Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
HIỆU QUẢ NĂNG LƯỢNG VÀ TIỀM NĂNG KINH DOANH CÁC-BON Ở VIỆT NAM ThS. Trịnh Thị Thủy
TÓM TẮT Trái đất đã, đang và sẽ trải qua tình trạng ấm lên toàn cầu. Con người liên tục hứng chịu các đợt nắng nóng, cháy rừng, lũ lụt và hạn hán. Tình trạng chậm trễ trong cắt giảm khí các- bon và hỗ trợ trong ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ làm lỡ cơ hội quý giá để đảm bảo sự sống bền vững trong tương lai. Năm 2021 tại Scotland (Anh) đại diện 197 quốc gia đã ký Hiệp ước Khí hậu Glasgow tại Hội nghị COP 26 (Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu), các quốc gia đã cam kết cắt giảm nhiều hơn khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính. Tại Hội nghị, Việt Nam cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về việc đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Có thể nói, cơ bản các phát thải khí nhà kính là từ lĩnh vực năng lượng. Bài viết đề cập các chính sách năng lượng, hiệu quả năng lượng ảnh hưởng tới việc giảm phát thải khí nhà kính. Phân tích tiềm năng và thách thức phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam, đây được coi là một công cụ kinh tế quan trọng thực hiện mục tiêu giảm phát thải.
Từ khóa: Khí nhà kính, chính sách năng lượng, kinh doanh các-bon
ABSTRACT ENERGY EFFICIENCY AND CARBON TRADING POTENTIAL IN VIETNAM The Earth has been, is and will be experiencing global warming. Humans are constantly subjected to heat waves, wildfires, floods and droughts. Delays in reducing carbon emissions and supporting climate change response will miss a valuable opportunity to ensure sustainable living in the future. In 2021 in Scotland (UK) representing 197 countries signed the Glasgow Climate Treaty at the COP 26 Conference (United Nations Framework Convention on Climate Change), the countries pledged to cut more greenhouse gas emissions. emissions cause the greenhouse effect. At the conference, Vietnam made a strong commitment to the international community to achieve net emissions of "zero" by 2050. It can be said that basically the greenhouse gas emissions come from the energy sector. The article mentions energy policies and energy efficiency that affect the reduction of greenhouse gas emissions. Analyzing the potential and challenges of developing the carbon market in Vietnam, which is considered an important economic tool to achieve emission reduction targets.
Keywords: Greenhouse gases, energy policy, carbon trading 1. GIỚI THIỆU Giới khoa học đồng thuận rằng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu là do con người phát thải khí nhà kính, phần lớn lượng khí nhà kính này đến từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch, nạn phá rừng cùng một số hoạt động nông nghiệp (Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ). Các chất ô nhiễm không khí chủ yếu đến từ khí thải công nghiệp, xe có động cơ và đốt gỗ (Cheremisinoff, 2002). Các chất gây ô nhiễm không khí chủ yếu là carbon dioxide (CO2). Việc gia tăng lượng CO2 trong khí quyển làm trầm trọng thêm hiệu ứng nhà kính và vì thế góp phần vào sự ấm toàn cầu. Đây là một vấn đề nhức nhối hiện nay đe dọa trực tiếp đến sự sống của con người. Biến đổi khí hậu đang làm cho thời tiết nắng nóng khắc nghiệt, mưa lớn, hạn hán, hỏa hoạn ngày càng xảy ra thường xuyên hơn, mực nước biển dâng cao, axit hóa đại dương và bão xoáy nhiệt đới dữ dội, gây hủy hoại thế giới tự nhiên và tước đi sinh mạng của nhiều người.
313
Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
Những tiến bộ khoa học cho thấy, các tác động này xuất phát từ biến đổi khí hậu do loài người gây ra. Trong một số trường hợp, điều này đã khiến xã hội loài người và thế giới tự nhiên gặp phải những rủi ro không thể đương đầu và không thể cứu vãn, vượt quá giới hạn có thể thích ứng. Con người đang phải chịu những tác động về sức khỏe thể chất và tinh thần của biến đổi khí hậu. Nắng nóng khắc nghiệt đang giết chết và gây hại cho mọi người trên khắp thế giới. Các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đang gây ra nhiều tổn thương cho người dân như tiếp xúc nhiều với khói cháy rừng dẫn đến các tình trạng bệnh lý về tim và hô hấp. Bên cạnh đó, một số bệnh đang trở nên phổ biến hơn và lây lan sang các khu vực mới. Bão, hạn hán hoặc lũ lụt có khả năng gây thiệt mạng ở những vùng dễ bị tổn thương nhất cao gấp 15 lần so với những người ở những vùng ít bị tổn thương hơn (Nguyễn Vũ Phương Linh, 2022). Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) cho biết: “Phát thải khí nhà kính do con người tạo ra gây nguy hiểm cho sức khỏe con người và môi trường. Nếu chúng ta không có hành động khí hậu mạnh mẽ, các tác động này sẽ ngày càng lan rộng và nghiêm trọng hơn”. Mặc dù khi đại dịch Covid- 19 bùng phát lần đầu tiên, khí nhà kính đã giảm, nhưng Báo cáo Khoảng cách phát thải mới nhất của UNEP cho thấy sự gia tăng trở lại và dự báo nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng ít nhất 2,7 độ C trong thế kỷ này nếu các quốc gia không nỗ lực hơn để giảm lượng khí thải. Kể từ năm 1990 thế giới thải ra 20,5 tỷ tấn CO2, lượng phát thải ngày càng tăng đạt 32,2 tỷ tấn CO2 vào năm 2015. Lượng khí thải CO2 toàn cầu giảm 0,72 tỷ tấn CO2 vào năm 2020 so với năm 2015. Lượng khí thải CO2 giảm hơn nhu cầu năng lượng vào năm 2020 do đại dịch ảnh hưởng đến nhu cầu dầu và than khó hơn các nguồn năng lượng khác trong khi năng lượng tái tạo tăng. Bất chấp sự sụt giảm vào năm 2020, lượng khí thải CO2 liên quan đến năng lượngtoàn cầu vẫn ở mức 31,5 tỷ tấn (Hình 1).
23,1
31,5 32,2 30,4 27,7
20,5
35,00 30,00 25,00 20,00 15,00 10,00 5,00 ,00 1990 2000 2005 2010 2015 2020
Khí CO2 (Tỷ tấn)
(Nguồn IEA)
Hình 1. Lượng phát thải CO2 toàn cầu từ năm 1990 đến 2020
Nồng độ carbon dioxide trong bầu khí quyển của Trái đất năm 2020 hiện ở mức gần 412 phần triệu (ppm) và đang tăng lên. Điều này thể hiện mức tăng 47% kể từ đầu thời đại công nghiệp, khi nồng độ gần 280 ppm và tăng 11% kể từ năm 2000, đạt mức 370 ppm (Hình 2).
314
Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
100
450 400 412 390 350 370 357 338 300 324 250 280 200 150
50 0 1960 1970 1980 1990 2000 2010 2020
Nguồn: Đài quan sát Mauna Loa của NOAA ở Hawaii trong suốt 60 năm Hình 2. Nồng độ CO2 trong khí quyển tính bằng phần triệu
Có thể nói con người đã phát thải khí CO2 từ hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ) được sử dụng trong giao thông vận tải, phát điện, xây dựng, chặt phá rừng, làm nông nghiệp... Nếu không có giải pháp kịp thời thì khí thải CO2 làm trầm trọng tình trạng nóng lên của Trái đất và dẫn đến hủy hoại môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Không thể phủ nhận rằng nhiều quốc gia vẫn còn phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để duy trì tăng trưởng kinh tế nhất là sau đại dịch Covid 19. Các chính sách năng lượng được thực hiện ở các quốc gia có thể tác động trực tiếp và đáng kể đến mục tiêu giảm CO2.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất diễn ra tại Rio de Janeiro từ ngày 03 đến ngày 14 tháng 6 năm 1992 đã ban hành Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change, UNFCCC hoặc FCCC) đây là một hiệp ước quốc tế về môi trường. Việt Nam đã ký Công ước khung về biến đổi khí hậu ngày 11 tháng 6 năm 1992, phê chuẩn ngày 16 tháng 11 năm 1994; và ký Nghị định thư Kyoto ngày 03 tháng 12 năm 1998, phê chuẩn ngày 25 tháng 9 năm 2002. Là một trong các Bên không thuộc Phụ lục I, chưa có nghĩa vụ phải cam kết giảm phát thải định lượng các khí nhà kính (“KNK” hoặc “GHG”) theo quy định của Nghị định thư Kyoto. Việt Nam nỗ lực hướng tới một nền kinh tế các-bon thấp thông qua nhiều chính sách xanh và các chương trình tiết kiệm năng lượng trong những năm gần đây, đây là nội dung bài viết sẽ đề cập tới, tiếp theo bài viết thảo luận về tiềm năng kinh doanh các-bon và những thách thức khi triển khai ở Việt Nam.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Nội dung nghiên cứu Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách năng lượng và thị trường các-bon tại Việt Nam. Từ đó chỉ ra được những tiềm năng và đồng thời đưa ra những thách thách thức của Việt nam khi phát triển trường các-bon.
2.2 Phương pháp nguyên cứu Nguồn số liệu thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ EIA và BP Statistical Review of world Energy, Bộ Tài nguyên và Môi trường liên quan đến thực trạng lượng phát thải khí các-bon, tiêu thụ năng lượng và kiểm kê khí nhà kính.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích được áp dụng khi xem xét quy định của các văn bản pháp luật về chính sách năng lượng và thị trường các-bon. Về phương pháp thống kê, tác giả đã sử dụng để tìm hiểu những thách thức đặt ra khi Việt Nam tham gia thị trường các- 315
Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
bon. Đồng thời, kết hợp các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội: Phương pháp tổng hợp, phương pháp lôgic và phương pháp bình luận, phương pháp so sánh.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Hiện trạng năng lượng Việt Nam 3.1.1. Tiêu thụ năng lượng và thải khí các-bon Ngành năng lượng Việt Nam đã có bước phát triển mạnh trong trong những năm qua.
Điều đó đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển và đổi mới đất nước.
Ở Việt Nam, năng lượng vừa là ngành sản xuất, vừa là ngành kết cấu hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội, là động lực cho quá trình phát triển của đất nước. Được sự quan tâm, tạo điều kiện về nhiều mặt của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua, ngành Năng lượng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các số liệu Hình 3 cho thấy, trong năm 2020, tổng sản xuất năng lượng sơ cấp của Việt Nam đạt 64,65 triệu TOE64 (tăng 0,35% so với năm 2019 và giảm bình quân 1,31%/năm trong giai đoạn 2015-2020); tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam đạt 87,08 triệu TOE (giảm 2,06% so với năm 2019 và tăng bình quân 4,12%/năm trong giai đoạn 2015-2020).
100 12,5000 90 10,000 80 7,5000 70 5,000 60 2,5000
%
50 -
E O T u ệ i r t
40
(2,5000)
30 (5,000) 20 (7,5000) 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Sản xuất (Triệu TOE) Tiêu thụ (Triệu TOE)
Tăng trưởng sản xuất so với năm trước (%) Tăng trưởng tiêu thụ so với năm trước (%)
Nguồn Nguồn: Số liệu từ EIA và BP Statistical Review of world Energy 2021
Hình 3. Sản xuất và tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam từ 2015-2020
Hình 4 cho thấy năm 2020, tiêu thụ năng lượng từ than đá chiếm 49,65% tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam (tỷ trọng này tăng 9,34 điểm % so với năm 2015). Ngược lại, tiêu thụ năng lượng từ khí tự nhiên chiếm 7,90% (tỷ trọng này giảm 3,86 điểm % so với năm 2015); tiêu thụ năng lượng từ dầu mỏ và các chất lỏng chế biến từ dầu mỏ chiếm 25,19% (tỷ trọng này giảm 3,72 điểm % so với năm 2015); tiêu thụ năng lượng từ năng lượng tái tạo và các loại khác chiếm 17,26% (tỷ trọng này giảm 1,76 điểm % so với năm 2015).
Từ những diễn biến nêu trên của Việt Nam thời gian qua cho thấy, tỷ trọng tiêu thụ năng lượng từ than đá có xu hướng tăng rất mạnh, còn tỷ trọng tiêu thụ năng lượng từ năng lượng tái tạo, từ khí tự nhiên, từ dầu mỏ lại có xu hướng giảm. Đây là xu thế không phù hợp với xu thế chung của thế giới vì sẽ làm tăng lượng phát thải khí nhà kính, gây ô nhiễm môi trường…
64 Tấn dầu Tương đương
316
Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
41,79
47,84
38,82 40,31 43,21 49,56
25,23
8,86 11,76 10,44 8,34 8,75 7,9 27,1 26,43 27,83 28,91 25,19 27,87
22,03 19,94 19,02 17,26 15,54 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Than Khí tư nhiên Dầu mỏ và các chất lỏng khác Hạt nhân, NLTT và các loại khác
Nguồn: Số liệu từ EIA và BP Statistical Review of world Energy 2021
Hình 4. Cơ cấu tiêu thụ một số loại năng lượng tái tạo chủ yếu của Việt Nam từ
2015 đến 2020 (Đơn vị tính: % trên tổng lượng tiêu thụ)
Việt Nam vẫn là một nước phụ thuộc rất nhiều vào nhiên liệu hóa thạch chủ yếu là than, dầu mỏ để phục vụ cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó có nghĩa rằng lượng chất thải CO2 tiếp tục tăng lên.
Kịch bản phát triển thông thường quốc gia giai đoạn 2014-2030 là tổng hợp của 5 lĩnh vực: Năng lượng, nông nghiệp, LULUCF65, chất thải và IP66. Phát thải KNK theo kịch bản phát triển thông thường quốc gia được trình bày trong Bảng 1
Bảng 1. Kiểm kê KNK năm 2014 và Kịch bản phát triển thông thường quốc gia
Năm
Năng lượng
đến năm 2030 Đơn vị: triệu tấn CO2tđ LULUCF
Chất thải
IP
Tổng
-37,5 -35,4 -37,9 -49,2
21,5 31,3 38,1 46,3
38,6 80,5 116,1 140,3
284,4 528,4 726,2 927,9
Nông nghiệp 89,8 104,5 109,2 112,1
2014 2020 2025 2030
171,6 347,5 500,7 678,4
Nguồn: TBQG thứ ba của Việt Nam gửi Ban thư ký Công ước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2018
d t
1000 927,9 800 726,2 600 528,4 400 284,4 200
2 O C n ấ t u ệ i r T
0 2014 2020 2025 2030 -200
LULUCF IP Năng lượng Nông nghiệp Chất thải Tổng
Hình 5. Phát thải theo kịch bản phát triển thông thường đến năm 2030
65Lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp 66 Lĩnh vực các quá trình công nghiệp
317
Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới”
Xét theo lĩnh vực, lượng KNK phát thải trong cả 5 lĩnh vực (năng lượng, nông nghiệp, IP, chất thải) đều có xu hướng tăng mạnh hơn trong giai đoạn 2014-2030. Cụ thể, theo dự báo, lượng KNK phát thải tăng từ 284,4 triệu tấn CO2tđ67 (2014) lên 927,9 triệu tấn CO2tđ (2030) (tăng 3,2 lần). Trong đó, phát thải trong lĩnh vực năng lượng chiếm tỷ lệ lớn nhất (chiếm 73,1%), lĩnh vực IP vượt lên đứng vị trí thứ hai (15,1%), lĩnh vực nông nghiệp đứng thứ ba (chiếm 12,1%) và lĩnh vực chất thải đứng thứ tư (chiếm 5,0%). 3.1.2. Chính sách và hiệu quả năng lượng Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, cùng với các nước phát triển chống lại sự nóng lên của toàn cầu bằng những hành động tích cực. An ninh năng lượng và phát triển năng lượng luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Việt Nam được coi là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á và cũng là một nền kinh tế sử dụng nhiều năng lượng (MOIT và DEA, 2017). Các nỗ lực của Việt Nam sẽ tập trung vào các nỗ lực thích ứng và giảm thiểu, bao gồm các cơ hội sử dụng năng lượng hiệu quả, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (MOIT và DEA, 2017) và tăng cường quản trị các lĩnh vực sử dụng năng lượng đáng kể (Vieria, 2017). Hiện tại, Việt Nam phụ thuộc vào nguồn năng lượng hỗn hợp từ dầu mỏ, than đá, khí đốt tự nhiên và thủy điện, với tỷ trọng than dự kiến sẽ tăng lên (IEA, 2017). Hơn nữa, trong những năm gần đây, Việt Nam đã bị đẩy từ một nước xuất khẩu năng lượng sang một nước nhập khẩu (ADB, 2016), ảnh hưởng đến an ninh năng lượng. Chính phủ Việt Nam thừa nhận “tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với phát triển bền vững” (MOIT và DEA, 2017).
Ngày 11/2/2020 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Một số mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 55 đó là: Đến năm 2030, cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030; tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20%; xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực; độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường đạt khoảng 7%. Mục tiêu cụ thể đến năm 2045 là năng lượng sơ cấp đạt khoảng 320-350 triệu TOE. Tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 25-30%; Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém cũng như nguyên nhân của ngành năng lượng Việt Nam sau 15 năm thực hiện Kết luận số 26-KL/TW ngày 24/10/2003 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam và 10 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị khoá X về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.
Nghị quyết cũng đưa ra nhiệm vụ rà soát, hoàn thiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2020-2030. Triển khai áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc kèm theo chế tài về sử dụng hiệu quả năng lượng đối với những lĩnh vực, ngành và sản phẩm có mức tiêu thụ năng lượng cao. Đồng thời, có chính sách khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng năng lượng sạch, tái tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông; thúc đẩy phát triển các phương tiện giao thông sử dụng điện năng phù hợp với xu thế chung trên thế giới.
67 CO2 tương đương