
§ Ò ¸ n m«n häc
1
II
Đồ án
Kế hoạch sản
xuất và kế hoạch
dự trữ trong
doanh nghiệp

§ Ò ¸ n m«n häc
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Đất nước ta với hơn 70% dân số sống bằng nghề nông với trồng trọt
và chăn nuôi là chủ yếu. Trong các loại cây tròng mang lại thu nhập khá cao
trong đó có cây mía là nguyên liệu chủ yếu sản xuất ra sản phẩm đường. Sản
phẩm này thường không ổn định đã làm cho sản xuất đường đứng trong tình
trạng “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong khi nền kinh tế nước ta không ngừng
phát triển vượt bậc, do sự đóng góp lớn của sản phẩm nông nghiệp. Trong
đó đỉnh cao là xuất khẩu gạo và sản phẩm của một số cây công nghiệp. Còn
cây mía vẫn đang trong tình trạng trì trệ không được cải thiện thêm. Đến lúc
này chúng ta kêu gọi kế hoạch sản xuất đường liệu có phải là quá muộn
không? Dù sao chúng ta không thể để tình trạng này kéo dài. Đây là lý do
em chọn đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp đỡ em hoàn thiện đề án này.
Voí kién thức chưa đầy đủ của mình em mong thầy thông cảm cho em
những phần còn thiếu sót.

§ Ò ¸ n m«n häc
3
PHẦN NỘI DUNG
I . TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH TRONG DOANH NGHIỆP
1.Tổng quan vế doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về doanh nghiệp
Trong những năm qua thế giới nói chung và các tổ chức kinh tế nói
riêng đã từng trải qua những sự thay đổi nhanh chóng, cơ bản và quyết liệt
và đầy kịch tính hơn bất kỳ điều gì chúng ta đều có thể nghĩ đến. Quá trình
cạnh tranh toàn cầu, việc sử dụng rộng rãi mạng máy vi tính và thông tin
viễn thông, các chính sách mở rộng tự do của các nước trên thế giới, sự đổ
vỡ của bức tường Berlin từng chia cắt miền ĐôngTây nước Đức hàng nhiều
thập kỷ, cũng như sự biến động khôn lường của các nước Đông Âu. Rồi lại
dến các cuộc khủng bố vào các nước sừng sỏ đã biến điều bất thường trở
thành điều bình thuờng.Việt Nam với chính sách mở cửa, chuyển đổi nền
kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự
điều tiết của nhà nước đang vừa là động lực, vừa là cú sốc lớn cho nhiều
doanh nghiệp.
Vào năm 1995 nhà nước ban hành luật doanh nghiệp, trong bộ luật
này có giải thích “doanh nghiệp” là tổ chức có tên riêng, có tái sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Dựa trên các điều 1(luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20- 4- 1995),
điều 2 (luật doanh nghiệp tư nhân, ngày21-12-1990), điều 3 (luật công ty
ngày 21 - 12 - 1990), điều 4 (luật hợp tác xã, ngày 20 – 3 - 1996) có thể định
nghĩa doanh nghiệp như sau:
“Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do nhà nước hoặc các đoàn thể
tư nhân đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất

§ Ò ¸ n m«n häc
4
kinh doanh hoặc hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội của đất nước”
Theo luật doanh nghiệp (12 - 6 - 1999 - Nghị định số 03: Hướng dẫn
thực hiện luật doanh nghiệp 3-2-2000): Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế
có tên , có tái sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
qui định pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.Trong đó hoặt
động kinh doanh là công việc thực hiện một hoạc một số công đoạn sản
xuất, đến tiêu thụ cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Từ khái niệm trên ta thấy rằng: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh
tế.Tổ chức là một nhóm tối thiểu là hai người cùng hoạt động với nhau một
cách có quy củ theo những nguyên tắc, thể chế và các tiêu chuẩn (văn hoá)
nhất định, nhằm đặt ra mục tiêu chung. Như vậy một tổ chức có các đặc
trưng cơ bản sau đây:
+ Một nhóm người cùng hoặt động với nhau.
+ Có mục tiêu chung.
+ Được quản lý theo thể chế ,nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc
được quan niệm như là các chuẩn mực tiêu chuẩn cần thiết để điều hành tổ
chức một cách có trật tự nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Có nhiều loại tổ chức tuỳ theo mục đích phân loại, nếu xét theo tính
chất hoạt động sẽ có các tổ chức khác nhau: Tổ chức chính trị, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh doanh... Nếu xét theo mục tiêu sẽ có tổ chức nhằm mục
tiêu lợi nhuận và tổ chức nhằm mục tiêu phi lợi nhuận, xét theo tính tồn tại
thì sẽ có tổ chức ổn định và tổ chức tạm thời.
Vậy để xác định đâu là tổ chức kinh tế, chúng ta phải dựa vào mục
đích hoạt động của doanh nghiệp. Đây là điều cơ bản để ta phân biệt nó với
các tổ chức khác.

§ Ò ¸ n m«n häc
5
1.2.Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp
Vào năm 1986 Đaị Hội Đảng lần VI tuyên bố đường lối đổi mới bắt
đầu thực hiện chương trình đổi mới. Trước năm 1986 chúng ta đang nằm
trong cái bọc của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Phạm trù xí nghiệp được
sinh sôi nảy nở, nó được hiểu là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu
chung do nhà nước giao cho. Hoạt động sản xuất thụ động, trông chờ từ cấp
trên đưa xuống, với mục tiêt hoàn thành đúng, đủ, kịp thời số lượng từ trên
đưa xuống, không cần quan tâm đến khách hàng. Điều này dẫn đến khủng
hoảng kinh tế trầm trọng. Cái ngột ngạt của cơ chế cũ đã khiến cho làn gió
KTTT ùa vào đã làm thay đổi cục diện nền kinh tế. Mục tiêu hoạt động kinh
tế là tối đa hoá lợi nhuận. Đây là mục tiêu cuối cùng mà mọi doanh nghiệp
đều hướng tới. Để thực hiện được điều đó doanh nghiệp cần phải làm nhiều
mục tiêu trung gian khác nhau để đạt được mục tiêu cuối cùng đó. Các mục
tiêu trung gian chồng chéo lên nhau, để đạt được mục tiêu trung gian này lại
cần hoàn thành mục tiêu trung gian khác.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau song có thể khẳng định trong
cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp đều phải nhằm vào mục bao trùm, lâu
dài là tối đa hoá lợi nhuận. Chỉ trên cơ sở này doanh nghiệp mới đứng vững
trên trong cạnh tranh, có điều kiện thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải thiện
việc làm , nâng cao đời ích người lao động và thực hiện nghĩa vụ xã hội.
Một doanh nghiệp luôn phải theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau, hình
thành hệ thống mục tiêu, trong đó mục tiêu nâu dài là tối đa hoá lợi nhuận,
trong doanh nghiệp, nhiều bộ phận khác nhau cùng tham gia hoặc có ảnh
hưởng tới quá trính xác định mục tiêu: Chủ sở hữu, các nhà quản lý, tập thể
người lao động (nguồn lực ). Chính vì vậy trong suốt thời kỳ tồn tại cũng
như thời kỳ phát triển cụ thể hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp thường