KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
3
BÀI BÁO KHOA HỌC
HÀM LƯỢNG NITRAT TRONG NƯỚC NGẦM NÔNG
DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC KỸ THUẬT TƯỚI
Nguyễn Phan Việt
1
, Đinh Thị Lan Phương
2
Tóm tắt: Trong bài báo này, tác động của nước tưới ô nhiễm với chế độ phân bón theo khuyến cáo lên
nitrat (NO
3-
)
trong nước ngầm nông ở các độ sâu 35 cm, 70 cm, 120 cm dưới các kỹ thuật tưới tiết kiệm
nước tưới ngập được nghiên cứu. Kết quả cho thấy, tưới ngập làm tăng khả năng thấm nitrat xuống
các tầng đất dưới và nước ngầm, hàm lượng nitrat trong đất và nước ngầm tăng theo mức độ ô nhiễm N
trong nước tưới và phân bón. Nồng độ nitrat trong nước ngầm của công thức tưới ngập cao hơn từ 2,4 –
2,9 lần so với tưới tiết kiệm nước. Tưới tiết kiệm nước giúp giảm mức nước mặt ruộng so với tưới ngập
từ 4 5 cm, làm giảm sự thấm nitrat tại các tầng. Giảm sâu nhất tại độ sâu 120 cm 64,79%. Hàm
lượng N tổng số trong các tầng đất 0 35 cm, 35 70 cm, 70 -120 cm của tưới tiết kiệm nước giảm
15,63%, 18,9%, 14,29% so với tưới ngập. Vnăng suất, tưới tiết kiệm nước cho năng suất thực thu lớn
hơn tưới ngập và đối chứng lần lượt là 20,1% và 43,57%.
Từ khóa: Nước ngầm, ô nhiễm nitrat, tưới ngập, tưới tiết kiệm nước.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Biến đổi khí hậu làm thiếu nước cho thủy điện
và nước ới trong mùa khô gia ng trầm trọng
trong những năm gần đây. Riêng mùa năm
2023, hạn hán khiến nhiều hồ lớn như Lai Châu,
Sơn La, Tuyên Quang, Bản Chát, Hủa Na, Thác
cận k mực nước chết (Bản tin khí hậu thy văn
của Tổng cục Khí tượng Thủy Văn, 2023). Mt số
hthủy điện lớn như hồ Hòa Bình mực nước ch
cho phép phát điện cầm cự trong một s ngày. Hậu
quả toàn miền Bắc thiếu điện phải cắt điện
luân phiên trong mùa hè, ảnh hưởng đến toàn bộ
kinh tế và n sinh của người dân trong những
ngày nắng nóng. Bên cạnh đó, nhiều kênh thủy lợi
phải tiếp nhận các nguồn nước thải sinh hoạt
chăn nuôi chưa qua xử lý dẫn đến nhiều nguồn tưới
trong tình trạng ô nhiễm, trong đó hàm lượng (HL)
Ni(N) rất cao. Theo báo o Viện tưới tiêu
Môi trường 2016-2019, hthống thủy lợi (HTTL)
Bắc Hưng Hải HL N cao gấp 2,48 - 4,15 lần,
HTTL Bắc Đuống có HL N cao gấp 1,36 – 2 lần so
với QCVN 08:2015/BTNMT. Việt Nam 7,24
1
Khoa Tự động phương tiện kỹ thuật PC,CC,CN,CH;
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy; Nghiên cứu sinh
Trường Đại học Thủy lợi
2
Khoa Hóa và Môi Trường, Trường Đại học Thủy lợi
triệu ha đất canh tác, đất lúa chiếm 4,1 triệu ha.
Hầu hết lúa canh tác theo kiểu tưới ngập truyền
thống nên lượng nước tiêu thụ hàng năm cho tưới
lúa rất lớn (Phuong D.T.L., 2020). Dưới ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu dẫn đến các nguồn tưới
thường cạn kiệt vào mùa khô, các hệ thống thủy lợi
không nguồn pha loãng hoặc thay thế buộc phải
sử dụng nguồn tưới ô nhiễm. Nước tưới ô nhiễm
tích hợp phân bón (theo khuyến cáo cho nước tưới
sạch) sẽ dẫn đến thừa nitrat trong lớp nước mặt
ruộng, dẫn đến nitrat theo nước mặt ruộng thấm
xuống các tầng đất sâu hơn đi vào nước ngầm.
Tình trạng này xảy ra phổ biến nhiều vùng nông
nghiệp trên toàn cầu, nng độ nitrat trong nước
ngầm mức rất cao vượt quá tiêu chuẩn nước sinh
hoạt đã được m thấy nhiều nơi như Châu Âu,
Hoa Kỳ, Australia và Anh (Rivett et al., 2007).
Nước ngầm tầng nông (lớp phía trên của tầng
Holocene hạ - qh1) nơi tiếp giáp với nước mặt
nên thường bị ô nhiễm do sự thấm các chất ô
nhiễm từ ớc bề mặt. Mặt khác, nước ngầm tầng
nông thường dâng cao khi gặp mưa lớn, dẫn đến
gương nước (bề mặt nước ngầm) tiếp giáp với các
tầng đất ô nhiễm phía trên làm gia tăng NO
3-
thừa trong nước mặt ruộng đi vào nước ngầm (Kei
Asada et al., 2017).
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
4
Nitrat (NO
3-
) là dạng ô nhiễm nitơ phổ biến
cả nước mặt nước ngầm, nguyên nhân chủ yếu
từ nước tưới ô nhiễm phân bón (Bijay-Singh,
Eric Craswell, 2021). NO
3-
dễ bị rửa trôi khỏi đất
theo hai cách: thấm qua vùng không bão hòa
xuống các tầng sâu hơn, cuối ng đến được cả
hai tầng ngậm nước (nước ngầm tầng nông
sâu); hoặc dòng chảy bề mặt mang theo NO
3-
đi
vào nước mặt. Hai quá trình này đều làm suy gim
chất lượng ớc dẫn đến hiện tượng pdưỡng,
không sử dụng được cho ăn uống nh hưởng
đến các loài thủy sản (Barton and Colmer, 2006).
Sự tích tụ nitrat trong đất cao dẫn đến thấm
nguyên nhân NO
3-
đi vào nước ngầm, tốc độ thấm
càng gia tăng khi ợng tưới mặt ruộng cao hoặc
gặp mưa lớn. Sự ô nhiễm NO
3-
trong nước ngầm
gia tăng khi HL NO
3-
trong nước mặt ruộng cao từ
tích hợp phân bón nước tưới ô nhim dẫn đến
thừa NO
3-
trước khi thấm xuống các tầng đất
sâu hơn (Ju XT, Zhang C, 2017).
Dựa trên các quan sát trong 6 năm, Zhou M et
al. (2014) đã chỉ ra lượng rửa trôi NO
3-
hàng năm
từ vài kg đến 32,8 kg N/ha theo lớp nước mặt
ruộng. Chỉ sau một trận mưa lớn (211 mm trong
36 giờ) sau thời kỳ hạn hán đã làm mất đi 70%
lượng NO
3-
tích lũy trong đất. Trong mùa mưa,
lượng mưa lớn đã làm cho NO
3-
di chuyển theo
nước mặt ruộng xuống các tầng sâu hơn, tlệ N
thấm sau khi thu hoạch lúa từ 38 - 45% so với
lượng N ban đầu. Ngoài nh hưởng của lớp nước
mặt ruộng, dư lượng N từ phân bón ng gia tăng
tình trạng thấm. Sử dụng phân đạm trong một thời
gian dài làm cho lớp đất độ sâu 40–100 cm tích
lũy đến 73,5 kgN/ha. Khi lượng đạm á dụng tăng
lên 180 kg N/ha, HL NO
3-
tích lũy trong tầng đất
0–300 cm lên tới 1500 kg/ha sau 23 năm (Chen et
al., 2014).
Mức độ thấm NO
3-
khác nhau trong các kiểu
đất khác nhau, NO
3-
trong đất trống hoặc đất cát
dễ b thấm, ngược lại trong đất đồng cỏ, nhờ rễ c
mọc rất sâu giúp hấp thụ NO
3-
hn chế rửa trôi.
Hơn nữa, carbon phân hy từ xác thực vật giúp vi
khuẩn đất cố định khoáng hóa N nhanh chóng,
ngăn sự hình thành nitrat trong đất giảm nguy
rửa trôi. Đ sâu rễ ng nh hưởng đến quá
trình rửa trôi thấm NO
3-
, rễ càng xuyên sâu
xuống lớp đất dưới giúp hấp thu NO
3-
hạn chế
thấm xuống nước ngầm. Rễ lúa thuộc rễ chùm
nông nên không thể lấy NO
3-
trong các lớp đất đất
sâu sau khi thấm, hơn nữa đất ruộng lúa là nhóm
đất được cày bừa, làm c tưới liên tục nên có
đặc tính xốp bề mặt dẫn đến thấm NO
3-
xuống các
tầng dưới nhiều hơn đất khác (Franzluebbers et
al., 2014).
Quá trình thấm thường xảy ra phổ biến trong
đất lúa, bao gồm thấm khi đất chưa bão hoà trong
thời kỳ ngâm ruộng sau khi đất được làm ải
thấm khi đất đã bão hoà nước (quá trình thấm n
định) trong thời canh tác. Tưới ngập làm lớp
nước mặt ruộng ln mức từ 7 10 cm gia
tăng khi gặp mưa lớn. Do lượng nước thấm tỷ lệ
thuận với lớp nước duy trì trên mặt ruộng, lớp
nước càng dày thì lượng nước thấm càng lớn
ngược li. Lượng nước thấm sẽ không còn khi trên
bề mặt ruộng không lớp nước mặt. Tưới ngập
mặc rất tốn nước nhưng dạng tưới phổ biến
hiện nay kỹ thuật tưới đơn giản, dễ áp dụng so
với tưới tiết kiệm nước. Cho đến nay, giải pháp
tưới tiết kim nước (giúp tiết kim 36 – 50% nước
tưới, tăng năng suất, chống một số bệnh, giảm
phát thi khí nhà kính) đã được khuyến o
nhưng mới chỉ được thử nghiệm trên diện nhỏ tại
một số vùng (Trn Viết Ổn, 2016).
Sử dụng nước ngầm b ô nhiễm nitrat thể
gây hại cho sức khỏe con người gây ra hội
chng trẻ xanh trẻ em (Bijay-Singh,
Eric Craswell, 2021). n nữa, ô nhiễm nitrat
trong nước ngầm tầng nông thể làm ô nhiễm
các kênh, ng, hồ lân cận, dẫn đến hiện tượng
phú dưỡng làm suy giảm chất lượng nước, không
sử dụng được cho khai thác nước sinh hoạt và ảnh
hưởng đến các loài thủy sản. Trong bối cảnh biến
đổi khí hậu, lượng nước dự trữ trong các hồ tưới
và hồ thy đin cạn kiệt vào mùa khô. vậy, tưới
nước tiết kiệm đgiảm ô nhiễm NO
3-
trong nước
ngầm tầng nông là những vấn đề rất cần quan tâm.
Cho đến nay, chưa nghiên cứu nào tại Việt
Nam về tác động của tưới ngập đến hàm lượng
NO
3-
trong nước ngầm tầng nông dưới ảnh hưởng
của nước ới ô nhiễm. Do đó, bài o thực hin
nghiên cứu hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm tầng
nông dưới các kỹ thuật tưới trong điều kiện nước
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
5
tưới ô nhiễm. Các kết quả nghiên cứu làm s
cho điều chỉnh chế đtưới để giảm ô nhiễm NO
3-
vào nước ngầm.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Các công thức thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hin trên cánh đồng lúa
của Học viện Nông nghiệp Việt Nam, tọa độ 21
o
00’00 N - 106
o
55’54 E. Thời gian thực hin 2 năm
từ 6/2021 – 5/2023 với 02 vụ xuân và 02 vhè thu.
Mẫu nước dưới đất được thu theo chu kì 7 ngày/lần
tại các độ sâu 35 cm, 70 cm, 120 cm sau đó mang
ngay v phòng thí nghiệm phân tích. Thực hiện ly
mẫu và bảo quản mẫu theo TCVN 6663-11:2011.
Giải thích quá trình thu mẫu nước: các ống nhựa
thu mẫu được gắn đáy kín đáy, phía trên nắp
thể tháo rời để hút mẫu. ng được đục các l
xung quanh tại các độ sâu trên để thu nước phân
tích NO
3-
ngay sau lấy mẫu. Mẫu nước trong các
ng được hút bỏ đi trước khi ly mẫu 24 h bằng
bơm hút. Mẫu nước được đựng trong các chai nhựa
sạch, được rửa trong bể rửa siêu âm và tráng rửa
bằng nước cất trước khi đựng mẫu.
Mẫu đất được lấy tại các đsâu 0-35 cm, 35
70 cm, 70 120 cm để phân tích hàm lượng N
tổng số tại thời điểm thu hoạch. Lấy mẫu đất
bảo quản theo TCVN 7538 - 2 : 2005. Phân tích N
tổng số theo phương pháp Kjeldahl. Bao gồm 02
công thức tưới:
Tưới ngập: mức nước mặt ruộng luôn duy trì 7
10 cm, gặp mưa lớn không tháo, được thực hiện
trên toàn bruộng lúa diện tích 960 m2. Tháo
cạn ruộng 10 ngày trước thu hoạch.
Tưới tiết kiệm nước: Áp dụng kỹ thuật tưới tiết
kiệm nước của tác giả (Trần Viết Ổn, 2016) mức
nước mặt ruộng duy trì 3 – 5 cm, phơi ruộng từ 3 –
5 ngày giữa các đợt tưới. Riêng thi kì cuối đẻ
nhánh phơi ruộng 5 7 ngày để đất nchân chim,
hn chế đẻ nhánh vô hiệu và giúp rễ lúa ăn sâu vào
đất. Tháo cạn ruộng 10 ny trước thu hoạch. Thí
nghiệm được thực hiện trên 02 ô thí nghiệm
kích thước 3*3 m, được chắn tôn, làm hai hào, bao
nilon hai lớp đến độ sâu 2,2 m để đảm bảo từ độ
sâu 0 2,2 m không nước thấm ngang và nước
tràn mặt ruộng trong những đợt mưa ln.
Hình 1. Ô thí nghiệm tưới tiết kiệm nước, tưới ngập và lấy mẫu
Đối chứng (ĐC) được thiết kế như ô thí nghiệm
tưới tiết kiệm ớc. Nước tưới được dẫn ra ruộng
từ nước máy hàm lượng N khá thấp NO
3-
từ 0,1
0,2 mg/L, NH
4+
từ 0,03 0,05 mg/L, NO
2-
từ
0,001 – 0,003 mg/L.
2.2. Nước tưới, giống lúa, phân bón thuốc
trừ sâu
Nước tưới cho lúa của các công thức được ly
từ sông Cầu Bây. Nước tưới hàm lượng NO
3-
từ 0,5 2,9 mg/L, NH
4+
từ 1,8-5,1 mg/L, NO
2-
từ
0,068 – 1,092 mg/L.
Giống lúa sử dụng trong thí nghiệm là giống
bắc thơm số 7, nguồn gốc Trung Quốc được trồng
phổ biến miền bắc với chất lượng gạo dẻo,
thơm. Đây giống lúa sinh trưởng khỏe mạnh,
chống hạn rét, thời gian sinh trưởng 125 - 135
ngày vụ đông xuân, 105 - 110 ny vụ hè thu.
Phân bón áp dụng theo khuyến cáo của Vin
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam: 120 kg N : 90
kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha, sử dụng phân NPK Việt
Nhật, n thúc vào thời bén rễ hồi xanh. Thuốc
trừ sâu Nouvo3.6EC phun phòng bệnh trong thi
kỳ lúa đẻ nhánh và làm đòng.
2.3. Hóa chất và phân tích
Sử dụng test thuốc th của HACH phân tích
NO
3-
trong mẫu nước trên máy quang phổ DR-
3900 của HACH. Áp dụng TCVN 6498:1999
(ISO 11261 : 1995) về chất lượng đất để xác định
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
6
nitơ tổng số theo phương pháp Kendan (Kjeldahl)
cải biên.
2.4. Xử lý số liệu
Dữ liệu thí nghiệm được phân tích trên
Microsoft Excel về xác định gtr trung bình, đ
lệch chuẩn, v đồ thị. Các kết quả thu được
trung bình của 03 lần phân tích. Sử dụng chương
trình ANOVA đánh giá s khác biệt ý nghĩa
của số liệu trong các công thức (P < 0,05). n
cạnh đó, tính LSD (Least significant difference) về
giá trị sai khác nh nhất ý nghĩa cho biết sự
khác bit ý nghĩa về mặt thống giữa các kết
quả và hệ số biến thiên CV (Coefficient of
variation) về t lcủa đ lệch chuẩn so với gtr
trung bình.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm dưới
ảnh hưởng của tưới ngập
Dưới điều kiện tưới ngập, mực nước mặt ruộng
trung bình được quan sát thấy từ 7 – 10 cm và cao
hơn vào những đợt mưa. Nvy, trên mặt ruộng
ln lớp nước thấm 7 10 cm nước tưới ô
nhiễm. Bên cạnh đó, các kết quả tnghiệm cho
thấy hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm gia tăng
theo mức độ ô nhiễm NO
3-
của nước tưới, vào
nhng đợt nồng đNO
3-
trong nước tưới tăng t
hàm lượng (HL) NO
3-
trong các tầng cũng tăng
theo. Điển hình vào các đợt nước tưới ô nhim
nng, nồng đNO
3-
trong nước ngầm tăng trung
bình từ 2,4 – 2,9 lần so với ĐC. Áp dụng phân bón
làm HL NO
3-
cả 3 độ sâu lấy mẫu đều cho kết
quả tăng hơn so với các thời điểm không n
phân, thời điểm ngay sau bón phân tăng đến
khong 70%. So với ĐC, HL NO
3-
trung bình ở c
ba độ sâu của CT tưới ngập tăng từ 1,9 – 3,6 lần.
Áp dụng chế độ phân bón theo khuyến o
trong điều kiện ớc ới ô nhiễm làm lượng
NO
3-
trong nước mt ruộng tăng, thúc đẩy quá
trình thấm NO
3-
vào nước ngầm. Cụ thể kết quả
phân HL NO
3-
trong nước ngầm từ độ sâu 35
120 cm tăng trung bình 2,1 3,8 lần so với ĐC.
Ngoi trừ các thời điểm n phân nhng đợt
tưới mới bằng nước ô nhiễm, HL trung nh NO
3-
trong nước ngầm dao động t 0,6 – 1,0 mg/L. Như
vy, lớp nước mặt ruộng cao cùng với HL NO
3-
trong nước tưới cao làm gia tăng NO
3-
trong nước
ngầm, các kết quả nghiên cứu p hợp với các
nghiên cứu của (Ju XT, Zhang C, 2017, Zhou M
et al., 2014, Chen et al., 2014) khi bề dày lớp nưc
mặt ruộng và HL NO
3-
trong nước lớn làm tốc đ
thấm NO
3-
xuống nước ngầm gia ng. So với
QCVN 09:2015/BTNMT, mặc HL NO
3-
trong
nước ngầm vẫn trong mức giới hạn cho phép,
xong các kết quả thu được những đ sâu khảo
sát trong nghiên cứu này cho thấy đã hin
tượng thấm NO
3-
xuống nước ngầm khi nước mặt
ruộng ô nhiễm. Theo thời gian, lượng thấm gia
tăng làm gia tăng stích lũy NO
3-
trong các tầng
đất dưới và nước ngầm.
Về HL NO
3-
tại từng tầng, do tính chất đất b
mặt xốp từ 0 70 cm theo kho sát phẫu din đất
ban đầu nên kết quả HL NO
3-
độ sâu 35 cm
70 cm không sự khác nhau đáng kể (P > 0,05),
thkết luận c kết quả thu được phù hợp với
phẫu diện đất nghiên cứu. Tuy nhiên, dưới độ sâu
70 cm đã sự khác nhau về HL NO
3-
giữa tầng
này tầng trên. Trong đó, HL NO
3-
tại độ sâu
120 cm cho thấy HL NO
3-
độ sâu này thấp n
độ sâu 35 cm trung bình khoảng 1,7 lần (P <
0,05). Như vậy, kết quả phân tích p hợp vi
phẫu diện đất nghiên cứu được khảo sát ban ban
đầu: độ sâu từ 70-120 cm khá nhiều sét, kết cấu
chặt, đất dẻo, dính, có nhiều kết von màu nâu đen.
Thành phần sét cao giúp hấp phụ NO
3-
và giữ
NO
3-
trong đất, giảm rửa trôi NO
3-
xuống tầng
dưới (Daniel Said-Pullicino et al., 2014), nồng đ
NO
3-
giảm dần theo độ sâu các tầng.
Như vậy, sự thừa NO
3-
trong nước mặt
ruộng a không hấp thụ hết sẽ dẫn đến ô
nhiễm NO
3-
trong ớc ngầm. Khả năng hấp thu
NO
3-
của lúa theo nhu cầu của cây lúa, chỉ có 22%
lượng phân N bón cho lúa được hấp thụ dưới
dạng nitrat- N, còn lại thất thoát ra môi trường
hoặc xuống nước ngầm với lượng trung bình
29 kg N/ha (Zhou JY., et al., 2016).
Hàm ng NO
3-
trong ớc ngm đã được
chứng minh ln quan chặt chẽ với lượng a
mức nước mặt rung. Khi lượng a cao
hoặc tưới liên tục m ng mc nước mặt rung
luôn trong, sthấm NO
3-
ng
ng (Chen L. et
al., 2014). Ngược lại với lượng a nhỏ, mức
nước mặt ruộng mức thấp đã hn chế s thấm
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
7
NO
3-
xuống c tầng đất i, kết quả NO
3-
ch tập trung tầng đất mặt. Lượng mưa từ
220288 mm không thấy s thấm NO
3-
,
nhưng lượng a lên đến 346 mm làm mt
lượng lớn NO
3-
thấm xuống các tầng đất i
đến đsâu 100 cm (Zhou M et al., 2014). N
vậy, tưi ngập làm mức ớc mặt rung luôn
duy trì mức 7 10 cm tương đương với lượng
a 700 1000 mm nguyên nhân thấm NO
3-
xuống c ngầm.
Hình 2. Hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm của công thức tưới ngập
3.2. Hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm của
phương pháp tưới tiết kiệm nước
ới chế độ kiểm soát nước mặt rung, i tiết
kim nước cho kết qu gim NO
3-
khá rõ rệt so vi
tưới ngập, trungnh giảm từ 1,4 - 2,84 ln cho cả ba
tầng. Trong đó, riêng tầng 35 cm HL NO
3-
gim từ
1,13 1,86 ln, tầng 70 cm sự gimu hơn từ 1,5
3,33 lần so vớiới ngập. Trong s các tng nghiên
cứu, kết quả giảm u nht là tầng 120 cm, HL NO
3-
gim từ 1,78 7 lần. HL NO
3-
của tầng 35 cm và 70
cm không sự khác bit đáng k (P > 0,05).
Như vậy có ththấy tưới tiết kiệm nước đã cho
kết quả giảm HL NO
3-
trong nước ngầm tại các
tầng giảm từ 28,69 – 64,79% so với tưới ngập.
Hình 3. Hàm lượng NO
3-
trong nước ngầm của công thức tưới tiết kiệm nước
Trong cùng điều kiện về chế đ phân n
nước tưới, các kết quả tnghiệm đã chỉ ra mức
nước mặt ruộng ảnh hưởng đến kết quả thấm
rệt. Sự chênh về mức nước mặt ruộng của tưới tiết
kiệm nước so với tưới ngập từ 4 5 cm làm gim
sự thấm HL NO
3-
tại độ sâu 120 cm là 64,79% (P
< 0,05). những thời điểm phơi ruộng làm mực
nước mặt ruộng đo được trong khoảng 0 2 cm,
lúc này HL NO
3-
tại độ sâu 120 cm trở về mức rất
thấp 0,1 – 0,2 mg/L. Như vậy, lượng ớc thấm tỷ
lệ thuận với lớp nước duy trì trên mặt ruộng, lớp
nước càng mỏng thì lượng nước thấm ng giảm
phù hợp với c kết quả nghiên cứu của (Ju XT,
Zhang C, 2017). Tại các thời phơi ruộng, lớp
nước bề mặt ruộng bằng không hoặc rất thấp làm
lượng nước thấm sẽ không còn giúp kiểm soát sự
thấm NO
3-
xuống các tầng đất dưới.
3.3. Hàm lượng N trong các tầng đất dưới
ảnh hưởng của các kỹ thuật tưới
Từ kết quả thu được cho thấy, tưới ngập làm
gia tăng sự tích lũy N tổng số trong đất so với tưới
tiết kiệm nước. Tưới ngập bằng nước tưới ô nhiễm
làm lớp nước mặt ruộng luôn một khoảng hàm
lượng NO
3-
tùy thuộc vào mức độ ô nhiễm của các
đợt tưới, khi nước thấm làm NO
3-
theo nước di
chuyn xuống. lượng NO
3-
từ nước tưới cũng
giống như áp dụng tỉ lệ phânn quá mức choy
trồng. Tại nhiều vùng nông nghiệp đã được phát