
CHÍNH PHỦ NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC
DỰ ÁN “HỖ TRỢ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2007- 2011"
(SPAR HCMC, 2007-2011)
Tóm tắt Dự án
Những đô thị lớn là những đầu tàu phát triển kinh tế, văn hoá và
xã hội, đóng vai trò quan trọng đối với sự thịnh vượng của một quốc gia.
Quá trình đô thị hoá nhanh chóng đang đặt ra yêu cầu các thành phố của
Việt Nam phải tăng cường năng lực quản lý hành chính để kiểm soát có
hiệu quả và thúc đẩy sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội và môi
trường. Mục đích của dự án là nhằm tăng cường năng lực cho chính
quyền thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) trong công tác lập kế hoạch và
quản lý để đạt được sự tăng trưởng kinh tế xã hội mang tính công bằng
và có sự tham gia của người dân, và sự phát triển bền vững về môi
trường.
Dự án do Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, nhằm
hỗ trợ xây dựng
và
thực hiện thí điểm mục tiêu
Mô hình chính quyền đô
thị mới.
Với những nỗ lực của TP HCM trở thành một thành phố hiện đại,
đóng vai trò là đối tác chủ chốt trong khu vực, dự án sẽ trợ giúp thành
phố huy động và tận dụng có hiệu quả các kinh nghiệm quốc tế. Những
bài học rút ra tại TP HCM với vị trí là địa bàn thí điểm có thể được điều
chỉnh và áp dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của các địa
phương khác.
Dự án được thực hiện trong thời gian 48 tháng (2008-2011). Tổng
ngân sách dự án là 3.652.000 US Đô la bao gồm cả đóng góp của Chính
phủ.

2
TRANG BÌA
Quốc gia: Việt Nam
Mục tiêu UNDAF : Một hệ thống quản trị quốc gia dựa trên các
nguyên tắc cơ bản về trách nhiệm giải trình,
tính minh bạch, sự tham gia của người dân
và sự công bằng, và phù hợp các nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền và dân chủ.
Mục tiêu/ Đầu ra dự kiến: Năng lực các cơ quan hành chính Thành
phố Hồ Chí Minh trong công tác lập kế
hoạch và quản lý được tăng cường để đạt
được sự tăng trưởng kinh tế xã hội mang
tính công bằng và có sự tham gia của người
dân, và phát triển bền vững về môi trường
Lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ Cải cách Hành chính
Đối tác thực hiện quốc gia: Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh
Đối tác khác: Khu vực tư nhân, các hiệp hội và các tổ
chức phi chính phủ
KÝ KẾT
Đại diện TP HCM:__Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch thường trực UBNN Ngày:
Đại diện (UNDP): Setsuko Yamazaki, Giám đốc Quốc gia UNDP Ngày:
Ngân sách US$
Phí hỗ trợ quản lý chung US$
Tổng ngân sách : 3.652, 000 US$
Nguồn lực phân bổ :
UNDP :
3.317.000 US$
Chính phủ : 335.000 US$
Thường xuyên ____________
Các nguồn khác:
o Nhà tài trợ ____________
o Nhà tài trợ_____________
Đóng góp bằng hiện vật: US$
Ngân sách chưa được tài trợ : 1,452,000 US$
Giai đoạn chương trình: 2007- 2011
Tên dự án: „Hỗ trợ Cải cách Hành chính tại
thành phố Hồ Chí Minh”
Mã số dự án: ______________
Thời hạn dự án: 4 năm
Phương thức quản lý: Quốc gia Điều hành

3
PHẦN I: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HIỆN TẠI
Từ năm 2001, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách hành chính
(CCHC) mang tính toàn diện và lâu dài, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát
triển đất nước. Quá trình CCHC của Việt Nam đã được thể hiện trong Chương trình Tổng
thể CCHC (2001 – 2010), được thực hiện theo từng giai đoạn với sự hỗ trợ của cộng
đồng quốc tế.
Chương trình CCHC, bao gồm 4 lĩnh vực cải cách (thể chế, tổ chức, nguồn nhân
lực và tài chính), nhằm xây dựng một hệ thống hành chính công mạnh và có hiệu quả
hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc pháp quyền. Các nội dung cải cách của Chương
trình là phương tiện quan trọng trong chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đồng thời là điều kiện thiết yếu nhằm đạt những mục tiêu về tăng trưởng
kinh tế, xoá đói giảm nghèo và đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và
quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông và kinh tế phát triển nhất cả nước,
được Chính phủ đánh giá là một trong những địa phương đi đầu trong cải cách hành
chính. Một số mô hình thí điểm CCHC như cơ chế một cửa, „Tổ Công tác Liên ngành‟, „Tổ
Nghiệp vụ Hành chính„ Và hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 đã được áp dụng
ở thành phố. Những sáng kiến cải cách này đã đóng góp đáng kể trong hợp lý hoá và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chính quyền, đồng thời tăng cường chất
lượng các dịch vụ công cho doanh nghiệp và nhân dân trong bối cảnh phát triển kinh tế
xã hội và hội nhập.
Trong giai đoạn 2001-2005, mức tăng trưởng kinh tế của TP HCM đạt 11%/
năm. Mức tăng trưởng trung bình giai đoạn 2006 - 2010 ước tính là trên 12%/ năm. Sự
tăng trưởng về kinh tế, một mặt đem lại nhiều lợi ích, nhưng mặt khác cũng kéo theo
những thách thức về xã hội và môi trường. Do vậy, đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội
và đảm bảo năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế trong tương lai ngắn hạn và dài
hạn là những mục tiêu mang tính chiến lược của thành phố. Đồng thời, việc xây dựng
một môi trường quản lý hiệu quả, ổn định và bền vững để hỗ trợ đắc lực cho việc đạt
được các mục tiêu trên là vấn đề quan trọng cần quan tâm.
Những thách thức chủ yếu.
Đô thị hoá và quản lý đô thị
Các thành phố ở Việt Nam đang phát triển với tốc độ rất nhanh1. Hiệu quả kinh
tế của khu vực đô thị cao hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn. Bộ Tài chính ước tính
rằng khu vực đô thị hiện nay đóng góp khoảng 70% tổng nguồn thu của cả nước và
chiếm khoảng 47% tổng chi tiêu quốc gia. Các số liệu cũng cho thấy thành phố Hồ Chí
Minh đóng góp gần 30% cho GDP toàn quốc. Ước tính đến năm 2010, dân số khu vực
đô thị sẽ đạt 30 triệu (chiếm 33% tổng dân số cả nước), và đến năm 2020 sẽ là từ 45
đến 50 triệu (tương đương 45-50%). Vì các thành phố là những đầu tầu trong phát triển
kinh tế, văn hoá và xã hội, những yếu kém trong hiệu quả quản lý của các thành phố
này có thể gây nên nhiều vấn đề kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế sự phát triển lâu dài.
Thách thức đặt ra ở đây là phải quản lý các thành phố một cách hiệu quả và bền vững.
1 Mới đây báo
Viet Nam News
đưa tin những thành phố đô thị của Việt Nam đang phát triển nhanh nhất thế
giới và gây ra những “vấn đề ngày càng nghiêm trọng”

4
Tốc độ tăng trưởng nhanh về kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh là một kết quả
ấn tượng, song đồng thời cũng gây nên những thách thức ngày càng tăng. Những
nghiên cứu gần đây cho thấy sự phân tầng giữa những nhóm xã hội khác nhau ngày
càng tăng, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Bên cạnh những tiến
bộ quan trọng về kinh tế, thành phố đang gặp phải nhiều khó khăn mới trong quá trình
đô thị hoá, trong đó có thể kể đến là
y tế và
giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu sự
phát triển quá nhanh của kinh tế, môi trường nước và các điều kiện vệ sinh, những vấn
đề nóng bỏng về nhà đất và xây dựng, mất trật tự trong không gian và kiến trúc, những
vấn đề giao thông đô thị và quy hoạch đô thị kém hiệu quả. Một nghiên cứu gần đây
của UNEP (Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc) thực hiện ở 22 thành phố châu
Á kết luận rằng những vấn đề đe doạ chủ yếu đến sức khoẻ và cuộc sống tập trung
nghiêm trọng nhất ở những thành phố sau: Bắc Kinh, Dhaka, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,
Jakarta, Kathmandu, Kolkata, New Delhi và Thượng Hải.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển một đô thị như TP HCM, thành phố đã thống
nhất tại
đại
hội Đảng bộ thành phố VIII về việc nghiên cứu và thử nghiệm một mô
hình chính quyền đô thị riêng cho thành phố. Việc thí điểm thành công mô hình này ở
TP HCM sẽ là ví dụ tốt, để triển khai ra các địa phương khác trong cả nước. Hiện nay,
TP HCM đang xây dựng đề án về mô hình chính quyền đô thị này nhằm trình lên Chính
phủ, Quốc hội và Bộ Chính trị để xem xét và thông qua. Nếu được phê chuẩn, đề án này
sẽ được Dự án CCHC mới hỗ trợ trong để thực hiện thí điểm các thành tố trong đó có sự
hỗ trợ về vận dụng kiến thức và kinh nghiệm quốc tế.
Trên cơ sở thực trạng cũng như vai trò của thành phố Hồ Chí Minh trong sự phát
triển chung của Việt Nam, đồng thời xét đến những tiềm năng cũng như những thách
thức hiện tại của thành phố, việc xây dựng một hệ thống quản lý dựa trên các nguyên
tắc cơ bản về trách nhiệm giải trình, tính minh bạch, sự tham gia của người dân và sự
công bằng, và phù hợp các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và dân chủ để đạt
được sự tăng trưởng kinh tế xã hội mang tính công bằng và có sự tham gia của người
dân, và phát triển bền vững về môi trường, là một yêu cầu quan trọng.
Chính sách xã hội hóa
Trong những năm qua, TP HCM đã có những nỗ lực và sáng kiến trong thực hiện
chính sách Xã hội hoá của Chính phủ nhằm mục đích huy động nguồn lực của các khu
vực ngoài quốc doanh cho các công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Một
số sở ngành đã
triển khai xã hội hóa
trên một số lĩnh vực như thu gom rác thải, huy
động vốn cho xây dựng và bảo dưỡng các công trình hạ tầng. Tuy nhiên, hầu hết các
vấn đề
này
chƣa đƣợc triển khai rộng khắp các ngành, các cấp
.
Hơn
nữa, hiện
nay thành phố đang thiếu một chính sách mang tính chiến lược cũng như các quy chế rõ
ràng
để phối hợp thực hiện trên lĩnh vực này.
Bối cảnh nêu trên cho thấy việc phát triển một "cơ cấu hạ tầng mềm" về quản lý,
nhằm tạo được một môi trường thuận lợi để thu hút các nguồn lực từ khu vực tư nhân
để cung cấp tài chính cho xây dựng các "cơ sở hạ tầng cứng" như đường xá, giao thông
công cộng, năng lượng, và viễn thông cũng như các dịch vụ khác cho sự nghiệp phát
triển xã hội là nhiệm vụ quan trọng.

5
Hệ thống Thông tin Quản lý và Quảng bá thành phố
Việc tăng cường chất lượng các quyết định quản lý, tăng cường phối hợp và sự
tham gia của các
cơ quan, đơn vị có liên quan
phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp
cận thông tin đầy đủ một cách dễ dàng và có hệ thống. Một vài sáng kiến đã được triển
khai tại các Sở ngành của TP HCM, nhưng không đồng bộ với nhau. Ngoài ra, nhiều
thông tin trong hệ thống còn thiếu hoặc không được cập nhật thường xuyên.
Quá trình phát triển đô thị và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng yêu cầu cần phải
cập nhật thông tin thường xuyên và đảm bảo thông suốt thông tin. Dự án cần hỗ trợ TP
HCM nâng cao năng lực hệ thống thông tin toàn thành phố, trong đó có bổ sung và cập
nhật những thông tin còn thiếu. Hệ thống này sẽ cung cấp thông tin cập nhật để phục
vụ cho công tác lập kế hoạch và ra quyết định và cả những đối tác khác có liên quan,
thông qua việc chia sẻ thông tin một cách hệ thống. Để thực hiện được yêu cầu này,
cần hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng hiện hành, để các cơ quan
cùng sử dụng và cùng có trách nhiệm cập nhật thông tin.
Ngoài ra, các thành phố hiện đại không những phải phục vụ công dân theo định
hướng khách hàng theo đó công dân có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin, sử dụng các
dịch vụ và khiếu nại nếu cần. Một thành phố hiện đại cũng cần liên tục quảng bá hình
ảnh của mình để thu hút các nhà đầu tư và cải thiện hình ảnh của mình.
Tăng cƣờng hiệu quả và chất lƣợng thực thi công vụ của bộ
máy hành chính
Sau giai đoạn đầu tiên của cải cách với tư duy đổi mới, nền công vụ của thành
phố Hồ Chí Minh có những tiến bộ quan trọng. Tuy nhiên, nền hành chính vẫn gặp
không ít thách thức. Cơ cấu hành chính hiện hành chưa phát triển đủ mạnh để đáp ứng
các nhu cầu ngày càng tăng về phát triển đô thị và tăng trưởng kinh tế. Trong một số
trường hợp, vẫn còn có sự trùng lắp và
chồng
chéo về chức năng trong các chính sách
quản lý và trong sự phối hợp giữa các sở ngành. Các cơ chế và thủ tục hành chính chưa
đầy đủ do còn thiếu sự phân biệt rõ ràng giữa quản lý đô thị và quản lý nông thôn. Do
vậy, chương trình cải cách hành chính cần thiết và tất yếu phải thực hiện việc cải cách
và hợp lý hoá các cơ cấu quản lý hiện hành, thiết lập phương thức giúp lãnh đạo thành
phố quản lý được việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Trong những năm gần đây, vơi sự hỗ trợ của UNDP, thành phố Hồ Chí Minh đã
đi đầu trong việc triển khai Hệ thống quản lý theo kết quả PMS ở Việt Nam. Tuy nhiên,
TP HCM cũng đang gặp phải nhiều trở ngại trong việc tiếp tục phát triển hệ thống này.
Đó là: nhu cầu áp dụng và sử dụng thành thạo hệ thống PMS còn hạn chế, sự hợp tác
và phối hợp còn yếu kém; những thay đổi nhân sự ở những vị trí đầu tầu trong cải cách,
thiếu các khuôn khổ chính sách triển khai thưc hiện PMS ở cấp trung ương; và nếp văn
hoá hiện nay chưa thực sự tạo thuận lợi cho việc thực hiện PMS. Đặc biệt, những thách
thức trong việc thiết kế và xây dựng PMS ở TP HCM là rất lớn và không thể xem nhẹ.
Xây dựng hệ thống PMS là một công việc nghiêm túc, đòi hỏi nỗ lực và quyết tâm cao
chứ không thể đạt kết quả một sớm một chiều. Tuy nhiên, mô hình thí điểm PMS tại
thành phố Hồ Chí Minh
cần phải có tổng kết đánh giá đúnh đắn của mô hình mới
để triển khai thực hiện.