LUẬN VĂN:

Hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT

đối với các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU

Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, thuế được sử dụng như

là một công cụ quan trọng nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông

hàng hoá, khuyến khích đầu tư..Ngoài ra nó cũng góp phần đưa nền kinh tế phát triển

theo một quỹ đạo thống nhất, nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.

Ở nước ta thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) trước đây được gọi là thuế

doanh nghiệp. Từ khi cải cách thuế bước 1 vào năm 1990 thì nó được đổi tên thành

thuế doanh thu. Thuế doanh thu có nhiều mức thuế suất, được phân biệt theo ngành

và mặt hàng, nó có nhược điểm lớn nhất là thu thuế trùng lắp cho nên khi chuyên

môn hoá càng sâu thì số thuế phải nộp lại càng nhiều. Do vậy, khi nước ta chuyển

sang nền kinh tế thị trường, giá cà hàng hoá do cung - cầu trên thị trường quyết định

thì thuế doanh thu với nhiều mức thuế suất đã không còn phù hợp nữa, nếu ta vẫn

tiếp tục duy trì thì sẽ chỉ làm tăng lên khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo nhiều

kẽ hở cho việc trốn lậu thuế.

Thực hiện chương trình cải cách thuế bước 2, Luật thuế GTGT đã được

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua tại kỳ họp

thứ 11 (từ ngày 2/4 đến ngày 10/5/1997); có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999 thay

cho Luật thuế doanh thu. Thuế GTGT ra đời đã chứng tỏ được những ưu thế của nó,

đặc biệt là vấn đề đảm bảo được số thu cho Ngân sách, khắc phục được tính trùng lặp

của thuế doanh thu. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành Luật thuế GTGT cũng nảy sinh

nhiều khó khăn vướng mắc mà bằng chứng của nó la Bộ tài chính đã phải ban hành

rất nhiều văn bản để hướng dẫn thi hành Luật. Trong số những vướng mắc ấy nổi

cộm lên là công tác hoàn thuế GTGT. Công tác hoàn thuế GTGT là một nghiệp vụ

của Luật thuế GTGT, nó bao hàm rất nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội và cũng là một

cách để các đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lợi dụng kẽ hở để lừa đảo, bòn rút tiền của

Nhà nước.

Phòng quản lý doanh nghiệp Nhà nước số 2 thuộc Cục thuế Hà Nội (còn gọi

là phòng quản lý các doanh nghiêp Nhà nước thuộc khối Công - nông - ngư nghiệp)

là phòng quản lý thu tập trung nhiều đơn vị trọng điểm có số thu Ngân sách lớn và số

thuế xin hoàn và được hoàn cao nhất toàn Cục thuế. Thực tế việc thực hiện công tác

thu thuế GTGT và hoàn thuế GTGT không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ, mà liên

tục nảy sinh những vấn đề cần phải hoàn thiện: các doanh nghiệp liên tiếp kêu ca về

việc hoàn thuế chậm, phiền phức; nhiều trường hợp lợi dụng hoàn thuế để lừa đảo

hàng chục tỷ đồng cũng bị phanh phui..Thực tế đó đòi hỏi phải nghiên cứu để hoàn

thiện công tác hoàn thuế GTGT nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh Luật thuế,

tránh làm thất thoát Ngân sách, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển

sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà em đã quyết định chọn đề tài:" Hoàn thiện

công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên

địa bàn Hà Nội" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.

Chuyên đề gồm có ba phần chính sau đây:

Chương I: Lí luận chung về hoàn thuế và hoàn thuế GTGT

Chương II: Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp

thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội

Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hoàn thuế đối với

các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOÀN THUẾ VÀ HOÀN THUẾ GTGT

1. Lí luận chung về hoàn thuế:

1.1. Khái niệm:

Thuế tất yếu ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của Nhà nước

nhằm thực hiện hai mục đích chủ yếu là: đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách và điều

tiết vĩ mô nền kinh tế. Để thực hiện tốt các mục đích này, việc thực thi các hệ thống

thuế của mỗi quốc gia cần phải chú trọng tất cả các nội dung và phương diện của

công tác quản lý thu nộp thuế. Hoàn thuế chính là một trong những nội dung của

công tác này. Ta có thể khái niệm về hoàn thuế như sau:

Hoàn thuế là việc Ngân sách Nhà nước hoàn trả cho đối tượng nộp thuế

(ĐTNT) khoản thuế đã nộp theo những điều kiện đã quy định trong các Luật thuế.

1.2. Mục đích của hoàn thuế:

- Giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp là ĐTNT trong kinh

doanh: vốn luôn là vấn đề hết sức nóng bỏng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là

trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Để khuyến khích đầu tư và mở

rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước thực hiện hoàn thuế để tạo điều kiện

cho doanh nghiệp thu hồi được vốn đã ứng trước.

Ví dụ: trong Luật thuế GTGT có quy định đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới

đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong

giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu

tư từ một năm trở lên sẽ được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT

đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được

xét hoàn thuế theo từng quý.

- Trả lại số thuế do thay đổi tính chất của việc sử dụng hàng hoá: đối với loại

hàng hoá được sản xuất tại Việt Nam nhưng không được tiêu dùng trong nước mà

đem xuất khẩu, về mặt nguyên tắc thuế gián thu không điều tiết, do vậy được hoàn

toàn bộ số thuế đầu vào đã trả nằm trong những hàng hoá đó.

Đối với những loại hàng hoá được mua bằng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ

không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài thì được hoàn số thuế nằm

trong giá cả của hàng hoá đó, vì mục đích sử dụng những hàng hoá này mang tính

nhân đạo như cứu giúp đồng bào bị thiên tai, lũ lụt,..

- Thực hiện phát triển kinh tế theo định hướng của Nhà nước.

Ví dụ: nhằm khuyến khích phát triển lĩnh vực xuất khẩu, trong Luật thuế GTGT

Nhà nước quy định thuế suất bằng 0% đối với loại hàng hoá này, có nghĩa là thuế đầu

ra không những không phải đóng mà còn được hoàn lại toàn bộ số thuế đầu vào

nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh

tranh trên thị trường quốc tế.

Trong Luật thuế xuất nhập khẩu, Nhà nước cho phép hoàn thuế nhập khẩu cho

nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, hàng gia công cho nước ngoài.

Trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước thực hiện hoàn thuế cho các

nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận để tái đầu tư…

1.3. Các yêu cầu cần thiết của công tác hoàn thuế:

Để thực hiện hoàn thuế đảm bảo cho các mục đích nói trên thì cả cơ quan thuế

và ĐTNT phải chấp hành tốt các quy định trong công tác hoàn thuế. Nếu thực hiện

không tốt, một mặt sẽ không đáp ứng được các mục đích của hoàn thuế, mặt khác sẽ

gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế xã hội như:Nhà nước sẽ thất thoát

nguồn thu khi phải chi ra nhiều hơn số tiền hoàn thuế, doanh nghiệp không được trả

vốn kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh tạo đà cho các hành vi gian dối

của ĐTNT, hoặc là gây ra sự mất công bằng giữa các ĐTNT…Vì vậy, công tác hoàn

thuế phải được thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu sau:

1.3.1. Yêu cầu đối với đối tượng nộp thuế (ĐTNT):

- Thực hiện đúng, đầy đủ nội dung quy định của các Luật thuế. Đối với các

trường hợp thuộc diện được hoàn thuế thì phải lập hồ sơ xin hoàn thuế. Hồ sơ phải

được lập một cách đầy đủ, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực tình hình thực tế

kinh doanh của doanh nghiệp đúng như các căn cứ quy định. Các số liệu tự kê khai

trong hồ sơ phải bảo đảm tính chính xác, trung thực, mọi sai sót doanh nghiệp phải

hoàn toàn chịu trách nhiệm.

- Chấp hành đầy đủ các yêu cầu của cơ quan thuế và các cơ quan có thẩm quyền

trong quá trình thực hiện công tác hoàn thuế.

1.3.2. Yêu cầu đối với cơ quan thuế:

- Phải tiến hành kiểm tra, xem xét các trường hợp hoàn thuế một cách thận

trọng, kỹ lưỡng để tránh tình trạng ĐTNT làm sai quy định.

- Xem xét, tính toán xác định số thuế được hoàn theo từng trường hợp hoàn

thuế.

- Tiến hành hoàn thuế kịp thời, đảm bảo cho đối tượng nộp thuế khắc phục kịp

thời tình trạng khó khăn, đồng thời tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế kinh doanh

có hiệu quả hơn.

2. Thuế GTGT và hoàn thuế GTGT theo quy định hiện hành ở Việt Nam:

2.1. Một số vấn đề cơ bản về thuế GTGT:

2.1.1. Khái niệm, bản chất:

Thuế GTGT ở trong tiếng Pháp được gọi là Taxe Sur la Valeur Ajoutéc (TVA),

ở trong tiếng Anh thì được gọi là Value Added Tax (VAT). Nó có nguồn gốc từ thuế

doanh thu và được một người Đức tên là CARL FRIEDRICH VON SIEMENS

nghiên cứu đầu tiên và đưa ra vào năm 1918. Tuy nhiên trên thực tế thuế GTGT lại ra

đời đầu tiên tại Pháp và đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành

nguồn thu quan trọng của Chính Phủ nhiều nước. Nếu như vào giữa năm 1988 mới

chỉ có 47 nước áp dụng thuế GTGT thì đến tháng 7/1991 đã có tới 56 nước, và cho

đến hiện nay thì đã có trên 100 quốc gia đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế khoá của

nước mình. Tại Việt Nam, thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách

thuế bước 1 vào năm 1990, áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (trong các

ngành đường, dệt, xi măng,..), ban hành Luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11

Quốc hội khoá 9 (từ ngày 2/4 đến ngày 10/5/1997) và được áp dụng chính thức từ

ngày 1/1/1999.

Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ. Nó

được tính theo từng giai đoạn sản xuất đối với phần chênh lệch doanh thu của một doanh

nghiệp so với những gì mà doanh nghiệp đã mua của các doanh nghiệp khác, tức là đánh

vào giá trị tăng lên tại doanh nghiệp. Về thực chất, thuế GTGT là một loại thuế đánh vào

người tiêu dùng thông qua việc trả tiền mua hàng hoá, dịch vụ, người sản xuất kinh doanh

chỉ là người nộp thuế thay cho người tiêu dùng.

Như khái niệm đã được ghi trong Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 ngày

10/5/1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật VAT số 07/2003/QH11

ngày 17/6/2003 thì: " Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng

hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng".

Thuế GTGT ra đời đã khắc phục được việc đánh thuế trùng lắp của thuế doanh

thu. Vì chỉ tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ ở từng khâu bàn

hàng mà không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước cho nên cách tính

thuế GTGT là rất khoa học, rất cần thiết đối với phát triển sản xuất theo hướng Công

nghiệp hoá - Hiện đại hoá và phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta hiện

nay.

2.1.2. Đặc điểm cơ bản của thuế GTGT:

- Thuế GTGT là loại thuế gián thu, người nộp thuế là những cơ sở sản xuất kinh

doanh hàng hoá, dịch vụ, còn người chịu thuế là người sử dụng cuối cùng của hàng

hoá, dịch vụ đấy.

- Thuế GTGT là loại thuế đánh nhiều giai đoạn nhưng chỉ vào phần giá trị tăng

thêm của từng giai đoạn đó, tổng số thu của các giai đoạn ngang bằng với số thuế đầu

ra ở khâu cuối cùng (tiêu dùng).

- Thuế GTGT có tính trung lập cao bởi lẽ nó là khoản thu hộ cho Nhà nước ở

người mua hàng hoá, dịch vụ bằng cách cộng thêm vào giá bán hàng. Vì vậy, nó

thường được xây dựng với ít mức thuế suất, không có sự phân biệt phức tạp giữa

các loại hàng hoá, dịch vụ nên việc tính thuế cũng đơn giản hơn so với thuế doanh

thu.

- Thuế GTGT được thực hiện thống nhất và chặt chẽ theo nguyên tắc căn

cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để tính thuế. Vì vậy mà nó khuyến khích các cơ sở

sản xuất, kinh doanh khi mua hàng phài lấy hoá đơn và khi bán hàng thì phải xuất

hoá đơn theo đúng quy định, đó chính là sự kỷ luật của hoá đơn chứng từ.

- Thuế GTGT có thể đem lại số thu thường xuyên, ổn định cho Ngân sách

Nhà nước, nó có phạm vi rất rộng và thường được xây dựng căn cứ vào công dụng

vật chất của sản phẩm không phân biệt người mua và dùng vào mục đích gì. Nó có

đối tượng thu là toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh kể cả gia công, chế biến

và hoạt động dịch vụ có thu tiền, nó đánh vào các sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong

nước kể cả hàng hoá nhập khẩu. Phần lớn các nước áp dụng thuế GTGT thường

chiếm tỷ trọng lớn khoảng từ 20% đến 30% trong tổng số thu Ngân sách Nhà nước,

xấp xỉ 5% - 10% GDP.

- Thuế GTGT còn có một ưu điểm nữa là: các đối tượng nộp thuế tự động

kiểm soát lẫn nhau, mỗi đối tượng muốn khấu trừ số thuê GTGT trên số hàng mua,

và số thuế trên số hàng bán thì phải chứng minh số mua và số liên hệ. Vì vậy, mỗi

đối tượng nộp thuế phải cố kiểm soát xem những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho

mình có khai nộp đầy đủ thuế GTGT hay không bằng cách họ đòi cấp hoá đơn hoặc

biên nhận thu tiền có ghi thu số thuế GTGT liên hệ.

- Bên cạnh những ưu điểm kể trên thì thuế GTGT còn có những nhược

điểm như: việc hạch toán và quản lý thuế tương đối phức tạp, nhất thiết phải có hoá

đơn, chứng từ trong mua bán hàng hoá, dịch vụ, phải theo dõi thuế đầu ra, đầu vào,

khấu trừ hoặc thoái trả thuế.

- Một nhược điểm nữa là thuế GTGT có ít mức thuế suất nên người tiêu

dùng có thu nhập cao hay thấp vẫn phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ

thoái so với thu nhập cho nên thường thiếu công bằng. Tính chất này xuất phát từ quy

luật giảm dần của thiên hướng tiêu dùng. Khi thu nhập tăng lên thì tiêu dùng cũng

tăng lên nhưng tốc độ tăng của tiêu dùng sẽ chậm hơn tốc độ tăng của thu nhập.

Trong điều kiện đó tỉ suất thuế tiêu dùng trung bình so với thu nhập có xu hướng

giảm đi khi thu nhập tăng lên. Người có thu nhập cao sẽ có tỉ suất thuế tiêu dùng trên

tổng thu nhập càng nhỏ.

2.1.3. Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam:

2.1.3.1. Đối tượng nộp thuế:

Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu

thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh

(gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá,

mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là

đối tượng nộp thuế GTGT.

Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm:

- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật

doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước và Luật hợp tác xã.

- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp và các

tổ chức khác.

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp

tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các tổ chức, cá nhân nước

ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

- Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh

doanh khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu.

2.1.3.2. Đối tượng chịu thuế:

Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh

và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở

nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế (có 29 đối tượng không chịu thuế

GTGT được nêu tại mục II, phần A thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003

của Bộ tài chính).

2.1.3.3. Căn cứ tính thuế:

Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.

a) Giá tính thuế:

- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng

cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu

thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là giá bán đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế

GTGT.

- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế

nhập khẩu (nếu có), cộng thuế TTĐB (nếu có). Giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm

căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng

hoá nhập khẩu.

Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá

tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu xác định

theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn, giảm.

- Sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng hoặc để trả thay

lương thì giá tính thuế GTGT được xác định theo giá tính thuế của sản phẩm,

hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại cùng thời điểm phát sinh các

hoạt động này.

- Ngoài ra, giá tính thuế GTGT đối với một số trường hợp khác cũng được quy

định cụ thể ở trong Luật thuế GTGT.

b) Thuế suất:

Có 3 mức thuế suất:

- Thuế suất 0% (nhóm khuyến khích cao nhất): áp dụng đối với hàng hoá, dịch

vụ xuất khẩu, hoạt động xây dựng, lắp đặt các công trình ở nước ngoài và công trình

của doanh nghiệp chế xuất. Hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công

xuất khẩu; hàng hoá bán cho cửa hàng miễn thuế; hàng hoá, dịch vụ không thuộc

diện chịu thuế GTGT xuất khẩu (trừ dịch vụ du lịch lữ hành ra nước ngoài, dịch vụ

tái bản hiểm ra nước ngoài, dịch vụ tín dụng, đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán ra

nước ngoài và hàng hoá, dịch vụ quy định tại Điểm 23, Điểm 27, mục II phần A

Thông tư số 120/2003/TT-BTC).

Hàng hoá xuất khẩu bao gồm xuất khẩu ra nước ngoài kể cả uỷ thác xuất khẩu,

bán cho doanh nghiệp chế xuất và các trường hợp được coi là xuất khẩu theo quy

định của Chính phủ.

Dịch vụ xuất khẩu là dịch vụ được cung cấp trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở

nước ngoài và được tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu có đủ điều kiện: cơ sở

cung cấp dịch vụ phải có hợp đồng ký với người mua ở nước ngoài theo quy định của

Luật thương mại, người mua nước ngoài thanh toán tiền dịch vụ cho cơ sở cung cấp

dịch vụ tại Việt Nam.

Hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% phải có các hồ sơ, chứng từ

chứng minh là hàng thực tế đã xuất khẩu và thanh toán qua ngân hàng ( hợp đồng

kinh tế, tờ khai hải quan, thanh toán qua ngân hàng, hoá đơn GTGT).

- Thuế suất 5% (nhóm khuyến khích thứ hai):

+ Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt, phân bón, thiết bị máy móc và dụng

cụ chuyên dùng cho y tế, giáo cụ giảng dạy, đồ chơi trẻ em, thuốc chữa bệnh, in các

loại sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, các loại sách (trừ sách không

chịu thuế GTGT), băng từ và đĩa đã ghi hoặc chưa ghi chương trình, đường, đất, đá,

cát, sỏi, than, đá mài, khuôn đúc, vật liệu nổ, giấy in báo, hoá chất cơ bản, sản phẩm

cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), sắt, thép, nhôm thanh, máy xử lý dữ liệu, mủ cao su sơ

chế, nhựa thông sơ chế, sản phẩm bê tông công nghiệp,..

+ Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản chưa qua chế biến; thực

phẩm tươi sống, lương thực, lâm sản (trừ gỗ, măng) chưa qua chế biến ở khâu thương

mại, sản phẩm bằng đay, cói, tre, song, mây, nứa..Bông sơ chế từ bông trồng trong

nước (trừ bông nhập khẩu đã qua sơ chế), thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật

nuôi khác bao gồm các loại đã hoặc chưa được chế biến tổng hợp…

+ Dịch vụ khoa học và công nghệ bao gồm các hoạt động ứng dụng, hướng dẫn

về khoa học, kỹ thuật; dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, dịch vụ vận

tải, bốc xếp, nạo vét cảng sông, biển; dịch vụ duy tu, sửa chữa, phục chế di tích lịch

sử, văn hoá, bảo tàng; dịch vụ phát hành và chiếu phim video…

- Thuế suất 10% (mức thuế tiêu chuẩn):

Bao gồm các loại hang hoá, dịch vụ khác không quy định ở nhóm thuế suất 0%

và 5% hay trường hợp miễn thuế (từ 1/1/2004 bổ sung nhóm thuế suất 10%). Hàng

hoá chịu thuế TTĐB, xây dựng, lắp đặt, cho thuê hạ tầng.

2.1.3.4. Phương pháp tính thuế GTGT:

a) Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:

* Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là:

- Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam

- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình

thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều

kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ

thuế (nhà thầu nước ngoài nộp thuế theo thông tư 169 và thông tư 05 thuế nhà thầu

nước ngoài)

* Xác định thuế GTGT phải nộp:

= Số thuế GTGT phải nộp GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá đó

= - Giá vốn của hàng hoá dịch vụ bán ra GTGT của hàng hoá dịch vụ Doanh số của hàng hoá dịch vụ bán ra

Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau:

- Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa

doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất,

kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật

tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì xác định

như sau:

Giá vốn hàng bán ra = Doanh số đầu kỳ + Doanh số tồn đầu kỳ + Doanh số mua

trong kỳ - Doanh số tồn cuối kỳ

- Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt

công trình, hạng mục công trình - Chi phí vật tư, nguyên liệu, chi phí động lực, vận

tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt

công trình, hạng mục công trình.

- Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp -

chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động

vận tải.

Ngoài ra còn một số hoạt động khác được nêu cụ thể ở trong Luật thuế GTGT.

b) Phương pháp khấu trừ thuế:

* Đối tượng áp dụng:

- Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh

nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính

thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT ở trên

- Một số đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp như nhà

thầu nước ngoài có thể chuyển sang áp dụng phương pháp khấu trừ nếu:

+ Có đầy đủ hoá đon, chứng từ

+ Ghi chép hạch toán sổ kế toán đúng chế độ kế toán Việt Nam

+ Kê khai nộp thuế GTGT đúng chế độ

Ngược lại, các công ty không tuân thủ đúng các điều kiện trên sẽ phải nộp thuế

theo phương pháp trực tiếp

 Xác định thuế GTGT phải nộp:

Thuế GTGT = Số thuế GTGT phải nộp đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ

Thuế GTGT x đầu ra = Giá bán chưa có thuê Thuế suất thuế GTGT

- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ

thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ

bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán

chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá

đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT

của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ

- Thuế GTGT đầu vào = tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua

hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng

hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng

hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng

dẫn của Bộ tài chính áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động

kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam.

- Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ đặc thù ghi

giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và

phương pháp tính nêu tại Điểm 14, Mục I, phần B của thông tư số 120/2003/TT-BTC

để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.

- Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ

dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT.

- Đối với hàng hoá, dịch vụ sử dụng chung cho sản xuất, kinh doanh hàng

hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng cơ sở không hạch toán riêng

được thuế đầu vào được khấu trừ, thì thuế đầu vào được tính khấu trừ theo tỷ lệ %

doanh số của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hoá

dịch vụ bán ra.

- Thời gian khấu trừ thuế đầu vào: ngay trong tháng phát sinh và tháng kế tiếp

chậm nhất không quá 3 tháng kể từ thời điểm kê khai.

2.1.4. Tác dụng của thuế GTGT:

Mở đầu cho tiến trình cải cách thuế bước 2, Nhà nước ta đã chọn Luật thuế

GTGT để thay thế cho thuế doanh thu. Thuế GTGT được áp dụng đã phát huy được

tác dụng đối với nền kinh tế nói chung và các cơ sở kinh doanh nói riêng. Đồng thời,

thuế GTGT có tác dụng rất lớn đối với phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp

hoá - hiện đại hoá, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện rất

rõ qua các tác dụng sau:

- Thuế GTGT chỉ tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở

từng khâu từ sản xuất, kinh doanh cho đến tiêu dùng nên nó đã khắc phục được việc

thu thuế trùng lắp của thuế doanh thu, từ đó góp phần khuyến khích chuyên môn hoá

để nâng cao sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cũng do

chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm mà không tính vào vốn nên thuế GTGT đã góp

phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn để đầu tư phát triển sản xuất, phù hợp

với định hướng phát triển kinh tế ở nước ta.

- Với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau sẽ được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu

trước, thuế GTGT đã góp phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi

chép hoá đơn. Từ đó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, thúc đẩy các cơ sở sản

xuất kinh doanh thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ nhằm tăng cường công tác

hạch toán, nâng cao tính tự giác của đối tượng kinh doanh.

- Thuế GTGT cũng góp phần khuyến khích việc sản xuất hàng xuất khẩu vì Nhà

nước đã quy định hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất thuế GTGT là 0%, tức là không

những không phải chịu thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả lại toàn

bộ số thuế GTGT đã thu ở các khâu trước.

- Ngoài ra, thuế GTGT còn góp phần làm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế

của nước ta, làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước, thúc đẩy mở rộng hợp tác kinh tế

với các nước trong khu vực và trên thế giới.

2.2. Hoàn thuế GTGT và sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT ở

nước ta hiện nay:

2.2.1. Hoàn thuế GTGT:

2.2.1.1. Khái niệm:

Hoàn thuế GTGT là việc Ngân sách Nhà nước trả lại cho đối tượng nộp thuế số

tiền thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hoá, dịch vụ mà đối tượng nộp thuế

chưa được khấu trừ trong kỳ tính thuế.

Về nguyên tắc, khi phát sinh số thuế GTGT được khấu trừ, Nhà nước phải khấu

trừ đầy đủ, kịp thời cho đối tượng nộp thuế. Nếu khấu trừ không hết thì phải hoàn lại

cho người nộp thuế nhưng để thuận lợi cho đối tượng nộp thuế trong kinh doanh, đơn

giản cho quản lý thu nộp thuế, quản lý Ngân sách Nhà nước, Nhà nước hoàn lại số

thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết cho đối tượng nộp thuế theo các điều kiện do

pháp luật quy định.

2.2.1.2. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT:

1/ Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế

được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:

a) Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế

toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết.

Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin

hoàn thuế. Trường hợp này áp dụng cho cả cơ sở kinh doanh có đầu tư mới, đầu tư

chiều sâu.

Ví dụ: Doanh nghiệp A kê khai thuế GTGT có số thuế GTGT đầu vào, đầu ra

như sau:

Đơn vị tính: Triệu đồng

Thuế đầu vào Thuế đầu ra Luỹ kế số thuế Tháng kê khai được khấu trừ phát sinh trong Thuế phải nộp đầu vào chưa thuế trong tháng tháng khấu trừ

Tháng 12/2000 200 100 -100 -100

Tháng 1/2001 300 350 +50 -50

Tháng 2/2001 300 200 -100 -150

Theo ví dụ trên, doanh nghiệp A luỹ kế 3 tháng liên tục có số thuế đầu vào lớn

hơn thuế đầu ra. Doanh nghiệp A thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT với số thuế

là 150 triệu đồng.

b) Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số

thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu

trừ là 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Trường hợp trong

tháng thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết bao gồm cả thuế đầu vào của hàng

hoá, dịch vụ bán trong nước thì cũng được tính vào số thuế được hoàn trong tháng.

Đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu, đối

tượng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất

khẩu. đối với trường hợp gia công uỷ thác thì đối tượng được hoàn thuế là cơ sở trực

tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu.

2/ Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng kí kinh doanh, đăng ký nộp

thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt

động, chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét

hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuê GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được

hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế từng quý.

3/ Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp

khấu trừ thuế có dự án đầu tư của cơ sở sản xuất đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi

vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, có số thuế GTGT của

hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho dự án đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên được xét hoàn

thuế theo quý. Cơ sở kinh doanh phải kê khai, lập hồ sơ hoàn thuế riêng cho dự án

đầu tư.

Khi dự án đầu tư thành lập doanh nghiệp mới đã hoàn thành và hoàn tất các

thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ sở kinh doanh là chủ dự án đầu

tư phải tổng hợp số thuế GTGT phát sinh, số thuế GTGT đã hoàn, số thuế GTGT

chưa được hoàn của dự án để bàn giao cho doanh nghiệp mới thành lập để doanh

nghiệp mới thực hiện kê khai, nộp thuế và đề nghị hoàn thuế GTGT theo quy định

với cơ quan thuế quản lý trực tiếp.

4/ Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải

thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu; giao, bán khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước

có thuế GTGT nộp thừa, số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.

5/ Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm

quyền theo quy định của pháp luật.

6/ Việc hoàn thuế đã trả đối với các dự án sử dụng vốn ODA như sau:

- Chủ dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, dự án sử dụng vốn ODA vay

hoặc vốn ODA hỗn hợp thuộc đối tượng được ngân sách Nhà nước đầu tư không

hoàn trả toàn bộ hoặc một phần được hoàn thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua

vào sử dụng cho dự án. Số thuế GTGT được hoàn là số thuế GTGT ghi trên hoá đơn

GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào.

- Trường hợp chủ dự án nêu trên không được Ngân sách Nhà nước bố trí

vốn đối ứng để thanh toán tiền thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng

cho dự án; chủ dự án giao thầu cho các nhà thầu chính thuộc đối tượng nộp thuế

GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế cung cấp các hàng hoá, dịch vụ theo giá

không có thuế GTGT, thì nhà thầu chính được tính khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu

vào của hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho dự án.

- Các chủ dự án dử dụng nguồn vốn ODA thuộc đối tượng được hoàn thuế,

phải ghi tăng vốn Ngân sách cấp cho dự án số tiền thuế GTGT đã được hoàn. Khi

tính kế hoạch vốn đối ứng hàng năm cho dự án không phải tính kế hoạch vốn đối ứng

để nộp thuế GTGT.

Trường hợp các chủ dự án được Ngân sách bố trí vốn đối ứng để thanh

toán cho nhà thầu theo giá có thuế GTGT, thì các nhà thầu khi bán hàng hoá, dịch vụ

cho dự án phải tính thuế và kê khai nộp thuế GTGT theo đúng quy định.

Trường hợp chủ dự án thuộc đối tượng được hoàn thuế không phải là cơ sở

kinh doanh, không có chứng nhận đăng ký kinh doanh thì chỉ được hoàn thuế khi có

quyết định thành lập Ban quản lý dự án và chủ dự án uỷ quyền cho Ban quản lý dự án

làm thủ tục hoàn thuế.

7/ Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn

lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại Việt Nam để viện trợ thì

được hoàn lại tiền thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng.

Các cơ sở kinh doanh, tổ chức thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT phải

là những đối tượng đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (giấy phép đầu

tư), có con dấu, lưu giữ sổ sách, chứng từ kế toán theo chế độ quy định và có tài

khoản tiền gửi tại ngân hàng.

Các trường hợp cơ sở kinh doanh đã lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế thì không

được kết chuyển số thuế đầu vào đã đề nghị hoàn thuế vào số thuế được khấu trừ của

tháng tiếp sau thời gian đã lập hồ sơ hoàn thuế.

Trường hợp tháng trước thời gian xin hoàn thuế cơ sở có số thuế GTGT

nộp thừa thì cơ sở được tính cộng thuế GTGT nộp thừa vào số thuế GTGT đề nghị

hoàn trong kỳ, trường hợp cơ sở có số thuế nộp thiếu thì phải nộp đủ số thuế còn

thiếu vào Ngân sách trước khi được hoàn thuế.

8/ Đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo Pháp lệnh về ưu

đãi miễn trừ ngoại giao mua hàng hoá, dịch vụ tại Việt Nam được hoàn lại số thuế

GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT. Cơ sở kinh doanh tại Việt Nam bán hàng hoá,

dịch vụ cho các đối tượng này khi lập hoá đơn GTGT vẫn phải tính thuế GTGT. Đối

tượng, hàng hoá, dịch vụ, thủ tục hồ sơ hoàn thuế cho trường hợp này theo hướng

dẫn tại Thông tư số 08/2003/TT-BTC ngày 15/1/2003.

2.2.1.3. Quy trình hoàn thuế GTGT:

* Bước 1: Đối tượng nộp thuế lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Hồ sơ bao

gồm:

1/ Đối với các đối tượng tại mục 1a, 2, 3 như đã nêu ở phần 2.2.1.2:

- Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị

hoàn, thời gian hoàn (theo mẫu số 10/GTGT ban hành kèm theo thông tư số

120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003)

- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu

trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại.

- Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác

định thuế GTGT đầu vào, đầu ra (mẫu số 02/GTGT, 03/GTGT). Riêng đối với hàng

hoá, dịch vụ mua vào có sử dụng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có

thuế GTGT thì sử dụng bảng kê mẫu số 05/GTGT.

Trường hợp việc kê khai thuế hàng tháng đã đầy đủ và chính xác, phù hợp với

bảng kê khai tổng hợp, cơ sở không phải nộp bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào,

bán ra các tháng đề nghị hoàn thuế. Trường hợp có điều chỉnh thuế GTGT đầu vào

được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra của các tháng trong thời gian hoàn thuế thì cơ sở

phải kê khai số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra phát sinh từng

tháng trong thời gian hoàn thuế, số thuế điều chỉnh phải giải trình rõ lý do.

2/ a) Đối với các trường hợp quy định tại mục 1b của phần 2.2.1.2:

- Các hồ sơ như đã nêu tại phần 1 ở trên

- Biên bản thanh lý hợp đồng uỷ thác xuất khẩu hoặc uỷ thác gia công hàng

xuất khẩu (trường hợp đã kết thúc hợp đồng) hoặc Biên bản đối chiếu công nợ định

kỳ giữa bên uỷ thác xuất khẩu và bên nhận uỷ thác xuất khẩu (đối với trường hợp uỷ

thác xuất khẩu hoặc uỷ thác gia công xuất khẩu)

- Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở. Bảng kê ghi rõ:

+ Số, ngày tờ khai xuất khẩu của hàng hoá xuất khẩu (trường hợp uỷ thác xuất

khẩu phải ghi số, ngày tờ khai xuất khẩu của cơ sở nhận uỷ thác)

+ Số, ngày hợp đồng xuất khẩu hoặc số, ngày hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, uỷ

thác gia công đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác gia công xuất khẩu.

+ Hình thức thanh toán, số, ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hoá,

dịch vụ xuất khẩu.

b) Đối với trường hợp hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu thanh toán bằng hàng:

- Các hồ sơ như đã nêu tại phần 1 ở trên

- Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở:

+ Số, ngày hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ký với phía nước ngoài

+ Số, ngày hợp đồng mua hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ của phía nước ngoài

(gọi tắt là hợp đồng nhập khẩu) thanh toán bù trừ với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.

+ Số, ngày Tờ khai xuất khẩu của hàng hoá xuất khẩu.

+ Số, ngày Tờ khai nhập khẩu của hàng hoá nhập khẩu mua của phía nước

ngoài thanh toán bù trừ với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.

+ Số, ngày văn bản xác nhận với phía nước ngoài về số tiền thanh toán bù trừ

giữa hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu với hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ mua của phía

nước ngoài.

Trường hợp sau khi thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu

và giá trị hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu có chênh lệch, số tiền chênh lệch phải thực

hiện thanh toán qua ngân hàng, cơ sở kinh doanh phải kê trong Bảng kê kèm theo về

số, ngày, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, số tiền thanh toán.

c) Đối với trường hợp hàng hoá xuất khẩu tại chỗ:

- Các hồ sơ đã nêu tại phần 1 ở trên

- Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở:

+ Số, ngày Hợp đồng xuất khẩu tại chỗ ký với phía nước ngoài

+ Số, ngày tờ khai hải quan hàng hoá xuất - nhập khẩu tại chỗ.

+ Số, ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu tại chỗ qua

ngân hàng.

3/ Đối với các cơ sở kinh doanh khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá

sản có thuế GTGT nộp thừa:

- Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nộp thừa vào Ngân sách Nhà nước.

- Quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu;

giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước của cấp có thẩm quyền.

- Quyết toán thuế GTGT đến thời điểm sáp nhập, giải thể, phá sản, chuyển đổi

sở hữu; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước.

4/ Đối với các dự án sử dụng vốn ODA:

- Các hồ sơ như đã nêu tại phần 1 ở trên [riêng các chủ dự án đầu tư được hoàn

thuế thì bảng kê khai tổng hợp chỉ tổng hợp thuế đầu vào được hoàn; Bảng kê hoá

đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào theo mẫu số 03/GTGT và 05/GTGT (đối với hàng

hoá, dịch vụ mua vào sử dụng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế

GTGT) ] và gửi bổ sung cho cơ quan thuế (gửi lần đầu)

- Quyết định đầu tư của cơ quan có thẩm quyền (bản sao có xác nhận của cơ sở)

- Xác nhận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về dự án sử dụng nguồn

vốn ODA không hoàn lại (hoặc sử dụng nguồn vốn ODA vay thuộc diện được Ngân

sách Nhà nước đầu tư không hoàn trả) thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT (bản

sao có xác nhận của cơ sở)

Trường hợp hoàn thuế cho nhà thầu chính, nhà thầu chính phải gửi bổ sung

thêm văn bản xác nhận của chủ dự án về việc dự án không được Ngân sách Nhà nước

bố trí vốn đối ứng để thanh toán cho nhà thầu theo giá có thuế GTGT, giá thanh toán

theo kết quả thầu không có thuế GTGT và đề nghị hoàn thuế cho nhà thầu chính.

Đối với dự án sử dụng vốn ODA vay ưu đãi được Ngân sách Nhà nước cấp

phát, hồ sơ hoàn thuế cho nhà thầu chính phải có xác nhận hoàn thuế GTGT của chủ

dự án như hướng dẫn tại công văn số 06 - TC/TCT ngày 2/1/2004 của Bộ tài chính.

* Riêng đối với các dự án sử dụng vốn ODA:

- Thời hạn kê khai để hoàn thuế GTGT: Hàng tháng, chủ dự án hoặc nhà thầu

chính thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT phải kê khai khoản thuế GTGT của

hàng hoá, dịch vụ mua vào phục vụ cho việc thực hiện các dự án ODA hoặc phục vụ

cho việc thực hiện hợp đồng đã ký giữa chủ dự án và nhà thầu chính. Trường hợp hoá

đơn GTGT, chứng từ nộp thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát

sinh trong tháng nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai vào các tháng

tiếp theo sau, thời gian tối đa là 3 tháng kể từ thời điểm kê khai của tháng phát sinh.

Các hoá đơn, chứng từ nộp thuế GTGT khai chậm sẽ không được hoàn thuế GTGT

mà tính vào chi phí đầu tư của dự án hoặc chi phí kinh doanh của nhà thầu.

- Trường hợp chủ dự án đã được cấp vốn đối ứng để trả thuế GTGT thì chủ dự

án không được hoàn thuế GTGT. Trường hợp đã được cấp vốn đối ứng để trả thuế

GTGT nhưng đã làm thủ tục và đã được hoàn thuế GTGT thì chủ dự án phải nộp lại

Ngân sách Nhà nước số thuế GTGT đã được hoàn theo hướng dẫn tại Thông tư số

42/2001/TT-BTC ngày 12/6/2001. Cơ quan thuế khi kiểm tra xác định số thuế GTGT

được hoàn của chủ dự án phải kiểm tra việc Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho chủ dự

án căn cứ theo Xác nhận của Kho bạc Nhà nước.

Các cục thuế địa phương gửi danh sách các chủ dự án, nhà thầu chính đã được

hoàn thuế GTGT tới Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước trung ương.

Căn cứ danh sách đối tượng được hoàn thuế GTGT, cơ quan Kho bạc rà soát, đối

chiếu và xác định số thuế GTGT chủ dự án phải nộp lại NSNN, đồng thời phối hợp

với các cơ quan có liên quan yêu cầu chủ dự án nôp lại NSNN như hướng dẫn tại

Thông tư số 42/2001/TT-BTC.

- Đối với dự án ODA vay được NSNN cấp phát, khi ban hành quyết định hoàn

thuế GTGT, Cục thuế phải gửi thêm 1 bản Quyết định hoàn thuế GTGT đối với dự án

(kể cả trường hợp hoàn thuế GTGT cho nhà thầu chính) cho chủ dự án và Bộ tài

chính (Vụ đầu tư) để thực hiện ghi tăng vốn đầu tư cho dự án.

5/ Đối với trường hợp quy định tại mục 7 phần 2.2.1.2:

- Các hồ sơ đã nêu tại phần 1 ở trên, trong đó bảng kê khai tổng hợp chỉ tổng

hợp thuế GTGT đầu vào được hoàn, Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dich vụ mua vào

theo mẫu số 03/GTGT; 05/GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng chứng

từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT)

- Bản sao quyết định phê duyệt các khoản viện trợ của cấp có thẩm quyền (Thủ

tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND,..) theo quy định tại điều 5 quyết định

số 28/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (bản sao có xác nhận của cơ sở)

- Văn bản xác nhận của Ban quản lý tiếp nhận viện trợ Bộ tài chính về khoản

tiền viện trợ của tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, trong đó nêu rõ tên của tổ chức

viện trợ, giá trị khoản viện trợ, cơ quan tiếp nhận, quản lý tiền viện trợ (bản sao có

xác nhận của cơ sở).

* Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ:

- Phòng hành chính tiếp nhận hồ sơ và ghi sổ, đóng dấu theo quy định

- Sau đó chuyển hồ sơ về phòng quản lý thu.

* Bước 3: Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn:

a) Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra hồ sơ. Cụ thể như sau:

- Hồ sơ hoàn thuế đã đầy đủ theo quy định chưa?

- Các chỉ tiêu trong hồ sơ đã ghi đầy đủ và chính xác hay chưa?

- Đối tượng nộp thuế và trường hợp ghi trong hồ sơ hoàn thuế có đúng với đối

tượng và trường hợp được hoàn hay không?

Nếu phát hiện hồ sơ không đầy đủ hoặc thiếu chính xác, cán bộ phòng quản lý

thu thông báo lại cho ĐTNT để sửa đổi, bổ sung.

b) Kiểm tra, xác định số thuế hoàn trả:

- Đối với các trường hợp đề nghị hoàn thuế có đầy đủ hồ sơ với đầy đủ các căn

cứ pháp lý, phòng quản lý thu xác định số thuế được hoàn dựa trên các tài liệu sau:

+ Kiểm tra, đối chiếu số liệu đề nghị hoàn thuế với các chi tiết gửi kèm theo hồ

sơ.

+ Đối chiếu số liệu trong hồ sơ với số liệu cơ quan thuế đang quản lý về các chỉ

tiêu kê khai thuế tháng có liên quan, số thuế đã nộp, số thuế còn phải nộp.

+ Kiểm tra, tính toán cụ thể số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trong đó

phân tích mối quan hệ doanh thu hàng xuất khẩu với tiêu thụ trong nước, thuế GTGT

đã nộp khi nhập khẩu vật tư hàng hoá, thuế GTGT đã nộp của tài sản đầu tư.

Trường hợp thật cần thiết phải kiểm tra tại cơ sở để xác minh thêm căn cứ xác

định số thuế hoàn thì phòng quản lý thu phải báo cáo với lãnh đạo duyệt kế hoạch

kiểm tra trực tiếp tại cơ sở.

+ Sau khi phòng quản lý thu kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn, cán bộ

chuyển hồ sơ về phòng nghiệp vụ chính sách thuế để giám sát và góp ý vào từng hồ

sơ hoàn thuế trước khi trình lãnh đạo duyệt.

Đối với trường hợp hoàn thuế lớn, phức tạp, thời gian khấu trừ kéo dài thì

phòng quản lý thu chuyển hồ sơ sang cho phòng thanh tra xử lý tố tụng thực hiện.

Trong quá trình xem xét giải quyết hồ sơ hoàn thuế, các phòng quản lý thu,

phòng nghiệp vụ, phòng thanh tra xử lý tố tụng,.. có thể khai thác thông tin từ hệ

thống máy tính để tham khảo trong từng trường hợp như:

+ ĐTNT có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra liên tục trong 3 tháng trở

lên.

+ ĐTNT có số thuế khấu trừ đầu vào nhưng không có số thuế phát sinh đầu ra.

+ ĐTNT có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra.

+ ĐTNT có số thuế sẽ được hoàn sau quyết toán.

Sau khi kiểm tra, xác định số thuế được hoàn, phòng quản lý thu lập phiếu trình

lãnh đạo về hoàn thuế với nội dung như sau:

+ Hoàn cho đối tượng nào

+ Số thuế đơn vị đề nghị hoàn

+ Số thuế hoàn trả đơn vị theo kết quả kiểm tra

c) Dự thảo quyết định kèm theo phiếu trình lãnh đạo cục thuế.

* Bước 4: Lãnh đạo duyệt:

Lãnh đạo cục xem xét, duyệt các trường hợp được hoàn thuế và kí quyết định

hoàn thuế. Quyết định này được chuyển cho phòng hành chính.

* Bước 5: Gửi và lưu các quyết định hoàn thuế:

Phòng hành chính sao quyết định hoàn thuế thành 3 bản và đóng dấu lấy số

công văn:

- 01 bản gửi cho ĐTNT

- 01 bản gửi cho Kho bạc tỉnh

- 01 bản gửi cho phòng quản lý thu

Thời hạn giải quyết hoàn thuế đối với đối tượng áp dụng hoàn thuế trước, kiểm

tra sau tối đa là 15 ngày (03 ngày đối với các trường hợp hoàn thuế GTGT cho các

dự án sử dụng vốn ODA) kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ theo quy định.

Thời hạn giải quyết hoàn thuế đối với đối tượng áp dụng kiểm tra, thanh tra

tại cơ sở trước khi hoàn thuế tối đa là 60 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ

theo quy định.

* Bước 6: Lập danh sách đối tượng được hoàn thuế:

Cuối tháng, phòng quản lý thu căn cứ vào quyết định hoàn thuế để lập danh

sách kết quả hoàn thuế cho phòng máy tính để điều chỉnh số thuế phải nộp trong kỳ

của đối tượng được hoàn, và ra thông báo nộp thuế cho đối tượng nộp thuế.

* Bước 7: Kho bạc hoàn thuế:

Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận quyết định hoàn thuế, Kho bạc thực hiện

thủ tục hoàn thuế, lập chứng từ hoàn thuế và gửi 01 liên cho cơ quan thuế.

* Bước 8: Nhập chứng từ hoàn thuế:

- Phòng máy tính nhận và nhập chứng từ hoàn thuế từ Kho bạc chuyển sang,

lưu chứng từ tại phòng, hạch toán riêng số thuế đã hoàn theo quyết định hoàn thuế, số

thuế đã hoàn theo chứng từ. Đến cuối tháng tổng hợp báo cáo "số thuế đã hoàn" gửi

lên cấp trên.

* Bước 9: Kiểm tra sau khi có quyết định hoàn thuế:

Sau khi cơ sở kinh doanh đã có quyết định hoàn thuế, cơ quan thuế tiến hành

kiểm tra tại cơ sở. Sau khi kiểm tra nếu phát hiện có sự sai phạm trong việc lập hồ sơ

đề nghị xin hoàn thuế thì giải quyết như sau:

a) Trường hợp 1: Số thuế thực được hoàn nhỏ hơn số thuế đã hoàn thì ĐTNT

ngoài việc phải hoàn trả NSNN số tiền thuế kê khai sai, còn bị xử phạt theo quy định

theo trình tự xử lý như sau:

- Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày phát hiện sai phạm, Cục trưởng Cục thuế ra

quyết định thu hồi số tiền thuế GTGT đã hoàn lớn hơn số thuế GTGT được hoàn vào

NSNN.

- Trường hợp ĐTNT có hồ sơ xin hoàn thuế kỳ tiếp theo thì xử lý bù trừ vào số

thuế được hoàn trong kỳ. Nếu bù trừ không hết số tiền phải thu hồi thì ĐTNT phải

nộp số còn lại vào Kho bạc Nhà nước.

b) Trường hợp 2: Số thuế được hoàn lớn hơn số thuế đã hoàn thì Cục trưởng

Cục thuế ra quyết định hoàn ngay số còn thiếu cho ĐTNT.

2.2.1.4. Tác dụng của công tác hoàn thuế GTGT:

Luật thuế GTGT được áp dụng đã phát huy được tính tự giác cao của các doanh

nghiệp bởi vì thuế GTGT yêu cầu các đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính thuế theo

đúng quy định. Đặc biệt, các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các chế độ hoá đơn,

chứng từ ghi rõ số thuế GTGT đầu vào, đầu ra để cơ quan có thẩm quyền làm căn cứ

xét hoàn thuế cho mình. Khi nền kinh tế có sự chuyển đổi thì việc xét hoàn thuế

GTGT đã có tác dụng lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn

khi kinh doanh không đạt hiệu quả như mong muốn.

Cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải rất năng động trong kinh

doanh, tuy nhiên việc gặp khó khăn trong kinh doanh là điều không thể tránh khỏi.

Chính vì vậy, việc hoàn thuế đã đóng góp một phần nhất định tạo điều kiện về tài

chính khi các doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn.

Bên cạnh đó, nếu các cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số

thuế đầu vào của tài sản đầu tư đã tính khấu trừ sau 3 tháng mà số thuế chưa được

khấu trừ vẫn lớn hơn số thuế đã được khấu trừ thì được xét hoàn lại số thuế chưa

được khấu trừ. Việc quy định như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh

doanh trong quá trình đầu tư, mở rộng sản xuất, từ đó khuyến khích họ đầu tư mở

rộng sản xuất phát triển.

Việc hoàn thuế GTGT còn góp phần khuyến khích xuất khẩu. Điều này được

thể hiện như sau: Hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất thuế GTGT là 0% (tức là

hoàn thuế đầu vào). Việc thực hiện hoàn thuế này đã góp phần cho các doanh nghiệp

có điều kiện thuận lợi để cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Ngoài ra,

việc hoàn thuế GTGT còn thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ hoá

đơn, chứng từ, sổ sách kế toán, phần nào khuyến khích các doanh nghiệp tự giác

trong việc tự kê khai, tự tính thuế, nâng cao ý thức của các doanh nghiệp, buộc họ

phải thực hiện đúng quy trình thì mới được cơ quan có thẩm quyền xét hoàn thuế.

Nói tóm lại, việc hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp đã tạo được rất nhiều

thuận lợi trong quá trình kinh doanh, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, khuyến

khích xuất khẩu hàng hoá, tạo được thế mạnh trên thị trường thế giới và thúc đẩy việc

mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hiện nay,

nhất là trong điều kiện chúng ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới.

2.2.1.5. Yêu cầu của công tác hoàn thuế GTGT:

Để công tác hoàn thuế được thực hiện theo đúng quy định, phát huy tối đa các

tác dụng của mình thì việc hoàn thuế GTGT phải được thực hiện theo đúng các yêu

cầu cơ bản sau:

- Đối tượng nộp thuế phải tự giác trong việc tự kê khai, tự tính thuế, nâng cao ý

thức của mình để làm sao đảm bảo hồ sơ hoàn thuế chính xác, đúng căn cứ và đúng

quy định.

- Cơ quan có thẩm quyền hoàn thuế phải thận trọng xem xét các vấn đề như:

hoá đơn, chứng từ; nếu có sự sai sót phải yêu cầu các đối tượng nộp thuế giải trình,

bổ sung, hoàn thiện đầy đủ theo đúng yêu cầu đã quy định; nếu không có vấn đề gì

sai sót thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành thực hiện hoàn thuế cho đối tượng theo

đúng quy trình hoàn thuế GTGT.

- Quá trình thực hiện hoàn thuế phải đảm bảo theo đúng quy trình, có như vậy

công tác hoàn thuế GTGT mới bảo đảm chính xác, đúng yêu cầu và tránh được tình

trạng gian lận trong việc lợi dụng hoàn thuế để chiếm đoạt tiền của Nhà nước.

2.2.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT ở nước ta hiện nay:

Từ tác dụng của công tác hoàn thuế GTGT ta thấy rằng việc hoàn thuế khi thực

hiện đúng sẽ phát huy tính tích cực của Luật thuế, tạo nguồn thu lớn cho Ngân sách

Nhà nước…Nhưng ngược lại, nếu việc hoàn thuế không thực hiện đúng sẽ gây tổn

thất cho Ngân sách Nhà nước, làm cho Nhà nước mất nguồn thu và ý thức tự giác của

doanh nghiệp cũng không được nâng cao. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác hoàn thuế

GTGT ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết.

2.2.2.1. Hoàn thuế kịp thời tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn về vốn kinh doanh

cho các doanh nghiệp:

Ta biết rằng tiền có giá trị về mặt thời gian, giá trị của một đồng tiền ngày hôm

nay sẽ khác so với giá trị của một đồng tiền vào ngày mai. Giá trị này tăng lên hay

giảm đi là phụ thuộc vào cách sử dụng của người cầm nó. Trở lại với thuế GTGT,

thuế GTGT được xác định bằng thuế GTGT đầu ra trừ đi thuế GTGT đầu vào. Tuy

nhiên do rất nhiều nguyên nhân (như đã trình bày ở trên) mà dẫn đến thuế âm, nghĩa

là số thuế mà doanh nghiệp đáng lẽ phải nộp nhỏ hơn số thuế mà doanh nghiệp đã

thực nộp (trong kỳ hay tháng đó), như vậy là số thuế âm đó sẽ nằm "chết" trong Kho

bạc, trong khi nhu cầu về vốn đối với các doanh nghiệp luôn luôn là vấn đề nóng

bỏng. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để giải quyết hoàn thuế "kịp thời"

nhằm tăng cường hiệu quả của việc sử dụng vốn. Hiện nay, tốc độ hoàn thuế đã có

những bước tiến triển nhanh hơn so với những năm đầu thực hiện nhưng nhìn chung

các doanh nghiệp vẫn còn "phàn nàn" về việc kéo dài thời gian hoàn thuế so với quy

định. Khách quan mà nói nguyên nhân thuộc về chính các doanh nghiệp cũng nhiều

nhưng những nguyên nhân thuộc về cơ quan thuế cũng không ít.

2.2.2.2. Việc tính thuế GTGT theo phương pháp gián tiếp là dựa vào hoá đơn,

chứng từ:

Hoá đơn, chứng từ là bằng chứng của một nghiệp vụ kinh doanh và là căn

cứ đối với nhiệm vụ tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế. Do vậy, việc tính thuế GTGT

dựa vào hoá đơn, chứng từ nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần thúc đẩy các cơ sở sản

xuất kinh doanh thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá và

cung ứng dịch vụ thu tiền, tăng cường công tác hạch toán, nâng cao ý thức tự giác

trong việc tự kê khai, tự tính thuế,..Hơn nữa, nó cho phép cơ quan thuế cũng như các

cơ quan hữu quan thuận lợi trong quá trình theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động

kinh tế của các doanh nghiệp, từ đó có nhận định đúng về nền kinh tế, kịp thời đưa ra

những giải pháp nhằm đẩy nhanh công cuộc CNH-HĐH đất nước.

Tuy nhiên, nếu thực hiện không tốt không những sẽ làm thất thoát tiền của Nhà

nước mà còn tạo động cơ cho các doanh nghiệp lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng

từ gian dối, đi lệch hướng với mục đích của hoàn thuế. Hiện nay, việc sử dụng hoá

đơn, chứng từ không hợp pháp để kê khai hoàn thuế GTGT là hiện tượng khá phổ

biến: Rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách hoàn thuế dùng hoá đơn mua hàng

về tẩy xoá ghi giá trị hàng hoá số tiền cao hơn thực tế hàng mua vào, mua hoá đơn

trắng về lập hoá đơn mua hàng để được khấu trừ hoàn thuế, lập hoá đơn khống thông

đồng với đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế, đây là loại hoá đơn bất hợp pháp rất

khó phát hiện…

2.2.2.3. Xuất phát từ thực trạng lợi dụng quy định hoàn thuế để gian lận chiếm

đoạt tiền thuế của Nhà nước của các doanh nghiệp:

Thời hạn giải quyết hoàn thuế đối với đối tượng áp dụng hoàn thuế trước kiểm

tra sau tối đa là 15 ngày (03 ngày đối với các dự án sử dụng vốn ODA) kể từ ngày

nhận được đầy đủ hồ sơ theo quy định. Với thời gian này thì chỉ đủ để cán bộ thuế

thẩm định sơ bộ hồ sơ như: mã số thuế, tên đơn vị, tính toán số học..có chính xác hay

không mà thôi, chứ không đảm bảo được tính chính xác về các số liệu do doanh

nghiệp tự kê. Để đảm bảo chính xác, các cán bộ thuế phải trực tiếp xuống đơn vị

kiểm tra, đối chiếu số liệu thực tế phát sinh, muốn vậy thì cần phải chờ quyết định

kiểm tra của lãnh đạo, hơn nữa số lượng doanh nghiệp được hoàn lớn trong khi cán

bộ kiểm tra thuế chỉ có hạn, thời gian kiểm tra một hồ sơ đã hoàn thuế cũng không

thể làm nhanh được vì nghiệp vụ kinh tế phát sinh không chỉ ở một phạm vi, một địa

bàn nhất định mà có thể mở rộng giữa địa phương này với điạ phương khác, giữa

quốc gia này với quốc gia khác..với vô vàn các mối quan hệ chằng chịt không kể đến

việc các doanh nghiệp cố tình tạo nghiệp vụ kinh tế giả, sử dụng hoá đơn thật nội

dung giả,..nhằm bòn rút tiền của Nhà nước.

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác hoàn thuế GTGT:

2.3.1. Nhân tố chủ quan (cơ quan thuế):

Việc triển khai thực hiện các qui trình quản lý, các văn bản chỉ đạo của Tổng

cục thuế chưa được coi trọng, chưa phát huy được hiệu quả, cụ thể như:

- Việc phối hợp quản lý, kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn của các doanh

nghiệp giữa các bộ phận trong cơ quan thuế (bộ phận bán ấn chỉ, các bộ phận quản lý

thuế) chưa có quy chế cụ thể, chưa đáp ứng đúng yêu cầu: nhanh, chính xác để phục

vụ tốt cho công tác quản lý thuế.

- Sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý thu với các bộ phận thanh tra - kiểm tra

ở cơ quan thuế các cấp chưa chặt chẽ, mang tính rời rạc, riêng lẻ, dẫn đến thông tin

và kết hợp kiểm tra khi phát hiện đối tượng nộp thuế có các hành vi khai gian lận,

trốn thuế hoặc có hành vi không chấp hành các qui định của cơ quan thuế.... Không

được phát hiện kịp thời, số lượng và chất lượng của các cuộc kiểm tra đạt hiệu quả

chưa cao.

- Chương trình kế hoạch thanh tra, kiểm tra chưa được xây dựng và thực hiện

tốt, nếu có thì cũng chưa rõ ràng, cụ thể, không có trọng tâm, trọng điểm.

- Hoạt động thông tin, nối mạng giữa các cơ quan thuế còn hạn chế nên không

thể nắm được đầy đủ, kịp thời các hoạt động kinh doanh và tình hình nộp thuế của

các doanh nghiệp khi cần thiết. Mặt khác, do công tác xác minh, đối chiếu hoá đơn

giữa các địa phương hiện nay vẫn làm theo phương pháp thủ công (xác minh bằng

văn thư), vì vậy không phát hiện kịp thời việc sử dụng các hoá đơn đã thông báo mất,

thông báo hết hiệu lực sử dụng, hoá đơn mua bán bất hợp pháp...

- Lực lượng kiểm tra, thanh tra về thuế còn ít, chất lượng cán bộ về chương môn

nghiệp vụ chưa cao, chưa có kinh nghiệm nên không thể đáp ứng yêu cầu thanh tra,

kiểm tra doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp, phục vụ cho công tác quản

lý. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì cơ quan thuế không có chức năng điều

tra, từ đó việc quản lý, thanh tra, kiểm tra khi phát hiện có những dấu hiệu vi phạm

pháp luật thì cơ quan thuế không thể tiếp tục dùng các biện pháp cho việc điều tra,

khai thác sâu hơn để kết luận sai phạm cụ thể, chỉ tiến hành kiểm tra được trên sổ

sách, chứng từ kế toán do doanh nghiệp cung cấp do đó hạn chế đến kết quả thanh

tra, kiểm tra.

- Công tác thanh tra, kiểm tra hiện tại được thực hiện chỉ qua 1 khâu, các biên

bản thanh tra, kiểm tra về thuế nếu không bị khiếu nại, tố cáo thì hầu như không được

phúc tra (xem xét lại) nên dễ dẫn tới việc buông lỏng quản lý, sót nguồn thu hoặc dễ

tạo điều kiện cho một số cán bộ thoái hoá thông đồng với doanh nghiệp gây thất thu

NSNN.

2.3.2. Nhân tố khách quan:

a) Sự phối hợp giữa các ngành, các cơ quan quản lý chưa đồng bộ, chưa tốt

như:

- Việc cấp giấy phép kinh doanh của cơ quan Bộ, Sở Đầu tư, UBND tỉnh,

thành phố các cấp không gắn liền với việc kê khai đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp

thuế của các đơn vị với cơ quan thuế, từ đó nhiều doanh nghiệp tuy có quyết định

thành lập nhưng địa điểm và hoạt động ở đâu, từ bao giờ, cơ quan thuế cũng như cơ

quan ban hành quyết định thành lập doanh nghiệp cũng không tìm ra.

- Do việc Ngân hàng phải đảm bảo bí mật về thông tin và quyền lợi của

người gửi tiền (chủ tài khoản) nên sự phối hợp giữa cơ quan thuế và ngân hàng trong

việc thực hiện cưỡng chế để đảm bảo thu đủ tiền thuế vào NSNN của đối tượng nộp

thuế theo qui định của pháp luật chưa được thực hiện.

- Xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và chưa

nghiêm là một nguyên nhân làm cho việc chiếm dụng tiền thuế ngày càng nghiêm

trọng. Cụ thể là một số doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT bị cơ quan thuế và công

an phát hiện có sự gian lận, nhưng cho đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm với

nhiều lý do như thiếu kinh phí, con người để điều tra, xác minh hoặc tội danh chưa

rõ. Đối với những trường hợp đã bị xử lý thì mức phạt chưa nghiêm không có tác

dụng răn đe, giáo dục.

- Việc cưỡng chế thi hành các quyết định xử lý về thuế, về phạt có nhiều bất

cập về lực lượng, tổ chức, các trình tự thủ tục cưỡng chế đảm bảo thu đủ tiền thuế,

tiền phạt...

- Công tác thống kê, khai thác thông tin kinh tế - xã hội trong công tác quản

lý thu thuế bị coi nhẹ dẫn đến các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm sát tình hình

sản xuất kinh doanh ở địa phương nên khi kiểm tra không so sánh đối chiếu được

thực lực, khả năng nguồn hàng của địa phương cung cấp để từ đó có cơ sở đối chiếu,

đấu tranh với các hành vi sai phạm, cũng như hoạch định chính sách kinh tế của địa

phương.

- Về phía cơ quan pháp luật (Công an, Viện kiểm soát) do lực lượng cán bộ

chưa nắm rõ và cập nhật đầy đủ các chính sách, chế độ, nghiệp vụ trong lĩnh vực

thuế, chưa quan tâm được nhiều tới việc bố trí lực lượng đủ mạnh để phối hợp

thường xuyên với cơ quan thuế trong công tác điều tra xác định rõ hành vi sai phạm

của các đối tượng trong lĩnh vực thuế để xử lý công khai kịp thời các tội phạm trốn

thuế, chiếm đoạt tiền thuế, nhằm giáo dục răn đe các đối tượng khác trong việc kê

khai, thực hiện nghĩa vụ thuế.

Việc trao đổi thông tin, uỷ thác điều tra, xác minh giữa Việt Nam và các

nước khác trong lĩnh vực thuế còn hạn chế.

b) Nhân tố khác:

- Một số tổ chức, cá nhân kinh doanh cố tình thực hiện các hành vi vi phạm

qui định về quản lý, sử dụng hoá đơn. Một số người mua hàng thông đồng với người

bán hàng để mua hoá đơn khống chỉ, nâng giá hàng cao hơn thực tế, lập hoá đơn

khống (không có hàng hoá) để trốn thuế, để được khấu trừ, hoàn thuế, hợp lý hoá các

khoản chi bất hợp pháp hoặc thanh toán tài chính trong các doanh nghiệp, các cơ

quan thụ hưởng NSNN.

- Một số tổ chức, cá nhân kinh doanh do hiểu biết không đầy đủ các qui

định về quản lý, sử dụng hoá đơn nên đã vô tình có các hành vi vi phạm các qui định

về quản lý, sử dụng hoá đơn trong mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thu tiền.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HOÀN THUẾ GTGT ĐỐI VỚI

CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC KHỐI CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ

NỘI

1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lý thu thuế

GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội:

1.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc khối

công nghiệp:

Hà Nội là một địa bàn tập trung rất nhiều đơn vị công nghiệp quốc doanh lớn,

vừa và nhỏ vừa đa dạng về loại hình, vừa đa dạng về quy mô nên việc quản lý các

đối tượng này tương đối phức tạp. Do đó, muốn quản lý một cách triệt để, bao quát

chúng ta phải đi sâu nghiên cứu đặc điểm của các đơn vị này.

* Đối với bộ phận quốc doanh trung ương:

- Các đơn vị có vốn lớn, quy mô sản xuất rộng, có khả năng trang bị máy móc

thiết bị tốt nhằm cải tiến nâng cao năng lực sản xuất.

- Đội ngũ lãnh đạo ở trình độ cao, hầu hết các Giám đốc, kế toán trưởng đều có

trình độ Đại học, có ý thức cao trong việc chấp hành các chế độ, chính sách do Nhà

nước quy định.

- Đội ngũ cán bộ, công nhân viên có tay nghề cao, thường xuyên được tiếp xúc

và nắm bắt các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới.

* Đối với bộ phận quốc doanh địa phương:

- Bộ phận này nói chung cơ sở vật chất còn nghèo nàn, máy móc thiết bị cũ kỹ,

chậm đổi mới do vốn đầu tư từ Ngân sách còn eo hẹp, chưa đáp ứng được nhu cầu bổ

sung vốn và đầu tư theo chiều sâu của mỗi doanh nghiệp…

- Trình độ quản lý của bộ phận này cũng còn nhiều hạn chế, đội ngũ công nhân

chủ yếu là làm gia công, làm hợp đồng do trình độ tay nghề và kinh nghiệp sản xuất

còn yếu kém.

1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thu thuế GTGT tại Cục thuế Hà Nội:

1.2.1. Phòng quản lý thu:

- Quản lý đối tượng nộp thuế: theo dõi tình hình biến động về ĐTNT trên lĩnh

vực địa bàn quản lý như nắm số doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp phá

sản…phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, tham mưu đề xuất

với lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý.

- Hướng dẫn ĐTNT các thủ tục kê khai đăng kí thuế, lập hồ sơ miễn thuế, giảm

thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế..Giải đáp thắc mắc của ĐTNT liên quan đến việc

tính thuế, thu nộp thuế. Lập và tổ chức lưu giữ các hồ sơ của các doanh nghiệp.

- Thực hiện kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai đăng kí kinh doanh, kê

khai nộp thuế, hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế,..Liên

hệ với các ĐTNT để chỉnh sửa việc kê khai theo đúng quy định.

- Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp miễn thuế,

giảm thuế, hoàn thuế..Lập các thủ tục xét, miễn, giảm, hoàn thuế theo quy định, xác

định số thuế quyết toán của từng ĐTNT. Cung cấp các thông tin về kết quả xét, miễn,

giảm, hoàn, quyết toán thuế cho từng bộ phận tính thuế.

- Thực hiện việc ấn định thuế cho các ĐTNT không nộp hoặc nộp chậm tờ khai

thuế. Xác định các ĐTNT cần phát hành lệnh thu hoặc phạt hành chính thuế.

- Theo dõi tình hình thu nộp thuế để thực hiện việc đôn đốc nhắc nhở nộp thuế

đầy đủ và đúng hạn vào Ngân sách Nhà nước. Phối hợp với phòng Thanh tra xử lý tố

tụng thực hiện việc kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ mua - bán của các đối

tượng có hiện tượng khai man, trốn lậu, nợ đọng thuế.

1.2.2. Phòng máy tính:

- Thực hiện nhập tờ khai đăng kí thuế và quản lý hệ thống cấp mã số thuế, in

giấy chứng nhận đăng kí thuế.

- Xử lý tính thuế, tính nợ, phạt nộp chậm, in thông báo thuế, nhận giấy nộp tiền

từ Kho bạc Nhà nước, chấm nợ. Nhận các kết quả xét, miễn, giảm, hoàn, quyết toán

thuế và kết quản thanh tra, kiểm tra từ các phòng quản lý thu và phòng thanh tra xử

lý tố tụng để điều chỉnh số thuế phải nộp của từng ĐTNT. Tổng hợp tình hình thu,

nộp thuế của các ĐTNT theo các chỉ tiêu khác nhau để cung cấp thông tin cho các

phòng quản lý thu, phòng thanh tra xử lý tố tụng và phòng nghiệp vụ thực hiện các

biện pháp thu nộp thuế.

1.2.3. Phòng kế hoạch kế toán thống kê:

- Lập dự toán thu hàng năm, phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế

hoạch của các Chi cục và các phòng quản lý thu.

- Căn cứ vào số liệu về tình hình tăng trưởng Kinh tế - Xã hội tại địa phương,

phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của toàn đơn vị. Tham

mưu cho lãnh đạo Cục về khai thác các nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu và các biện

pháp chỉ đạo thu.

1.2.4. Phòng thanh tra xử lý tố tụng:

- Kiểm tra, phát hiện các đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá

dịch vụ nhưng không kê khai đăng kí nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế.

- Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra về hoạt động sản xuất kinh doanh, sổ sách kế

toán, hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá của các đối tượng để nhằm phát hiện kịp

thời các hành vi khai man thuế, trốn lậu thuế, đồng thời đề xuất các biện pháp xử lý

theo pháp luật.

- Hỗ trợ phòng quản lý thu để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực hiện các biện

pháp cưỡng bức thu đối với các đối tượng chây ỳ, cố tình vi phạm pháp luật thuế.

- Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế của các bộ

phận để kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong công tác quản lý thu thuế.

1.2.5. Phòng nghiệp vụ thuế:

- Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các chính sách thuế, quy định về thuế

của các doanh nghiệp và quy trình quản lý thu thuế của Cục thuế và các Chi cục thuế

trực thuộc.

- Giúp lãnh đạo Cục thuế hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện chính sách thuế, các chế

độ, quản lý các biện pháp nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với các ĐTNT thuộc

mọi thành phần kinh tế trên địa bàn Cục thuế quản lý.

1.2.6. Phòng quản lý ấn chỉ:

Có nhiệm vụ quản lý và hướng dẫn kiểm tra việc sử dụng hoá đơn chứng từ và

các ấn chỉ thuộc ngành thuế.

1.2.7. Phòng hành chính:

- Tiếp nhận, đóng dấu vào các tờ khai thuế, quyết toán thuế, báo cáo tài chính,

hồ sơ hoàn thuế, miễn giảm thuế, đăng kí mã số thuế,..do các ĐTNT đến nộp. Sau đó

phân loại và gửi theo từng phòng quản lý thu.

- Phòng còn có trách nhiệm nhận, đóng dấu ngày nhận và gửi cho các ĐTNT

thông báo thuế, quyết định hoàn thuế, miễn, giảm thuế, biên bản phạt hành chính,..

2. Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối

công nghiệp tại Cục thuế Hà Nội:

2.1. Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT:

2.1.1. Kết quả thu Ngân sách:

( Nguồn: Báo cáo tổng kết kết quả thu Ngân sách năm 2005 - 2006 của phòng

quản lý DNNN số 2)

Đơn vị: Triệu đồng.

Kế hoạch Thực hiện % thực hiện năm

05 so 06 so 06 so

Khoản thu 2005 2006 2005 2006 với với với

KH 05 TH 05 KH 06

Tổng số thu 2.194.250 348.989 1.527.686 400.602 69,62 26,22 114,79

DNNN trung 2.062.620 267.310 1.422.192 325.404 68,95 22,88 121,73 ương

- GTGT 544.840 179.420 498.520 209.210 91,49 41,97 116,6

- TTĐB 717.080 2.550 543.860 3.029 75.84 0,56 118,78

- TNDN 797.440 82.340 373.587 108.889 46,85 29,15 132,24

- Thu SDV 2.788 2.449 87,84

- Môn bài 1.283 1.060 1.215 1.136 94,69 93,49 107,17

- Khác 1.940 1.940 2.222 1.827 114,54 82,22 94,17

DNNN địa 98.495 65.059 77.927 56.579 79,12 72,61 86,97

phương

- GTGT 58.084 42.623 47.317 34.409 81,46 72,72 80,73

- TTĐB 21.500 4.096 8.971 253 41,73 2,82 6,18

- TNDN 18.640 16.232 20.912 21.360 112,19 102,14 131,59

- Thu SDV 33,80 71 24

- Môn bài 271 108 95,57 87,64 210,19 259 227

397 301 75,82 15,05 2.000 - Khác

Phí và lệ phí 7.030 8.531 8.953 121,35 104,95 105,7 8.470

Thuế TN cá 26.110 8.150 19.046 8.527 72,95 44,77 104,63 nhân

*Năm 2005:

- Đặc điểm tình hình:

+ Năm 2005 là năm Chính Phủ yêu cầu các doanh nghiệp phải đẩy nhanh tiến

độ Cổ phần hoá, nên ngành thuế phải khẩn trương xem xét giải quyết về quyết toán

thuế và xoá nợ TT32, mặt khác khi các doanh nghiệp đã chuyển đổi thì cũng đã tự

chủ vươn lên trong sản xuất kinh doanh hơn.

+ Tình hình giá xăng dầu trên thế giới tăng nên trong nước cũng ảnh hưởng

tăng nhiều lần trong năm, trong tháng 10 có điều chỉnh tăng lần nữa nhưng tháng 11

đã giảm 500đ/lit. Giá nước sinh hoạt tăng từ tháng 3 nên sản xuất kinh doanh chi phí

sẽ tăng. Về kinh doanh gia cầm và thuỷ cầm cuối năm do bùng phát lại dịch cúm nên

Nhà nước đã cấm buôn bán, nhập khẩu gia cầm và tiêu huỷ gia cầm chưa qua kiểm

dịch..Về ngành chè rất khó khăn, giảm khối lượng xuất khẩu..Ngành sắt thép kinh

doanh cũng gặp nhiều khó khăn. Một số ngành kinh doanh thuận lợi như ngành dệt

may, bánh kẹo..

+ Từ tháng 10, phòng đã chuyển 50 đơn vị có số thu lớn và chấp hành Luật thuế

tốt lên phòng đầu tư nước ngoài của bộ phận thí điểm tự khai, tự tính tự nộp, và

chuyển số thu chiếm 87% số thu của phòng đi, do đó số thu của phòng chỉ còn 13%.

Tuy nhiên, số đối tượng quản lý của phòng vẫn còn 700 doanh nghiệp có số thu nhỏ

và khó thu do nhiều doanh nghiệp bị lỗ và công nợ chưa thanh toán nên khó khăn,

việc giải quyết hoàn thuế và miễn giảm thuế của phòng thường xuyên và số lượng

nhiều, cả năm lên tới 172 hồ sơ.

- Kết quả thu 6 tháng cuối năm:

Do có sự thay đổi lớn về số thu nên nhiệm vụ kế hoạch năm 2005 chỉ căn cứ

vào nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch quý 4/2005 để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm

vụ năm. Trong quý 4/2005, thu 94.816 triệu đạt 143% kế hoạch quý 4 Cục giao,

trong đó các loại thu đạt vượt kế hoạch là:

+ Thu TƯ: 75.106 triệu đạt 156%

+ Thu địa phương: 14.957 triệu đạt 115%

+ Thu phí và lệ phí: 2.799 triệu đạt 147%

+ Riêng thuế thu nhập, Cục giao cao không có nguồn thu phát sinh nên chỉ thu

1.954 triệu đạt 65%

Thực hiện 6 tháng cuối năm đạt 530.919 triệu và cả năm 2005 đạt 1.527.686

triệu. Phòng đã kiểm tra quyết toán thuế cả năm 229 đơn vị, đạt kế hoạch 107%, đã

có biên bản quyết toán thuế 234 đơn vị, đạt 109% và so với cùng kỳ thì đạt 104%.

Trong 6 tháng cuối năm có nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi

như ngành dệt may, ngành sản xuất hàng tiêu dùng,..nên cũng góp phần làm tăng số

thu, phòng đã bám sát thực tế phát sinh để đôn đốc nên có 1 số bộ ngành đã hoàn

thành kế hoạch quý 4.

* Năm 2006:

+ Năm 2006, giá xăng dầu trên thế giới vẫn tăng, giá vàng thế giới tăng nên

trong nước cũng ảnh hưởng: ngày 20/4 giá vàng là 1,4 triệu đồng /chỉ; đến tháng 10-

11 đã giảm còn 1,1 - 1,2 triệu đồng/chỉ. Tình hình kinh doanh bất động sản 6 tháng

đầu năm bị đóng băng, nhưng đến cuối năm lại nóng dần lên. Tiền lương tháng 10 đã

tăng từ 350.000đ lên mức 450.000đ..Những ngành kinh doanh phân bón, thuốc trừ

sâu, chăn nuôi và ngành dệt của phòng kinh doanh khó khăn nên đã ảnh hưởng tới

nguồn thu của phòng.

- Trong tháng 4/2006 kiểm toán Nhà nước kiểm tra ngành thuế và tháng

10/2006 kiểm toán phía Bắc kiểm tra toàn ngành nên phải phục vụ báo cáo hoàn

thuế, quyết toán thuế, miễn giảm thuế, kê khai thuế, báo cáo nợ đọng thuế.

- Đầu năm 2006 sẽ thực hiện ngay một số quy trình nợ đọng thuế (1123), quy

trình thanh tra (1166), và năm 2006 được Cục thuế Hà Nội uỷ quyền cho các phòng

sẽ ra thông báo thuế hàng tháng lần 1 và 2 (năm trước lãnh đạo Cục ký).

- Năm 2006 là năm chuẩn bị thực hiện cho cải cách thuế để Luật quản lý thuế sẽ

thực hiện vào tháng 7/2007 nên cán bộ được tham gia các khoá học theo mô hình

quản lý mới, nắm vững thêm kê khai thuế trên máy…

Từ đặc điểm trên kinh tế tuy cũng có nhiều ngành còn khó khăn, song được sự

quan tâm chỉ đạo thống nhất, đoàn kết tập trung của lãnh đạo Cục, kết quả thu 6

tháng cuối năm 2006 đã đạt như sau:

- Nhiệm vụ kế hoạch năm 2006 ước thu: 400.602 triệu đồng. Đến ngày

24/11/2006 đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh năm đạt 100,53% và đến ngày

15/12/20006 đã hoàn thành kế hoạch phấn đấu năm đạt 100,26% thu 372.273 triệu.

Các năm từ 2004, 2005 phòng đều không hoàn thành kế hoạch phấn đấu, nhưng năm

2006 đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh 115%, kế hoạch phấn đấu 107% và so với

cùng kỳ 123% do phòng đã có nhiều biện pháp tích cực đốc thu nên đã hoàn thành

theo đúng cam kết thi đua đầu năm đăng ký, nổi trội là việc đôn đốc động quyết toán

về thuế TNDN: 75.873 triệu đã đôn đốc doanh nghiệp nộp hết đọng trong tháng

10/2006.

- Phòng đã kiểm tra quyết toán thuế cả năm 230 đơn vị, đạt 90% kế hoạch Cục

giao, so với cùng kỳ đạt 100,43%, đã có biên bản quyết toán thuế 180 đơn vị đạt

70%. Cả năm tăng thu: 12.545 triệu, đã nộp vào Ngân sách 10.000 triệu. Truy thu của

một số đơn vị lớn như sau:

+ Tổng công ty hoá chất VN truy thu: 2.972 triệu

+ Công ty VL nổ CN truy thu: 2.552 triệu

+ Công ty CP xây lắp điện 1 truy thu: 2.021 triệu

+ Nhà máy chế tạo thiết bị điện truy thu: 1.967 triệu…

- Phòng bám sát nguồn thu do phòng thanh tra 3 và phòng ấn chỉ xử lý đã đôn

đốc các doanh nghiệp nộp thuế vào TK ẩn lậu 6 tháng cuối năm: 7.806 triệu (truy thu

7.224 triệu, phạt thuế 352,5 triệu; phạt hành chính 59,95 triệu; truy hoàn 184,676

triệu) và cả năm 9.742 triệu ( truy thu 9.098 triệu; phạt thuế 370 triệu; phạt hành

chính 87,95 triệu; truy hoàn 185,233 triệu).

2.1.2. Quản lý đối tượng nộp thuế:

Hiện nay Cục thuế thành phố Hà Nội đang quản lý thu thuế đối với các đối

tượng trên địa bàn:

- Doanh nghiệp Nhà nước 2.580 doanh nghiệp

Trong đó DNNN địa phương 443 doanh nghiệp

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 811 doanh nghiệp

- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 32.866 doanh nghiệp

Trong đó

+ Văn phòng Cục quản lý 1.833 doanh nghiệp

+ Các Chi cục quản lý 31.033 doanh nghiệp

- Hộ kinh doanh cá thể 80.950 hộ

- Đối tượng thu thuế nhà đất 532.754 hộ

Thông qua việc cấp mã số, ngành thuế kịp thời quản lý ĐTNT, tránh tình trạng

bỏ sót đối tượng, đồng thời cũng tránh được tình trạng trốn lậu thuế. Tuy nhiên công

tác này cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa để góp phần tạo nguồn thu lớn cho Ngân

sách Nhà nước.

2.2. Công tác hoàn thuế:

BÁO CÁO HOÀN THUẾ PHÒNG QUẢN LÝ DNNN SỐ 2 GIAI

ĐOẠN 2004 – 2006

Đơn vị: Đồng

Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Số Số Số Chỉ hồ Số tiền Số tiền Số tiền hồ hồ tiêu sơ sơ sơ

- Số

đề 143 602.739.585.261 194 1.122.275.738.572 167 242.381.475.778 nghị

hoàn

- Hồ

sơ hợp 144 604.537.972.904 177 1.075.972.275.138 155 245.730.099.236

lệ

- Hồ

sơ đã

có 144 604.537.972.904 174 1.075.408.762.107 155 245.730.099.236 quyết

định

hoàn

- Số

tiền

thuế 144 604.537.972.904 174 1.075.408.762.107 155 245.730.099.236

đã

hoàn

2.2.1. Quản lý hồ sơ hoàn thuế:

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy:

Năm 2005 số hồ sơ giải quyết hoàn là 174 hồ sơ với số tiền giải quyết là gần

1.075.409 triệu đồng, trong khi đó năm 2006 chỉ có 155 hồ sơ với số tiền giải quyết

là 245.703 triệu. Sở dĩ số tiền hoàn giảm đi như vậy là do từ tháng 10/2005 phòng đã

chuyển 50 đơn vị có số thu lớn và chấp hành luật thuế tốt như: Tổng công ty Điện lực

Việt Nam,…lên phòng đầu tư nước ngoài của bộ phận thí điểm tự khai, tự tính, tự

nộp. Tuy nhiên, tổng số hoàn vẫn ở mức cao, và phần lớn rơi vào trường hợp hoàn do

xuất khẩu.

Đây thực sự là một dấu hiệu đáng mừng đối với các đơn vị xuất khẩu, số hoàn

thuế lớn chứng tỏ sản lượng hàng hoá sản xuất phục vụ cho xuất khẩu ngày càng tăng

và các đơn vị này làm ăn có lãi. Mặt khác, chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta

hiện nay là khuyến khích những ngành nghề , lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, cho

nên chính sách hoàn thuế của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, nó đã góp phần

không nhỏ trong mức tăng tổng kim ngạch xuất khẩu tại Hà Nội trong hai năm qua.

Ngoài trường hợp hoàn thuế do xuất khẩu, các trường hợp khác được hoàn là do một

số đơn vị có hoạt động nhập khẩu với số lượng lớn, hoạt động uỷ thác nhập khẩu và

đầu tư tài sản cố định.

Số hồ sơ đề nghị hoàn năm 2005 là 194 hồ sơ, đã giải quyết 177 hồ sơ, trong đó

chỉ có 3 hồ sơ phải trả lại doanh nghiệp vì không đủ điều kiện hoàn thuế, nguyên

nhân chủ yếu là do không đầy đủ tờ khai hải quan, hợp đồng xuất khẩu, biên lai nộp

thuế GTGT khâu nhập khẩu,..

Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như:

- Doanh nghiệp lập đầy đủ hồ sơ nhưng đến thời điểm xin hoàn thì số dư

thuế GTGT phải nộp là dương hoặc số thuế hoàn còn quá ít nên rút đơn không

xin hoàn nữa.

- Các số liệu kê khai giữa tờ khai và công văn xin hoàn không khớp: trong

công văn có xin đề nghị hoàn, nhưng trong tờ khai lại không có đề nghị hoàn..

- Do trong hồ sơ đơn vị đã kê cả số thuế đã nộp ở kỳ sau vào đầu vào của

kỳ trước..

Đến cuối năm 2005, số hồ sơ tồn là 3 hồ sơ với số tiền là gần 1 tỷ đồng, chủ yếu

những hồ sơ này đang trong quá trình giải trình theo yêu cầu của cơ quan thuế hoặc

thiếu hồ sơ chờ bổ sung, hoặc hồ sơ đã hoàn chỉnh đang chờ quyết định hoàn của

lãnh đạo Cục. Cho đến nay nhìn chung công tác hoàn thuế đã đảm bảo đúng tiến độ,

đa số hồ sơ xin hoàn đều được giải quyết kịp thời đảm bảo không ảnh hưởng đến việc

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể là trong năm 2006, toàn bộ số hồ

sơ hợp lệ đều đã có quyết định hoàn.

Điều này cho thấy:

- Sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ thuế Phòng quản lý DNNN số 2 trong

việc hướng dẫn, giải thích cho các doanh nghiệp về quy trình hoàn thuế, cách lập hồ

sơ hoàn thuế đúng với chế độ, chính sách hiện hành.

- Các doanh nghiệp (ĐTNT) đã quen với công tác hoàn thuế nên việc lập hồ sơ

không còn quá nhiều sai sót, vô lý..

BÁO CÁO HOÀN THUẾ GTGT

(từ ngày 1/12/2006 đến ngày 31/12/2006)

Số thuế hoàn Số thuế thu hồi hoàn Số

ĐT Luỹ kế Trong kỳ Luỹ kế tháng Luỹ kế năm Trong kỳ Luỹ kế năm NT tháng

66 47.976.155.639 47.976.155.639 245.730.099.236 33.155.000 33.155.000 917.919.125

2.2.2. Quản lý đối tượng hoàn thuế:

KẾT QUẢ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG HOÀN THUẾ

Đơn vị Số thứ tự Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006

Tổng số đơn vị xin hoàn 86 92

trong đó: 1 + Xuất khẩu 55 57

+ Nội địa 31 35

Tổng số đơn vị đã hoàn 76 87

trong đó: 2 + Xuất khẩu 53 56

+ Nội địa 23 31

Năm 2005, Phòng quản lý DNNN số 2 đã tiến hành hoàn thuế cho 76 doanh

nghiệp (trong đó có 46 doanh nghiệp công nghiệp), trong đó trường hợp hoàn do xuất

khẩu là 53 doanh nghiệp (trong đó có 27 DN công nghiệp), trường hợp khác là 14

doanh nghiệp (trong đó có 19 DN công nghiệp) so với tổng số đơn vị xin hoàn là 86

đơn vị (trong đó có 49 DN công nghiệp) . Còn lại 10 đơn vị (trong đó có 3 DN công

nghiệp) không được hoàn do không đủ điều kiện hoàn.

CÔNG VĂN TRẢ LỜI VỀ HOÀN THUẾ KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN 2005

Thời gian STT Tên doanh nghiệp Lý do trả lời

Hồ sơ 20/4, công văn không số, tgian 1 Cty XNK cà phê I 26/4 hoàn sai hoàn của 2005 ghi 2004

Ghi sai thời gian, thông báo kiểm tra 2 Tổng công ty muối 24/6 trước hoàn thuế

Cty CP đầu tư và XD Hồ sơ 7/7, công văn không số, đơn chưa 8/6 3 đúng mẫu (10/VAT), bảng kê sai than NĐ

CN Tổng cty thuỷ sản 9/6 Tiền xin hoàn kê không rõ với kê khai 4 Hạ Long

Đơn xin hoàn không đúng, còn thiếu Tổng cty thép VN 1/7 5 QĐ dự án

Đơn xin hoàn căn cứ TT122, CV xin

6 Tổng cty vật tư NN 14/7 hoàn 1 tháng, Thông tư đã hết hiệu lực

từ lâu

Bảng kê mua vào sai thuế suất, cần bổ 7 Tổng cty vật tư NN 15/8 sung

CN cty dệt may 5/9 Đơn xin hoàn thời gian không có 8 Thành Công

Bổ xung hồ sơ bản chính, cam kết tiền Cty CP may NN 23/11 9 về của XK chưa có

Tờ trình hoàn không có căn cứ, không 10 Cty XD thuỷ lợi 28/12 có bảng kê

Sang năm 2006 công tác hoàn thuế đã được thực hiện tốt hơn, các doanh

nghiệp ngày càng hiểu rõ và chấp hành tốt luật thuế. Số lượng đơn vị không được

hoàn thuế do không đủ điều kiện ít hơn so với năm 2005. Tuy nhiên, bất kỳ một

chính sách nào cũng đều có kẽ hở, nếu doanh nghiệp tìm được kẽ hở đó thì sẽ gây

không ít những khó khăn đối với ngành thuế nói chung và Phòng quản lý DNNN số 2

tại Cục thuế Hà Nội nói riêng.

2.2.3. Công tác thực hiện quy trình hoàn thuế:

Quy trình hoàn thuế GTGT như đã giới thiệu ở chương I đã được Tổng Cục

thuế ban hành ngày 16/12/1998. Việc thực hiện nghiêm chỉnh quy trình này sẽ giúp

cho công tác hoàn thuế đạt hiệu quả cao, đảm bảo tính chính xác kịp thời về đối

tượng được hoàn thuế, thời gian hoàn thuế và số tiền hoàn thuế.

Bước 2 của cuộc cải cách hành chính thuế có sự phân định rõ ràng quyền hạn và

trách nhiệm của cơ quan thuế và ĐTNT. Trong đó doanh nghiệp phải chịu trách

nhiệm về tính chính xác giữa hồ sơ kê khai và thực tế hoạt động kinh doanh. Cơ quan

thuế dựa trên các số liệu trên hồ sơ sẽ tiến hành thẩm định sơ bộ, nhanh chóng giải

quyết hoàn thuế cho ĐTNT. Nếu có nghi vấn lập kế hoạch kiểm tra trực tiếp tại cơ sở

có sự chấp nhận bằng văn bản của lãnh đạo cơ quan thuế. Chính quy trình này nếu

được thực hiện tốt sẽ tạo sự gọn nhẹ, linh hoạt trong công tác quản lý thuế nói chung

và công tác hoàn thuế nói riêng. Nhưng nếu không được thực hiện tốt sẽ tạo kẽ hở để

ĐTNT moi tiền của Nhà nước.

Qua quá trình kiểm tra, nhìn chung ĐTNT chấp hành tốt các yêu cầu của cơ

quan thuế, các công đoạn trong quá trình hoàn thuế, tính hợp lý, hợp lệ trong số liệu

kê khai, đặc biệt là đối với khối quốc doanh trung ương. Tuy nhiên do vô tình hay cố

ý, một số ĐTNT tại một số địa phương đã vi phạm chế độ về hoàn thuế làm thất thoát

hàng tỷ đồng của Nhà nước, có một số trường hợp bị phát hiện ngay, có trường hợp

đợi đến khi kiểm tra sau hoàn thuế mới phát hiện, và chắc chắn sẽ có những trường

hợp không thể phát hiện được. Để xem xét, đánh giá một cách cụ thể những tồn tại,

nguyên nhân dẫn đến những sai phạm ấy chúng ta hãy chuyển qua phần 2.3: Một số

vấn đề tồn tại trong việc giải quyết hoàn thuế đối với các doanh nghiệp thuộc khối

công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.

2.3. Một số vấn đề tồn tại trong việc giải quyết hoàn thuế đối với các doanh

nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội:

2.3.1. Về hồ sơ hoàn thuế:

Chúng ta vẫn duy trì phương pháp " tiền hoàn, hậu kiểm". Công tác xem xét hồ

sơ hoàn thuế bước đầu chỉ là thẩm định sơ bộ đối với các số liệu kê khai còn tính

chính xác, thực hư hay không thì vẫn chưa thể biết được. Đây chính là điều kiện để

doanh nghiệp lợi dụng kê bừa nhằm chiếm dụng vốn của Nhà nước.

Qua thực tiễn xem xét hồ sơ hoàn thuế, một số cán bộ trực tiếp thụ lý đã phải

nhận xét rằng đầu ra thì doanh nghiệp thường kê khai rất chuẩn, nhưng trong kê khai

đầu vào thì còn rất nhiều tồn tại như:

- Nhiều trường hợp nhầm lẫn trong việc kê khai mã số thuế, tên đơn vị, tính

toán số học, ngày tháng, thuế suất dù đã được cán bộ nhắc nhở nhiều lần.

- Doanh nghiệp còn nhiều sai sót trong việc kê khai biên lai và giấy nộp thuế

GTGT của hàng nhập khẩu như: không trùng tên người nộp, thiếu chứng từ bán

ra,..thậm chí có đơn vị chỉ gửi công văn xin hoàn thuế chứ không gửi hồ sơ.

- Cộng số thuế phải nộp tháng sau để xét hoàn thuế GTGT cho các tháng trước.

- Kê trùng đầu vào trên cùng một bộ hồ sơ, điển hình như Công ty Dệt Hà Nội

qua kiểm tra hồ sơ phát hiện kê trùng đầu vào 3 tháng số tiền 578 triệu đồng do sự

chênh lệch về số lượng hàng xuất khẩu giữa tờ khai hải quan và hoá đơn GTGT.

- Kê thiếu doanh thu

- Bảng kê hàng hoá mua vào của đơn vị không kê theo hoá đơn mà kê theo

phiếu chi của đơn vị, đơn vị còn kê đầu vào theo thông báo nộp thuế GTGT hàng

nhập khẩu, không phải theo số thực nộp.

- Đối với những bộ hồ sơ mà riêng bảng kê đầu vào, đầu ra lên tới hàng chục tờ

thì việc phát hiện được toàn bộ hoá đơn kê trùng giữa bộ hồ sơ hoàn thuế này với bộ

hoàn thuế trước là không thể chắc chắn.

2.3.2. Về đối tượng hoàn thuế:

Thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 quy định có 8 trường hợp

được hoàn thuế, trong đó có 2 trường hợp đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản

cố định mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có

phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1

năm trở lên thì được xét hoàn đầu vào theo từng năm. Số thuế hoàn đầu vào được

hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn theo quý. Tính ưu việt

của quy định này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất

kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả hơn trong thời gian đầu mới thành lập. Tuy

nhiên, một vấn đề đặt ra là nếu trong một vài năm đầu tài sản cố định đầu tư đó dùng

vào sản xuất mặt hàng chịu thuế GTGT thì việc hoàn thuế là hoàn toàn đúng đắn và

chính xác, nhưng thời gian sau doanh nghiệp lại sử dụng tài sản cố định đầu tư đó

vào sản xuất mặt hàng không chịu thuế GTGT thì theo nguyên tắc sẽ không được

hoàn, trong khi đó thì toàn bộ số thuế đầu vào đã được hoàn rồi. Giả sử nếu doanh

nghiệp không tự khai báo về sự thay đổi mục đích sử dụng thử hỏi nếu giá trị tài sản

đó lớn thì sẽ chiếm đoạt của Nhà nước bao nhiêu tiền thuế??? Nói như vậy không có

nghĩa là hiện tượng này xảy ra tại Phòng quản lý DNNN số 2, nhưng đứng trên diện

rộng mà nói thì kẽ hở này chắc chắn sẽ bị lợi dụng và Nhà nước sẽ còn thất thoát

nhiều nếu còn duy trì đối tượng được hoàn thuế này.

Một vấn đề nổi cộm nữa là việc hoàn thuế cho các đối tượng có hoạt động xây

dựng cơ bản (XDCB). Trong hoạt động XDCB, bên chủ thầu (bên A) thường nợ bên

nhận thầu (bên B), chỉ đến khi bên B hoàn thành xong công trình hay hạng mục công

trình mới tiến hành bàn giao và quyết toán, do đó mà đầu vào mua nguyên vật liệu

cho việc xây dựng công trình hoàn toàn do bên B tự bỏ vốn hoặc nợ lại bên bán vật

tư. Mà đặc điểm của các công trình XDCB là có giá trị lớn, thời gian xây dựng kéo

dài nên phát sinh thuế đầu vào lớn hơn đầu ra liên tục trong nhiều tháng dẫn tới hoàn

thuế. Vấn đề ở đây là nếu đơn vị đặt cơ sở thường trú tại Hà Nội và tiến hành hoạt

động xây dựng cũng tại Hà Nội thì việc tính, thu và hoàn thuế là hết sức dễ dàng. Tuy

nhiên, trên thực tế đơn vị lại xây dựng công trình ở nhiều tỉnh thành trên phạm vi cả

nước. Về nguyên tắc thì thuế phát sinh tại đâu sẽ nộp tại đó, chính điều này đã gây

khó khăn trong việc kê khai và hoàn thuế. Trong XDCB, một hoá đơn mua nguyên

vật liệu có thể phục vụ cho nhiều công trình ở nhiều địa bàn khác nhau nên việc bóc

tách đầu vào nào cho công trình nào là hết sức phức tạp và đa số không thể làm nổi.

Để giải quyết khó khăn này, Tổng Cục thuế cho phép các đơn vị nộp 1% trên giá trị

công trình tại địa phương nơi xây dựng và toàn bộ đầu vào được kê hết về Cục thuế

nơi đặt trụ sở chính. Tuy nhiên, quy định này lại không được thực hiện đồng bộ trên

cả nước. Có nơi không chấp nhận cho đơn vị nộp 1% mà buộc phải tách riêng thuế

đầu ra, đầu vào. Có nơi chấp nhận nhưng lại khó khăn trong việc xác nhận việc đã

nộp thuế. Để đi làm giấy xác nhận cần phải có cán bộ có nghiệp vụ về tài chính, do

vậy nhiều khi xảy ra chi phí để 1 cán bộ kế toán đi xuống các tỉnh xác nhận nộp thuế

lớn hơn số tiền thuế đã nộp. Mặt khác, như đã nói ở trên, bắt buộc bên B phải nợ đầu

vào bên bán vật tư và chỉ khi nào bên B thanh toán cho bên bán vật tư thì mới được

cấp hoá đơn, nên việc kê khai đầu vào là hết sức vất vả. Cuối cùng dẫn tới tình trạng

doanh nghiệp muốn nộp thuế cũng không được, hoàn thuế cũng không xong và thiệt

thòi đổ hết về phía doanh nghiệp.

2.3.3. Về hoá đơn, chứng từ:

Một mấu chốt để dẫn tới thành công trong việc thực hiện luật thuế GTGT, hoàn

thuế GTGT là quản lý hoá đơn chứng từ. Luật thuế GTGT yêu cầu mọi hoạt động

mua bán đều phải được ghi chép bằng chứng từ, hoá đơn do Bộ tài chính quy định.

Hoá đơn hợp pháp là hoá đơn do Bộ tài chính phát hành hoặc hoá đơn tự in của

các tổ chức, cá nhân được Tổng Cục thuế chấp nhận bằng văn bản in ấn đăng ký sử

dụng với cơ quan thuế theo đúng quy định có đầy đủ nội dung như: hoá đơn do người

bán hàng hoá, dịch vụ thu tiền kể cả trao đổi sản phẩm lập giao cho người mua hàng

phải là bản gốc (liên 2), hoá đơn phải ghi đầy đủ các chỉ tiêu, nội dung in sẵn trên

hoá đơn phải nguyên vẹn, không rách hoặc bị nhàu nát. Số liệu, chữ viết phải rõ ràng,

trung thực, đầy đủ, chính xác không bị tẩy xoá, sửa chữa.

Kể từ khi thực hiện Luật thuế GTGT đến nay, công tác kế toán, hoá đơn chứng

từ đã ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên từ thực tế sau nhiều năm áp dụng luật

thuế ta thấy nổi cộm lên nhiều vấn đề trong việc sử dụng và lưu hành hoá đơn chứng

từ. Nguyên nhân dẫn đến các hành vi lợi dụng hoá đơn, bảng kê để vi phạm là những

sơ hở trong cơ chế chính sách:

+ Do luật doanh nghiệp quá thông thoáng, thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn

giản, không có sự kiểm tra kịp thời sau đăng ký kinh doanh, chưa theo dõi được liên

tục tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký. Do vậy, hàng ngàn doanh

nghiệp không kinh doanh hoặc đã bỏ kinh doanh nhưng không được phát hiện kịp

thời, trong khi cơ quan thuế vẫn bán hoá đơn trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh đã

được cấp.

+ Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp: qui định hiện

hành là không phải lập bảng kê hoá đơn bán hàng (mẫu 02/GTGT). Do vậy, cơ quan

thuế không có cơ sở để kiểm tra, đối chiếu việc sử dụng hoá đơn của các hộ kinh

doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, trong khi các hoá đơn này được khấu trừ

theo tỷ lệ % trên giá mua vào.

+ Theo qui định tại công văn số 6615/TC/TCT ngày 16/7/2001 của Bộ Tài

chính: đối với số hàng hoá bán lẻ cho khách hàng không lấy hoá đơn, cuối ngày đơn

vị bán hàng phải lập một hoá đơn chung cho số hàng này và liên 2 (giao cho khách

hàng) được lưu tại quyển. Nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện qui định này và

vẫn xé liên 2, gây thất lạc, mất. Đồng thời một số doanh nghiệp đã lợi dụng việc

không phải giao liên 2 cho khách hàng để báo mất những liên 2 này và dùng để xuất

hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị hoặc bán cho người khác sử dụng.

+ Việc xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng hoá đơn trước đây

được qui định tại nhiều văn bản khác nhau, không thống nhất hoặc không cụ thể, gây

khó khăn cho việc thực hiện xử lý vi phạm ở các địa phương (Nghị định 49/NĐ-CP

ngày 8/7/1999 của Chính phủ, Thông tư 30/2001/TT-BTC ngày 16/5/2001 của BTC

sửa đổi Thông tư 128/1998/TT-BTC ngày 22/9/1998 hướng dẫn thực hiện Nghị định

22/CP ngày 17/4/1996 của Chính phủ; Quyết định số 31/2001/QĐ-BTC ngày

13/4/2001 của Bộ trưởng BTC sửa đổi Quyết định 885/1998/QĐ-BTC ngày

16/7/1998 của Bộ trưởng BTC...), nhưng đến nay đã được quy định thống nhất tại

Nghị định 120 của Thủ tướng Chính Phủ và Thông tư 89.

+ Hành vi in ấn, mua bán hoá đơn giả chưa được Bộ Luật hình sự xác định là

tội phạm nên chưa răn đe, ngăn chặn được các hành vi vi phạm này (điều 164 Bộ luật

hình sự chỉ qui định về “tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả”).

+ Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa xây dựng các hệ thống chỉ tiêu chí chuẩn

về doanh nghiệp để áp dụng quản lý doanh nghiệp thông qua hệ thống máy tính; Nhà

nước chưa có luật qui định bắt buộc các doanh nghiệp kết nối mạng máy tính của

doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong đó có nội dung nhận, quản lý,

sử dụng hoá đơn bán hàng); chưa qui định việc khai thác trên mạng về số liệu, thông

tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trở lại với tình hình sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp thuộc khối Công

nghiệp trên địa bàn Hà Nội, nhìn chung việc sử dụng hoá đơn chứng từ của khối

doanh nghiệp này là tốt, phản ánh đúng thực tế nghiệp vụ phát sinh nhất là các doanh

nghiệp Nhà nước trung ương. Tuy nhiên, do sự khác nhau giữa các thành phần kinh

tế, sự không đồng đều về nghiệp vụ tài chính, trình độ kế toán giữa các doanh nghiệp

trung ương và địa phương dẫn tới một số các doanh nghiệp địa phương vẫn còn lúng

túng trong việc sử dụng hoá đơn chứng từ, lập sổ sách kế toán và lưu chuyển chứng

từ..Những điều này đã và đang gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc quản lý thu

nộp thuế.

2.3.4. Về kiểm tra sau hoàn thuế:

Sau bước 1 hoàn thuế cho các ĐTNT, cơ quan thuế tiến hành chuyển sang bước

2 - kiểm tra sau hoàn nhằm kiểm tra tính chính xác giữa số liệu đơn vị kê khai và

thực tế phát sinh. Phải nói rằng đây thực sự là một công việc đòi hỏi ở cán bộ thuế tư

cách nghề nghiệp, kinh nghiệm và trình độ năng lực để phân tích số liệu. Phòng quản

lý DNNN số 2 thuộc Cục thuế Hà Nội là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp trọng

điểm có số hoàn thuế lớn, do vậy năm 2006 vừa qua bằng sự nỗ lực cố gắng của toàn

thể cán bộ thuế, phòng đã kiểm tra được hầu hết các đối tượng được hoàn thuế.

Tình hình chung các đối tượng hoàn thuế đều chấp hành tốt trong việc kê khai

hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên bên cạnh những đơn vị có ý thức chấp hành tốt thì vẫn

còn một số ít đơn vị do vô tình hay cố ý đã kê khai không chính xác. Điển hình là

Tổng công ty xây dựng Công nghiệp Việt Nam trong năm 2005 có hồ sơ xin hoàn

của dự án đầu tư. Sau khi cán bộ thuế kiểm tra phát hiện có việc công ty đã mua phải

hoá đơn của doanh nghiệp bỏ trốn và đã tiến hành truy hoàn 43 triệu để nộp lại vào

Ngân sách Nhà nước. Công ty cổ phần may Hương Giang trong năm 2005 cũng đã

phải nộp 57 triệu về quỹ hoàn và bị phạt hành chính là 1,5 triệu..Công ty TNHH Nhà

nước 1 thành viên giày Thuỵ Khuê trong năm 2006, sau khi kiểm tra sau hoàn phát

hiện khấu trừ hoá đơn không đúng nên cũng đã thu hồi quỹ hoàn 28,5 triệu..

Theo ý kiến phản ánh của chính những cán bộ thuế trực tiếp kiểm tra sau hoàn

nói rằng các doanh nghiệp còn những sai sót không kê khai đầu vào trên hồ sơ hoàn

thuế. Đặc biệt việc kiểm tra sau hoàn vẫn chưa đi đến "cốt lõi" của vấn đề, nghĩa là

do thời gian kiểm tra sau hoàn chỉ trong vòng 5 ngày mà khối lượng công việc phải

tiến hành quá nhiều, bao gồm kiểm tra bằng hiện vật: kiểm tra hợp đồng vận chuyển,

hợp đồng lưu kho,..và kiểm tra về mặt giá trị: kiểm tra sổ sách kế toán, phiếu thu bán

hàng, các tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,..trong khi riêng việc chấm bảng kê

với tờ khai đã mất rất nhiều thời gian, chưa kể việc hợp đồng đưa ra đều bằng tiếng

nước ngoài, để dịch ra tiếng Việt cũng đã mất rất nhiều thời gian..Do đó mà việc

kiểm tra chưa thể đi sâu được.

2.3.5. Về quy trình hoàn thuế:

Quy trình hoàn thuế hiện tại chưa đáp ứng đúng được thời gian quy định về xét

hoàn thuế trong thời hạn 15 ngày và nhất là hoàn ODA chỉ có 03 ngày do phải trải

qua nhiều khâu, nhiều bộ phận. Tất cả các hồ sơ hoàn thuế của các phòng quản lý thu

đều phải qua phòng xử lý dữ liệu và tin học xác nhận kê khai trước khi trình lãnh đạo

Cục. Như vậy việc xem xét lại hồ sơ hoàn thuế và dự kiến xét hoàn của Phòng quản

lý thu vừa làm không rõ trách nhiệm xét hoàn thuế giữa hai phòng.

Cần giải thích rõ hơn thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế trong vòng 15 ngày,

03 ngày, bắt đầu kể từ ngày nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế là "chuẩn" nhằm tránh sự

kêu ca, phàn nàn từ phía doanh nghiệp về thời hạn hoàn thuế. Chuẩn ở đây có thể

được hiểu là các số liệu kê khai trên hồ sơ hoàn thuế phải phản ánh trung thực khách

quan nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại doanh nghiệp, đảm bảo tính logic, hợp lý, đúng

quy định trong công tác hoàn thuế.

2.4. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác hoàn thuế:

2.4.1. Các doanh nghiệp không hiểu rõ về Luật thuế GTGT:

Luật thuế GTGT chính thức được áp dụng ở nước ta từ năm 1999.Sau nhiều

năm áp dụng và sửa đổi đến nay, hầu hết các doanh nghiệp đã hiểu thấu đáo và chấp

hành tốt các quy định trong luật thuế. Tuy nhiên yêu cầu để xác định thuế GTGT là

rất khắt khe:

- Phải chấp hành việc sử dụng hoá đơn trong mua bán hàng hoá đối với cả

người bán và người mua.

- Phải thực hiện thống nhất và nghiêm túc chế độ kế toán đối với tất cả các

doanh nghiệp.

Đối chiếu với thực trạng nền kinh tế nước ta, có nhiều thành phần kinh tế nên

việc lập sổ sách kế toán giữa các đơn vị là không đồng nhất. Hơn nữa, để hiểu đúng

các căn cứ tính thuế, cách thức lập hồ sơ hoàn thuế và các quy định khác liên quan

đến hoàn thuế nhìn chung là còn "khó" đối với các doanh nghiệp. Do vây, Cục thuế

cần có những biện pháp tăng cường tuyên truyền hướng dẫn nộp thuế.

2.4.2. Thiếu sự triển khai đồng bộ, làm việc không thống nhất theo quy định giữa

các ngành và các cơ quan quản lý:

+ Việc cấp giấy phép kinh doanh của cơ quan Bộ, Sở Đầu tư, UBND tỉnh –

thành phố các cấp không gắn liền với việc kê khai đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp

thuế của các đơn vị với cơ quan thuế, từ đó nhiều doanh nghiệp tuy có quyết định

thành lập nhưng địa điểm và hoạt động ở đâu, từ bao giờ, cơ quan thuế cũng như cơ

quan ban hành quyết định thành lập doanh nghiệp cũng không tìm ra.

+ Do việc Ngân hàng phải đảm bảo bí mật về thông tin và quyền lợi của người

gửi tiền (chủ tài khoản) nên sự phối hợp giữa cơ quan thuế và ngân hàng trong việc

thực hiện cưỡng chế để đảm bảo thu đủ tiền thuế vào NSNN của đối tượng nộp thuế

theo qui định của pháp luật chưa được thực hiện.

+ Xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và chưa

nghiêm là một nguyên nhân làm cho việc chiếm dụng tiền thuế ngày càng nghiêm

trọng. Cụ thể là một số doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT bị cơ quan thuế và công

an phát hiện có sự gian lận, nhưng cho đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm với

nhiều lý do như thiếu kinh phí, con người để điều tra, xác minh hoặc tội danh chưa

rõ. Đối với những trường hợp đã bị xử lý thì mức phạt chưa nghiêm không có tác

dụng răn đe, giáo dục.

+ Việc cưỡng chế thi hành các quyết định xử lý về thuế, về phạt có nhiều bất

cập về lực lượng, tổ chức, các trình tự thủ tục cưỡng chế đảm bảo thu đủ tiền thuế,

tiền phạt...

+ Công tác thống kê, khai thác thông tin kinh tế - xã hội trong công tác quản lý

thu thuế bị coi nhẹ dẫn đến các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm sát tình hình

sản xuất kinh doanh ở địa phương nên khi kiểm tra không so sánh đối chiếu được

thực lực, khả năng nguồn hàng của địa phương cung cấp để từ đó có cơ sở đối chiếu,

đấu tranh với các hành vi sai phạm, cũng như hoạch định chính sách kinh tế của địa

phương.

+ Về phía cơ quan pháp luật (Công an, Viện kiểm soát) do lực lượng cán bộ

chưa nắm rõ và cập nhật đầy đủ các chính sách, chế độ, nghiệp vụ trong lĩnh vực

thuế, chưa quan tâm được nhiều tới việc bố trí lực lượng đủ mạnh để phối hợp

thường xuyên với cơ quan thuế trong công tác điều tra xác định rõ hành vi sai phạm

của các đối tượng trong lĩnh vực thuế để xử lý công khai kịp thời các tội phạm trốn

thuế, chiếm đoạt tiền thuế, nhằm giáo dục răn đe các đối tượng khác trong việc kê

khai, thực hiện nghĩa vụ thuế.

Việc trao đổi thông tin, uỷ thác điều tra, xác minh giữa Việt Nam và các nước

khác trong lĩnh vực thuế còn hạn chế.

2.4.3. Thiếu phương tiện để tuyên truyền hướng dẫn nộp thuế:

Theo cơ chế hiện hành thu mới có quy định hạn chế sự tiếp xúc riêng giữa cán

bộ thuế và các doanh nghiệp. Do vậy, chủ yếu là liên lạc bằng điện thoại dẫn đến

đường dây điện thoại tại phòng luôn rơi vào tình trạng "nóng" nên rất hạn chế đối với

các cán bộ thuế trong việc hướng dẫn tỉ mỉ cho doanh nghiệp nhằm thực thi tốt các

luật thuế.

Hơn nữa hiện nay chưa có quy định trợ cấp tiền điện thoại cho các cán bộ thuế,

dẫn tới việc các cán bộ thuế thường xuyên phải dùng tiền của mình để trả cho việc

gọi điện đốc thúc các doanh nghiệp nộp thuế bằng điện thoại di động…

2.4.4. Các doanh nghiệp còn thiếu tinh thần tự giác trong việc kê khai và hoàn

thuế GTGT:

Hiện nay, các doanh nghiệp thường sử dụng những thủ đoạn như: dùng hoá đơn

thật, giả lẫn lộn, hoá đơn biến thành "hàng hoá" lưu thông trên thị trường hoặc hoá

đơn của chính doanh nghiệp, số liệu trên hoá đơn khớp đúng với số liệu doanh

nghiệp kê khai nhưng lại là hoá đơn khống do doanh nghiệp khác làm chứng từ đầu

vào để được hoàn thuế. Ngoài ra còn có trường hợp: lập ra các công ty nhưng không

dùng để kinh doanh mà chỉ "thực hiện nhiệm vụ" hợp thức hoá hàng không có nguồn

gốc hợp pháp rõ ràng, xuất khẩu toàn bộ để được hoàn thuế 100%. Hoặc "mua pháp

nhân" của các công ty theo kiểu: Hàng của công ty này nhưng lại được một công ty

TNHH xuất bán cho một đơn vị khác ở địa phương khác để rồi sau đó, đơn vị lại xuất

hoá đơn bán cho "công ty chính chủ". Như thế, đầu vào của loại hàng hoá không có

nguồn gốc hoặc nguồn gốc không hợp pháp đã được hợp thức hoá và đủ điều kiện để

được hoàn thuế GTGT.

Qua đây, chúng ta thấy được rằng chỉ vì mục đích moi tiền của Nhà nước mà đã

làm cho các doanh nghiệp mất đi ý thức, dẫn đến vi phạm pháp luật khiến cho công

tác hoàn thuế GTGT gặp rất nhiều khó khăn, đây cũng chính là nguyên nhân làm

chậm so với thời gian quy định trong việc xem xét hoàn thuế của cơ quan thuế.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

HOÀN THUẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC KHỐI CÔNG

NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

1. Định hướng hoạt động của Cục thuế Hà Nội (chủ yếu về quản lý thuế GTGT):

Thuế GTGT được áp dụng nhìn chung đã phát huy được tác dụng của nó, đặc

biệt việc thực hiện hoàn thuế GTGT cho đối tượng kinh doanh đã phần nào tạo được

điều kiện thuận lợi, giúp doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn trong quá

trình kinh doanh. Song vấn đề tồn tại trong công tác hoàn thuế GTGT nói riêng và

quản lý thuế GTGT nói chung không phải là không còn. Tình hình thực tế cho thấy

việc gian lận hoá đơn để được hoàn thuế đang ở mức báo động. Chính vì vậy mà Cục

thuế Hà Nội nói riêng và ngành thuế nói chung phải có những định hướng hoạt động

cụ thể như:

* Thường xuyên tuyên truyền cho ĐTNT nắm được nội dung cũng như yêu cầu

của Luật thuế GTGT. Công tác giáo dục, tuyên truyền có thể được tiến hành theo các

hình thức sau đây:

- Đối với mỗi ĐTNT khi đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, đăng ký mã số

thuế thì cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác phải phát cho họ những tài liệu

liên quan đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, các văn bản pháp luật, những tài

liệu hướng dẫn, tuyên truyền về các Luật thuế, trách nhiệm và nghĩa vụ của ĐTNT

trong sản xuất. Các tài liệu này có thể gửi kèm với các giấy phép của ĐTNT để

ĐTNT nắm bắt kịp thời.

- Cơ quan thuế cần phải phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và các cơ

quan chức năng khác để thường xuyên phổ biến tuyên truyền về nội dung các văn

bản pháp luật thuế. Tổ chức các buổi toạ đàm với các doanh nghiệp để tìm hiểu thêm

những băn khoăn, vướng mắc từ phía doanh nghiệp và một số vấn đề chưa hoàn

chỉnh của các văn bản pháp quy để có biện pháp sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện

hơn chính sách thuế sao cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.

- Cơ quan thuế phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành nội dung pháp luật

thuế của các ĐTNT, có biện pháp khuyến khích kịp thời đối với những trường hợp

thực hiện đúng, đầy đủ và có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp

cố tình vi phạm nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.

Công tác giáo dục, tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên. Một mặt nó

sẽ nâng cao khả năng hiểu biết, nhận thức của ĐTNT, giúp cho quá trình thực thi

Luật thuế đạt hiệu quả cao. Mặt khác thông qua công tác này có thể nắm bắt, uốn

nắn, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà

nước, thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.

* Tăng cường củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý thu thuế:

Một yếu tố không thể thiếu trong việc thực hiện tốt hệ thống thuế ở các quốc gia

là bộ máy quản lý thu thuế. Hiện nay ngành thuế nói chung và Cục thuế Hà Nội nói

riêng đã thực sự chú trọng đến công tác này. Tuy nhiên có một số vấn đề cần phải

được tiếp tục thực hiện như sau:

- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế: cán bộ thuế là người vừa nắm bắt nội

dung Luật thuế, vừa trực tiếp thực hiện nội dung Luật thuế. Do đó việc hiểu biết nội

dung Luật thuế và năng lực thực hiện nó là một đòi hỏi tất yếu. Cần thiết phải có các

"sổ tay nghiệp vụ" phù hợp với từng sắc thuế, từng lĩnh vực quản lý giúp cán bộ thuế

có thể xử lý đúng đắn trong các trường hợp, cần thiết phải có các công tác nghiệp vụ,

kiểm tra khả năng hiểu biết và vận dụng xử lý tình huống, kịp thời khen thưởng, động

viên những cán bộ thực sự có năng lực và đạo đức nghề nghiệp, đồng thời phát hiện

và xử lý nghiêm minh các trường hợp tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của

ngành. Có như vậy yêu cầu về một đội ngũ cán bộ thuế vừa giỏi vừa tốt mới có thể

thực hiện được.

- Tiến hành sắp xếp, đổi mới cơ cấu bộ máy quản lý thu thuế phù hợp với các

nội dung thực hiện Luật thuế GTGT. Hiện nay chúng ta có hai phương pháp tính thuế

GTGT: trực tiếp và khấu trừ nên việc sắp xếp, bố trí các bộ phận trong bộ máy quản

lý thuế ở Cục thuế, Chi cục thuế, các tổ, đội cho phù hợp với từng phương pháp thu

là rất cần thiết.

- Trang bị hệ thống máy tính đồng bộ nhằm thực hiện công tác quản lý thuế qua

mạng máy tính.

* Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm chỉnh quy trình quản lý thu thuế

GTGT:

- Cụ thể hoá các nội dung quy trình, cần có một tình huống cụ thể và cách thức

xử lý tình huống đó một cách đồng bộ theo quy trình để làm tài liệu tham khảo cho

các cán bộ thuế.

- Quy định cụ thể hơn nội dung nhiệm vụ của từng bộ phận trong thực hiện quy

trình, thời gian tối thiểu, thời gian tối đa đối với các bộ phận và các trình tự luân

chuyển, đối chiếu, xử lý các hồ sơ ĐTNT.

- Phổ biến cụ thể, đầy đủ các quy trình cho các ngành liên quan để phối hợp xử

lý các tình huống thực tế.

- Cần có các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm, cách thức xử lý, kiểm tra để

từng bước nâng cao khả năng thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện trong bộ máy

quản lý thu thuế khi thực hiện quy trình nộp thuế.

* Phải có chính sách khuyến khích, khen thưởng động viên kịp thời các trường

hợp chấp hành tốt nội dung Luật thuế GTGT của cơ quan thuế và ĐTNT. Đồng thời

phát hiện và xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm góp phần tạo cho

công tác quản lý thu nộp thuế, thực hiện Luật thuế đi vào kỷ cương, nề nếp, phát huy

tối đa hiệu quả của nó.

Trên đây là một số định hướng hoạt động của Cục thuế Hà Nội với mục đích

đảm bảo thực thi hệ thống thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng. Bên cạnh đó còn

có các giải pháp hoàn thiện mang tính chất định hướng lâu dài, có ý nghĩa quan trọng

trong việc thực thi các nội dung quản lý.

2. Những giải pháp hoàn thiện:

2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đến các ĐTNT và mọi

tầng lớp nhân dân:

Như chúng ta đã biết, thực trạng công tác hoàn thuế tại phòng quản lý DNNN

số 2, một vấn đề nổi lên làm mất nhiều thời gian và công sức đối với cơ quan thuế là

ĐTNT chưa hiểu thấu đáo Luật thuế GTGT dẫn tới tình trạng "Cán bộ hiểu 1 kiểu,

doanh nghiệp lại hiểu 1 kiểu khác". Do vậy, mặc dù công tác tuyên truyền, giáo dục

pháp luật đã được chú trọng nhưng vì hạn chế về phương tiện tuyên truyền, hạn chế

sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế và ĐTNT nên cán bộ thuế không thể hướng dẫn

chi tiết, cụ thể đối với từng ĐTNT. Vì vậy:

- Cần có nhiều những cuộc tiếp xúc ở nhiều cấp độ, nhiều nơi giữa cơ quan thuế

với các doanh nghiệp trên tinh thần cởi mở, thẳng thắn.

- Thực hiện mạnh mẽ công tác tuyên truyền về thuế, trước hết là giải thích

chính sách về Pháp luật thuế, nâng cao ý thức về nghĩa vụ đóng góp cho Ngân sách

Nhà nước. Phối hợp chặt chẽ đối với cơ quan báo đài của trung ương và địa phương,

đặc biệt là báo Hà Nội mới, Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội,..phát huy và sử

dụng có hiệu quả bản tin thuế. Tất cả các đồng chí lãnh đạo Cục, lãnh đạo Phòng

cũng như các cán bộ phải có trách nhiệm viết bài cho bản tin thuế, học tập cũng như

phổ biến những kinh nghiệm công tác thiết thực trong bản tin thuế.

- Phối hợp với các ngành giáo dục đào tạo tư pháp đưa các bài học về thuế vào

giảng dạy trong các nhà trường, tạo tiền đề nhận thức cho thế hệ trẻ.

- Cần phải khẳng định thêm rằng công tác giáo dục tuyên truyền không chỉ

dừng lại ở những năm đầu tiên mà còn phải được tiến hành thường xuyên, liên tục

trong những năm tiếp theo.

2.2. Tăng cường nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các ĐTNT:

Cán bộ thuế cần nắm bắt tình hình hoạt động xuất kinh doanh của từng ĐTNT

một cách thường xuyên thông qua các thông tin kinh tế như: tình hình hoạt động snr

xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế, tình hình tài chính, nắm bắt những khó khăn, thuận

lợi, hướng phát triển của các doanh nghiệp các khu vực kinh tế. Công việc này không

chỉ giúp cơ quan thuế trong việc xây dựng kế hoạch thu sát với thực tế mà còn giúp

cán bộ thuế có khả năng "đọc" một cách chính xác các số liệu kê khai trên hồ sơ hoàn

thuế.

Ví dụ:

Tại phòng quản lý DNNN số 2, nhiều đơn vị có bộ phận không trực tiếp tham

gia hoạt động sản xuất kinh doanh như các Văn phòng công ty, Tổng công ty, các đại

lý bán đúng giá hưởng hoa hồng.. về nguyên tắc không được phép kê khai hàng hoá,

dịch vụ mua vào phục vụ cho hoạt động của các bộ phận này. Nếu đơn vị tự ý kê

khai, cán bộ phải loại bỏ khỏi diện được khấu trừ; nhưng nếu các Văn phòng hay

Tổng công ty này có hoạt động cho thuê văn phòng vào một số hoạt động khác tạo

doanh thu có hạch toán riêng thì được kê khấu trừ đầu vào phục vụ riêng cho những

hoạt động ấy.

Một doanh nghiệp đóng tại Hà Nội nhưng trong bảng kê đầu vào của Bộ hồ sơ

hoàn thuế có hoá đơn của Sở Điện lực Hải Phòng, thì như vậy là doanh nghiệp này có

chi nhánh hoặc phân xưởng ở Hải Phòng. Cán bộ thuế phải biết phân xưởng này trực

thuộc công ty chính hạch toán phụ thuộc hay hạch toán độc lập có Mã số thuế riêng ở

Hải Phòng. Nếu trực thuộc công ty chính tại Hà Nội thì được phép khấu trừ thuế đầu

vào cho hoá đơn đó. Nếu có Mã số thuế riêng thì không được khấu trừ mà chuyển về

Hải Phòng khấu trừ hoặc hoàn thuế tại đó.

2.3. Tăng cường quản lý hoá đơn, chứng từ; đưa việc thực hiện các chế độ hoá

đơn, chứng từ, sổ sách kế toán vào nề nếp, kỷ cương:

Đối với ngành Thuế nói riêng và ngành tài chính nói chung: thực tế mà nói chưa

có một công văn, văn bản nào có một định nghĩa chung nhất về hoá đơn, chứng từ để

được mọi người công nhận. Nhưng nhìn ở một góc độ ý nghĩa, vai trò - chức năng

của hoá đơn thì chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng của chứng từ này.

Bởi vì toàn bộ các hoạt động kinh tế được phát sinh liên tục qua việc mua bán, trao

đổi hàng hoá - dịch vụ trong nền kinh tế thị trường không thể thiếu được vai trò của

tờ hoá đơn.

Do đó có thể khái quát ở góc độ vai trò, chức năng của hoá đơn như sau:

- Hoá đơn là một bộ phận ấn chỉ thuế được in theo chỉ định tại các Luật thuế,

pháp lệnh thuế và các văn bản pháp quy dùng để quản lý thu thuế cho NSNN.

- Hoá đơn được sử dụng để mua bán hàng hoá - dịch vụ, là chứng từ để đảm bảo

chất lượng hàng hoá - dịch vụ và bảo hành hàng hoá.

- Hoá đơn được sử dụng để thanh quyết toán tài chính khi mua hàng cho công

ty, cơ quan, tập thể...

- Hoá đơn là chứng từ để thu tiền bán hàng và thể hiện doanh số của một doanh

nghiệp.

- Đối với mối quan hệ giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp thì hoá đơn là chứng

từ cơ sở ban đầu dùng để kê khai nộp thuế, khấu trừ, hạch toán chi phí thực tế phát

sinh, hoàn thuế và xác định chi phí hợp lệ khi tính thuế, nhất là các loại thuế trực thu.

Trong tình hình hiện nay, để tăng cường quản lý sử dụng hoá đơn như một công

cụ của Nhà nước trong việc quản lý thuế, quản lý tài chính, đảm bảo công bằng xã

hội trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN, chống tham nhũng, góp phần

xây dựng trật tự kỹ cương trong lĩnh vực tài chính. Góp phần thu đúng chính sách,

thu đủ số thuế phải thu, thúc đẩy các cá nhân, tổ chức SXKD hàng hoá, dịch vụ -

thực hiện hạch toán kinh tế và chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ đi vào nề

nếp, thúc đẩy SXKD phát triển. Cho nên cơ quan thuế khuyến khích tất cả các tổ

chức, cá nhân kinh doanh tuỳ theo trình độ, qui mô của đơn vị mình mà ứng dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản lý sử dụng hoá đơn để lựa chọn hình thức sử

dụng hoá đơn cho phù hợp như:

+ Hoá đơn do cơ quan thuế phát hành.

+ Hoá đơn đặc thù tự in sẵn tại một nhà in do cơ quan thuế chỉ định (cuốn hay

vi tính liên tục).

+ Hoá đơn đặc thù tự in từ máy laser có lập chương trình.

+ Hoá đơn tự in từ máy tính tiền tại các siêu thị hay cửa hàng bán hàng tự chọn.

+ Hoá đơn có dạng vé đã in sẵn mệnh giá (giá vé).

Ngoài hoá đơn ra thì theo qui định hiện hành còn có một số chứng từ rất quan

trọng có tính chất tương đương có giá trị như hoá đơn là các loại bảng kê như: bảng

kê bán lẻ hàng hoá - dịch vụ (mẫu 06/GTGT) và bảng kê thu mua hàng hoá nông sản,

lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến; đất, đá, cát, sỏi, phế liệu không có hoá đơn

(mẫu 04/GTGT).

Cho nên, việc quản lý hoá đơn, chứng từ không phải là đơn giản, đặc biệt là

hiện nay, hoá đơn "giả", "thật" lẫn lộn gây khó khăn cho cán bộ quản lý. Chính vì

vậy, để quản lý hoá đơn chứng từ hiệu quả nhất thì chỉ có thể bằng cách nối mạng tin

học toàn ngành thuế trên phạm vi cả nước. Nếu như thực hiện được việc nối mạng tin

học toàn ngành thuế thì công tác quản lý hoá đơn chứng từ sẽ đảm bảo hơn, không

còn tình trạng sử dụng hoá đơn giả để moi tiền của Nhà nước. Tuy vậy, việc nối

mạng tin học toàn ngành thuế trên phạm vi cả nước không phải là điều đơn giản.

Nhưng trước mắt, để thực hiện việc nối mạng tin học trên bình diện toàn quốc thì nên

thực hiện nối mạng giữa Cục thuế ở các thành phố lớn như: Hồ Chí Minh,Hà Nội,

Hải Phòng, Đà Nẵng,..vì qua thực tế cho thấy những thành phố này trong năm qua có

số tiền hoàn thuế rất lớn, nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Hoá đơn, chứng từ là vấn đề mấu chốt quyết định thắng lợi của việc thực hiện

Luật thuế GTGT và phát huy tác dụng hoàn thuế GTGT. Nếu việc quản lý được thực

hiện tốt thì công tác hoàn thuế GTGT sẽ đem lại hiệu quả cao, còn nếu việc quản lý

không được thực hiện tốt thì sẽ ảnh hưởng đến công tác hoàn thuế GTGT và dẫn đến

tình trạng các doanh nghiệp vi phạm như hiện nay.

2.4. Chú trọng đến công tác kiểm tra hoàn thuế:

2.4.1. Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý của bộ hồ sơ hoàn thuế:

Để một bộ hồ sơ hoàn thuế được coi là đầy đủ, hợp pháp thì đầu tiên trách

nhiệm thuộc về phía doanh nghiệp. Bên cạnh sự giúp đỡ của cán bộ thuế, doanh

nghiệp phải tự tìm hiểu luật thuế, tự xác định xem mình thuộc đối tượng, trường hợp

được hoàn thế nào, từ đó tiến hành lập hồ sơ hoàn thuế, đặc biệt các đơn vị phải có ý

thức tự giác trong việc kê khai hoàn thuế theo đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

* Đối với cơ quan thuế khi xét hồ sơ hoàn thuế cần chú ý một số điểm sau:

- Đối với thuế đầu vào:

+ Phải kiểm tra từng loại doanh số để tính đúng tỉ lệ % thuế đầu vào được khấu

trừ.

+ Các trường hợp được tính khấu trừ đối với hàng hoá xuất khẩu phải kiểm tra

xác định mối quan hệ giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá dịch vụ mua vào.

+ Thuế đầu vào của tài sản cố định được khấu trừ nếu có sự thay đổi mục đích

sử dụng thì sẽ xác định lại phần được khấu trừ.

+ Chứng từ (biên lai) đã nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu để làm căn cứ khấu

trừ đầu vào, hoàn thuế và chứng từ đã nộp thuế của bên Việt Nam nộp thay cho Nhà

thầu nước ngoài có kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam. Riêng biên lai thu thuế của người buôn chuyến và biên lai nộp thuế bị truy

thu do mua hàng hoá vận chuyển không có hoá đơn hợp pháp không được khấu trừ.

- Đối với thuế đầu ra:

Xác định đúng doanh thu bán hàng và thuế suất áp dụng cho từng mặt hàng,

dịch vụ theo đúng chế độ hiện hành và theo từng đặc điểm của ngành nghề gắn với

kinh doanh.

- Cơ quan thuế cần thường xuyên nhắc nhở, khẳng định hơn nữa trách nhiệm

của doanh nghiệp đối với các số liệu kê khai trên hồ sơ hoàn thuế để dần tạo thành

một thói quen trong kê khai đối với các đối tượng này.

- Đưa ra các hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với các trường hợp cố tình vi

phạm thậm chí có thể thành lập riêng một ban thanh tra về công tác hoàn thuế đặt

dưới sự chỉ đạo của Tổng cục.

Những công việc trên đây sẽ là bước đầu tiên xác định tính chính xác trong số

hoàn, là bước đầu để cán bộ thuế xây dựng kế hoạch kiểm tra sau hoàn thuế, những

công việc này được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện giảm khối lượng công tác trong quá

trình kiểm tra sau hoàn thuế và ngược lại.

2.4.2. Tăng cường công tác kiểm tra sau hoàn thuế:

Năm 2006 vừa qua, với sự quyết tâm của các cán bộ thuế trong Phòng cùng với

sự quan tâm của Thanh tra Bộ tài chính đã tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế đối với

hầu hết các đối tượng được hoàn thuế năm 2005, thậm chí có đơn vị được kiểm tra

trước khi hoàn thuế. Tuy nhiên công tác này cần phải được duy trì trong những năm

tiếp theo, và quan trọng hơn nữa là phải quan tâm đến tính "trong sạch" trong số hoàn

sau khi được kiểm tra lại. Để đạt được yêu cầu này đòi hỏi ý thức và tinh thần trách

nhiệm từ cả hai phía cơ quan thuế và ĐTNT cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ

quan, bộ ngành có liên quan.

Như đã nêu ở phần thực trạng, một nguyên nhân đang cản trở chất lượng công

tác kiểm tra sau hoàn thuế là vấn đề thời gian. Thời hạn 1 đợt kiểm tra là 5 ngày, nếu

có gia hạn thì cũng không được quá thời hạn 1 đợt kiểm tra (5 ngày) chỉ phù hợp với

những nội dung đơn giản song với những nội dung phức tạp như kiểm tra sau hoàn

thuế thì 5 ngày không thể đi đến "cốt lõi" của vấn đề. Hơn nữa có nhiều tiếng phản

hồi từ phía doanh nghiệp cho rằng không thể có chuyện gia hạn bằng 100% như vậy,

chỉ nên gia hạn 50% thời hạn của một đợt thanh tra. Như vậy nên chăng kéo dài thêm

thời gian thanh tra, kiểm tra và giảm thời gian gia hạn.

Cần tăng cường phương tiện phục vụ cho công tác kiểm tra sau hoàn thuế, trong

đó chú trọng áp dụng công nghệ thông tin để xấy dựng hệ thống khai thác thông tin

trên phạm vi toàn quốc phục vụ thanh tra, kiểm tra thuế. Hiện nay, việc xác minh

thực tế nghiệp vụ phát sinh của các đơn vị, đối chiếu hoá đơn thuế là vấn đề cực kỳ

khó khăn nhất là đối với hồ sơ hoàn thuế có bảng kê. Để xác minh quan hệ mua bán

của hai doanh nghiệp thì cơ quan thuế phải làm văn bản gửi cho Cục thuế nơi doanh

nghiệp mình có quan hệ buôn bán và bên kia sẽ trả lời bằng văn bản, nhưng thời gian

đợi văn bản trả lời có thể tính bằng tháng, thậm chí không có văn bản trả lời. Như

vậy, cần thiết phải tiến hành cập nhật hoá đơn chứng từ lên mạng máy vi tính kể cả

các hoá đơn báo hỏng, mất để tạo điều kiện cho cán bộ kiểm tra có thể ngồi trong

phòng để xác minh, đối chiếu hoá đơn, vừa tiết kiệm được thời gian, vừa tiết kiệm

được chi phí lại đạt được hiệu quả cao.

2.5. Cải tiến thủ tục hành chính, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa quy trình hoàn

thuế GTGT đã ban hành:

Theo các doanh nghiệp, điều không bình đẳng là khi truy thu thì cơ quan thuế ra

quyết định truy thu và ấn định ngày nộp, nếu chậm trễ thì bị nhiều hình phạt, còn

ngược lại, doanh nghiệp được hoàn thuế sau khi phải làm hàng loạt các thủ tục rất

nhiễu mà vẫn chưa nhận được tiền ngay thì không thấy "Nhà nước" bị xử phạt hoặc

bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp. Thủ tục hoàn thuế phức tạp gây tâm lý mệt

mỏi. Mặt khác, khi được hoàn thuế các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp nhập

khẩu hàng kinh doanh) lại phải dùng vốn để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu

của mình, sau khi được khấu trừ dần. Nhưng không phải doanh nghiệp nào hoạt động

nhập khẩu cũng diễn ra liên tục như vậy. Có doanh nghiệp hàng tháng hoặc vài tháng

mới có được lô hàng nhập khẩu và tiền của doanh nghiệp thì vẫn nằm yên trong Kho

bạc Nhà nước, trong khi đó thì doanh nghiệp bị kẹt vốn kinh doanh. Đây chính là

điều bất cập, vướng mắc giữa cơ quan thuế Nhà nước và hoạt động kinh doanh của

các doanh nghiệp hiện nay. Có trường hợp tiền thuế được hoàn cho doanh nghiệp

đang nằm tại Kho bạc, nhưng doanh nghiệp nhập khẩu hàng có thuế GTGT thì vẫn

phải tiếp tục đem tiền đi nộp mà không được khấu trừ dần vì theo quy định cua Bộ tài

chính việc khấu trừ dần phải tiến hành đúng mục.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nên chăng khi xác định doanh

nghiệp được hoàn thuế, cơ quan hải quan được phép làm thủ tục trả tiền và doanh

nghiệp được nhận tiền ngay tại Kho bạc mà không phải khấu trừ phức tạp như hiện

nay. Chính vì thế, cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi quy trình hoàn thuế GTGT theo

hướng đơn giản, rõ ràng, nâng cao trách nhiệm của người kê khai hoàn thuế và hoàn

thuế đúng quy định, tạo sự bình đẳng giữa cơ quan Nhà nước với các doanh nghiệp.

Đồng thời cũng tránh được sự chậm trễ trong việc hoàn thuế cho các doanh nghiệp.

Vấn đề nữa là trên cơ sở nội dung quy trình và các hướng dẫn của Tổng cục

thuế, Cục thuế Hà Nội cần có văn bản cụ thể hoá hơn nữa các nội dung thực hiện

trong quy trình theo từng trường hợp hoàn thuế. Cần phân chia khoảng thời gian cho

từng nội dung công việc, tạo ra sự chuyên môn hoá nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với

nhau giữa các bộ phận thực hiện quy trình, làm sao đạt được tốc độ xử lý hồ sơ nhanh

chóng nhất và chính xác nhất

2.6. Tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp việc ghi chép, sử dụng hoá đơn,

chứng từ theo đúng quy định:

Như chúng ta đã thấy, tình trạng các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh kê

khai hoá đơn chứng từ có rất nhiều sai sót, và mỗi lần ghi sai, ghi thiếu là một lần

phải làm lại. Điều này làm cho công tác hoàn thuế GTGT gặp khó khăn, chậm so với

thời gian quy định. Vì vậy, mỗi cán bộ thuế phải là một tuyên truyền viên hướng dẫn

thường xuyên cách sử dụng hoá đơn chứng từ cho các doanh nghiệp cũng như những

vấn đề liên quan đến công tác hoàn thuế.

Tăng cường các cuộc đối thoại với các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện

chính sách thuế, tổ chức tốt việc hướng dẫn trao đổi kinh nghiệm trong quản lý, chỉ

đạo các doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ nhằm tháo gỡ khó khăn,

vướng mắc cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT.

Ngoài ra, Cục thuế cũng nên trao đổi và phản ánh với các doanh nghiệp về tình

trạng cấp bách hiện nay trong vấn đề hoàn thuế GTGT, lên án những hành vi vi phạm

đã và đang có ý định lợi dụng hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt tiền của Nhà nước,

đồng thời cho phép doanh nghiệp nói lên những khó khăn của mình và đề xuất ý kiến

để làm sao thực hiện tốt hơn công tác này, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển,

tạo nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước.

2.7. Phối hợp giữa liên ngành tài chính và công an để có biện pháp chống hoá đơn

giả, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm:

Hiện nay các ĐTNT không chỉ trốn thuế mà còn cao tay hơn là moi tiền của

Nhà nước tới hàng tỷ đồng chứng tỏ họ rất coi thường pháp luật. Hiện tượng này cần

phải được nghiêm trị và truy tố trước pháp luật. Đây là việc hết sức cần thiết vì chỉ có

pháp luật mới nghiêm trị được những kẻ cố tình vi phạm, gây thất thoát tiền của

Ngân sách. Chỉ có pháp luật mới làm cho trật tự xã hội không bị đảo lộn, tạo nên sự

trong sạch cho ngành thuế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và góp phần tạo được

nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước.

2.8. Đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thuế:

Chúng ta biết rằng, không phải cán bộ thuế nào cũng giỏi về nghiệp vụ chuyên

môn nên việc mở các lớp tập huấn cho cán bộ thuế là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối

với công tác hoàn thuế GTGT. Nếu như trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế được

nâng cao thì việc kiểm tra xem xét hồ sơ hoàn thuế sẽ tiến hành nhanh chóng và

chính xác. Đồng thời những kẽ hở trong chính sách được các doanh nghiệp lợi dụng

sẽ bị phát hiện. Tuy nhiên trên thực tế có không ít các vụ phanh phui gian lận hồ sơ

để hoàn thuế lại do công an kinh tế phát hiện, còn qua việc kiểm tra hồ sơ thì cán bộ

thuế lại không phát hiện được. Điều này chứng tỏ trình độ của cán bộ thuế chưa cao.

Vì vậy, cần thiết phải mở các lớp tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn

cho các cán bộ thuế bao gồm: chính sách chế độ, nghiệp vụ hành thu, kế toán, máy vi

tính, ngoại ngữ,.. để giúp cho công tác hoàn thuế được thực hiện theo đúng quy định,

đảm bảo chính xác, tránh tình trạng gian lận hồ sơ của các doanh nghiệp và phát huy

tác dụng của hoàn thuế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh

doanh, hoà nhập với nền kinh tế phát triển của các nước trên thế giới.

Trên đây là một số biện pháp mà chúng ta cần phải thực hiện để hoàn thiện hơn

nữa công tác hoàn thuế GTGT tại Cục thuế Hà Nội cũng như đối với khối doanh

nghiệp Công nghiệp trên địa bàn.

3. Một số kiến nghị:

3.1. Đối với Chính Phủ:

* Ban hành một hệ thống văn bản pháp quy thống nhất các qui định về quản lý,

sử dụng và xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng hoá đơn, thay thế cho

các văn bản hiện hành qui định về vấn đề này. Qui định chi tiết các loại hoá đơn

không hợp pháp, hình thức xử lý từng loại theo như nhóm hành vi vi phạm về hoá

đơn.

* Bãi bỏ hoặc sửa đổi một số qui định về quản lý, sử dụng hoá đơn không hợp

lý hoặc có sơ hở dễ bị lợi dụng, cụ thể:

- Bãi bỏ qui định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo bảng kê hàng hoá mua

vào đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến.

- Bãi bỏ qui định về lập hoá đơn theo số hàng hoá trên bảng kê bán lẻ. Để bảng

kê 06/GTGT được sử dụng làm căn cứ tính thuế, có qui định quản lý đối với chứng từ

này.

- Bổ sung qui định: các tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng hoá đơn bán hàng

mẫu 02/GTGT cũng phải lập bảng kê hoá đơn bán hàng và bảng kê hoá đơn mua

hàng như các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.

- Đối với các hộ kinh doanh nộp thuế khoán: cùng với chủ trương sửa đổi qui

định về thuế GTGT theo hướng các hộ kinh doanh nộp thuế khoán sẽ chuyển sang áp

dụng thu theo tỷ lệ cố định trên doanh thu cần bổ sung qui định về việc sử dụng hoá

đơn riêng của các hộ này theo hướng: hoá đơn bán hàng của nhóm đối tượng này chỉ

được tính vào chi phí sản xuất. Trước mắt chỉ nên duy trì việc sử dụng hoá đơn đối

với các hộ tính thuế theo phương pháp trực tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo

qui định của chế độ kế toán hộ kinh doanh.

- Đối với một số ngành (điện lực, bưu điện, khách sạn, ngân hàng, xăng dầu...)

được qui định không phải lập bảng kê theo từng hoá đơn bán hàng (kê tổng hợp

doanh số bán trong ngày), cần qui định thêm về trách nhiệm cung cấp bản sao các

hoá đơn cần xác minh cho cơ quan thuế khi có yêu cầu và chế tài xử phạt khi làm mất

các liên lưu hoá đơn đó.

* Đề nghị Quốc hội, Chính phủ bổ sung vào Bộ luật hình sự tội phạm về:

- Hành vi in ấn, mua bán hoá đơn giả (hoá đơn không hợp pháp), giúp cho

doanh nghiệp khác lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ,

được hoàn thuế là hành vi giúp sức cho việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải bị xử lý

phù hợp với hành vi.

- Hành vi lập hồ sơ kê khai thuế GTGT được khấu trừ hoặc tăng thuế GTGT

được hoàn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước phải bị xử lý như hành vi

lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.

- Qui định doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản

lý kinh doanh, hạch toán kế toán, qui định nguyên tắc khai thác dữ liệu của các doanh

nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.

- Có Luật tố tụng về thuế, qui định cơ quan thuế có quyền điều tra, khởi tố các

vụ án chiếm đoạt tiền thuế.

- Đề nghị Quốc hội thu hẹp mức thuế suất còn 0%, 10%.

* Bổ sung qui định về việc tổ chức, cá nhân thu mua nông, lâm, thuỷ hải sản

chưa qua chế biến của người sản xuất không sử dụng hoá đơn, thì người mua phải lập

“hoá đơn thu mua hàng” để giao cho người bán hàng, thay cho việc sử dụng bảng kê

như hiện nay. Biện pháp này vừa ngăn chặn được tiêu cực do khấu trừ khống thuế,

vừa có căn cứ để kiểm tra việc kê khai thuế và giá trị hàng mua vào của các doanh

nghiệp (NĐ 89 7/11/02).

* Đề xuất Chính phủ qui định về việc xác minh tính hiện thực của doanh nghiệp

trước khi cấp Giấy phép kinh doanh (về trụ sở, về khả năng, điều kiện của bộ máy

quản lý...) để hạn chế việc thành lập doanh nghiệp “ma” kinh doanh trốn thuế.

* Đề xuất Chính phủ ký các Hiệp định song phương, đa phương với các quốc

gia láng giềng có chung biên giới, các nước trong khu vực để tăng cường việc phối

hợp, hỗ trợ điều tra, xác minh làm rõ các sai phạm trong hoạt động xuất khẩu hàng

hoá xin hoàn thuế.

3.2. Đối với Bộ tài chính:

- Tổ chức thực hiện mở thưởng đối với hoá đơn mua hàng của người tiêu dùng

cuối cùng để khuyến khích người tiêu dùng yêu cầu người bán hàng phải lập hoá

đơn. Đây là một biện pháp một số nước trong khu vực đã và đang áp dụng nhằm tăng

thu, chống khai man, trốn thuế và góp phần giáo dục ý thức chấp hành chính sách về

thuế đối với quần chúng nhân dân.

- Thay đổi mẫu phiếu mua hoá đơn: có ảnh chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh

doanh, in tóm tắt các qui định về quản lý, sử dụng hoá đơn để nhắc nhở đối tượng sử

dụng hoá đơn chấp hành đúng qui định.

- Thực hiện quản lý các tổ chức, cá nhân kinh doanh bằng biện pháp lập sơ

đồ (hoặc sổ) trụ sở kinh doanh theo đường phố, thôn xóm. Biện pháp này vừa giúp

cho việc quản lý hoá đơn được tốt hơn, hạn chế đến mức thấp nhất việc lập doanh

nghiệp ma để mua hoá đơn.

- Mẫu giấy chứng nhận đăng ký thuế hiện nay quá đơn giản, không hỗ trợ

được công tác quản lý thu thuế vì chỉ có các chỉ tiêu: mã số thuế, tên đối tượng nộp

thuế, số đăng ký kinh doanh và ngày đăng ký thuế. Đề nghị bổ sung thêm các yếu tố

sau: giấy chứng nhận đăng ký thuế phải có dán ảnh chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh

doanh, ngành nghề kinh doanh, số đăng ký kinh doanh, đã đăng ký kinh doanh ở đâu

chưa, đăng ký kinh doanh lần thứ mấy để hỗ trợ công tác kiểm tra, kiểm soát việc cấp

đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời hạn chế việc một cá nhân thành

lập nhiều công ty ở các tỉnh khác nhau để kinh doanh hoá đơn hoặc hợp thức hoá chi

phí và thuế GTGT đầu vào.

- Mở rộng đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt đối tượng không chịu thuế

GTGT.

- Chuyển các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ sang áp dụng hình thức thu thuế

đơn giản theo tỷ lệ % trên doanh thu như hầu hết các nước trên thế giới đã làm.

- Điều chỉnh thuế suất thuế GTGT hợp lý, tối đa còn 02 mức thuế suất (0%

và 10%).

- Áp dụng thống nhất 1 phương pháp tính thuế (theo phương pháp khấu trừ

thuế)

- Thu hẹp đối tượng hoàn thuế đối với trường hợp xuất khẩu hàng hoá và

dịch vụ.

- Có qui định phù hợp để xử lý các trường hợp chiếm đoạt tài sản của Nhà

nước bằng hình thức khấu trừ thuế, hoàn thuế, các trường hợp không thực hiện nhiệm

vụ thu thuế hoặc thực hiện không đầy đủ.

- Đối với các hoá đơn hàng hoá, dịch vụ có số thuế được khấu trừ hay được

hoàn chi thực hiện sau khi xác định số thuế đó đã được kê khai của đơn vị bán hàng

thông qua việc đối chiếu.

Các doanh nghiệp xuất khẩu muốn được hưởng thuế suất 0% và hoàn thuế

GTGT đối với hàng xuất khẩu phải có đủ thủ tục liên quan đến hàng xuất khẩu như:

hợp đồng xuất khẩu, tờ khai hải quan xác nhận hàng hoá thực xuất, chứng từ thanh

toán hàng xuất khẩu.

Sửa đổi về thời gian hoàn thuế: trên cơ sở phân loại hồ sơ theo tính chất

phức tạp của vụ việc, qui định thời gian tối thiểu là 20 ngày làm việc thực tế (khoảng

1 tháng) và thời gian tối đa là 60 ngày làm việc thực tế (khoảng 3 tháng) để đáp ứng

điều kiện thời gian trong trường hợp phải kiểm tra xác minh hồ sơ hoàn thuế.

Về khấu trừ thuế: đề nghị huỷ bỏ qui định về khấu trừ thuế theo tỷ lệ % đối

với hàng hoá, dịch vụ mua vào không có hoá đơn GTGT.

* Ban hành quy chế hoàn thuế GTGT:

- Đề xuất Chính phủ ban hành qui định nghiệp vụ thanh toán giữa các doanh

nghiệp, cá nhân phải được thực hiện theo phương thức thanh toán không dùng tiền

mặt thông qua hệ thống ngân hàng.

- Đề xuất Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh điều tra vụ án hình

sự, bổ sung chức năng điều tra, khởi tố các vụ án hình sự trong lĩnh vực thuế để cơ

quan thuế chủ động trong công tác quản lý thuế, đẩy mạnh kỷ cương, ý thức chấp

hành pháp luật thuế của các đối tượng nộp thuế.

- Đề xuất Chính phủ thành lập cơ quan cưỡng chế thuế thuộc Tổng cục thuế.

* Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp sử dụng NSNN, kiến nghị BTC

qui định khi quyết toán tài chính năm phải lập bảng kê hoá đơn mua hàng hoá, dịch

vụ để cơ quan quản lý Nhà nước có thể phối hợp với cơ quan thuế đối chiếu chéo,

kiểm soát việc sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp và việc chi tiêu ngân sách cảu

các đơn vị hành chính sự nghiệp.

- Nâng cao chất lượng hoá đơn do BTC phát hành nhằm chống làm giả.

- Huỷ bỏ loại hoá đơn GTGT 2 liên vì không phù hợp với yêu cầu của thuế

GTGT do thiếu một liên làm chứng từ hạch toán kế toán đối với các đối tượng nộp

thuế GTGT.

3.3. Đối với Tổng Cục thuế:

* Ban hành quy chế hoàn thuế GTGT:

- Phân loại đối tượng hoàn thuế GTGT: thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra

sau đối với các cơ sở SXKD thực hiện tốt các qui định của Luật thuế, thực hiện kiểm

tra trước khi hoàn thuế đối với các Cơ sở SXKD vi phạm các qui định của Luật thuế,

chế độ hoá đơn chứng từ, có dấu hiệu bất thường trong SXKD, các cơ sở SXKD mới

thàh lập xin hoàn thuế lần đầu.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, phát hiện và xử lý kịp

thời các trường hợp vi phạm hoàn thuế GTGT: tổ chức lại bộ máy quản lý thuế, qui

định rõ trách nhiệm cán bộ thuế trong việc xử lý hoàn thuế, tăng cường cán bộ có

trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế,

tổ chức tập huấn thanh tra sau hoàn thuế.

- Thực hiện đóng dấu tên và mã số thuế của doanh nghiệp tại cơ quan thuế

đem về sử dụng, tăng cường tổ chức kiểm tra, đối chiếu chéo hoá đơn giữa doanh

nghiệp mua và doanh nghiệp bán: phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp mua bán

hoá đơn, lập hoá đơn khống, khuyến khích các cơ sở SXKD tự in hoá đơn để sử

dụng.

- Đối với tất cả các doanh nghiệp khi mua hoá đơn, ngoài văn thư mua hoá

đơn doanh nghiệp còn phải có các giấy tờ kèm theo (nhưng giấy tờ này phải là bản

sao có công chứng): giấy phép đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký thuế,

giấy tờ về sở hữu nhà, đất là trụ sở, văn phòng công ty hoặc hợp đồng thuê trụ sở,

văn phòng còn hiệu lực. Doanh nghiệp phải trình bản gốc để đối chiếu khi cần thiết.

Ngoài ra người trực tiếp đi mua hoá đơn phải có nghĩa vụ trình giấy chứng minh

nhân dân.

- Đối với doanh nghiệp mới thành lập thì bán hoá đơn hạn chế.

- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân SXKD đăng ký sử dụng hoá đơn tự in:

Uỷ quyền cho Cục Thuế các tỉnh, thành phố duyệt mẫu hoá đơn tự in. Đồng thời cơ

quan thuế có qui định chặt chẽ về in, quản lý hoá đơn tự in.

- Mở rộng số lượng các nhà in được phép in hoá đơn cho các doanh nghiệp

có nhu cầu. Bãi bỏ việc chỉ định địa chỉ in như hiện nay, thay bằng việc đưa ra danh

sách các nhà in được phép in hoá đơn cho doanh nghiệp tự chọn. Đồng thời qui định

các nhà in phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ với cơ quan thuế về các loại hoá

đơn đã in trong kỳ. Qui định này nhằm đối soát với việc đăng ký hoá đơn sử dụng,

ngăn ngừa việc in trùng, in thừa, sử dụng hoá đơn nhưng không đăng ký của các

doanh nghiệp.

- Đối với hoá đơn tài chính, cơ quan thuế có qui định về việc bắt buộc phải

ghi tên của các tổ chức, cá nhân sử dụng hoá đơn ngay sau khi mua hoá đơn tại cơ

quan thuế. Biện pháp này hiện đang triển khai thực hiện tại các địa phương.

- Tăng cường lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra về thuế. Trước mắt

tập trung kiểm tra các doanh nghiệp có số thuế đề nghị khấu trừ hoặc hoàn thuế lớn

hoặc có biểu hiện gian lận trong kê khai thuế, có vi phạm trong việc quản lý, sử dụng

hoá đơn. Kiến nghị Nhà nước tăng cường kiểm tra việc sử dụng NSNN trong khu vực

hành chính sự nghiệp để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm qui định

về sử dụng hoá đơn trong thanh toán, quyết toán tài chính.

- Phối hợp với Cơ quan công an phát hiện các tổ chức, cá nhân in và lưu

hành hoá đơn giả, đề nghị truy tố trước pháp luật.

- Khẩn trương xây dựng mạng vi tính toàn quốc về việc quản lý, sử dụng

hoá đơn phục vụ việc đối chiếu chéo hoá đơn nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính xác

trong kê khai khấu trừ thuế, nộp thuế của các tổ chức, cá nhân trong toàn quốc, khắc

phục tình trạng đối chiếu thủ công, hạn chế tới mức thấp nhất sự thất thoát về thuế.

- Phối hợp với các Bộ, ngành, các địa phương trong việc thực hiện các biện

pháp tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm

minh các trường hợp khai man hồ sơ, hoá đơn, chứng từ để lập hồ sơ hoàn thuế rút

tiền NSNN.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu các vấn đề về công tác quản lý thu thuế từ trước đến nay luôn là

vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp vì nó liên quan đến quan hệ lợi ích và diễn ra

trong một không gian rộng, thời gian dài, liên quan đến nhiều tầng lớp xã hội khác

nhau. Một vấn đề như hoàn thuế GTGT thì tính chất phức tạp lại càng lớn. Với khả

năng hiểu biết có hạn, em đã cố gắng phân tích tình hình thực hiện công tác hoàn

thuế tại Cục thuế Hà Nội, và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác

này.

Tuy nhiên, để các giải pháp này phát huy hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống đòi

hỏi không chỉ nỗ lực của riêng ngành thuế mà còn là sự đổi mới đồng bộ của cả hệ

thống quản lý Nhà nước, trong đó chính quyền và công an là những khâu then chốt.

Mong muốn lớn nhất của em là một đề xuất nhỏ của chuyên đề phát huy được

tác dụng trong thực tiễn công tác quản lý thu thuế của Cục thuế Hà Nội và của ngành

thuế Nhà nước, góp phần nâng cao vai trò của thuế trong hoạt động sản xuất kinh

doanh, tạo nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước.

Để chuyên đề có được kết quả như trên, em xin chân thành cám ơn thầy Nguyễn

Hữu Tài, cô Nguyễn Hồng Hà, cô Bùi Mai Vân, cùng toàn thể các cô chú tại phòng

quản lý doanh nghiệp Nhà nước số 2 nói riêng cũng như các cô chú tại Cục thuế Hà

Nội nói chung đã quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn cho em hoàn thành chuyên đề này.

Tuy nhiên, do trình độ của em còn hạn chế, thời gian thực tập lại có hạn nên chuyên

đề không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm.

Em rất mong được sự chỉ dẫn, góp ý của các thầy cô giáo, các nhà quản lý và

các độc giả có sự quan tâm tới lĩnh vực này để có thể tiếp tục bổ sung, chỉnh lý cho

chuyên đề được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình thuế Nhà nước - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội

2. Những điều cần biết về thuế GTGT: NXB Tài Chính năm 2003

3. Hệ thống văn bản pháp quy về thuế và kế toán thuế GTGT

4. Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2005, 2006 của Phòng quản lý DNNN số 2

thuộc Cục thuế Hà Nội

5. Căn cứ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT số 07/2003/QH11 ngày

17/6/2003

6. Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế

GTGT

7. Tài liệu hội thảo Việt Nam - Đan Mạch về hoàn thuế GTGT

8. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ - Tổng Cục thuế

9. Tạp chí thuế Nhà nước, thuế Hà Nội, thời báo Tài chính Việt Nam

10. Luật sư Nguyễn Trọng Hạnh: "Chứng từ hoá đơn và vấn nạn gian lận trong

hoàn thuế GTGT"

11. Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Gian lận trong khấu trừ thuế, hoàn thuế và hướng

hoàn thiện thuế GTGT trong tiến trình hội nhập AFTA (CEPT)" - tháng 1/2003

12. TS. Phan Mỹ Hạnh - Trường ĐH Kinh tế tp.Hồ Chí Minh: "Gian lận trong khấu

trừ, hoàn thuế GTGT thông qua chứng từ, hoá đơn khống và nguy cơ thất thoát

Ngân sách Nhà nước.

13. TH.S. Trần Anh Tuấn & CN. Châu Quốc An - Đoàn Luật sư tp.Hồ Chí Minh:

"Những bất cập trong phương pháp tính thuế và quy trình hoàn thuế GTGT"

14. TH.S. Trần Hải Hiệp - Phó trưởng khoa tài chính Nhà nước: "Khấu trừ và hoàn

thuế GTGT - Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện"

15. TH.S Võ Thế Hào - Phó Bộ môn NS - thuế - ĐH Kinh tế tp.Hồ Chí Minh: "Vấn

đề hoàn thuế GTGT ở nước ta hiện nay"

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOÀN THUẾ VÀ HOÀN THUẾ GTGT ........ 3

1. Lí luận chung về hoàn thuế .................................................................................... 3

1.1. Khái niệm ........................................................................................................... 3

1.2. Mục đích của hoàn thuế ...................................................................................... 3

1.3. Các yêu cầu cần thiết của công tác hoàn thuế ...................................................... 4

1.3.1. Yêu cầu đối với đối tượng nộp thuế (ĐTNT) ................................................... 4

1.3.2. Yêu cầu đối với cơ quan thuế ........................................................................... 5

2. Thuế GTGT và hoàn thuế GTGT theo quy định hiện hành ở Việt Nam ................. 5

2.1. Một số vấn đề cơ bản về thuế GTGT .................................................................. 5

2.1.1. Khái niệm, bản chất ......................................................................................... 5

2.1.2. Đặc điểm cơ bản của thuế GTGT ..................................................................... 6

2.1.3. Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam .......................... 8

2.1.4. Tác dụng của thuế GTGT................................................................................. 14

2.2. Hoàn thuế GTGT và sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT ở

nước ta hiện nay ........................................................................................................ 15

2.2.1. Hoàn thuế GTGT ............................................................................................. 15

2.2.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT ở nước ta hiện nay ...... 27

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác hoàn thuế GTGT ......................................... 29

2.3.1. Nhân tố chủ quan (cơ quan thuế) ..................................................................... 29

2.3.2. Nhân tố khách quan ......................................................................................... 31

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HOÀN THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC

DOANH NGHIỆP THUỘC KHỐI CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘi ....... 33

1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lý thu thuế

GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội ........... 33

1.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc khối công

nghiệp ....................................................................................................................... 33

1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thu thuế GTGT tại Cục thuế Hà Nội .................. 34

1.2.1. Phòng quản lý thu ............................................................................................ 34

1.2.2. Phòng máy tính ................................................................................................ 34

1.2.3. Phòng kế hoạch kế toán thống kê ..................................................................... 35

1.2.4. Phòng thanh tra xử lý tố tụng ........................................................................... 35

1.2.5. Phòng nghiệp vụ thuế ...................................................................................... 35

1.2.6. Phòng quản lý ấn chỉ ........................................................................................ 35

1.2.7. Phòng hành chính ............................................................................................ 35

2. Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối công

nghiệp tại Cục thuế Hà Nội........................................................................................ 36

2.1. Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT ....................................................... 36

2.1.1. Kết quả thu Ngân sách ..................................................................................... 36

2.1.2. Quản lý đối tượng nộp thuế .............................................................................. 39

2.2. Công tác hoàn thuế ............................................................................................. 40

2.2.1. Quản lý hồ sơ hoàn thuế .................................................................................. 40

2.2.2. Quản lý đối tượng hoàn thuế ............................................................................ 42

2.2.3. Công tác thực hiện quy trình hoàn thuế ............................................................ 44

2.3. Một số vấn đề tồn tại trong việc giải quyết hoàn thuế đối với các doanh nghiệp

thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội .............................................................. 45

2.3.1. Về hồ sơ hoàn thuế .......................................................................................... 45

2.3.2. Về đối tượng hoàn thuế .................................................................................... 46

2.3.3. Về hoá đơn, chứng từ ....................................................................................... 47

2.3.4. Về kiểm tra sau hoàn thuế ................................................................................ 49

2.3.5. Về quy trình hoàn thuế ........................................................................... 50

2.4. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác hoàn thuế ................................... 51

2.4.1. Các doanh nghiệp không hiểu rõ về Luật thuế GTGT ...................................... 51

2.4.2. Thiếu sự triển khai đồng bộ, làm việc không thống nhất theo quy định giữa

các ngành và các cơ quan quản lý .............................................................................. 51

2.4.3. Thiếu phương tiện để tuyên truyền hướng dẫn nộp thuế ................................... 53

2.4.4. Các doanh nghiệp còn thiếu tinh thần tự giác trong việc kê khai và hoàn thuế

GTGT ........................................................................................................................ 53

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HOÀN

THUẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC KHỐI CÔNG NGHIỆP TRÊN

ĐỊA BÀN HÀ NỘI.................................................................................................... 54

1. Định hướng hoạt động của Cục thuế Hà Nội (chủ yếu về quản lý thuế GTGT) ...... 54

2. Những giải pháp hoàn thiện ................................................................................... 57

2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đến các ĐTNT và mọi tầng

lớp nhân dân .............................................................................................................. 57

2.2. Tăng cường nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các ĐTNT .... 57

2.3. Tăng cường quản lý hoá đơn, chứng từ; đưa việc thực hiện các chế độ hoá đơn,

chứng từ, sổ sách kế toán vào nề nếp, kỷ cương......................................................... 58

2.4. Chú trọng đến công tác kiểm tra hoàn thuế ......................................................... 60

2.4.1. Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý của bộ hồ sơ hoàn thuế ........................................ 60

2.4.2. Tăng cường công tác kiểm tra sau hoàn thuế .................................................... 62

2.5. Cải tiến thủ tục hành chính, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa quy trình hoàn thuế

GTGT đã ban hành .................................................................................................... 65

2.6. Tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp việc ghi chép, sử dụng hoá đơn,

chứng từ theo đúng quy định ..................................................................................... 64

2.7. Phối hợp giữa liên ngành tài chính và công an để có biện pháp chống hoá đơn

giả, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm ................................................................. 64

2.8. Đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thuế ................. 65

3. Một số kiến nghị .................................................................................................... 65

3.1. Đối với Chính Phủ .............................................................................................. 65

3.2. Đối với Bộ tài chính ........................................................................................... 67

3.3. Đối với Tổng Cục thuế ....................................................................................... 70

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO