13
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 254- Tháng 7. 2023
Hoàn thiện hành lang pháp về thương mại điện tử
Việt Nam
Đinh Văn Linh, Hoàng Văn Thành
Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 16/03/2023 Ngày nhận bản sửa: 21/04/2023 Ngày duyệt đăng: 18/05/2023
Tóm tắt: Hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ngày càng phát huy vai trò
trong việc điều chỉnh các quan hệ trong không gian ảo. Hệ thống pháp luật này
giúp nhà nước điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử theo các quy luật
khách quan và đảm bảo được lợi ích của các bên khi tham gia vào thương mại
điện tử. Bài nghiên cứu đánh giá các quy định về thương mại điện tử tại Việt
Nam kể từ thời điểm Nghị định số 52/2013/NĐ-CP hiệu lực thi hành cho
tới nay. Sử dụng phương pháp phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu
thuyết, bài viết chỉ ra: (1) Khó khăn trong việc bảo vệ thông tin nhân của
các chủ thể tham gia thương mại điện tử; (2) Vướng mắc về quy định thông
tin về hàng hóa, dịch vụ trên sàn giao dịch điện tử; (3) Sự không rõ ràng trong
quy định về công bố danh sách các website thương mại điện tử hành vi vi
Improving the current legal system on e-commerce in Vietnam
Abstract: The current legal system on e-commerce plays an increasingly important role in regulating
relationships in virtual space. This legal system helps the state regulate e-commerce relations according to
objective laws and ensure the interests of the parties when participating in e-commerce. This study evaluates
the regulations on e-commerce in Vietnam since the effective date of Decree No. 52/2013/ND-CP until now.
Using the Desk Research method and Theoretical Research method, the results are as follows: (1) Difficulty
in protecting personal information of subjects participating in e-commerce; (2) Problems with regulations
on information about goods and services on the electronic trading floor; (3) The ambiguity in regulations
on publishing the list of e-commerce websites with violations and regulations on handling violations in the
field of e-commerce. The results of this study will provide suggestions for improving the legal framework for
e-commerce.
Keywords: E-commerce, legal, Vietnam.
Doi: 10.59276/TCKHDT.2023.07.2512
Dinh, Van Linh 1, Hoang, Van Thanh 2
Email: linhdv@hvnh.edu.vn1, thanhhv@hvnh.edu.vn2
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
Hoàn thiện hành lang pháp lý về thương mại điện tử ở Việt Nam
14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 254- Tháng 7. 2023
phạm và quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử. Kết quả
của nghiên cứu này sẽ đưa ra những gợi ý nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho
thương mại điện tử tại Việt Nam.
Từ khoá: Thương mại điện tử, Pháp luật, Việt Nam
1. Giới thiệu
Cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ, thương mại điện tử (TMĐT) ngày
càng phát triển đóng góp vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế, hội của
các quốc gia. Về bản chất pháp lý, theo
quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định
số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của
Chính phủ về TMĐT (Nghị định số 52)
thì: “Hoạt động TMĐT việc tiến hành
một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt
động thương mại bằng phương tiện điện tử
kết nối với mạng Internet, mạng viễn
thông di động hoặc các mạng mở khác”.
Như vậy, hành vi tiến hành các hoạt động
TMĐT hành vi thương mại. Theo đó, đây
một hành vi do các thương nhân (pháp
nhân, thể nhân) thực hiện liên tục, thường
xuyên, nhằm mục đích sinh lợi. Điểm khác
biệt giữa hành vi tiến hành các hoạt động
TMĐT với hành vi thương mại theo quan
niệm truyền thống môi trường diễn ra
hành vi. Trong khi hành vi thương mại theo
quan niệm truyền thống được tiến hành
môi trường đời sống thực tiễn thì hành vi
các hoạt động thương mại được tiến hành
trong môi trường kết nối với mạng
Internet, mạng viễn thông di động hoặc các
mạng mở khác.
TMĐT lúc này đóng góp tỷ lệ lớn trong giá
trị của hoạt động kinh doanh, thương mại.
Đồng thời, TMĐT kéo theo sự phát triển
nhanh chóng của các sàn TMĐT, cùng với
đó hoạt động khởi nghiệp các quy
khác nhau của nhiều bộ phận, nhiều thành
phần trong hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những giá trị to lớn đó, hoạt động TMĐT
cũng bộc lộ nhiều hạn chế như vấn nạn
hàng giả, hàng nhái, vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ, tranh chấp phát sinh trong quá trình
giao kết thực hiện hợp đồng TMĐT...
Tất cả những vấn đề đó làm cho hoạt động
TMĐT trở thành chủ đề nóng được các
nhà lập pháp, các thương nhân cho tới các
nhà nghiên cứu pháp lý đặc biệt quan tâm.
Bài nghiên cứu đánh giá các quy định về
TMĐT tại Việt Nam kể từ thời điểm Nghị
định số 52 có hiệu lực thi hành cho tới nay.
2. Tổng quan nghiên cứu phương
pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Dưới góc độ pháp lý, thể kể đến những
công trình nghiên cứu về TMĐT tiêu biểu
sau đây:
Khi bàn về TMĐT, Nguyễn (2022), đã
chỉ ra đầy đủ chi tiết về hệ thống pháp
luật điều chỉnh hoạt động TMĐT, đặc biệt
liên quan tới hoạt động TMĐT trong Luật
Đầu tư năm 2020 và Luật Doanh nghiệp
2020. Đi sâu phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT.
Đặng Thị Hường (2018) nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, đối tượng được coi là yếu
thế trong mối quan hệ với chủ sàn TMĐT.
Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích thực
trạng của pháp luật Việt Nam điều chỉnh
hoạt động TMĐT, đánh giá những lỗ hổng
pháp hiện hành hình chung đang tạo
ĐINH VĂN LINH - HOÀNG VĂN THÀNH
15
Số 254- Tháng 7. 2023- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
hội cho hoạt động kinh doanh không
lành mạnh, xâm hại tới quyền lợi ích
hợp pháp của người tiêu dùng. Bên cạnh
đó, tác giả đặc biệt phân tích tình trạng xâm
phạm quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam
trong lĩnh vực TMĐT hiện nay, ảnh hưởng
của Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương trong việc hoàn
thiện khung pháp về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hợp đồng TMĐT tại
Việt Nam. Đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ
thống pháp luật nâng cao hiệu quả áp
dụng liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng tại Việt Nam trong hợp
đồng TMĐT dưới tác động của Hiệp định.
Tiếp tục nghiên cứu đến vấn đề bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
TMĐT, Nguyễn Thị Thu Hằng (2019) đi
sâu vào góc độ bảo vệ thông tin trong nhóm
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó,
trước tiên tác giả xuất phát từ vấn đề luận
về ý nghĩa, vai trò của việc bảo vệ thông tin
người tiêu dùng trong quan hệ TMĐT. Khi
xác lập các giao dịch TMĐT, người tiêu
dùng sẽ cung cấp rất nhiều các thông tin
nhân của mình từ tên tuổi, số căn cước
công dân, địa chỉ, số điện thoại cho đến các
thông tin về tài chính như số tài khoản ngân
hàng, số thẻ visa. Chính vì vậy, việc bảo vệ
thông tin của người tiêu dùng trở nên đặc
biệt quan trọng. Ngoài ra, tác giả cũng đã
làm các yếu tố chi phối hoạt động bảo vệ
thông tin nhân của người tiêu dùng trong
TMĐT, đồng thời khái quát khuynh hướng
điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề bảo
vệ thông tin nhân của người tiêu dùng
trong TMĐT.
Cùng chung quan điểm trên, Trần Đoàn
Hạnh (2019) cũng đã nhấn mạnh về sự
cần thiết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
nói chung bảo mật thông tin người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày
thực trạng phát triển TMĐT hoạt động
bảo đảm an toàn thông tin nhân trong
giao dịch TMĐT tại Việt Nam, đề xuất
biện pháp tăng cường hoạt động bảo đảm
an toàn thông tin nhân trong hoạt động
giao dịch này tại Việt Nam.
Dưới góc nhìn khác, Phạm Minh Huyền
(2020) đi sâu phân tích về vai trò của việc
bảo vệ quyền tác giả trong TMĐT. Từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo
vệ quyền tác giả trên nền tảng TMĐT.
Như vậy thể nhận thấy, pháp luật về
TMĐT chủ đề được rất nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đã công bố nhiều công
trình khoa học khác nhau. Các nghiên cứu
này đã tiếp cận các vấn đề từ luận về
TMĐT đến đánh giá thực trạng pháp luật
về TMĐT đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về TMĐT. Do vậy, các
quan niệm về TMĐT, quan điểm về hoàn
thiện pháp luật về TMĐT sẽ những kết
quả nghiên cứu được kế thừa trong nghiên
cứu này. Tuy nhiên, mặc có những đóng
góp nhất định đối với hoạt động nghiên
cứu về TMĐT, pháp luật về TMĐT,
nhưng các nghiên cứu trên đây còn chưa
giải quyết thấu đáo các quy định về việc
bảo mật thông tin nhân khi sự tham
gia của bên thứ ba (đại lý, môi giới, người
vận chuyển…) hoặc trong trường hợp hợp
đồng hiệu; các quy định về công bố
thông tin về hàng hoá, dịch vụ trên sàn giao
dịch điện tử; các quy định về công bố
danh sách các website TMĐT có hành vi vi
phạm quy định về xử vi phạm trong
lĩnh vực TMĐT. Việc nghiên cứu các
trường hợp trên giúp cho hành lang pháp
về TMĐT ngày càng hoàn thiện hơn, giúp
cho các chính sách pháp luật về TMĐT đi
vào thực tế. Do đó, nghiên cứu, luận giải,
nhận diện các vướng mắc trong thực tiễn
thi hành các quy định của pháp luật để từ
đó kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về các vấn đề trên ở Việt Nam là
điểm mới của nghiên cứu này so với các
Hoàn thiện hành lang pháp lý về thương mại điện tử ở Việt Nam
16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 254- Tháng 7. 2023
nghiên cứu trước đó.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu được dựa trên các sở sau
đây:
Nguyên tắc tự do kinh doanh, nguyên tắc
hiến định được quy định tại Điều 33 Hiến
pháp năm 2013, theo đó: “Mọi người
quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm”. Tuy nhiên,
khi thực hiện quyền này phải trong giới hạn
khuôn khổ của pháp luật.
Nguyên tắc bảo về quyền lợi người tiêu
dùng, theo đó tại Điều 4 Luật bảo vệ người
tiêu dùng năm 2010 quy định rõ: “Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trách nhiệm
chung của Nhà nước và toàn xã hội. Quyền
lợi của người tiêu dùng được tôn trọng
bảo vệ theo quy định của pháp luật
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải
được thực hiện kịp thời, công bằng, minh
bạch, đúng pháp luật”. Dựa trên cơ sở này,
Khoản 3 Điều 26 Nghị định số 52 quy định
về nguyên tắc xác định nghĩa vụ về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
TMĐT, theo đó: “Người sở hữu website
TMĐT bán hàng và người bán trên website
cung cấp dịch vụ TMĐT phải tuân thủ các
quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cho khách hàng”; “Trường hợp người bán
trực tiếp đăng thông tin về hàng hóa, dịch
vụ của mình trên website TMĐT thì thương
nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ TMĐT
thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng
không phải bên thứ ba cung cấp thông
tin theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng”.
Để tiến hành nghiên cứu, nhóm tác giả đã
sưu tầm các văn bản pháp luật TMĐT hiện
đang hiệu lực thi hành Việt Nam, sử
dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn
phương pháp nghiên cứu thuyết. Theo
đó, nhóm tác giả nghiên cứu hệ thống văn
bản pháp luật và các lý thuyết pháp luật; so
sánh các quy định pháp luật hiện hành với
các cơ sở lý thuyết, các học thuyết pháp
liên quan trong lĩnh vực TMĐT; thực hiện
đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành dựa trên các sở thuyết học
thuyết pháp lý đó để nhận diện những điểm
vướng mắc, hạn chế. Cuối cùng, nhóm tác
giả đề xuất các cách thức giải quyết các
vướng mắc, hạn chế đó.
3. Kết quả thảo luận về hành lang pháp
lý về thương mại điện tử ở Việt Nam
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, hiện nay
pháp luật TMĐT đang gặp các vấn đề lớn
như sau cần thảo luận, như: (1) Khó khăn
trong việc bảo vệ thông tin nhân của các
chủ thể tham gia TMĐT; (2) Vướng mắc về
quy định thông tin về hàng hóa, dịch vụ trên
sàn giao dịch điện tử; (3) Sự không ràng
trong quy định về công bố danh sách các
website TMĐT hành vi vi phạm quy
định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực TMĐT.
3.1. Khó khăn trong việc bảo vệ thông tin
cá nhân của các chủ thể tham gia thương
mại điện tử
Theo quy định tại Khoản 13 Điều 3 Nghị
định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013
của Chính phủ về TMĐT (Nghị định 52)
thì “Thông tin cá nhân là các thông tin góp
phần định danh một nhân cụ thể, bao
gồm tên, tuổi, địa chỉ nhà riêng, số điện
thoại, thông tin y tế, số tài khoản, thông
tin về các giao dịch thanh toán nhân
những thông tin khác nhân mong
muốn giữ bí mật”. Như vậy, theo quy định
này, các thông tin nhân của các chủ thể
tham gia TMĐT được pháp luật ghi nhận
bảo vệ. Tại Điều 68 Nghị định 52 quy
định trách nhiệm bảo vệ những thông tin
ĐINH VĂN LINH - HOÀNG VĂN THÀNH
17
Số 254- Tháng 7. 2023- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
này thuộc về các chủ thể thực hiện việc thu
thập thông tin. Trong trường hợp các chủ
thể này không trực tiếp tiến hành thì uỷ
quyền cho chủ thể khác. Trách nhiệm về
bảo vệ thông tin được thoả thuận trong
hợp đồng. Nếu không thoả thuận thì trách
nhiệm thuộc về chủ thể thực hiện việc thu
thập thông tin. Đây rõ ràng là một quy định
nhằm bảo vệ những thông tin nhân của
các chủ thể tham gia TMĐT.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu quy định trên,
phát sinh hai vướng mắc cụ thể như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm bảo vệ thông tin
nhân trong TMĐT thuộc về chủ thể nào khi
có sự tham gia của bên thứ ba.
Quy định tại Điều 68 Nghị định 52 trên thực
tế sẽ nảy sinh vướng mắc rất lớn. Cụ thể,
trong trường hợp chủ thể trực tiếp tiến hành
thu thập thông tin đã thu thập xong thông tin
(ví dụ: Bên bán hàng), sau đó thuê bên thứ
ba để thực hiện một công việc (ví dụ: vận
chuyển). Để giao được hàng cho khách hàng,
chủ thể trực tiếp tiến hành thu thập thông tin
(bên bán hàng) phải chuyển giao các thông
tin về khách hàng cho bên thứ ba (bên vận
chuyển). Lúc này, nếu dựa vào Điều 68 Nghị
định 52 thì trách nhiệm thuộc về chủ thể nào?
bên bán hay bên vận chuyển?
ràng, nếu dựa vào Điều 68 Nghị định
52 thì chắc chắn người tiến hành thu thập
thông tin (bên bán) phải chịu trách nhiệm
bảo vệ thông tin. Nhưng bên bán không uỷ
quyền cho bên vận chuyển thu thập thông
tin, do vậy bên vận chuyển không phải chịu
trách nhiệm về thông tin của khách hàng.
Nhưng trên thực tế, để giao được hàng hoá
cho khách thì bên vận chuyển đã có đầy đủ
các thông tin về khách hàng, thông tin
này được bên bán chuyển sang. Như vậy,
nếu bên vận chuyển mua, bán, hoặc chuyển
nhượng thông tin của khách hàng thì bên
vận chuyển phải chịu trách nhiệm
không? Nếu như quy định hiện hành thì
không. Như vậy, đây một khoảng trống
pháp cần phải làm rõ và hoàn thiện trong
thời gian tới.
Thứ hai, trong trường hợp hợp đồng
hiệu thì trách nhiệm bảo vệ thông tin
nhân trong TMĐT thuộc về chủ thể nào
Ở trường hợp khác, khi người trực tiếp thu
thập thông tin nhân (ví dụ người bán
hàng) hợp đồng với bên thứ ba bất kỳ
(ví dụ bên vận chuyển). Như vậy, quan hệ
pháp luật giữa người bán hàng và bên thứ 3
quan hệ hợp đồng (ví dụ trong trường hợp
này là hợp đồng vận chuyển). Vậy nếu hợp
đồng này bị vô hiệu, thì trách nhiệm bảo vệ
thông tin cá nhân trong TMĐT thuộc trách
nhiệm của bên nào? bên trực tiếp thu thập
thông tin (bên bán) hay bên thứ ba (bên vận
chuyển)? thì hiện nay quy định tại Điều 68
Nghị định 52 chưa thấy quy định rõ. Còn
nếu vận dụng quy định trong Bộ Luật dân
sự năm 2015 thì tại Khoản 1, 2 Điều 131
quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
giao dịch được xác lập; Khi giao dịch dân
sự hiệu thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những
đã nhận”. Như vậy, nếu hợp đồng không
hiệu thì trách nhiệm bảo vệ thông tin
cá nhân trong TMĐT sẽ được dịch chuyển
sang bên thứ ba (trong trường hợp uỷ
quyền thoả thuận rõ), còn trong trường
hợp hợp đồng hiệu thì bên thứ ba phải
chịu trách nhiệm không? Bởi vì, đành rằng
hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh hiệu
lực giữa bên thứ ba người trực tiếp thu
thập thông tin, nhưng bên thứ ba đã nắm
trong tay một phần hoặc toàn bộ thông tin
của khách hàng. Nếu không quy định trách
nhiệm trong trường hợp này thì thông tin
của nhân trong TMĐT không thể được
bảo vệ một cách đầy đủ được.
3.2. Vướng mắc về quy định thông tin về
hàng hóa, dịch vụ trên sàn giao dịch điện tử