này chủ động người kia bị động. Qui luật 4. Sau khi nhận tôi phải phát. Sau khi nói, tôi phải lắng nghe. Chủ động xong rồi, tôi phải biết trở nên bị động. Qui luật 5. Khi thu nhận, tôi phải lưu tâm chú ý. Khi chủ động làm nguyên nhân xuất phát, tôi phải có ý hướng rõ rệt muốn đi đến đâu. Qui luật 6. Giữa hai thành viên Phát và Thu, chủ và bị, luôn luôn phải có một khoảng cách tối thiểu, cần thiết. Không có khoảng cách này, sẽ xảy ra hiện tượng lẫn lộn, lộn xộn, đồng hoá. Khi khoảng cách quá lớn, những hiện tượng “ông nói gà, bà nói vịt” có thể xảy ra. Lúc bấy giờ thay vì tìm hiểu một cách khách quan, tôi chỉ giải thích theo quan điểm hoàn toàn chủ quan. Qui luật 7. Khi phát đi, tôi phải có thông điệp rõ ràng cho người kia hiểu. Khi thu nhận tôi phải xác nhận tin đã đến và thể thức hiểu biết theo mức độ và quan điểm của tôi. Nói cách khác, lời phúc đáp của tôi phải toàn diện, trọn vẹn: Thứ nhất: “Vâng, tôi đã nghe, đã nhận”. Thứ hai: “tôi nghe và đã hiểu như thế này”. Qui luật 8. Khi thấy thông điệp của mình bị bóp méo, cắt xén..., tôi phải thanh minh, đính chính. Qui luật 9. Để có thể tiếp tục Nhận và Cho, trao qua gửi lại như vậy, sự có mặt của người này phải tạo nên vui thú cho người kia. Để công cuộc tiếp xúc mang lại những kết quả tốt đẹp lâu dài, nó phải được tổ chức và quan niệm như một trò chơi. Nói cách khác, để có thể tiếp xúc với nhau, mẹ và con phải cùng nhau vừa làm vừa chơi. Tiếp xúc được tổ chức như một trò chơi. Và khi tiếp xúc, người mẹ thụ hưởng những vui thích hứng khởi giống như trong một trò chơi. 6. Đặc điểm thứ sáu: Linh động và sáng tạo Tiếp xúc là một khả năng cần thiết cho cuộc sống của bà mẹ lẫn đứa con. Càng tiếp xúc chúng ta càng kiện toàn, bổ túc, phong phú hoá khả năng của mình. Theo P. Teillard de Chardin, con đường tiến hoá, tiến bộ hay là phát triển bao gồm hai định luật: Đa phức và Nhân hoá. Một cơ cấu tiến bộ càng ngày càng trở nên đa năng đa diện. Số lượng phải gia tăng. Chất lượng đồng thời cũng tiến triển. Trong xã hội con người, vấn đề đa năng đa diện trở thành vấn đề chuyên môn hoá và phân phối công việc thành hệ thống có tổ chức và thứ tự. Tuy nhiên một định luật thứ hai phải có mặt trong những tiến bộ đích thực: là tính người thấm nhuần trong mọi cơ cấu tổ chức. Chuyên môn không đánh mất con người. Trái lại 6
  7. chuyên môn trở lại phục vụ con người toàn diện, phát triển khả năng và đời sống của mỗi người. Hai định luật ấy cũng chi phối sự tiếp xúc của trẻ em. Càng lớn khôn và phát triển, trẻ em càng phải tiếp xúc với nhiều người. Càng tiếp xúc, trẻ em càng trở nên tự lập nghĩa là trưởng thành, thành người. Khả năng tiếp xúc cũng như tất cả mọi khả năng của con người bao gồm nhiều cấp độ, thể loại và phạm vi khác nhau: Thứ nhất: tôi có khả năng nhưng tôi không biết là tôi có khả năng ấy. Thứ hai: tôi có khả năng và tôi biết áp dụng khả năng ấy trong một vài địa hạt. Thứ ba: tôi có khả năng và tôi sử dụng nó một cách hài hoà, tự nhiên trong toàn thể cuộc sống. Nó trở thành một lối sống của tôi. Nhờ vậy tôi trở nên uyển chuyển, linh động và có khả năng sáng tạo những tác phong mới, trong những hoàn cảnh bất ngờ và khó khăn. Trong lề lối tiếp xúc giữa hai mẹ con, chúng ta cũng có thể ghi nhận những giai đoạn phát triển và tiến bộ như vậy. Trong những ngày đầu tiên, đứa con mới sinh chỉ có hai tác động khi tiếp xúc là mở rộng và khép kín, rút lui hay là quen nhàm. Khi bắt đầu di động, công cuộc tiếp xúc của đứa con bao gồm hai giai đoạn: Đi ra để học tập và khám phá cuộc đời tự lập, trở về để nghỉ ngơi và bồi dưỡng ở bên cạnh mẹ. Sau này trong toàn thể cuộc sống con người cũng giữ lại hai tác động ngược chiều ấy, để xây dựng bản thân và sáng tạo cuộc đời. Tác động thứ 1 có tính qui nội: con người luôn tìm nơi nương tựa trong chính nội tâm của lòng mình. Tác động thứ 2 có tính qui ngoại: Tìm nơi nương tựa ở ngoài: trong cảnh vật hay là trong địa hạt trao đổi, chia sẻ tình cảm với người khác. Sở dĩ con người có thể tự mình bước đi những bước chững chạc như vậy, là nhờ bà mẹ đã biết cắt đứt cuống rốn ràng buộc hai mẹ con, để thiết lập những quan hệ mới trên nền móng tình thương và lòng tin tưởng. Hai bàn tay của bà chỉ mở ra để tiếp rước đứa con trở về; chứ không bao giờ đóng lại, để cản trở bước đường xuôi ngược của đứa con. Nguồn: Trích dẫn (có chọn lọc) chương 3.4 tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Bé nhận biết điều gì? Ý thức và kinh nghiệm của trẻ em trong những năm đầu đời Từ 0 đến 2 tháng: Ý thức và kinh nghiệm chớm nở. Những lúc tỉnh thức bình lặng, bé từ từ mở mắt nhìn đời và nhìn người. Dần dần bé ý thức được rằng: có những yếu tố được lặp đi lặp lại và kết hợp với nhau theo những cơ cấu tổ chức ổn định, đặc biệt trong vấn đề phối hợp các giác quan. Điều bé thấy, Điều bé nghe, Điều bé va chạm, cảm xúc, Điều bé ngửi, nếm, ... Tất cả đều qui tụ và tập trung vào một đối tượng duy nhất là Mẹ mình. Và bên cạnh mẹ mình cũng còn có nhiều đối tượng khác như vậy. Kinh nghiệm này cứ tiếp diễn trong vòng 2 tháng... cuối cùng, nhờ kinh nghiệm ấy, bé ý thức được rằng: Có những cơ cấu tổ chức ổn định, thường hằng, liên tục chung quanh mình. Bài học thứ nhất của bé: Thị giác, thính giác, xúc giác ... cùng quy tụ vào thành 1 đối tượng Từ 2 đến 6 tháng: Bé cảm thấy chính mình là một trung tâm qui tụ nhiều yếu tố. Mình là một trung tâm hành động, với tay chân, mình có thể làm nên những cử động. Mình có những vui, buồn, khó chịu. Mình tồn tại một cách liên tục. 7
  8. Có những cái thuộc về mình, những cái khác không thuộc về mình. Đồng thời, bé cũng có thêm một kinh nghiệm về bà mẹ. Mẹ mình cũng là một trung tâm như mình. Sự có mặt của mẹ làm cho mình vui sướng. Mẹ có ảnh hưởng đến mình và mình cũng có ảnh hưởng đến mẹ. Bài học thứ 2: - Tôi có khả năng chủ động - Mẹ (và người khác) cũng có khả năng chủ động giống tôi. - Có những vật khác không có khả năng chủ động (vật khác với người). Từ 7 đến 12 tháng: Có những liên hệ ràng buộc giữa tôi và mẹ. Ngoài những hành động, tôi có những tình cảm vui, buồn, bực bội... Mẹ cũng có một đời sống nội tâm như vậy. Và chúng tôi có thể chia sẻ cho nhau về cuộc sống bên trong ấy. Bài học thứ 3: - Diễn tả ý định của mình. - Tìm hiểu ý định của kẻ khác. - Chúng ta cùng chia sẻ một ý nghĩa. Từ 18 - 24 tháng: Ý thức và kinh nghiệm về khả năng ngôn ngữ. Từ giai đoạn này trở đi, bé có những kinh nghiệm và ý thức mới về vai trò và khả năng ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ ta có nhiều quyền hạn mới, trong vấn đề tổ chức cuộc sống. Sau 24 tháng ngôn ngữ sẽ cung cấp cho ta những gì mẹ không còn khả năng cung cấp. Bài học thứ 4: Ngôn ngữ là phương tiện để xây dựng và phá hoại, để khám phá hoặc đánh mất. => phân biệt bốn cấp độ tự lập: 1. Cấp độ thứ nhất là hiểu biết về sự tồn tại ổn định của sự vật và con người. Không có những hiểu biết cơ bản này, không thể có cuộc sống tự lập. 2. Cấp độ thứ hai là vai trò chủ động. Tự lập là chủ động tổ chức cuộc sống. Nếu khả năng này không được phát triển, chúng ta không thể nói đến đời sống tự lập. 3. Cấp độ thứ ba là khả năng tiếp xúc và chia sẻ. Tự lập không phải là cô lập. Để tự lập chúng ta cần sự đóng góp của kẻ khác và chính chúng ta cũng phải đóng góp. 4. Cấp độ thứ tư là khả năng ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta sống một cuộc đời tự lập. Ngôn ngữ càng phong phú, phạm vi tự lập càng rộng rãi. Bốn cấp độ này đồng thời cũng là bốn tiêu chuẩn giúp chúng ta đánh giá chất lượng và khả năng tự lập của mỗi người. Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Để bé tin yêu Để vun trồng sự tin tưởng và cảm giác an toàn ở bé, sự tiếp xúc mẹ - con cần phải có những nét sau: 1. Liên tục: trong quá trình tiếp xúc với con, bà mẹ có những cách thức nhất định trong việc bồng bế, ôm ẵm, thay áo quần, vui đùa, trò chuyện... và cùng với thời gian, bé quen dần với cách tiếp xúc của mẹ. Tuy nhiên, nếu bà mẹ bốc đồng, thay đổi thường xuyên, nay làm cái này mai làm cái khác tuỳ hứng, đứa con sẽ không hiểu gì hết về cách thức sinh ho ạt của mẹ. 2. Hợp lý: hợp lý có nghĩa là có tính qui luật, có tổ chức, thứ tự, ăn khớp với nhau. 3. Có ý nghĩa: đứa con có thể hiểu được. 4. Vì cách tiếp xúc của bà mẹ có tính liên tục, hợp lý, ý nghĩa, cho nên đứa con có thể tiên liệu những gì xảy ra. Và khi sự việc xảy ra đúng như bé trù liệu, bé cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa và bản thân mình có khả năng hiểu biết. 8
  9. Lẽ đương nhiên, khi bé có lòng tin tưởng, nội tâm của bé được an toàn. An toàn nội tâm như vậy là nhờ sự hiện diện tích cực của bà mẹ bên cạnh mình. (Bà mẹ có mặt, quan sát, ghi nhận những gì đang xảy ra và có thể xảy ra, và tất nhiên là đề phòng các tai nạn có thể xảy ra.) Trẻ em chưa biết nói cũng đã có thể hiểu những câu nói thông thường, vì vậy bà mẹ nên chuẩn bị cho đứa con biết những gì sắp xảy ra, đặc biệt khi mẹ phải tạm xa bé để làm gì trong một vài giờ. Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Pacing Pacing - Hoà ứng 1. Quan sát tác phong bên ngoài của bé 2. Khám phá nội tâm, tình cảm bên trong của bé 3. Thể hiện nội tâm và tình cảm ấy bằng tác phong bên ngoài có nhiều điểm tương đương với tác phong của bé về nhịp điệu, cường độ và hình thức để bé có thể hiểu rằng mẹ mình đang chia sẻ với mình. Ví dụ: bé ngã, va đầu => mẹ xoa đầu bé, miệng xuýt xoa; mẹ thở cùng nhịp với bé... Tuy nhiên, chúng ta không thể nào phản ảnh tất cả nội tâm của người khác, cho dù người khác ấy là đứa con của chúng ta. Khi hoà ứng, chúng ta luôn luôn chọn lọc, chọn lựa, đặt ưu tiên vào một nhu cầu nào đó của trẻ em để phản ảnh và đáp ứng. => “Pacing and leading” : Cùng đi để hướng dẫn Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Cách tiếp xúc với bé: Cách tiếp xúc với bé: 1. Quan sát bé (về ánh mắt, điệu bộ, vận động, phát âm...) 2. Nếu bé đang tỉnh thức bình lặng, mẹ chơi với bé (ví dụ: nhìn, nghe và đụng chạm, mỉm cười, vui đùa, bồng bế, trò chuyện, hú tìm, dạo chơi...) 3. Khi bé ngoảnh mặt đi nơi khác là bé muốn rút lui. Khi đó, mẹ nên rút lui, làm một công việc khác, để cho bé nghỉ ngơi hoặc làm gì tùy ý thích, không có sự can thiệp hoặc tham dự tích cực của mẹ. Làm như vậy là tôn trọng quyền chủ động của bé, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để bé trở nên tự lập dần dần trong cuộc sống. Lưu ý: 1. Không bao giờ vượt "ngưỡng khổ đau" bằng cách áp đặt và thúc ép bé làm những điều quá sức chịu đựng của bé 2. Những khóc la bùng nổ của bé là dấu hiệu rõ ràng cho thấy bé đang phản đối và kháng cự. 3. Đồng thời, mẹ cũng có quyền phản đối và kháng cự khi bé tạo cho mẹ những điều quá sức chịu đựng. Tóm lại, có 7 điều bà mẹ làm khi tiếp xúc với con: 1/ Quan sát, nhất là liếc nhìn của đứa con. 2/ Kích thích gây hứng thú. 3/ Sẵn sàng tham dự. 4/ Vui đùa. 5/ Trò chuyện. 6/ Rút lui. 7/ Kháng cự. 9
  10. (Nghĩa là trong quá trình tiếp xúc và trao đổi giữa hai mẹ con, không ai hoàn toàn chủ động và hoàn toàn bị động, mà là luân phiên nhau, trao qua và nhận lại) Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Một sáng thứ bảy hậu "cai TV" Sáng nay, Mỹ Anh cấu sườn gọi mẹ Hoà dậy, như là nhắc mẹ đến giờ hẹn chat với bà ngoại và bác rồi. Mỹ Anh mặc cái áo len dài bà ngoại đan cho đi ngủ, ấm lắm, lại che kín được lưng. Mẹ Hoà bật máy lên để sẵn để đợi rồi cho Mỹ Anh ăn sáng. Từ hồi "cai TV", tức là không bật quảng cáo cho Mỹ Anh xem khi ăn nữa, giờ ăn của Mỹ Anh đã thay đổi nhiều lắm. Mẹ Hoà phải "sáng tác" ra các đồ chơi và trò chơi mới hàng ngày để Mỹ Anh chơi trong lúc ăn. Mỹ Anh ngồi vào cái ghế cao riêng của Mỹ Anh, có cái mặt bàn rộng phía trước, chơi xâu hạt, xâu tỏi (!), nhét xu vào khe đục trên chai nước, vẽ vào khay đựng muối tinh, mở tung bút ra rồi cố gắng lắp lại (thường thì lo xo rơi ra ngoài!), xếp đĩa CD vào khe đục trên hộp, bấm cái thìa có đèn nháy, chiếu vào các vật khác nhau xem màu sắc thay đổi thế nào, lấy bút sáp vẽ vào giấy, dùng kéo cắt giấy... Mẹ Hoà không nhớ nổi các trò chơi và các thứ vật liệu "lạ thường" phải tìm kiếm mỗi ngày nữa. Mỗi bữa ăn mất 30 đến 45 phút, ngày 4 bữa. Mẹ Hoà vẫn vừa đếm từng thìa vừa tự "xếp hạng" các trò/đồ chơi: 1 thìa = "đầy tiềm năng", 3 thìa = "xứng đáng được gọi là đồ chơi", 5 thìa = "một thành công nhỏ", 10 thìa = "thành công thực sự", 15 thìa = "thành công lớn", 20 thìa = "thành công vang dội", trên 20 thìa = thành công ngoài mong đợi!!! Trưa nay, trộm vía, Mỹ Anh ăn nhanh, chỉ hết 15 phút: bao gồm - Dùng phần nắp bút xoá xoay băng video cũ = hơn một thành công nhỏ! - Lấy bút highlight màu hồng và xanh lá vẽ, tô, gạch... vào cuốn sổ cũ, bìa có hoa lá, trang giữa có màu đẹp, trong có nhiều chữ viết = hơn một thành công vang dội! - Lắp pin vào cái sạc pin hỏng (5 pin, 4 chỗ lắp => loay hoay tìm cách lắp cả 5 cục pin vào) = hơn một thành công nhỏ! Ăn xong Mỹ Anh ị liền, bà ngoại chat lâu rồi cũng mệt, thế là không đợi được Mỹ Anh vệ sinh xong nữa, bà bye rồi! Thật là một buổi sáng thứ bảy thú vị! --------------------------------------------------------------------------- Chữa mẹo 1. Mấy thứ "mẹo" chữa bệnh trong dân gian đôi khi là quan sát thực tế mà chưa biết cách giải thích bằng khoa học. 2. Một số "mẹo" có tác dụng thông qua việc làm cho người áp dụng tin tưởng và tinh thần lạc quan khiến bệnh tự lui (kiểu placebo). 3. "Nặng vía" có thể là do người có hơi lạ khiến trẻ khó chịu, hoặc quá vồ vập khiến trẻ thấy "bị xâm phạm lãnh thổ", như ở trong tài liệu thầy Thành mà mẹ Hoà vừa tóm tắt trong một entry gần đây. Cách đốt vía (cả của Việt Nam - đốt rơm nếp hay vỏ quýt - và Ấn Độ - đốt muối và ớt bột) có vẻ như để tạo ra mùi thơm dễ chịu. Và lần sau người "nặng vía" đến trẻ hết khó chịu có lẽ do trẻ đã quen hơn với người đó! 4. Mẹo "cướp bánh" cho trẻ chậm nói của Việt Nam có thể có tác dụng đơn giản vì đó là sự tăng cường tiếp xúc với trẻ con cùng lứa! 5. "Mẹo" có thể làm cho người ta tin tưởng đến thế thì tại sao những hiểu biết khoa học và quan sát thực tế của người mẹ trong quá trình chăm sóc đứa con lại không thể tạo ra niềm tin cho người mẹ? Niềm tin có sức mạnh đến thế cơ mà! Có niềm tin là sẽ có chiến thắng! Nguồn: Mấy liên tưởng cứ quanh quẩn trong đầu mẹ Hoà khi nghe bà Lan nói về các "mẹo" dân gian trong quá trình chăm sóc trẻ con 10
  11. --------------------------------------------------------------------------- Để bé tự tin Những điều nên tránh kẻo làm tổn thương ý thức về khả năng bản thân của bé 1. Mẹ trả lời quá sớm, trước khi bé mơ tưởng, hình dung đối tượng và bộc lộ nhu cầu 2. Mẹ trả lời quá chậm: bé đã khóc la, nhưng không ai động chuyển - nếu kéo dài, bé sẽ có một ý niệm tiêu cực và bi quan về cuộc sống 3. Mẹ trả lời lệch lạc, ngoài đề, khiến bé sinh ra nghi kỵ 4. Mẹ trả lời theo nguyên tắc cố định, không ý thức đến giai đoạn phát triển của bé 5. Mẹ trả lời tùy hứng, bốc đồng, khiến bé không thể hiểu biết và dự đoán Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Giúp bé quen với sự vắng mặt của người thân 1. Thông báo trước cho bé mình sẽ vắng mặt (khi bé phát triển hơn: thông báo thời gian và lý do vắng mặt của mình) 2. Lúc có mặt trở lại cũng cho bé biết 3. Khi ở bên bé, bày trò chơi trốn tìm, thu giấu đồ vật, bảo bé đi lấy những vật dụng ở phòng kế cạnh 4. Khi giao phó bé cho người ngoài, cần chọn người biết tiếp xúc, gần gũi với trẻ em, cư xử một cách dịu dàng, cẩn trọng 5. Nếu vì lý do công việc mà phải xa lìa bé hàng ngày, cần tìm cơ hội để bù trừ sự vắng mặt ấy 6. Yêu cầu những người ngoài gia đình, thậm chí ông bà nội ngoại hay bà con cô bác đừng quá vội vã bồn chồn, muốn ôm ẵm bé khi gặp gỡ. Trái lại, hãy dành cho trẻ em thời giờ làm quen, tiếp cận. Không tạo những “chuyển tiếp” như vậy, chúng ta sẽ bị bé kết nạp vào loại người “vi phạm lãnh thổ” và bé sẽ tỏ thái độ dè dặt, sợ sệt hoặc khước từ. 7. Thay vì áp đặt cho bé những luật lệ, chúng ta cần dành thì giờ để giải thích cho bé hiểu lý do, nguyên nhân hoặc cách làm 8. Khi cấm đoán, chúng ta cũng cần có một thái độ tương tự: giải thích tại sao một cách ngắn gọn, với ngôn ngữ đơn sơ, thích hợp với trình độ. Về lâu về dài, thái độ và cách làm như vậy sẽ tạo niềm tin và quan hệ tình cảm vững chãi cho bé. Bằng không, độ một vài tháng sau này, khi bé có kỹ năng ngôn ngữ, bé sẽ lặp đi lặp lại mãi hoài câu hỏi “tại sao?”, mà không ai có thể thỏa mãn bé. Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- 11
  12. Khả năng của bé Tầm quan trọng của việc hiểu những khả năng của con: 1. Biết rõ những khả năng và giai đoạn phát triển của con, người mẹ sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng để con đóng góp tích cực phần của mình trong tiến trình xây dựng bản thân. 2. Trường hợp đứa con đã gặp một vài khó khăn trong tiến trình phát triển của mình, những kiến thức tâm lý sẽ giúp người mẹ sáng tạo những giải pháp thích ứng, tức khắc bắt tay vào việc giúp con khắc phục khó khăn và vượt chướng ngại. Hai loại khả năng của trẻ em: 1. Khả năng hiện hành: là khả năng đã có mặt nơi trẻ em. Trẻ em hoàn toàn chủ động, không cần chúng ta kích thích hoặc tạo điều kiện thuận lợi. 2. Khả năng tiềm tàng: là khả năng đã có mặt ở một mức độ nào đó nơi trẻ em. Trẻ em chưa hoàn toàn chủ động. Các em cần sự kích thích của người lớn để thể hiện khả năng ấy. Sau một thời gian được kích thích và thực tập, khả năng tiềm tàng sẽ thành khả năng hiện hành. Nói cách khác, khả năng tiềm tàng chưa phải là cây mà còn là hạt giống, cần được tưới tắm để mọc lên. Ba vùng học tập: 1. Vùng tự lập hoàn toàn: gồm các khả năng hiện hành của trẻ em; ở đây trẻ em có khả năng chủ động và tự lập hoàn toàn. Không cần yếu tố bên ngoài thúc đẩy, trẻ em tự mình thường xuyên trở lại vùng tự lập này để củng cố và bồi dưỡng ý thức về khả năng của mình hay là lòng tự tin vào mình. 2. Vùng học tập, thực tập: là vùng tiếp giáp, tiếp cận, nằm sát ngay vùng tự lập. Trẻ em làm được một số công việc với điều kiện là người khác tạo ra cho các em những điều kiện thuận lợi hay là làm công việc bắc cầu, tạo trung gian theo 2 điều kiện: Điều kiện 1: Tỉ lệ hoạt động bao gồm 3/4 khả năng hiện hành + 1/4 khả năng tiềm tàng. Điều kiện 2: Có liên hệ tiếp xúc giữa hai thành viên mang lại sự vui thích 3. Vùng xa lạ, chưa thể đề cập đến: Tất cả những hoạt động đều vượt ra ngoài tầm hiểu biết và khả năng của trẻ em. Nếu người lớn khư khư cố chấp, áp đặt cho trẻ em những điều phải làm thuộc vùng này, chúng ta sẽ dần dần tạo nên những trẻ em chống đối, khước từ, bị động, dị ứng đối với vấn đề học tập. Hai cách dạy nên tránh: 1. Kích thích quá đáng, "vượt ngưỡng": dạy dỗ, giáo dục bằng cách áp đặt từ ngoài những điều vượt quá khả năng và tầm hiểu biết hiện tại của trẻ em 2. Kích thích bất cập, nghèo nàn, thiếu thốn, "ở dưới ngưỡng": khả năng học tập của trẻ em không được phát huy một cách đầy đủ và thích ứng. Hai loại ngưỡng kích thích : 1. Ngưỡng sơ khởi: Để một kích thích có tác dụng hữu hiệu, chúng ta phải lựa chọn cường độ ở trên ngưỡng sơ khởi. Cường độ này tăng giảm tùy trẻ em. Nếu kích thích ở dưới cường độ tối thiểu này, trẻ em không có phản ứng. 12
  13. 2. Ngưỡng khổ đau (còn gọi là ngưỡng chịu đựng): Ngưỡng khổ đau là cường độ tối đa mà trẻ em có thể chịu đựng được. Những cường độ ở trên ngưỡng khổ đau sẽ tạo nên những cực hình trên hai bình diện tâm lý và sinh lý. Nếu kích thích vượt cường độ khổ đau, vẫn kéo dài hay là lặp đi lặp lại, hệ thần kinh có thể bị chấn thương (ví dụ: tần số quá cao sẽ làm rách màng nhĩ) Những kích thích ở dưới ngưỡng sơ khởi được gọi là kích thích bất cập. Những kích thích ở trên ngưỡng khổ đau được gọi là kích thích thái quá. Ở giữa hai ngưỡng tối đa và tối thiểu, chúng ta có thể chọn lựa những kích thích thích ứng để giao tiếp với trẻ em. Các khả năng của trẻ em: thể hiện qua năm giác quan 1. Năm giác quan là vốn liếng rất quan trọng của trẻ em. Khai thác vốn liếng ấy để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em phát huy khả năng học tập là công việc và nhiệm vụ của chúng ta. 2. Năm giác quan là 5 cánh cửa để trẻ em tiếp xúc và trao đổi với thế giới bên ngoài, với môi trường chung quanh. Bà mẹ là nhịp cầu cơ bản, thiết yếu, nối kết thế giới bên ngoài với nội tâm của trẻ em. Nguồn: Chắt lọc từ tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Hai ý tưởng về đồ chơi tự tạo - "Nhà" cho bé chui ra chui vào làm từ thùng các-tông to (ví dụ thùng để tivi, máy giặt...) - Bộ câu cá với cá có móc và cần câu (bộ đồ chơi bán ở chợ làm bằng nam châm, không hiểu có tự làm được bằng vật liệu thường không?) Nguồn: Hỏi kinh nghiệm chị Hường --------------------------------------------------------------------------- Quan hệ mẹ - con Bốn câu hỏi của mẹ - người giáo viên đặc biệt: 1. Mẹ phải làm gì cụ thể ngày hôm nay? Mục đích của hành động: tạo điều kiện thuận lợi cho việc học của con. 2. Chậm phát triển là gì? Tốc độ học: chậm, số lượng học: có giới hạn, chất lượng học: Mong manh, dễ quên 3. Nếu bé vẫn "dậm chân tại chỗ", cách dạy của mẹ đã phù hợp với mức độ và điều kiện học của bé chưa? Cần xem xét lại: nội dung dạy, cách dạy, thời lượng dạy 4. Có phải có cái gì đó đã đổ vỡ trước khi chúng ta bắt đầu xây dựng? Việc dạy dỗ phải bắt đầu sớm hơn. Nhổ cỏ dại đòi hỏi nhiều công sức hơn trồng cây trái Hai cách tiếp cận cần tránh khi nhìn vào quan hệ mẹ con: 13
  14. 1. Khuynh hướng nêu lên những trọng trách của bà mẹ trong việc dạy con gây cho các bà mẹ mặc cảm tội lỗi, khiến bà mẹ nghĩ mình là nguyên nhân khiến con chậm phát triển 2. Khuynh hướng đồng hoá vấn đề chậm phát triển với định mệnh dẫn đến thái độ hoàn toàn bị động trước "số phận", "nhắm mắt đưa chân" Cách nhìn nên có: tức khắc can thiệp, khi có một vài dấu hiệu cho thấy trẻ em đang lớn lên với những nguy cơ trở thành chậm phát triển 1. Tức khắc can thiệp để người mẹ có cái nhìn đúng đắn về con mình 2. Tức khắc can thiệp để con có điều kiện lớn lên và học tập phù hợp với thực trạng và nhu cầu của con Trẻ em chậm phát triển, cũng giống như các trẻ em khác, có quyền lợi và nhiệm vụ học tập trước khi đến tuổi thành nhân Cách can thiệp: 1. Tìm hiểu ý nghĩa và thể thức hành động cụ thể: Hành động một cách bốc đồng, máy móc trước khi tìm hiểu ý nghĩa và lý do có thể đưa chúng ta vào con đường sai lạc. Suy nghĩ chín mùi trước khi hành động là cách tôn trọng con với tư cách một con người. 2. Hành động: thực hiện đúng những điều cần làm, tuân thủ thứ tự cần tôn trọng khi làm 3. Đánh giá kết quả, điều chỉnh khi kết quả không đạt tiêu chuẩn, chỉ tiêu Nguồn: Tóm tắt tài liệu "Quan hệ mẹ con" của thầy Nguyễn Văn Thành do cô Thuý Quỳnh gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Hôm nay mẹ Hoà dự định đưa Mỹ Anh đi tiêm chủng cúm mũi tiếp theo nhưng tối qua Mỹ Anh lại thức giữa chừng và quấy quá, sáng ra thì lại ngủ li bì, mẹ không nỡ đánh thức. Hôm qua mẹ đọc bài Canadian study finds no autism-vaccine connection, đã cảm thấy yên tâm. Thế mà hôm nay mẹ lại đọc cái diễn đàn bằng tiếng Anh này, thế là lại băn khoăn. Có lẽ tiêm chủng cúm không cần thiết lắm nhỉ? Hay là không tiêm nữa? Ảnh Mỹ Anh hôm 2/6/2006 (gần hai tuổi) đấy, bố vừa mới copy về máy tính ở nhà. --------------------------------------------------------------------------- Làm gì khi bé chưa nói Một số điều bố mẹ có thể làm để kích thích sự phát triển ngôn ngữ của bé: 1. Tận dụng các tình huống thông thường để "tự nói" (self-talk) và "vừa làm vừa nói" (parallel talk) - tương tự "bình luận bóng đá" 2. Tạo ra những âm thanh thú vị (funny sounds) và khuyến khích bé bắt chước: chuông cửa, chuông điện thoại, ô tô (vroom), tiếng nhân vật phim hoạt hình (Donald Duck)... 3. Thu âm thanh bé thốt ra và bật lại cho bé nghe 4. Tận dụng các tình huống thích hợp để giúp bé biết thốt ra những âm thanh biểu lộ sự vui thích, phấn khích của bé: chỉ vào cầu trượt ở công viên và nói oooh, chỉ vào thức ăn, xoa bụng, nói Mmmm - tương tự phương pháp dạy dấu hiệu từ 5. Khi hát cho bé nghe hay nghe bài hát cùng bé, dùng dụng cụ gì đó để gõ nhịp, khuyến khích bé "điền vào chỗ trống", "hát vuốt đuôi", hát những bài có phần đệm ở giữa để khuyến khích bé hát (ví dụ Old McDonald... => I E I E O) 6. Biểu diễn múa rối cho bé xem 7. Chơi trò giả làm các con vật và kêu baa, moo, meow, woof, neigh..., ví dụ, giả làm con khỉ, kêu eeh, aah, ooh, aah, kèm điệu bộ bằng tay và bành miệng, uốn môi sao cho thật ngộ nghĩnh 8. Hát những bài hát có vần điệu (âm cuối như nhau, ví dụ: Sam I Am) 9. Bé nói sai thì không chê bé nói sai mà chỉ nhắc lại câu đó dạng đúng 10. Khen ngợi, ôm ấp bé để động viên khi bé tập nói Nguồn: Tóm tắt từ tài liệu "What to do if your child should be talking - but isn’t yet" @ http://www.vapg.com/parents/Speech.pdf --------------------------------------------------------------------------- 14
  15. Đồ chơi của bé I- Dụng cụ mua Mỹ Anh chưa có • Khối logic hình vuông, tròn, tam giác • Ống nhìn vạn hoa, vạn sắc (bị bóc hỏng rồi) • Chuông • Rối “găng tay“ mèo hay chó • Bảng lắp ráp khung lõm 4 hình, hình lắp ráp con mèo 4 mảnh, hình lắp ráp con bò 6 mảnh... • 5 hình khối và 5 đĩa nhựa có màu khác nhau: đỏ, xanh da trời, xanh lá, vàng, trắng • “Phách” gõ nhịp • Cầu thang không tay vịn (cần cho Mỹ Anh ra Green Park) • Dùng 9 chữ cái – Chữ hoa H I V D U E Y S • Tấm khung • Đồ chơi 8 phần thân thể của bé trai: tóc thân, đầu, mình, tay… Mỹ Anh đã có • Chai nước xà phòng thổi bóng • Đất sét công nghiệp (bột mỳ) • Que tính bằng gỗ hay nhựa • Thìa, cốc nước, bàn chải răng, khăn giấy • Quả bóng nhựa • Ghế dựa có chiều cao phù hợp • Chiếc khăn lớn chơi trốn tìm • Cốc nhựa đục, hay chiếc khăn dầy, một đồ chơi cất giấu • Tấm gương soi • Còi • Kẹo để trong hộp nhựa trong suốt • Dây dù • Xâu hạt cườm có trụ xỏ hay que gỗ. Giấy vẽ. Bút chì màu • Giấy và bút dạ màu (vẽ sẵn hình con Thỏ – 4 hình cơ bản: tròn, vuông, tam giác, chữ nhật...) • Giấy và kéo cắt • Một bao vải khá rộng + 5 vật dụng: bút chì, khối vuông, quả bóng nhỏ, bút dạ có nắp đậy, cốc • Cuốn sách có hình ảnh • Chiếc khay hay hộp lớn II- Dụng cụ sáng tạo Có lẽ mấy trò chơi sử dụng những dụng cụ này Mỹ Anh chưa chơi được? • 10 tấm giấy ghi từ sô 1 đến số 10 • 10 hình ảnh của 5 vật: còi, bóng, trống, chìa khóa, lược • 12 tấm hình với 4 hình thể khác nhau: vuông, tròn, tam giác, thoi • Các tấm hình có 3 màu sắc khác nhau: xanh lục, đỏ, vàng • Hình ảnh của vật dụng: chiếc giày, cốc nhựa, bàn chải, bút chì, kéo, lược Nguồn: Sắp xếp lại từ tài liệu của thầy Nguyễn Văn Thành do bác Kim Tâm gửi cho qua email --------------------------------------------------------------------------- Dạy bé yêu cầu - Dạy khi bé có mong muốn cao nhất với vật yêu thích - Chọn những từ chỉ đồ vật, hành động mà bé yêu thích đồng thời người lớn kiểm soát được, ví dụ: thứ ăn được, thứ chơi một lúc là hết (như: bong bóng xà phòng...), thứ nhỏ, 15
  16. gọn, dễ trao cho bé (như: sách, ô tô đồ chơi...), thứ có thể trao cho bé mỗi lúc một chút (như: từng ngụm nước quả...), thứ bé luôn thích (như: đi dạo chơi...) - Chọn những từ bé đã quen và hiểu ý nghĩa (ví dụ: người lớn nói "Đi chơi nhé" là bé đi ra cửa) - Chọn từ có cách phát âm tương đối dễ và ngắn - Chọn cử chỉ, dấu hiệu thể hiện giống hành động cần mô tả (ví dụ: động tác mở sách, cho thức ăn vào miệng...) - Chọn từ thuộc nhiều chủng loại (ví dụ: không nên chỉ tập trung vào từ chỉ thức ăn) - Dùng từ thống nhất mọi nơi, mọi lúc - Tránh chọn từ, cử chỉ có vẻ giống nhau, dễ gây nhầm lẫn, tránh những từ chỉ hành động, đồ vật mà bé ghét - Giúp bé ra dấu hiệu bằng hành động (ví dụ: nắm tay bé...) - Khi bé đã thạo thì giảm dần sự giúp đỡ (ví dụ: cầm tay bé đưa lên miệng => chỉ đụng vào tay bé => chỉ ra dấu hiệu để bé bắt chước => chỉ dùng lời để gợi ý - "Con muốn gì?" => cất thức ăn đi chỗ khác, dùng lời để gợi ý - "Con muốn gì?" => động viên bé yêu cầu khi không có thứ bé thích trước mặt => tiến tới để bé chủ động yêu cầu, không cần hỏi "Con muốn gì?") - Dần dần dạy thêm các dấu hiệu, từ mới (khác hẳn dấu hiệu đã học), thường xuyên ôn lại các dấu hiệu, từ đã biết - Không nên cầu toàn, mong đợi bé làm thật nhuần nhuyễn, cử chỉ đúng hoặc gần đúng của bé phải được chấp nhận, khen ngợi thì bé mới có động lực học tiếp - Không nên thêm quá nhanh và quá nhiều dấu hiệu từ làm bé lẫn lộn và đoán mò - Bé cần được tạo điều kiện để học trong môi trường tự nhiên hàng ngày, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau - Việc học ngôn ngữ phải được lồng ghép trong mọi hoạt động hàng ngày của bé: tự phục vụ, vui chơi, giải trí, phát triển vận động... - Bé phải được thực tập rất nhiều, suốt ngày, với nhiều loại đồ vật khác nhau, trong tất cả các tình huống thuận lợi mà bé có thể học hỏi - Các thành viên trong gia đình, những người tiếp xúc với bé phải biết và thống nhất cách dạy ngôn ngữ cho bé - Bé cần được dạy các yếu tố ngôn ngữ có liên quan: việc tiếp thu ngôn ngữ, việc diễn đạt bằng ngôn ngữ, kỹ năng yêu cầu, khả năng gọi tên sự vật xung quanh, kỹ năng trò chuyện... - Bố mẹ cần lập chương trình học để nâng cao khả năng ngôn ngữ của bé một cách có hệ thống và ghi chép quá trình bé học - Cần đảm bảo số lần bé trả lời đúng nhiều hơn rất nhiều lần số lần bé trả lời sai, cần làm sao để quá trình học thật vui, thật lôi cuốn, dừng bài học khi bé có câu trả lời đúng, thái độ tốt, tuyệt đối không dừng bài học khi bé trả lời sai, có hành vi xấu vì như vậy là "thưởng" cho hành động xấu của bé Nguồn: Tóm tắt và tổng hợp từ tài liệu trong đĩa CD của bác Kim Tâm --------------------------------------------------------------------------- Một số trò chơi 16
  17. Các trò chơi Mỹ Anh đã biết, có thể thỉnh thoảng ôn lại: Bắt chước 1. Cúc cù, kiến bò, ú oà 2. Mẹ bắt chước cử động của Mỹ Anh 3. Mẹ bắt chước Mỹ Anh bi bô 4. Đưa tay chào 5. Vo tròn bột mỳ 6. Bắt chước gõ chuông Nhận thức giác quan 7. Nhìn theo bọt xà phòng 8. Nghe, hướng về tiếng còi bất ngờ, tiếng chuông, tiếng phách 9. Bắt chước điệu bộ đi lại, mở cửa, nhặt đồ, đứng lên, ngồi xuống... 10. Nhìn sách có hình Vận động tinh 11. Lắp 3,4 hình kích thước, hình dạng khác nhau vào đúng khung lõm 12. Lấy hạt cườm ra khỏi trục 13. Bật, tắt công tắc điện 14. Thả rơi khối hình vào bình 15. Xâu hạt cườm vào trụ 16. Cầm với hai ngón cái và trỏ 17. Phối hợp hai tay để xâu hạt, cắt, vẽ... 18. Mở, đóng nắp chai 19. Dùng kéo cắt giấy Vận động thô 20. Cầm bóng bằng hai tay 21. Đẩy bóng về một hướng 22. Ngồi thẳng lưng trên ghế dựa, tự đi 23. Chuyển từ tay này sang tay kia 24. Cầm cốc uống 25. Ném bóng Các trò chơi Mỹ Anh chưa biết làm, mẹ nên bày cho Mỹ Anh chơi: Bắt chước 1. Giả vờ bón cháo, đánh răng, cho uống, lau mặt búp bê 17
  18. 2. Chơi với đồ chơi hình mèo, tập kêu "meo meo", hình chó, tập kêu "vâu vâu" 3. Lặp lại 3 từ, ví dụ: hốp, ăn, em bé 4. Lặp lại 4 âm thanh, ví dụ: mờmờ, baba, pata/tata, lala Nhận thức giác quan 5. Nhìn vào ống vạn sắc, quay tròn, dùng ổn định một bên mắt để nhìn ống 6. Xỏ tay vào múa rối dạng găng tay (ví dụ hình chó, mèo), làm chó, mèo cử động 7. Rung chuông đúng 2 lần 8. "Vượt qua đường ở giữa": Nhìn theo mẹ đưa đồ chơi chạy từ trái qua phải làm thành góc vuông (đỉnh là bé) theo đúng góc vuông 9. Xếp các màu khác nhau vào đúng từng đĩa cùng màu 10. Tìm ra kẹo được giấu dưới 1/3 chiếc khăn dày hoặc cốc nhựa mờ Vận động tinh 11. Ấn vào đất sét làm thành lỗ 12. Cắm que gỗ giả làm nến trên "bánh sinh nhật" bằng bột mỳ 13. Thổi bong bóng xà phòng 14. Xâu hạt cườm vào sợi dây thắt nút một đầu 15. Nhận ra đồ vật trong túi vải, hộp dán kính hở lỗ nhỏ... 16. Nặn bát bằng bột mỳ, đất sét... 17. Dùng ngón cái đụng các ngón khác 18. Vẽ hình người Nguồn: Tóm tắt từ tài liệu của thầy Nguyễn Văn Thành, do bác Kim Tâm gửi cho --------------------------------------------------------------------------- Đồ chơi của con ngày 29/11/06 Chưa mua được hộp có lỗ đục đẹp như hộp của Sonya, mẹ chế vội ra mấy cái đồ chơi để Mỹ Anh chơi "giải quyết vấn đề": - nhét hình vào hộp qua lỗ đục - lắp trụ tròn vào ống to, rồi lấy ống nhỏ đẩy cho trụ tròn rơi ra (trụ gần khít ống to nên không dùng tay kéo ra được) Chỉ một lát là Mỹ Anh biết cách chơi, nhưng chỉ chơi khoảng 5-7 phút là chán, mẹ lại phải cất đi, đến "tiết học" sau lại lôi ra cho con chơi lại. Hôm nay mẹ bận quá, mai phải cố gắng tìm đồ chơi gì hay hơn cho con. --------------------------------------------------------------------------- 18
  19. Trò chơi của con ngày 27/11/06 1. Vận động: massage, khởi động, txtc; Khám phá: đuổi hình; Xã hội: chào hỏi (30') 2. Học ở lớp (2h) 3. Khám phá: đuổi hình, quan sát; Xã hội: chào hỏi; Điều khiển: cắt, dán, vẽ (1h) 4. Khám phá: chơi nước, đọc sách; Xã hội: miệng xinh, luân phiên uống nước và cho mẹ uống bằng cốc và bằng thìa (1h) 6. Vận động: massage, khởi động, txtc; Khám phá: quan sát (15') 7. Khám phá: quan sát, chỉ; Điều khiển: ăn tối, xúc hạt, ấn bột mỳ; Xã hội: miệng xinh (45') 8. Gqvđ: đưa khối màu; Vận động: leo trèo; Khám phá: đuổi hình; Xã hội: miệng xinh (1h) 9. Vận động: txtc; Xã hội: chào hỏi, luân phiên uống nước, thổi kèn, gõ cốc; Điều khiển: cắt, dán, vẽ (1h) 10. Khám phá: đuổi hình, điều khiển: vẽ (30') --------------------------------------------------------------------------- Trò chơi của con ngày 25/11/06 - Xã hội: chào hỏi, chỉ người, chơi luân phiên (bóp chai, giở sách...) - Giả vờ/bắt chước: nấu ăn, bón thức ăn, cất rau vào hộp - Điều khiển: dán giấy, chơi đồ chơi (vịt, máy bay...) - Vận động/thể chất: trượt, chạy, kéo đẩy, "bay", đẩy chân mẹ... - Khám phá: đuổi hình, đọc sách - Giải quyết vấn đề: lấy khăn che sách, đòi mặc bỉm để ị --------------------------------------------------------------------------- 1. Giúp con chơi-học-lớn khôn là một việc đòi hỏi cả tâm và trí, cả đức và tài, như mọi nghề nghiệp - giáo viên, bác sỹ, doanh nhân, viên chức... 2. Làm cha mẹ, tâm thì có nhưng trí còn hạn chế, vì không được đào tạo từ trước để có những kỹ năng "can thiệp". Chính vì không tự tin ở cái "tài" của mình, lại kết hợp với việc thiếu thông tin nên các cha mẹ dễ rơi vào tình trạng asymmetric information ("thông tin thiếu cân xứng"), dẫn đến hoảng hốt và có thể còn thua thiệt về tiền của trước những lời của các "nhà chuyên môn", nhiễu cả tâm lẫn trí. 3. Mẹ nhớ chuyện "Người thầy đầu tiên" của Aitmatôv: một người lính ít học dùng nhiệt tình và quyết tâm vượt khó khăn để đưa ánh sáng trí tuệ đến với các em nhỏ. Mẹ tin là mẹ sẽ làm tốt "nghề dạy học" của mình, với cái tâm và sự quyết tâm, cho dù hiểu biết còn vô cùng hạn chế. 4. Nhưng mà "có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Vì vậy, mẹ cần tìm và học hỏi kinh nghiệm những người đi trước để bình 19
  20. tâm lại, để cái tâm soi sáng cái trí, để học hỏi, để "cái khó" giảm đi, vì "xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều". --------------------------------------------------------------------------- Học chú ý và đáp lại "Nếu con bạn chưa biết chú ý, hãy coi việc phát triển kỹ năng này là ưu tiên số một" I. Về kỹ năng chú ý 1. Kỹ năng chú ý là quá trình liên tục từ khi con biết giao tiếp bằng mắt và tiếp tục cho tới khi con có thể diễn đạt nhu cầu và suy nghĩ của mình 2. Bước đầu tiên của kỹ năng chú ý là con chú ý đến nét mặt của mẹ, nhìn vào mặt mẹ, chờ trong lúc mẹ nói với con, nhìn vào đồ chơi, phản ứng với những hướng dẫn đơn giản của mẹ 3. Con có kỹ năng chú ý nghĩa là: • con nhìn vào mặt mẹ khi mẹ nói chuyện với con • con cử động cơ thể cho thấy là con biết điều gì sắp xảy ra, ví dụ khi mẹ giơ tay bế hoặc cho con cái chai • con nhìn hoặc quay đầu tìm mẹ khi mẹ gọi • con ngồi yên ở ghế và chú ý vào vật mẹ đưa ra (ít nhất là 1 phút) • con nhìn vào vật/bức tranh cùng mẹ, thỉnh thoảng nhìn mẹ rồi lại nhìn lại vật, biểu hiện sự nhận biết của con (trong ít nhất 2 phút) • con phản ứng với những yêu cầu kèm điệu bộ của mẹ, ví dụ: đưa cho mẹ vật con có trong tay khi mẹ đưa tay xin • con tự vẫy tay, vỗ tay, dùng cử chỉ... khi mẹ đề nghị con làm nhưng không chỉ hoặc giúp con II. Về cách giúp con phát triển kỹ năng chú ý: 1. Nói với con về những gì mẹ đang làm • bằng cụm từ đơn giản • thỉnh thoảng dừng lại một chút (không nói liên tục), gọi tên con, đợi con nhìn rồi mới tiếp tục nói • khi nói nên kết hợp: cười, chạm vào người con để tăng sức thu hút với con • giữ mặt gần với con khi nói (ví dụ: đặt con trên ghế trong bếp để dễ đến bên con nói chuyện, đặt con nằm trên bụng mẹ, giữ hai vai con...) • khi con sao nhãng, đưa mặt con đến gần mặt mẹ, giúp con sờ và khám phá những gì con thấy • dùng một từ cho mỗi sự kiện và hành động (ví dụ: bế, thay tã) 2. Cho con thời gian để phản ứng • cho con thời gian để chuẩn bị • sau lần thứ nhất thử, con chưa có phản ứng, thì nên đợi một lát • đến lần thứ hai (sau khi đợi, chứ không phải lặp lại liên tiếp "nhìn, nhìn, nhìn...") mà con vẫn chưa phản ứng thì nên đổi cách tiếp cận (ví dụ: sờ tay vào con, đổi ngữ điệu...) • giúp con đoán trước việc sắp xảy ra, ví dụ: gọi con khi mẹ tiến đến gần con, đưa tay ra trước khi bế con, đưa cho con thìa trước khi cho ăn... 3. Tích cực giao tiếp với con: • thể hiện với con sự sung sướng khi con nhìn hay phản ứng với mẹ • phản ứng với tất cả các âm thanh của con, dù chỉ là tình cờ (ví dụ: lặp lại âm thanh giống âm thanh con phát ra) • động viên những người khác (người lớn, trẻ em) tham gia khuyến khích con chú ý và phản ứng 4. Lưu ý đến "thế giới" của con: • cho con đồ chơi để chơi hoặc nhìn ngắm khi không ở bên con • dành thời gian quan sát con để tìm hiểu con đang nhìn gì, con thích gì: phải tham gia vào thế giới của con thì mới mong con tham gia vào thế giới của mẹ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2