Gustaf - Hùng sư phương bắc
Vào một đêm đầu xuân năm 1630, trong nhà quốc hội
Thụy Điển, đèn đuốc sáng trưng, mấy trăm nhà quý
tộc quần áo chỉnh tề ngồi ngay ngắn, chăm chú nghe
một người đứng trên bục diễn thuyết.
Người đó có vóc dáng cao lớn, hùng dũng, mắt to,
lông mày rậm râu, quai nón rậm rì, tiếng như lệnh vỡ,
dáng điệu như ngựa lồng, khẩu khí như muốn thâu
tóm cả thiên hạ, hoài bão to lớn:
" Kể từ khi Ta lên ngôi kế vị nhờ các vị ra sức phò tá,
phát triển công thương, xây dựng quân đội, chấn
hưng chính trị, mở mang cơ đồ, và cuối cùng đã thu
được nhiều thành quả rực rỡ; ở phía Đông thì đánh
bại Sa Hoàng Nga; miền Nam thì chiến thắng Ba
Lan, biến biển Baltic thành ao nhà. Nhưng bây giờ
Đức đang xảy ra nội chiến, liên minh Thiên chúa giáo
(một thế lực chống Thụy Điển) liên tiếp giành thắng
lợi, có nghĩa là tạo ra mối đe dọa trực tiếp đối với
miền Nam nước ta. Kinh nghiệm cho ta biết rằng:
Nếu cứ đóng chặt cửa, lo giữ nhà, đợi chúng đến mới
đánh trả, thì chẳng bằng chủ động xông ra ngoài liều
mình sống mái với chúng. Nguyên tắc của người
Thụy Điển chúng ta là: Quyết không để kẻ thù đặt
nửa bàn chân lên lãnh thổ chúng ta. Hãy hất ngọn lửa
chiến tranh sang chính đất nước của chúng!".
Hội trường vang tiếng vỗ tay rầm rầm tất cả nhất loạt
hô: Quyết đánh bại hoàng đế Đức". Vị diễn giả đó
chính là Hoàng đế trẻ tuổi của nước Thụy Điển, thiên
tài quân sự với phát minh và áp dụng chiến thuật
tuyến, người được tôn vinh là "Sư tử phương Bắc" -
Gustaf Adolf.
Ngay từ hồi nhỏ Gustaf đã đọc thông kinh sử, tài trí
hơn người. Ông được tiếp thu một nền giáo dục hoàn
hảo và nghiêm khắc. Ông đặc biệt yêu thích bộ môn
quân sự, đồng thời cũng có hứng thú sâu sắc với tất
cả các bộ môn khoa học thời đó. Ông còn biết nói
tiếng Pháp, tiếng Italia, tiếng Hà Lan, tiếng Tây Ban
Nha, tiếng Nga và tiếng Ba Lan. Khi còn bé, Gustaf
đã theo phụ vương đi chinh chiến và tham gia các
hoạt động chính trị quân sự. Năm 16 tuổi trong cuộc
chiến Kalmar, Gustaf đã chứng tỏ sự dũng cảm phi
thường.
Năm 1611, khi mới 17 tuổi Gustaf đã kế vị ngôi báu,
hiệu là Gustaf đệ nhị. Sau khi kế vị, ông lập tức bắt
tay cải cách quy mô lớn về các mặt chính trị, kinh tế,
văn hoá, quân sự v.v... tăng cường tập quyền trung
ương, thành trừng các thế lực chia rẽ trong tầng lớp
đại quý tộc, lấy ngành khai khoáng làm đòn bẩy phát
triển ngành công nghiệp, nhanh chóng thay đổi bộ
mặt đất nước. Qua cuộc cải cách này, sức mạnh tổng
hợp của đất nước Thụy Điển tăng lên đáng kể, trở
thành một cường quốc ở Bắc Âu. Trong kế hoạch cải
cách này, cần nhấn mạnh đến nhưng cải cách của ông
về mặt quân sự, ông nêu gương đầu tiên ở Châu Âu
về xóa bỏ chế độ quân dịch lính đánh thuê, chuyển
sang thực hiện chế độ lính nghĩa vụ. Trong phạm vi
cả nước, nam giới từ 15 đến 44 tuổi đều theo luật
mười người chọn một đẻ tham gia quân ngũ. Ông đã
xây dựng được một đội quân thường trực 36 ngàn
người được huấn luyện kỹ càng. Ông còn xây dựng
binh chủng pháo hùng hậu, trong đó pháo dã chiến
loại nhẹ là chính. Loại hỏa pháo này chỉ cần một con
lừa hay ngựa là kéo được, trong khi đó ở các nước
khác chỉ có pháo nặng , phải dùng đến bốn lừa hoặc
ngựa kéo. Nhằm giảm nhẹ sức chịu đựng của quân
đội, ông đã thành lập cơ cấu cung ứng hậu cần kiểu
mới, vũ khí đạn dược do ban quân lương mua, dự trữ
trong kho sau đó cung cấp dần dần. Trong khi tác
chiến, ông dày công thiết kế chiến thuật đánh theo
"tuyến". Đây là một cách đánh nổi tiếng, tức là thay
thế kiểu trận đồ hình vuông ngày trước thành hai
tuyến, sắp xếp thành đội hình hàng ngang; toàn quân
được bố trí theo khoảng cách hai tuyến, mỗi tuyến tứ
ba đến sáu hàng, khoảng cách giữa hai tuyến là
200m, ở giữa hai tuyến bố trí kỵ binh; ở giữa đội hình
chiến đấu là bộ binh, hai bên là kỵ binh. Trong các
trung doàn bộ binh thì số lượng lính bắn súng hỏa
mai chiếm 2/3, còn lại là thương dài (uân đội các
nước khác thì bố trí ngược lại). Ngoài ra, về trang bị
pháo thì quân đội Thụy Điển cứ một ngàn lính thì
bình quân được trang bị từ 5 đến 12 cỗ hỏa pháo,
trong khi đó tỉ lệ quân đội các nước khác là từ 4 đến
5 khẩu.
Nhờ cuộc cải tổ này mà quân đội Thụy Điện bỏ hẳn
lối bầy trận hình vuông truyền thống có phần lạc hậu
nặng nề. Áp dụng chiến thuật "tuyến" khi chiến đâu,
đầu tiên bắn hỏa pháo hình thành một màn đạn làm
cho cả mặt trận bị chìm ngập trong màn khói, rồi
nhân cơ hội này cho kỵ binh xuất kích, tuyêu diệt bộ
binh địch; tiếp đó cho bộ binh xông lên, dùng cách
bắn hỏa lực đồng loạt để sát thương địch, còn kỵ binh
thì công kích vào hai bên sườn địch, nhất loạt tấn
công. Ưu điểm của chiến thuật này là ở chô pháp huy
tối đa uy lực của hỏa pháo và súng kíp, kết hợp khéo
léo giữa vũ khí lạnh và nóng, hòa nhập các yếu tố cơ
động của kị binh, sức đột phá của thương, khả năng
sát thương của súng kíp và hỏa lực của pháo binh
thành sức mạnh tổng hợp. Chiến thuật "tuyến" được
coi là một bước ngoặt trong lịch sử quân sự. Nhờ
chiến thuật "tuyến" mà tiếng tăm của Gustaf chấn
động cả Châu Âu lúc bấy giờ. Không những thế ông
còn xây dựng được hạm đội và đội vận tải mạnh, đưa
quân đội Thụy Điển lên vị trí hàng đầu ở Châu Âu.
Năm 1617, Gustaf mở đầu cuộc chinh chiến bằng
việc tấn công đối thủ truyền thống là nước Nga. Quân
Thụy Điển giành thắng lợi vang dội, chiếm được toàn
bộ đất đai nằm xung quanh vịnh Phần Lan, cắt đứt
con đường nối liền nước Nga với biển Baltic. Sau
chiến thắng, Gustaf hào hứng tuyên bố: "Từ nay về
sau, nước Nga chẳng bao giờ còn dám vượt qua
khuôn phép nữa!".
Năm 1626, tại chiến dịch Volchov, Thụy Điển lần
đầu tiên đánh bại kị binh Ba Lan vốn được coi là vô
địch thiên hạ, gây xôn xao cả Châu Âu. Tiếp đó,
Thụy Điển nhanh chóng chiếm được toàn bộ lãnh thổ
Lionia và quyết di dân đến lãnh thổ mới này, nhằm
thỏa mãn khát vọng của giới quý tộc.
Trong khi Gustaf còn đang vui mừng với chiến thắng
thì tình hình chính trị Châu Âu biến chuyển mau lẹ.
Đan Mạch thất bại sau 30 năm chiến tranh, liên minh
thiên chúa giáo đứng đầu là hoàng đế Phổ đã bành
trướng thế lực đến bờ nam biển Baltic, uy hiếp. Last
Updated ( Wednesday, 12 March 2008 )