Khám tiêu hoá
(Kỳ 2)
6. Khám họng:
Họng là ngã ba đường giữa hấp và tiêu hoá, thông với tai qua vòi
Ostatsơ (Eustache). Khi họng tổn thương ảnh hưởng tới nuốt, thở nghe (thường
thấy ù tai khi nói).
+ Cách khám: người bệnh miệng chiếu sáng họng bằng đèn pin, hay đèn
chiếu, dùng đẽ lưỡi nhẹ nhàng ấn vào lưỡi đè xuống ta quan sát hình thái niêm
mạc của họng.
+ Bình thường:
Phần trên “lưỡi gà” màn hầu, hai bên là tuyến hạnh nhân nằm giữa hai
cột trước và sau, phía sau là thành sau của họng
i màn hầu sẽ kéo lên trên bịt phần sau khi người ta nuốt. Tuyến
hạnh nhân bình thường nhỏ, nhẵn nằm lấp sau các cột. Nói chung niêm mạc của
hầu cũng màu hồng, ướt nhẵn.
+ Bệnh lý:
- Màn hầu bị liệt một hay hai bên khi nuốt không kéo lên được và gây sặc
lên mũi (gọi là dấu hiệu vén màn).
- “ Lưỡi gà” btách đôi: trong dị tật bẩm sinh.
- Tuyến hạnh nhân sưng to hang hốc, mủ giả mạc khi bị viêm cấp
hoặc viêm mạn tính.
- Thành sau họng có thể loét, có mủ, khối u giả mạc.
- Muốn quan sát thành trên ca m họng và lcủa vòi Ostatsơ cần phải
dùng gương đèn chiếu: thể thấy sùi vòm họng (VA) phần trên của vòm
họng và những tổn thương của lỗ vòi Ostatsơ.
7. Khám thực quản:
Thực quản sâu không khám trực tiếp được. Chỉ hỏi một số dấu hiệu
năng: nuốt khó, nuốt đau, trớ… tính chất gợi ý. Muốn biết chắc chắn phải tiến
hành: soi thực quản, chụp thực quản.
8. Khám hậu môn- trực tràng:
8.1. Khám hậu môn:
Đặt bệnh nhân nằm chân qùy hơi dạng, mông cao, đầu thấp, vai thấp (tư thế
gối ngực), mặc quần hổng đít hoặc tụt quần qua đùi. Thầy thuốc đứng đối diện
quan sát, dùng ngón tay banh các nếp nhăn của hậu môn và bo người bệnh rặn để
giãn cơ vòng, quan sát phần niêm mạc bên trong.
+ Bình thường: phần da của hậu môn nhẵn, các vết nhăn mềm và đều đặn
niêm mạc bên trong hồng và ướt.
+ Bệnh lý:
- Giữa các nếp nhăn lỗ rò: lrò thường rất nhỏ phải quan sát k mới
thấy, nếu nặn thấy mủ chảy ra. Hoặc thể thấy các vết xước giữa các nếp nhăn,
có khi thấy giun kim.
- Trĩ ngoại: thấy tĩnh mạch nổi to, ngoằn nghèo, khi thành từng búi chảy
máu và sưng đau.
- Sa trực tràng: khi một đoạn trực tràng tụt qua hậu môn ra ngoài, csát
nên đoạn trực tràng này thường khô và tổn thương. khi bình thường không
thấy, khi rặn mạnh mới lòi ra.
8.2. Khám trực tràng:
Đặt bệnh nhân nằm tư thế phủ phục như khám hậu môn hoặc nằm ngửa
chân co dạng rộng (tư thế sản khoa). Thầy thuốc đứng bên phải người bệnh.
Hoặc bệnh nhân nằm nghiêng thế Sim, khám cho bệnh nhân nặng. Thầy thuốc
dùng ngón tay chbao cao su thấm dầu paraphin đưa nhẹ nhàng ttvào
hậu môn người bệnh, thăm sự chứa đựng bên trong trực tràng, tình trạng niêm mạc
thành trước, sau và hai bên trực tràng.
+ Bình thường:
- Trực tràng rỗng, không đau khi ấn vào các túi cùng màng bụng (túi cùng
Douglas) niêm mạc mềm mại trơn, khi rút tay không có máu mủ theo tay ra.
- Nam giới: phía trước sờ thấy tuyến tiền liệt nhỏ bằng hạt đào giữa
một rãnh dọc nông, mật độ hơi chắc không đau, phía trên túi cùng hai
bên là túi tinh và niệu quản dưới nhưng không sờ thấy.
- Ngiới: qua thăm trực tràng phối hợp với tay đè ấn phía bụng ta thể
thấy một phần tử cung.
+ Bệnh lý:
- Những cục phân lổn nhổn có thể đẩy lên hoặc móc ra theo tay.
- Trĩ nội: thấy từng búi căng phồng và ngoằn nghèo dưới niêm mạc khi rút
tay ra có thchảy máu.
- Tuyến tiền liệt to n bình thường và cứng: u lành, u ác tính của tuyến
tiền liệt.
- Thành của trực tràng th những khối u to, nhỏ hoặc những mảng
cứng dễ chảy máu khi khám thường là ung thư trực tràng.
- Ngoài ra thsờ thấy những khối u hoặc hạch nằm gần trực tràng
vùng đáy chậu.
- Đặc biệt khi thăm trực tràng người ta thấy túi cùng Douglas căng phồng
và rất đau trong viêm màng bụng mủ, chảy máu ổ bụng do chửa ngoài dạ con vỡ.