Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
71
[7]
杨会臣, 贾金生, 郑璀莹 (2013),
重力坝分析的改进有限元等效应力法.中国
水利水电科学研究学院学报, 2, 112-116.
[8] Hoàng Hưng (2014). Tính toán ứng suất
tương đương phần tử hữu hạn đập vòm
tông. Hội nghị khoa học kỷ niệm 55 năm
thành lập trường Đại học Thủy lợi, 11/2014.
HỒ CHỨA TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI,
HIỆN TRẠNG ĐÁNG BÁO ĐỘNG
Nguyn Hu Huế1, Nguyn Vit Thng2
1Đại hc Thy li, email: nguyenhuuhue@tlu.edu.vn
2 Vin K thut công trình, email: vietthang.ice@gmail.com
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Nội trung tâm kinh tế lớn của Việt
Nam, theo định hướng quy hoạch của thủ đô
đến năm 2030 tầm nhìn 2050 của Chính phủ
thì mục tiêu đầu tiên xây dựng Nội
thành tổng thể đa trung tâm, gồm đô thị hạt
nhân và đô thị vệ tinh.
Trong khu vực Hà Nội, các hồ chứa vừa và
nhỏ đóng vai trò quan trọng trong quá trình
sản xuất nông nghiệp. Theo thống kê, tại
Nội 95 hồ chứa do các công ty địa
phương quản . Các hồ chứa trên được đầu
xây dựng từ lâu cải tạo không đồng bộ
nên còn tồn tại nhiều ẩn họa gây nguy mất
an toàn giảm hiệu quả khai thác sử dung.
Đây bài toán khó đặt ra cho các cấp ban
ngành để sớm tìm ra hướng giải quyết.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài báo sử dụng các phương pháp nghiên
cứu:
+ Phương pháp phân tích, thống kê;
+ Phương pháp khảo sát thực địa;
+ Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tại Nội 95 hồ chứa với dung tích
khoảng 185 triệu m3. Các hồ chứa nhỏ thường
do ủy ban nhân dân huyện quản tập
trung vào một số huyện như: Ba Vì, Sơn Tây,
Chương Mỹ, Quốc Oai… số lượng hồ nh
chiếm tỷ lệ 70%. Các hồ lớn do các Công ty
Thủy lợi Sông Đáy, Sôngch và Công ty đầu
Phát triển thủy lợi Nội quản chiếm
tỷ lệ 29%. Riêng 2 hồ Hồ Xuân Khanh
Hồ Sênh do Thị Sơn Tây trực tiếp
quản lý.
.
Hình 1: Phân loại các hồ chứa Hà Nội
theo dung tích [1]
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
72
Hình 2: Biểu đồ phân bố hồ chứa
tại Hà Nội [1]
Hu hết hồ chứa Hà Nội được y dựng
ch đây khoảng 40-50 năm, qua thi gian i
khai thác, sử dụng, c hạng mục như đập đất,
tràn, cống lấy c đều bị xung cấp, nh
ng không nh đến khả năng phục vụ sản
xut an toàn hạ du. Him ha phát sinh t
các vn đề an toàn ng trình t các h cha
c thy li tn địa bàn thành ph chẳng
thua kém nỗi ám ảnh từ nhng ng trình thy
đin kng đảm bảo cht ng.
Hình 3: Thống kê hồ chứa có thiết bị
quan trắc, quy trình vận hành [1]
Theo kết quả điều tra hiện trạng thì số
lượng các hồ chứa có thiết bị quan trắc chiếm
tỷ lệ rất thấp, chỉ duy nhất hồ Đồng
được lắp thiết bị quan trắc. Tuy nhiên vào
thời điểm năm 2014, 3/28 ống đo áp trong
thân đập bị tắc không quan trắc được.
Về quy trình vận hành hồ chứa, hiện tại chỉ
các hồ chứa do các công ty quản được
xây dựng quy trình vận hành, còn lại tất cả
các hồ chứa do địa phương quản đều
không quy trình vận hành, kể cả các hồ
chứa mới được nâng cấp sửa chữa.
Hình 4: Chăn nuôi trong phạm vi
lòng hồ Vống - Ba Vì (5/2015)
Một vấn đề đáng báo động tại các hồ chứa
vừa nhỏ tại Nội tình hình lấn chiếm
diện tích lòng hồ phục vụ sản xuất. Nguyên
nhân chính do các chủ hồ các hộ sản
xuất, sau khi được giao quản hồ đã đầu
chăn nuôi phát triển làm lòng hồ mất diện
tích sử dụng giảm khả năng khai thác của
các hồ chứa.
Về mặt kết cấu, hiện tại tất cả các tràn của
các hồ chứa do địa phương quản đều
tràn đất không được gia cố, đã xuống cấp.
Cống lấy nước nhỏ, bị bồi lắng, nhiều cống
không còn hoạt động nữa.
Hình 5: Tràn xả lũ của một hồ chứa
trên huyện Ba Vì (5/2015)
Qua phân tích đánh giá, các nguyên nhân
chính làm giảm hiệu quả khai thác của các hồ
chứa bao gồm:
1. Nguyên nhân do thiết kế và thi công
Hầu hết c hồ chứa nh do địa phương
quản đều được xây dựng từ rất u. Khi
thiết kế thi công tồn tại c vấn đề như sau:
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
73
+ Các tiêu chuẩn tính toán không còn
phù hợp.
+ Lựa chọn giải pháp công nghệ không
phù hợp (Nhiều đập giải pháp bảo vệ mái còn
sài, tràn tự do không được gia có, cống
tròn nhỏ bị bồi lắng phía trước không lấy
được nước...) .
+ Chi phí đầu xây dựng thấp dẫn đến
trong quá trình thiết kế còn nhiều thiếu sót…
Hình 6: Cống lấy nước hồ Văn Sơn
đã xuống cấp (2014)
+ Năng lực vấn của các đơn vị thiết kế
còn chưa cao, chưa đề xuất áp dụng các công
nghệ mới vào dự án.
+ Công nghệ thi công còn lạc hậu: các hồ
chứa nhỏ của Nội được xây dựng từ lâu
nên máy móc thô sơ, nhiều hồ được đắp thủ
công không đầm nện chặt sau một thời gian
làm việc bị nứt gãy, hỏng hóc tại mái thượng
và hạ lưu đập.
+ Quy trình thi công còn kém, nhiều hồ
chứa khi thi công không đơn vị vấn
giám sát nên chất lượng các hồ còn thấp.
2. Nguyên nhân do vận hành quản lý
+ Hiện nay, tại Nội các hồ lớn do các
công ty khai thác công trình thủy lợi quản lý.
Tại các hồ, số lượng công nhân vận hành
thường trực thường ít, chưa trình độ
chuyên môn cao, chưa được đào tạo qua các
lớp tập huấn nâng cao năng lực vận hành.
+ Các hồ chứa nhỏ do địa phương quản
thường được giao cho các hợp tác xã, nhiều
hồ do dân địa phương thầu lại nuôi cá. Đa số
các chủ hồ nhỏ đều không có trình độ chuyên
môn, không qua trường lớp khi được bàn
giao hồ thường không phát hiện các hỏng hóc
trong hồ, hoặc nếu phát hiện cũng chỉ
biện pháp tạm thời dẫn tới việc nhiều hồ bị
xuống cấp trầm trọng.
+ Sự thiếu quan tâm của các cấp thẩm
quyền: Theo nghị định về phân cấp công
trình thủy lợi, các hồ chứa nhỏ thường không
được kiểm định và đánh giá sau một thời gian
sử dụng. Nguồn vốn để sửa chữa nâng cấp do
địa phương bỏ ra thường rất ít, vậy nhiều
hồ ngày càng bị hư hỏng nặng.
Ngoài các nguyên nhân chính trên còn do
một số nguyên như nữa như sau làm giảm
hiệu quả khai thác của các hồ chứa:
+ Nguyên nhân do biến đổi khí hậu: Hiện
nay dưới tác động của biến đổi khí hậu xuất
hiện nhiều hiện tượng cực đoan của thiên tai
bao gồm lũ, bão, hạn, kiệt. Dòng chảy
lượng nước đến hồ thay đổi làm giảm hiệu
quả khai thác của các hồ chứa.
+ Hiện nay tần suất thiết kế cấp nước của
các hồ chứa tăng lên từ 75% đến 85%, việc
thay đổi tần suất thiết kế khiến cho quy trình
vận hành hồ chứa, tính toán khả năng cấp
nước không còn phù hợp làm giảm khả
năng khai thác của các hồ chứa trong khu vực
Hà Nội.
4. KẾT LUẬN
Nội hơn 90 hồ chứa, phân bố chủ
yếu tại các huyện Ba Vì, Chương Mỹ, Quốc
Oai, Thạch Thất… do công ty thủy nông
địa phương quản lý. Đối với các hồ chứa do
công ty quản lý, hầu hết đã được xây dựng
quy trình vận hành phương án phòng
chống lụt bão. Còn các hồ chứa tại địa
phương, do dung tích nhỏ chưa được quan
tâm đúng mức nên các công trình chính bao
gồm: đập, tràn, cống, kênh đã xuống cấp trầm
trọng, không đáp ứng được nhu cầu cấp nước
theo thiết kế. Đây hiện trạng đáng báo
động, các cấp ban ngành cần sớm giải
pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả khai
thác sử dụng của các hchứa trong khu vực
Hà Nội.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO