BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
Mai Thị Hoài Thư
THỰC TRẠNG CHĂM SÓC
TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO CỦA
MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI TPHCM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Mai Thị Hoài Thư
THỰC TRẠNG CHĂM SÓC
TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN
SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI TPHCM
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: K38.611.109
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH MAI TRANG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2016
i
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Tâm lý học đã tạo điều kiện
cho tôi thực hiện khóa luận này. Chân thành cảm ơn Tiến sĩ Huỳnh Mai Trang
đã hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Viện Y dược học Dân tộc, Phòng
Đào tạo – Nghiên cứu khoa học – Chỉ đạo tuyến, các anh chị bác sĩ, nhân viên
y tế khoa Nội tim mạch – thần kinh, các BN&NCS bệnh nhân tai biến mạch
máu não tại Viện Y Dược học Dân tộc TPHCM đã tạo điều kiện cho tôi thu số
liệu thành công.
Xin chân thành bạn bè và tập thể lớp Tâm lý học 4B đặc biệt là các bạn
cùng làm khóa luận đã bên cạnh giúp đỡ, động viên trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận.
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... vii
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................. 1
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 1
1.1.1 Nước ngoài ............................................................................................ 1
1.1.2 Trong nước ............................................................................................ 8
1.2 Cơ sở lý luận ....................................................................................... 13
1.2.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài ......................................................... 13
1.2.2 Một số vấn đề lý luận có liên quan đến chăm sóc bệnh nhân TBMMN
............................................................................................................. 19
1.2.3 Đặc điểm tâm lý của bệnh nhân TBMMN .......................................... 21
1.2.4 Một số phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ... 27
TIỂU KẾT CHƯƠNG I .................................................................................. 31
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CHĂM SÓC
TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở
MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................... 32
2.1 Thể thức nghiên cứu ........................................................................... 32
2.1.1 Mẫu nghiên cứu .................................................................................. 32
2.1.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 33
2.1.3 Công cụ nghiên cứu ............................................................................ 33
2.1.4 Tiến trình nghiên cứu .......................................................................... 36
2.2 Kết quả nghiên cứu ............................................................................. 37
iii
2.2.1 Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát ..................................... 38
2.2.2 Thực trạng đánh giá của các đối tượng về chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân TBMMN: ................................................................................................ 51
2.2.3 Thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN .. 53
2.2.4 So sánh sự khác biệt theo các nhóm đối tượng khác nhau trong việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN: ................................................. 58
2.3 Đề xuất biện pháp ............................................................................... 61
TIỂU KẾT CHƯƠNG II ................................................................................. 63
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 71
Phụ lục 1 .......................................................................................................... 71
Phụ lục 2 .......................................................................................................... 83
Phụ lục 3: ......................................................................................................... 89
Phụ lục SPSS ................................................................................................. 100
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Tai biến mạch máu não TBMMN
Viện Y Dược Học Dân Tộc VYDHDT
Thành phố Hồ Chí Minh TPHCM
Bệnh nhân và người chăm sóc BN&NCS
Chăm sóc tinh thần CSTT
Vật lý trị liệu VLTL
Điểm trung bình ĐTB
Độ lệch chuẩn ĐLC
Thứ tự TT
Điểm trung bình điều hòa thang đo ĐTBĐHTĐ
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1.Đặc điểm mẫu nghiên cứu ............................................................... 32
Bảng 2.2Cách đánh giá điểm thang đo 5 mức độ ........................................... 37
Bảng 2.3 Cách đánh giá điểm thang đo 3 mức độ .......................................... 37
Bảng 2.4 Nhận định của nhóm y tế về việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN (N=13) ............................................................................................. 38
Bảng 2.5. Nhận định của BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN (N=22) ............................................................................................. 40
Bảng 2.6. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện trao đổi, giao tiếp với bệnh
nhân TBMMN (N=13) .................................................................................... 41
Bảng 2.7. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 42
Bảng 2.8. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện hỗ trợ nhu cầu tâm linh cho
bệnh nhân TBMMN ........................................................................................ 43
Bảng 2.9. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện liên quan đến vật lý trị liệu
trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................... 44
Bảng 2.10. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện trao đổi với bệnh nhân
TBMMN (N=22) ............................................................................................. 45
Bảng 2.11. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 46
Bảng 2.12. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện hỗ trợ tâm linh cho bệnh
nhân TBMMN ................................................................................................. 47
vi
Bảng 2.13. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện liên quan đến vật lý trị liệu
trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................... 48
Bảng 2.14. Sự khác biệt mức độ nhận thức giữa nhóm y tế và BN&NCS ..... 49
Bảng 2.15. Số lựa chọn đúng về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN ....... 51
Bảng 2.16. Mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh nhân TBMMN được
chăm sóc tinh thần một cách toàn diện ........................................................... 52
Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMMN trong việc
được chăm sóc tinh thần .................................................................................. 52
Bảng 2.18. Mức độ hài lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN ........................................................................................ 53
Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN .................................................. 54
Bảng 2.20. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh thần
cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát ........................................... 55
Bảng 2.21. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc tinh thần
và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát ......................................................... 57
Bảng 2.22. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 59
Bảng 2.23. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc chăm
sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ............................................................ 60
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới WHO tại Mỹ mỗi năm có
khoảng 795.000 người xảy ra đột quỵ, trong đó khoảng 610.000 là lần đầu
tiên. Đột quỵ là một trong 20 nguyên nhân gây ra tử vong hàng đầu tại Mỹ.
Đột quỵ do thiếu mãu não cục bộ là loại phổ biến nhất, trong đó chiếm
khoảng 87%.
Còn tại Việt Nam thì mỗi năm có hơn 200.000 người bị đột quỵ
(TBMMN), hơn 50% trong số đó tử vong và 90% số người sống sót sau đột
quỵ phải sống chung với các di chứng về thần kinh và vận động…Nghiêm
trọng hơn, độ tuổi bị TBMMN đang dần trẻ hóa, từ 40 - 45 tuổi so với trước
đây là 50 - 60 tuổi.
Nếu những năm 90, toàn cầu có khoảng 25% số ca đột quỵ ở người 20 –
64 tuổi thì những năm gần đây, con số này đã tăng lên 31%. Đáng lưu ý là
những người ở độ tuổi 20, thậm chí trẻ hơn cũng đang có nguy cơ bị đột quỵ.
Hiện con số thống kê cho nhóm đối tượng này khoảng 83.000 người/ năm.
Một người sau TBMMN bị ảnh hưởng như thế nào phụ thuộc vào cơn
đột quỵ của họ xảy ra ở đâu trên não và mức độ tổn thương của các tế bào não.
Ví dụ, một người bị 1 cơn đột quỵ nhỏ thì chỉ có thể chỉ bị yếu tạm thời của
một cánh tay hoặc chân. Những người bị đột quỵ nặng thì có thể bị tê liệt vĩnh
viễn ở một bên cơ thể của họ hoặc mất khả năng nói. Một số người hồi phục
hoàn toàn từ cơn đột quỵ, nhưng hơn 2/3 số người sống sót sẽ có một số loại
khuyết tật.
Qua những thống kê trên thì ta có thể thấy, bệnh đột quỵ hay còn gọi là
TBMMN là một bệnh vô cùng nguy hiểm và để lại các di chứng nặng nề.
Gánh nặng của việc chăm sóc những người sau TBMMN đè nặng lên vai
viii
người thân và xã hội. Do vậy, việc giúp phục hồi chức năng cho bệnh nhân
TBMMN vô cùng cần thiết.
Tác động đến việc phục hồi nhanh của bệnh nhân có thể do các phương
pháp vật lý trị liệu và chăm sóc tinh thần.
Nhưng thực tế hiện nay trong các cơ sở điều trị phục hồi chức năng cho
bệnh nhân TBMMN thì chỉ tập trung vào các phương pháp vật lý trị liệu như:
xoa bóp, kéo nắn, châm cứu… mà ít quan tâm đến những biến đổi tâm lý của
bệnh nhân.
Bệnh nhân sau TBMMN thường phải chịu cả những mất mát về vật chất
lẫn tinh thần. Bên cạnh tình trạng yếu liệt, giảm cảm giác hay rối loạn về nhận
thức, bệnh nhân phải gánh tác động rất lớn về tâm lý. Tâm lý con người có ý
nghĩa quyết định đến quá trình phát sinh bệnh, và cả quá trình phát triển, tiên
lượng, điều trị và chăm sóc. Để chấp nhận những tổn thương sau TBMMN,
bệnh nhân cần có hiểu biết và thời gian để thích nghi với nó. Tác động của
người cán bộ y tế một cách vô tình hay cố ý có thể làm thay đổi sự tiến triển
bệnh và kết quả điều trị.
Trên cơ sở đó, ta có thể thấy, quá trình chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả điều trị cho bệnh nhân. Xuất
phát từ yếu tố trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Thực trạng chăm sóc tinh thần
bệnh nhân sau tai biến mạch máu não của một số cơ sở y tế tại Thành Phố
Hồ Chí Minh”.
ix
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định thực trạng chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau TBMMN ở một
số cơ sở y tế tại TP.HCM, rút ra kết luận.
Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân sau TBMMN.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu:
Bác sỹ, nhân viên y tế, người chăm sóc và bệnh nhân TBMMN tại một số cơ
sở y tế.
Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trong quá trình điều trị cho bệnh nhân sau TBMMN thì điều trị bằng các
phương pháp vật lý trị liệu được sử dụng nhiều hơn so với việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích hệ, thống hóa cơ sở lý luận về chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân TBMMN.
Khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sau TBMMN ở
một số cơ sở y tế tại TP.HCM, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp tăng cường
hơn nữa việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau TBMMN.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
- Quan điểm hệ thống – cấu trúc
- Quan điểm thực tiễn
- Quan điểm lịch sử - logic
x
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và tổng hợp lý thuyết về việc chăm sóc tinh thần cho người sau
TBMMN
Phân loại, hệ thống hóa lý thuyết cần nghiên cứu.
Tổng hợp, khai thác các công tình khoa học đã được nghiên cứu, thực
nghiệm đã được chứng minh…
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Thu thập ý kiến về phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sau
TBMMN của các bác sỹ, y tá, bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân ở một số
cơ sở y tế.
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý các dữ liệu thu được từ việc thu thập
ý kiến bằng các phương pháp thống kê xác suất. Từ đó đưa ra kết luận.
- Phương pháp phỏng vấn.
Phỏng vấn một số nhân viên y tế, bệnh nhân, người nhà về phương pháp
chăm sóc tinh thần bệnh nhân ở một số cơ sở y tế.
1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Nước ngoài
Việc chú ý tới sự ảnh hưởng của các yếu tố tinh thần trong điều trị bệnh
cho các bệnh nhân đã được quan tâm từ lâu. Bệnh nhân được chú ý chăm sóc
tinh thần đầu tiên là những bệnh nhân hấp hối “hospice”.
“Hospices” ban đầu là nơi yên nghỉ dành cho du khách trong thế kỷ thứ
4. Vào thế kỷ 19 một dòng tu đã thành lập “hospices” cho người sắp chết ở
Ireland và London. “Hospice” hiện đại là một khái niệm tương đối mới được
bắt nguồn và phát triển trong Vương quốc Anh sau khi “St. Christopher’s
hospice” được thành lập vào năm 1967. Nó được thành lập bởi Dame Cicely
Saunders, bà được coi là người sáng lập của hoạt động “hospice” hiện đại
[44].
Mô hình truyền thống của chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân ban đầu
chỉ là một mô hình thuần y tế, tập trung nghiên cứu tiền sử của bệnh, tìm hiểu
cơ sở sinh lý của các triệu chứng, đưa ra các biện pháp để chữa khỏi bệnh,
tiếp theo là đo lường kết quả. Qua nhiều thập kỷ, mô hình này bộc lộ nhiều
khuyết điểm.
Theo tác giả Daniel P. Sulmasy tổng hợp trong cuốn “Mô hình tâm sinh
lý – tâm linh cho chăm sóc bệnh nhân cuối đời” (A Biopsychosocial-Spiritual
Model for the Care of Patients at the End of Life):
Năm 1970, Ramsey đã đưa ra một yếu tố mới, ông cho rằng: “Mỗi người
đều có một cái gọi là “tiền sử tinh thần” (spiritual history), nó sẽ được mở ra
trong một bối cảnh tôn giáo rõ ràng. Bất cứ khi nào cái “tiền sử tinh thần”
được khơi gợi, nó sẽ giúp định hình con người như là một cá thể hoàn thiện.
Khi nào con người đó bị các căn bệnh tấn công thì căn bệnh đó sẽ ảnh hưởng
lên toàn bộ con người.
2
George Engel (1977) đã đặt ra một tầm nhìn rộng lớn trong chăm sóc sức
khỏe cho bệnh nhân bằng cách đưa ra mô hình tâm sinh lý của mình
(biopsychosocial model). Mô hình này đưa ra giả định rằng sức khỏe và bệnh
tật đều là kết quả của tác động lẫn nhau giữa các yếu tố sinh học, tâm lý và
các tác nhân môi trường, và cả 3 yếu tố đều quan trọng ảnh hưởng đến sức
khỏe và bệnh tật. Mô hình hướng tới cả sức khỏe và bệnh tật chứ không chỉ
tập trung vào bệnh tật như độ lệch từ một số trạng thái ổn định. Mô hình này,
nó đặt bệnh nhân thẳng trong một mối quan hệ đó bao gồm các yếu tố tình
cảm và trạng thái tâm lý khác mà bệnh nhân được xem như một con người,
cũng như các mối quan hệ có ý nghĩa giữa bệnh nhân và những người xung
quanh.
White, Williamsvà Greenberg năm 1996 đã được giới thiệu một mô hình
sinh thái về chăm sóc bệnh nhân trong đó có quan tâm đến môi trường sinh
hoạt của bệnh nhân như là cơ sở của việc chăm sóc ban đầu cho bệnh nhân
[28].
Michael Balint và những cộng sự đã mô tả một cách tiếp cận khác nhau
để xét bệnh nhân, đầu tiên với tư cách là một con người, trong mối quan hệ
với gia đình, cộng đồng và nơi làm việc của họ. Cách tiếp cận này được biết
đến như là một cách tiếp cận toàn diện dễ dàng kết hợp vào quan điểm hiện
đại về chăm sóc bệnh nhân làm trung tâm, và các bệnh nhân như các đối tác
trong việc chăm sóc của họ. Ngoài ra thì người mà trở nên không khỏe có
những nhu cầu về xã hội và tâm lý. Đáp ứng những nhu cầu này sẽ cải thiện
sức khỏe của họ và giúp hồi phục. Nhu cầu tâm lý và xã hội của bệnh nhân
cũng cần phải được xem xét và giải quyết như là một phần của chăm sóc sức
khỏe toàn diện [28]. Việc chăm sóc tinh cho bệnh nhân còn được nghiên cứu
ở các lĩnh vực tâm linh. Sự kết hợp của tôn giáo và tâm linh vào chăm sóc
tâm lý là phù hợp với khuôn khổ tâm sinh lý từ nhiều nhà tâm lý học hoạt
3
động. Các quan điểm tâm sinh lý liên quan đến việc nhận ra các vấn đề của
bệnh nhân rất đa dạng, có những khía cạnh sinh học, tâm lý và xã hội (Bakal,
1999).
Có các nghiên cứu về tác động của tâm linh lên sức khỏe tinh thần theo
bài viết “Vị trí của tâm linh trong việc chăm sóc tinh thần cuối đời” (The
Place of Spirituality in Psychological End of Life Care) của 2 tác giả Erin L.
Moss và Keith Dobson. Các nhà nghiên cứu đã xác định tôn giáo như là một
biến quan trọng trong sức khỏe tinh thần (Koenig & Larson, 2001). Một đánh
giá toàn diện của Koenig, McCullough, & Larson (2001) chỉ ra rằng tôn giáo
có liên quan đến giảm tỷ lệ tự tử và thái độ tiêu cực hơn đối với hành vi tự tử.
Bài viết cũng đề cập đến các mối quan hệ giữa tâm linh và sức khỏe tâm
thần xuất hiện đặc biệt quan trọng trong trường hợp cần chăm sóc giảm
nhẹ. Ví dụ, Brady, Peterman, Fitchett, Mo và Cella (1999) đã nghiên cứu chất
lượng cuộc sống ở các cá nhân mắc bệnh ung thư hoặc HIV đã được chẩn
đoán là tính mạng bị đe dọa và thấy rằng có sự tỉ lệ thuận giữa mức độ của
tâm linh và khả năng chịu đựng đau đớn và mệt. Nghiên cứu này cũng chỉ ra
mối liên hệ ý nghĩa và tích cực giữa chất lượng cuộc sống và đời sống tinh
thần. Tương tự như vậy, Yates, Chalmer, St James, Follansbee, và McKegney
(1981) nhận thấy rằng những bệnh nhân ung thư, bệnh nan y người mà có
niềm tin vào Đấng tối cao, sự hiện diện của thế giới bên kia, sức mạnh của sự
cầu nguyện có mức đau thấp hơn so với những bệnh nhân không có tín
ngưỡng tâm linh mặc dù cả hai nhóm có mức độ đau tương tự.
Cũng trong bài viết “Vị trí của tâm linh trong việc chăm sóc tinh thần
cuối đời”. Tâm linh và tôn giáo cũng đã được tìm thấy có liên quan với sự lo
lắng và đau khổ ở mức độ thấp. McClain, Rosenfeld, và Breitbart (2003) nhận
thấy rằng đời sống tinh thần hạnh phúc được có tương quan nghịch với những
nỗi lo lắng cuối đời như tuyệt vọng, mong muốn cái chết và ý tưởng tự sát.
4
Một nghiên cứu khác (Dervic và các cộng sự, 2004) đã chứng minh rằng
những cá nhân có liên quan với tôn giáo có những nỗ lực đáng kể hơn trong
việc giảm ý muốn tự tử và nhận thức được nhiều lý do để sống hơn so với các
cá nhân không có liên quan tới tôn giáo. Khi bệnh nhân ở gần cuối của cuộc
đời, một số có thể trở nên chán nản hay mất tinh thần, bộc lộ một mong muốn
có một cái chết sớm, do đó có thể có nguy cơ cao xảy ra tự sát. Các bác sĩ
phải nhận thức được thực tế rằng các triệu chứng tâm lý và những nỗi lo tinh
thần thường là nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ của một cái chết sớm ngay cả
khi căn bệnh đã được điều trị hồi phục (Breitbart và các cộng sự, 2000).Gall,
Charbonneau, Grant, Joseph, và Shouldice (2005) xem xét các tài liệu về mối
quan hệ giữa nhận thức về Chúa, cách đối phó và giải quyết vấn đề, định
hướng tôn giáo, và các kết quả liên quan sức khỏe khác nhau. Họ báo cáo
rằng nếu nhìn nhận về Chúa như là tình yêu thương thì có liên quan đến việc
giải thích lại căn bệnh một cách tích cực, còn trong khi xem Thiên Chúa như
là trừng phạt thì có liên quan đến việc tăng cảm giác đau khổ khi đối mặt với
một căn bệnh [30].
Theo Học viện Bác sĩ gia đình Mỹ (American Academy of Family
Physicians) đánh giá tinh thần như bước đầu tiên để thực hiện việc kết hợp
xem xét về tinh thần của bệnh nhân vào y học. Các câu hỏi HOPE cung cấp
một công cụ chính thức có thể sẽ được sử dụng trong quá trình này. Các khái
niệm HOPE bao gồm:
H-nguồn gốc của niềm hy vọng, sức mạnh, thoải mái, ý nghĩa, hòa bình,
tình yêu và kết nối.
O-vai trò của các tổ chức tôn giáo đối với bệnh nhân.
P- vấn đề tâm linh cá nhân.
E- ảnh hưởng của việc chăm sóc y khoa và quyết định cuối đời.
[32]
5
Một nghiên cứu thăm dò được thức hiện bởi một nhóm các nhà khoa học
Timothy P. Daaleman, Barbara M. Usher, Sharon W. Williams, Jim Rawlings
và Laura C. Hanson của trường đại học Bắc Carolina, Mỹ (UNC) đã nghiên
cứu định tính bằng cách sử dụng các cuộc phỏng vấn và phân tích chỉnh sửa
với 12 bác sĩ và nhóm y tế khác, người mà được đề cử làm người chăm sóc
tinh thần bởi bệnh nhân sắp chết và người nhà của họ cho ra kết quả chăm sóc
tinh thần cho những bệnh nhân cuối đời có 3 quá trình: trao đổi, chia sẻ (being
present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes); tương tác (cocreating). Những
cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là
vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp
cho người chăm sóc có thể chú ý tới họ một cách toàn diện hơn. “Openning
eyes” là quá trình mà người chăm sóc nhận ra và thấu hiểu những trải nghiệm
cá nhân của bệnh nhân bằng cách hiểu những quan điểm của bệnh nhân về
bệnh của họ, kết hợp với quan điểm của gia đình và bạn bè của bệnh nhân.
Cuối cùng là quá trình tương tác giữa các bệnh nhân, người nhà và người
chăm sóc để tạo ra một kế hoạch hoàn thiện giúp bệnh nhân chuẩn bị tâm lý
sẵn sàng đối mặt trước cái chết [41].
Một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí JCO (Journal of Clinical
Oncology) số 28 ra ngày 20/1/2010, nghiên cứu được thực hiện trên 343 bệnh
nhân sắp chết đã thu được kết quả: bệnh nhân được hỗ trợ phần lớn hoặc hoàn
toàn các nhu cầu về tinh thần thì đánh giá chất lượng cuộc sống cuối đời tốt
hơn so với những người không được hỗ trợ [42].
Theo một bài viết “Chăm sóc tinh thần được cung cấp bởi các y tá Thái
trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt” (Spiritual care provided by Thai nurses in
intensive care units) được đăng trên tạo chí JCN (Journal of Clinical Nursing)
số 19, phát hành 4/2010 đã cho ra kết quả: năm vấn đề có liên quan đến việc
6
chăm sóc tinh thần: hỗ trợ tinh thần, tạo điều kiện cho các nghi lễ tôn giáo và
tín ngưỡng văn hóa, giao tiếp với bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, đánh giá
các nhu cầu tinh thần của bệnh nhân và cho thấy sự tôn trọng và tạo điều kiện
cho sự tham gia của gia đình trong việc chăm sóc [38].
Ngoài ra, một bài đăng trên tạp chí European Journal of Medical
Research số ra ngày 28/6/2010 với tiêu đề “Nhu cầu tinh thần của những
bệnh nhân mắc bệnh mãn tính và ung thư – đánh giá bảng hỏi các câu hỏi về
nhu cầu tinh thần” (Spiritual needs of patients with chronic pain diseases and
cancer - validation of the spiritual needs questionnaire) đã phân tích nhân tố
của 19 công cụ tập trung vào 4 yếu tố: nhu cầu tôn giáo, nhu cầu thanh thản,
nhu cầu hiện sinh (ảnh hưởng/ ý nghĩa) và sự cho đi tích cực. Trong mẫu
chính của bệnh nhân bị đau mãn tính và ung thư, nhu cầu thanh thản có số
điểm cao nhất, tiếp theo là tự quyết định; nhu cầu hiện sinh có điểm số thấp,
trong khi nhu cầu tôn giáo chỉ ra điểm số không quan tâm. Bệnh nhân ung thư
có điểm số cao hơn đáng kể so với bệnh nhân với bệnh đau mãn tính. Có một
sự liên kết yếu giữa sự cho đi tích cực và hài lòng cuộc sống và tỉ lệ nghịch
với các triệu chứng. Nhu cầu cho thanh thản có mối quan hệ không rõ ràng
với sự hài lòng về hiệu quả điều trị. Phân tích hồi quy cho thấy các bệnh tiềm
ẩn có liên quan vượt trội tới các nhu cầu tinh thần của bệnh nhân [27].
Đặc biệt đối với bệnh nhân bị TBMMN thì cũng đã có các nghiên cứu
về sự thay đổi của tâm lý, các vấn đề của sức khỏe tinh thần sau khi bị
TMMN.
Học viện Joanna Briggs đã nghiên cứu các kinh nghiệm tâm lý xã hội,
tinh thần của các đối tượng là là người già, chủ yếu ở độ tuổi từ 65 có ít nhất
1 lần bị đột quỵ cho thấy rằng giai đoạn đầu sau một cơn đột quỵ là một kinh
nghiệm mơ hồ và đáng sợ, nó làm thay đổi cuộc sống đối với hầu hết các cá
nhân. Các giai đoạn phục hồi liên quan đáng kể đến các yếu tố tâm lý, vật lý
7
để xây dựng lại cuộc sống của họ. Kết nối với những người khác và tinh thần
rất quan trọng trong quá trình phục hồi [26].
Theo bài viết của “Trầm cảm và các dấu hiệu khác liên quan đến sức
khỏe tâm thần tăng nguy cơ tử vong sau đột quỵ thiếu máu cục bộ”
(Depression and Other Mental Health Diagnoses Increase Mortality Risk
After Ischemic Stroke)của các tác giả Linda S. Williams, Sushmita Shoma
Ghose, Ralph W. Swindle được in trên tạp chí Tâm thần học Mỹ (The
American Journal of Psychiatry) tháng 6, 2004 đã đưa ra trong số 51.119
bệnh nhân nhập viện sau một cơn đột quỵ thiếu máu cục bộ và sống sót vượt
quá 30 ngày sau đó, trong đó có 2.405 (4,7%) nhận được chẩn đoán là trầm
cảm (ICD-9) và 2257 (4,4%) được chuẩn đoán là có rối loạn thần hoặc lạm
dụng khác trong vòng 3 năm. So với những người không có chuẩn đoán bệnh
thì những người có chuẩn đoán trầm cảm hoặc các rối loạn tâm thần khác trẻ
hơn và khả năng còn sống thấp hơn vào cuối thời gian theo dõi [35].
Trong bài đánh giá của Eran Chemerinski và Robert G. Robinson phát
biểu rằng rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu đã được chứng minh là ức chế
phục hồi thể chất sau đột quỵ. Dường như rối loạn tâm thần khác cũng ức chế
phục hồi và giới hạn chất lượng của cuộc sống. Có rất ít các thử nghiệm kiểm
soát kiểm tra tính hiệu quả của phương pháp điều trị cho các rối loạn sau khi
bị đột quỵ [29].
Một nghiên cứu khác của trường đại học Helsinki của Phần Lan đưa ra.
Với nghiên cứu này, nếu bệnh nhân tai biến mạch máu não thường xuyên
nghe nhạc khoảng vài giờ trong ngày sẽ phục hồi nhanh chóng. Kết quả này
được nghiên cứu dựa trên thực nghiệm của âm nhạc đối với gần 60 bệnh nhân
bị đột quỵ. Qua đó, các nhà khoa học đã chứng minh cho bệnh nhân bị đột
quỵ thấy rằng, âm nhạc có một tác động rất tích cực đến khu vực não kiểm
soát trạng thái tình cảm, cảm xúc và ghi nhớ ở bệnh nhân. Nó giúp đẩy nhanh
8
quá trình phục hồi tổn thương ở những khu vực này. Từ đó, đẩy nhanh sự
phục hồi kéo theo ở những khu vực bị tổn thương khác trong não cùng với
những tế bào thần kinh bị mất chức năng do đột quỵ. Nhóm bệnh nhân bị đột
quỵ này, sau 3 tháng được chọn lựa và nghe nhạc thường xuyên đã cho thấy,
các chức năng não kiểm soát cử động, quá trình nhận thức, khả năng tập
trung... ở nhóm những người nghe nhạc đã được cải thiện tới 60%. Ở nhóm
điều trị bằng phương pháp thông thường chỉ cải thiện khoảng 29%. Với biện
pháp kết hợp với biện pháp điều trị đột quỵ đã cho kết quả phục hồi rất đáng
kể so với những người không được hỗ trợ điều trị bằng âm nhạc. Ngoài ra, ở
nhóm nghe nhạc, khả năng kiểm soát và giải quyết xung đột của não bộ được
cải thiện khoảng 17%, trong khi những nhóm khác gần như không có sự thay
đổi [33].
1.1.2 Trong nước
Các công trình trong nước nghiên cứu về sức khỏe tinh thần có thể kể đến tác
giả Phạm Minh Hạc. Ông đã đưa ra một số lý luận cơ bản về sức khỏe tinh
thần một cách khái quát trong bài đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 1, 2008.
Theo giáo sư – viện sĩ Phạm Minh Hạc, nên phân tích cặp phạm trù “Thể chất
– Tinh thần” để hiểu sâu sắc hơn về sức khỏe tinh thần, theo ông: “phải xem
xét con người ở mức độ nào con người – cá thể, con người - cá nhân, con
người – nhân cách.” [4].
Nhóm nghiên cứu tâm lý học lâm sàng do PGS.TS Đặng Hoàng Minh
làm trưởng nhóm đã công bố các công trình nghiên cứu của nhóm mình có
liên quan đến thực trạng chăm sóc tinh thần tại Việt Nam hiện nay như:
- Nghiên cứu “Sức khỏe tinh thần của trẻ em Việt Nam: Thực trạng và các yếu
tố nguy cơ” hợp tác cùng PGS.TS Bahr Weiss - Trường ĐH Vanderbilt và
ThS. Nguyễn Cao Minh - Phòng Tâm lý học lâm sàng, Viện Tâm lý học được
thực hiện ở 60 địa điểm thuộc 10 tỉnh đại diện của Việt Nam, bao gồm 1314
9
cha mẹ của trẻ từ 6-16 tuổi và 591 vị thành niên từ 12-16 tuổi đã đưa ra kết
quả ngiên cứu gợi ý rằng có từ 12-13% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16)
gặp phải những vấn đề SKTT một các rõ rệt.
- Bài viết “Giáo dục và đào tạo sức khỏe tinh thần ở Việt Nam” (Mental Health
Education and Training in Vietnam) được in trong quyển sách “Giáo dục sức
khỏe trong bối cảnh: Một triển vọng quốc tế của sự phát triển giáo dục sức
khỏe trong trường học và cộng đồng địa phương” (Health Education in
Context: An International Perspective of the Development of Health
Education in Schools and Local Communities) xuất bản bởi nhà xuất bản
Sense năm 2012.
- Bài viết “Mô hình phát triển bền vững cơ sở hạ tầng của sức khỏe tinh thần
trẻ em trong các nước thu nhập thấp: Việt Nam là một trường hợp điển hình”
(A Model for Sustainable Development of Child Mental Health Infrastructure
in the LMIC World: Vietnam as a Case Example) do TS Đặng Hoàng Minh
cùng Weiss B, Victoria K.N và các công sự thực hiện được in trong tạp chí
International Perspective in Psychology: Research, Practice, Consultation số
1, 2012.
- Thích ứng bộ công cụ ASEBA đánh giá các vấn đề sức khỏe tinh thần cho trẻ
tuổi học đường
- Triển khai chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần dựa vào trường học ở
trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, Hà Nội và Trưng Nữ Vương, Đà Nẵng.
- Điều tra dịch tễ học các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt Nam trên toàn
quốc.
Các công trình nghiên cứu trên của nhóm này chủ yếu liên quan đến việc
chăm sóc tinh thần cho học sinh [47].
Theo bài báo cáo khoa học “Chăm sóc tinh thần – Vấn đề mang tầm thế
kỷ” của tác giả Lê Hồng Thái – Học viện Hải quân được in trong tài liệu của
10
hội thảo quốc gia “Chăm sóc sức khỏe tinh thần” (do Hội Khoa Học Tâm Lý-
Giáo Dục Việt Nam tổ chức tại Hà Tây ngày 12-1-2008) có 3 cách để giữ
được sức khỏe tinh thần tốt là: phát triển khả năng thích ứng của con người;
phổ biến rộng rãi tri thức về vệ sinh lao động trí óc; giáo dục, bồi dưỡng, phát
triển tâm năng [16].
Cũng trong hội thảo quốc gia trên, còn có các bài báo cáo khoa học liên
quan đến sức khỏe tinh thần như:
Bài viết “Sức khỏe tinh thần tốt - Đòi hỏi thiết yếu của mỗi người và
toàn xã hội” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Phúc đã nêu ra các luận thuyết y học
liên quan đến sức khoẻ thể chất và tinh thần của con người, nội dung của sức
khỏe tinh thần và phương thức chăm sóc sức khỏe tinh thần có hiệu quả [12].
Bài báo cáo của 2 tác giả ThS. Trần Thành Nam và ThS. Nguyễn Ngọc
Diệp khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đưa
ra các các nguyên tắc làm việc với trẻ có vấn đề về sức khỏe tinh thần [8].
Cũng trong hội thảo, hai tác giả trên cũng đưa ra mô hình can thiệp sức khỏe
tinh thần học đường đang được bước đầu thử nghiệm tại trường THPT Đinh
Tiên Hoàng, Hà Nội.
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Cẩm Tú và cộng sự trên hơn 1500 trẻ tại
hai phường Kim Liên và Trung Tự (2000) cho thấy có tới 1,9% - 3% các em
có biểu hiện lo âu, trầm cảm.
Trong đề tài nghiên cứu “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tinh thần
cho học sinh trung học phổ thông Đồng Nai” do Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ và
cộng sự thực hiện (1998- 2000) đã đưa ra mô hình mạng lưới chăm sóc sức
khỏe tinh thần – tâm thần học đường. Mô hình bao gồm sự phối hợp giải
quyết vấn đề từ 3 bên tham gia: trung tâm tham vấn, nhà trường, gia đình-xã
hội. Chức năng nhiệm vụ của từng bên trong mạng lưới được quy định cụ thể
11
rõ ràng, giúp cho việc vận hành mạng lưới được đạt được nhiều kết quả khả
quan trong việc giải quyết các vấn đề tâm lý của học sinh [18].
Trong bài viết đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 6/2009 “Một số nguyên
nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, tác giả
Nguyễn Thị Hằng Phương đã nghiên cứu đối tượng học sinh chuyên Quảng
Bình và chỉ ra rằng có khoảng 21,66% học sinh có vấn đề về rối loạn lo âu
[13].
Ngoài các công trình nghiên cứu về sức khỏe tinh thần cho trẻ em thì còn
có các dự án chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ em như:
Dự án “Chăm sóc sức khoẻ tâm thần học sinh trường học thành phố Hà
Nội” được quản lý bởi Sở Y Tế Hà Nội. Dự án được thực hiện nhằm mục tiêu
khảo sát: đánh giá thực trạng các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh Tiểu học
trên một mẫu nghiên cứu tại Hà Nội; xây dựng mạng lưới can thiệp sớm,
tuyên truyền giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ tâm thần trẻ em tuổi học
đường tại các tuyến y tế cơ sở và tại Bệnh viện Mai Hương [48].
Ngoài ra, việc chăm sóc tinh thần người lao động đã được các công ty
chú ý đến trong nhiều năm qua.Các công ty ứng dụng tâm lý như Ý tưởng
Việt, Hồn Việt, WELink, Sư tử trẻ, Unity… tại Thành phố Hồ Chí Minh đã
đưa ra hàng loạt các dịch vụ chăm sóc tinh thần người lao động, nhằm phục
vụ cho các công ty, tập đoàn. Các dịch vụ này bao gồm các khóa học chăm
sóc tinh thần cho người lao động, các buổi báo cáo chuyên đề, du lịch tâm lý,
bảo hiểm tinh thần, quà tặng tinh thần, chăm sóc tinh thần trọn vẹn... và nhận
được nhiều ủng hộ tích cực từ các công ty, tập đoàn.
Ngoài ra, các công ty, tập đoàn còn có các hoạt động chăm sóc tinh thần
cho người lao động khác như:
Tập đoàn Vinamilk đã đưa ra chính sách phát triển bền vững cho tập
đoàn của mình bao gồm nhiều hạng mục, trong đó trong hạng mục người lao
12
động, tập đoàn đã đưa ra nhiều cam kết và hành động thiết thực chăm lo cho
đời sống người lao động như:
- Chăm sóc sức khỏe người lao động: thực hiện khám sức khỏe định kì 1
lần/năm cho nhân viên nam và 2 lần/năm cho nhân viên nữ; bảo hiểm sức
khỏe toàn diện; đối với trường hợp tử vong hoặc thương tật do tai nạn: mức
bảo hiểm bồi thường lên đến tối đa 30 tháng lương gần nhất; đặc biệt tập đoàn
còn cung cấp gói bảo hiểm sức khỏe cho người thân của các cấp quản lý.
- Đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động: xây dựng và duy trì cơ
chế tiếp nhận thông tin và giải quyết phản ánh, khiếu nại của người lao động
trực tiếp quan các cơ quan quản lý hoặc thông qua kênh nóng nhận thông tin
trực tiếp; công đoàn, đoàn thanh niên tại từng cơ sở tổ chức các hoạt động
nhằm mang lại cho người lao động các cơ hội vui chơi hoạt động ngoài giờ
làm việc.
- Ghi nhận và bù đắp thỏa đáng với những giá trị lao động của nhân viên:
thang lương của Vinamilk đang xây dựng theo hệ thống Merce. Năm 2013, tỷ
lệ tăng lương bình quân là 22.7%, vượt trội so với tỷ lệ các năm trước (2012:
18.5%; 2011: 10%).
- Đào tạo và phát triển nhân viên: năm 2013 Vinamilk đã chi ra hơn 6,5
tỷ đồng để thực hiện các khóa đào tạo, phát triển kỹ năng của nhân viên [49].
Ngày 5/4/2015, tại TP.HCM đã diễn ra Hội thảo khoa học với chủ đề
"Mâu thuẫn trong doanh nghiệp và vấn đề chăm sóc tinh thần cho người lao
động". Đây là hoạt động do Hội khoa học - Tâm lý giáo dục và Liên đoàn Lao
động thành phố tổ chức nhằm tổng hợp những mâu thuẫn đang diễn ra trong
các doanh nghiệp và đề xuất những giải pháp phù hợp hữu ích nhất, góp phần
chăm sóc tốt hơn đời sống tinh thần cho người lao động. Trong buổi hội thảo,
các bên đã đi sâu phân tích và đưa ra kết luận nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn
trong doanh nghiêp chủ yếu là do: nhu cầu chăm sóc tinh thần chưa được đáp
13
ứng; vai trò thực tế của công đoàn và những khó khăn trong việc chăm sóc
đời sống tinh thần cho người lao động; các vấn đề về tiền công, tiền lương,
điều kiện ăn, ở, làm việc của người lao động… [50].
Thông qua những nghiên cứu, bài viết, thực tế nêu trên ta có thể thấy,
việc chăm sóc tinh thần ở Việt Nam còn rất hạn chế. Đặc biệt là chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân, việc chăm sóc tinh thần chỉ tập trung vào các bệnh nhân
sắp chết mà chưa thực sự quan tâm đến những bệnh nhân khác; và chủ yếu sử
dụng thuốc trong quá trình chăm sóc; đội ngũ nhân viên chuyên đảm nhận
việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân chưa được đào tạo một cách chuyên
nghiệp. Đặc biệt đối với bệnh nhân TBMMN thì việc chăm sóc tinh thần sau
khi đột quỵ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hồi phục, trở lại với
cuộc sống nhưng thực tế thì chưa được quan tâm đúng mức.
1.2 Cơ sở lý luận
1.2.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1.1 Chăm sóc
Khái niệm chăm sóc thường gắn liền với một đối tượng nào đó, ví dụ
như: chăm sóc trẻ em, chăm sóc khách hàng, chăm sóc da, chăm sóc cây
trồng… chính vì vậy khái niệm chăm sóc cũng có thể được hiểu theo nhiều
các khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng được chăm sóc. Ví dụ như: chăm sóc
trẻ em cũng có có thể hiểu theo nghĩa như là nuôi nấng, giáo dục, bảo trợ;
chăm sóc khách hàng: cũng hiểu như làm vừa lòng khách hàng; chăm sóc da
có thể hiểu như giúp da đẹp hơn, khỏe mạnh hơn; chăm sóc cây trồng là giúp
cây trồng không bị chết, đạt năng suất...
Chính vì như vậy, chăm sóc có nhiều cách hiểu khác nhau, tùy thuộc vào
đối tượng chăm sóc. Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam: “chăm sóc” là chú ý
trông coi cẩn thận [7].
14
1.2.1.2 Tinh thần
Khái niệm tinh thần xuất hiện từ rất lâu, có rất nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm tinh thần như là “tâm hồn”, “tâm lý”, “tâm thể”, “tâm trí”,
“xúc cảm – tình cảm”…
Theo từ điển Tiếng Việt khái niệm “tinh thần” là tổng thể nói chung
những ý nghĩ, tình cảm, v.v., những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của
con người; những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành
động cho con người; sự quan tâm thường xuyên trên cơ sở những nhận thức
nhất định, ý thức; cái sâu sắc nhất, cốt yếu nhất của một nội dung nào đó [17].
Theo Hêghen tinh thần là sự thống nhất giữa ý thức và tự ý thức, là quá
trình nó tự vận động, tự biểu hiện, tự nhận thức mình và đó chính là Ý niệm
đã trở lại với chính mình [6].
Theo tác giả Ken Wilber thì tinh thần là mức độ cao nhất và độc nhất vô
nhị của tất cả các cấp độ tồn tại trong các mức độ của sự tồn tại (The great
nest of being) [34].
Theo từ điển Thuật ngữ tâm lý học “tinh thần”: một mặt của xã hội thể
hiện ra ở các giá trị đạo đức, các truyền thống được kết tinh trong các hình
ảnh nghệ thuật. Tinh thần được phản ánh trong ý thức cá nhân trở thành lương
tâm. Quá trình phát triển tinh thần được thực hiện thông qua truyền thống,
giáo dục tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, khai hóa. Chủ nghĩa Mác-
Lênin xem tinh thần gắn bó chặt chẽ với hệ tư tưởng. Một xã hội mà không có
hệ tư tưởng sẽ diễn ra khủng hoảng về tinh thần, cụ thể là khủng hoảng niềm
tin, mất phương hướng trong suy nghĩ [2].
Vậy tinh thần được hiểu trong đề tài này là giá trị đạo đức, các vấn đề
tâm linh, niềm tin, mối quan hệ xã hội… của con người.
15
1.2.1.3 Chăm sóc tinh thần
Việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân dựa trên cơ sở lý luận đã đưa ra
phía trên có thể được tiến hành theo các hướng sau:
Dựa theo mô hình tâm sinh lý (Biopsychosocial Model) của G. Engel
(1977) Mô hình đặt bệnh nhân thẳng trong một mối quan hệ đó bao gồm các
yếu tố tình cảm và trạng thái tâm lý khác mà bệnh nhân được xem như một
con người, cũng như các mối quan hệ có ý nghĩa giữa bệnh nhân và những
người xung quanh. Đầu tiên bác sĩ phải tìm hiểu “như thế nào” và “cái gì”
hoặc là bệnh nhân cảm thấy và đã trải qua những gì sau đó đặt giả thuyết cho
những trạng thái đó (tại sao và cho cái gì), thứ hai: tham gia cùng bệnh nhân
trong các hoạt động thực tiễn hoặc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm để
chứng minh giả thuyết. Thứ ba là phải khơi gợi sự hợp tác của bệnh nhân
trong các hoạt động để giảm nhẹ cẳng thẳng hoặc (và) sữa chữa các nguyên
nhân dẫn đến căng thẳng hoặc bất lực [31].
Dựa theo đánh giá vấn đề tâm linh/ tôn giáo: các nhà tâm lý cần đánh giá
chính xác các hoạt động tâm linh /tôn giáo của cá nhân, và phân biệt các hoạt
niềm tin/hành vi có liên quan đến vấn đề hiện tại của cá nhân. Đánh giá khách
quan liên quan đến việc không quy kết niềm tin tâm linh như là bệnh lý. Hơn
thế nữa, kiến thức về hệ thống niềm tin của bệnh nhân có thể giúp cho các
chuyên viên y tế có thể một cách tinh tế và thích hợp để đáp ứng những nhu
cầu của bệnh nhân hoặc quá trình của cái chết. Đánh giá tâm linh/tôn giáo bao
gồm các mặt sau:
- Tôn giáo: xem xét thế giới quan tâm linh/tôn giáo, niềm tin, thực hành và cam
kết, phân biệt được định hướng tâm linh/tôn giáo bên trong hoặc bên ngoài.
- Đặc trưng tâm linh: xem xét cảm giác cá nhân ở giá trị và tiềm năng của Đấng
tối cao.
16
- Hỗ trợ và cách đối phó từ tâm linh/tôn giáo: xác đinh giá trị bên trong của
bệnh nhân, cho dù là niềm tin tinh thần/tôn giáo, thái độ, thực hành ảnh
hưởng đến phản ứng và đối phó với cái chết. Đánh giá xem các cá nhân sử
dụng cầu nguyện, chiêm niệm/thiền, đọc kinh, hoặc là tham gia với cộng đồng
tâm linh/tôn giáo. Xác định cá nhân được hỗ trợ nhận thức từ: cộng đồng tâm
linh/tôn giáo hoặc các Đấng siêu việc khác.
- Kiểu giải quyết các vấn đề tâm linh: xem xét phong cách giải quyết vấn đề
tâm linh của bệnh nhân đối với Đấng siêu Việt khác (ví dụ: tự giải quyết, phụ
thuộc hoặc hợp tác).
- Hạnh phúc tinh thần: đánh giá khía cạnh hạnh phúc tinh thần như là một mặt
của chất lượng cuộc sống.
- Nhu cầu tâm linh: xem xét bệnh nhân nhu cầu tâm linh về: hoàn cảnh (tìm
kiếm mục đích/hi vọng/ý nghĩa); cá nhân (hòa giải trong các mối quan hệ, cầu
nguyện, phân tích đạo đức và xã hội, sự tha thứ và chấm dứt); tôn giáo (hòa
giải, tha thứ và ủng hộ của Thiên Chúa, nghi lễ tôn giáo / rửa tội, chuyến
thăm của các giáo sĩ, văn học tôn giáo, và thảo luận về Thiên Chúa, sự sống
vĩnh cữu và hy vọng).
- Đánh giá tâm linh: xác nhận mức độ tác động của tâm linh tới nguyên nhân
gây bệnh cho bệnh nhân.
[28]
Theo 3 quá trình: trao đổi, chia sẻ (being present); mở rộng, thấu hiểu
(opening eyes); tương tác (cocreating). Theo 3 quá trình này, trước tiên, người
chăm sóc và bệnh nhân cần có những cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ, trong
đó cần những tương tác về mặt thể chất, giúp cho người chăm sóc có thể chú
ý tới bệnh nhân một cách toàn diện hơn. Sau đó là quá trình “Openning eyes”,
người chăm sóc cần nhận ra và thấu hiểu những trải nghiệm cá nhân của bệnh
nhân bằng cách hiểu những quan điểm của bệnh nhân về bệnh của họ, kết hợp
17
với quan điểm của gia đình và bạn bè của bệnh nhân. Cuối cùng sự hợp tác
của bệnh nhân, người nhà và người chăm sóc để tạo ra một kế hoạch hoàn
thiện giúp bệnh nhân chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đối mặt trước cái chết [41].
Còn theo các định nghĩa của các tổ chức khác thì:
Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO: Nâng cao sức khỏe tinh thần liên quan
đến hành động để tạo điều kiện môi trường sống và hỗ trợ sức khỏe tinh thần
cho phép cá nhân tiếp nhận và duy trì lối sống lành mạnh và làm việc hiệu
quả. Chúng bao gồm một loạt các hành động để tăng cơ hội của nhiều người
trải qua sức khỏe tinh thần tốt hơn.
Còn theo định nghĩa đưa ra bởi Sở Y tế Quốc dân Scotland (National
Health Service Education for Scotland, 2009) chăm sóc tinh thần đó là sự
chăm sóc trong đó nhận ra và đáp ứng các nhu cầu của tinh thần con người
khi phải đối mặt với chấn thương, bệnh tật hoặc nỗi buồn và có thể bao gồm
nhu cầu có ý nghĩa, tự trị, thể hiện bản thân, hỗ trợ niềm tin, có lẽ trong các
dịp lễ cầu nguyện hay rửa tội, hay chỉ đơn giản là một người biết lắng nghe
nhạy cảm. Chăm sóc tinh thần bắt đầu bằng việc khuyến khích sự tiếp xúc của
con người trong mối quan hệ từ bi, và di chuyển theo bất cứ hướng nhu cầu
đòi hỏi (NHS Giáo dục cho Scotland, 2009) [26].
Ngoài ra thì trong bài báo “Chăm sóc tinh thần trong điều dưỡng sức
khỏe tinh thần” (The concept of spiritual care in mental health nursing) đăng
trên Tạp chí Điều dưỡng nâng cao (Journal of Advanced Nursing) số ra tháng
3/2001 thì chăm sóc tinh thần có liên quan đến việc ghi nhận hiểu rõ của một
người về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống mà có thể hoặc không thể thể
hiện thông qua tín ngưỡng và kinh nghiệm. Khái niệm về chăm sóc tinh thần
cũng được kết hợp với chất lượng chăm sóc cá nhân trong giá trị của sự biểu
hiện tình yêu và lòng từ bi đối với bệnh nhân [37].
18
Theo đó, chăm sóc tinh thần trong đề tài này được hiểu như là hỗ trợ, tạo
điều kiện, đáp ứng các nhu cầu về tinh thần như nhu cầu xác định ý nghĩa của
sự tồn tại, niềm tin hiện thực, cải thiện các mối quan hệ xã hội, nhu cầu đối
mặt và giải quyết các khó khăn trong cuộc sống, nâng cao chất lượng cuộc
sống…cho con người.
Thêm vào đó, vì đối tượng để chăm sóc tinh thần trong đề tài này là
những bệnh nhân bị TBMMN nên việc chăm sóc tinh thần cho những đối
tượng này trước tiên tập trung vào giải quyết những triệu chứng tâm lý xảy ra
sau khi bị TBMMN. Theo bài viết “Chăm sóc tâm lý ở bệnh nhân sau tai biến
mạch máu não” của bác sĩ Nguyễn Kỳ Xuân Nhị được in trong tạp chí Y học
phổ thông cho mọi người phát hành tháng 5/2014 đã viết rằng những thay đổi
cảm xúc của bệnh nhân diễn ra rất phức tạp, họ có thể nhận thấy hoặc không
nhận thấy. Bệnh nhân thường bị trầm cảm và lo âu ở các mức độ khác nhau
[11]. Như vậy có thể thấy, việc cần quan tâm đầu tiên trong việc chăm sóc
tinh thần bệnh nhân là là giảm hoặc ngưng các triệu chứng tâm lý như lo âu
trầm cảm.
Ngoài nguy cơ dễ dàng mất các triệu chứng tâm lý, thì các di chứng yếu
liệt khiến cho bệnh nhân suy giảm khả năng tự chăm sóc và đa số trường hợp
họ trở nên lười biếng hơn, mất đi động lực, niềm tin để luyện tập [11]. Vì vậy,
việc đáp ứng các nhu cầu tinh thần như tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục
tập luyện, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã
hội... có thể góp phần thúc đầy cho quá trình luyện tập hoàn thiện hơn. Kết
quả tích cực của việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là giúp cho họ hồi
phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái với cái chết như một quá trình tất yếu của
cuộc đời.
Do đó, việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân TBMMN được hiểu trong đề
tài này là hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu,
19
trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa
tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức
khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá trình tất yếu.
1.2.2 Một số vấn đề lý luận có liên quan đến chăm sóc bệnh nhân
TBMMN
1.2.2.1 Chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân
Hiện nay việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân đang được quan tâm, đặc
biệt là những bệnh nhân phải đối mặt với những căn bệnh đe dọa đến cuộc
sống như ung thư, HIV, suy tim, suy thận, tiểu đường, lao, bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, suy thận, Alzheimer, Parkinson... Việc sử dụng các biện pháp
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người mắc bệnh đe doạ cuộc sống và
gia đình họ bằng cách phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị đau và các triệu
chứng thực thể, các vấn đề tâm lý và tinh thần mà bệnh nhân và gia đình họ
phải chịu đựng được Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là chăm sóc giảm nhẹ
[51]. Có thể thấy, việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân có thể xem như là một
phần của chăm chăm sóc giảm nhẹ.
Ngày 19/5/2006, Quyết định 3483/BYT của Bộ Y tế về việc ban hành
"Hướng dẫn Quốc gia về Chăm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư và
AIDS". Đây là bước đầu đánh dấu cơ sở pháp lý cho việc chăm sóc giảm nhẹ
cho bệnh nhân mắc các bệnh đe dọa cuộc sống. Trong tài liệu này, phần chăm
sóc tâm lý cho BN&NCS đã nêu ra nội dung chăm sóc tâm lý một số vấn đề
như phẩm chất của người chăm sóc tâm lý; phương pháp tư vấn, xây dựng
mối quan hệ hợp tác điều trị giữa người chăm sóc tâm lý với bệnh nhân. Đây
có thể xem như là tài liệu chăm sóc giảm nhẹ chính quy đầu tiên tại Việt Nam
[15].
1.2.2.2 Các phương pháp điều trị cho bệnh nhân TBMMN
2.1.1.1. Vật lý trị liệu
20
Theo từ điển Oxford, vật lý trị liệu là điều trị bệnh, tổn thương và thương
tật bằng các phương tiện vật lý như xoa bóp, nhiệt độ và vận động hơn là
thuốc và phẫu thuật [36]. Còn từ điển Merriam-Webster, thuộc Công ty từ
điển và bách khoa thư Britannica, thì định nghĩa vật lý trị liệu là điều trị bệnh,
tổn thương hoặc tàn tật bằng các công cụ vật lý hoặc cơ học, như xoa bóp, vận
động, nước, ánh sáng, nhiệt và điện [52].
Đến năm 2007, trong tài liệu hướng dẫn đào tạo vật lý trị liệu mức độ
đầu vào, Hội liên hiệp Vật lý trị liệu Thế giới (WCPT) quan niệm, vật lý trị
liệu là chuyên ngành y tế cung cấp các dịch vụ cho bệnh nhân và cộng đồng
để phát triển, duy trì và khôi phục khả năng vận động và các hoạt động chức
năng tối đa trong suốt cuộc đời, bao gồm các can thiệp khi khả năng vận động
và hoạt động chức năng bị đe dọa do các nguyên nhân tuổi tác, tổn thương,
bệnh tật, rối loạn, cũng như do các điều kiện và yếu tố môi trường; trong đó
vận động chức năng được xem là vấn đề cốt lõi của sức khỏe [53].
Như vậy, trong đề tài này, có thể hiểu vật lý trị liệu là một chuyên ngành
y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động đến cơ thể bệnh nhân ,
giúp họ phục hồi chức năng.
2.1.1.2. Các phương thức vật lý trị liệu
Theo tài liệu Phục hồi chức năng do tác giả Nguyễn Xuân Nghiên chủ
biên thì các phương pháp ứng dụng năng lượng vật lý để điều trị thường được
áp dụng trong chuyên ngành vật lý trị liệu – phục hồi chức năng gồm:
- Nhiệt trị liệu: biện pháp sử dụng nhiệt độ để tác động đến cơ thể. Gồm 2 loại
chính là nhiệt nóng trị liệu (bao gồm nhiệt nóng trị liệu nông và nhiệt nóng trị
liệu sâu), nhiệt lạnh trị liệu.
- Thủy trị liệu: sử dụng nước điều trị bề mặt để giải quyết giảm chức năng của
cơ thể. Tác dụng của thủy trị liệu nhờ tính chất đặc thù của nước (sức đẩy; áp
lực, trọng lực riêng; tính linh hoạt; nhiệt độ; hóa chất).
21
- Ánh sáng trị liệu: bao gồm tia cực tím và laser năng lượng thấp.
- Điện trị liệu: sử dụng năng lượng điện qua bề mặt cơ thể dể kích thích thần
kinh, cơ hoặc cả hai bằng cách sử dụng điện cực trên bề mặt cơ thể. Các kích
thích điện qua da được chia ra theo các loại dòng điện như sau: dòng điện 1
chiều, dòng điện xoay chiều. Có các loại trị liệu từ điện như từ trường trị liệu,
ion trị liệu.
- Kéo giãn cột sống: sử dụng lực thích ứng để kéo cột sống cổ hoặc cột sống
thắt lưng.
- Kéo nắn trị liệu: tiến hành các bài tập vận động cơ học bị động với những kỹ
năng chính xác để điều trị các khớp bị tắt nghẽn, lập lại tầm hoạt động khớp
động học.
- Xoa bóp trị liệu: kỹ thuật kích thích hệ thần kinh chi phối dưới da nhịp nhàng,
hệ thống kép giãn, tì nén nhằm mục đích trị liệu.
[10]
Theo luận văn tiến sĩ y học: “Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng vận
động của phương pháp châm cải tiến kết hợp vận động trị liệu trên bệnh nhân
nhồi máu não trên lều” của bác sĩ Trịnh Thị Diệu Thường thì việc châm cứu
cho bệnh nhân cũng là một trong những phương pháp vật lý trị liệu [19].
1.2.3 Đặc điểm tâm lý của bệnh nhân TBMMN
1.2.3.1 Tai biến mạch máu não là gì?
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới , TBMMN là những thiếu sót
chức năng thần kinh thường là khu trú xảy ra đột ngột, có thể hồi phục hoàn
toàn hoặc dẫn đến tử vong trong 24 giờ, loại trừ các nguyên nhân sang chấn.
Nguyên nhân của nó là các bệnh lý khác nhau của mạch máu não [24,133].
Theo Hiệp hội đột quỵ quốc gia Mỹ (National Stroke Association)
TBMMN (đột quỵ) là một cơn đột quỵ là một "cuộc tấn công não". Nó có thể
xảy ra với bất cứ ai ở bất cứ lúc nào. Nó xảy ra khi dòng máu đến vùng não bị
22
cắt đứt. Khi điều này xảy ra, các tế bào não bị thiếu oxy và bắt đầu chết. Khi
các tế bào não bị chết trong một cơn đột quỵ, khả năng kiểm soát của khu vực
đó của não như bộ nhớ, cơ bắp… bị mất [46].
Một người bị ảnh hưởng như thế nào phụ thuộc vào cơn đột quỵ của họ
xảy ra ở đâu trên não và mức độ tổn thương của các tế bào não. Ví dụ, một
người bị 1 cơn đột quỵ nhỏ thì chỉ có thể chỉ bị yếu tạm thời của một cánh tay
hoặc chân. Những người bị đột quỵ nặng thì có thể bị tê liệt vĩnh viễn ở một
bên cơ thể của họ hoặc mất khả năng nói. Một số người hồi phục hoàn toàn từ
cơn đột quỵ, nhưng hơn 2/3 số người sống sót sẽ có một số loại khuyết tật
[40].
1.2.3.2 Đặc điểm nhận thức
Theo tài liệu lưu hành nội bộ Tâm lý Y học năm 2009 có 4 loại nhận
thức thức xuất hiện ở bệnh nhân:
- Nhận thức đúng đắn, bình thường:
Trong loại nhận thức này, các quá trình hưng phấn và ức chế xảy ra bằng
nhau, bệnh nhân có phản ứng nhanh, tiếp thu ý kiến của bác sĩ mau lẹ, làm
theo chỉ dẫn của bác sĩ, điều dưỡng nhưng nông cạn, vội vã, dễ bằng lòng,
nhưng khi gặp trở ngại không phù hợp với ý muốn thì dễ thay đổi, hoang
mang, dao động. Nhưng khi được giải thích thì nhận thức nhanh chóng. Bệnh
nhân này rất dễ tin và rất tín nhiệm thầy thuốc. Do nhận thức đúng đắn, bệnh
nhân dễ nhận biết được bệnh của mình, bệnh sẽ tiến triển ra sao, kết thúc thế
nào, bản thân phải phấn đấu ra sao để góp phần cùng thầy thuốc chữa khỏi
bệnh cho mình. Đặc biệt ở bệnh nhân này có ảnh hưởng đến các bệnh nhân
khác, thầy thuốc vận dụng khả năng để tác động tâm lý đối cới bệnh nhân
khác.
23
Trong loại này còn có một số khá lớn kiểu thần kinh cân bằng nhưng
chậm. Họ suy nghĩ cân nhắc, có chiều sâu, phải qua thực tế mới có nhận thức
đúng đắn đối với bệnh tật.
- Nhận thức quá mức
Loại bệnh nhân này thường có kiểu thần kinh có quá trình hưng phấn
nhiều hơn ức chế, dễ bị kích thích, quan trọng hóa tình trạng sức khỏe bệnh
tật của mình, dễ nổi nóng, dễ bị kích động, dễ phản ứng trên lời nói, nét mặt,
đòi hỏi phục vụ cao, đòi chuẩn đoán nhanh.
Trong quá trình điều trị cũng như vậy, đòi hỏi bệnh phải được thuyên
giảm ngay, thường chủ quan, chỉ tin ở mình nhiều hơn, thường biểu hiện quá
mức, quá đáng trong cư xử nhận xét. Nhạu cảm với cảm giác đau, cô đơn,
buồn phiền, dễ mất hy vọng, dễ thay đổi ý kiến, chính kiến không kiên định,
dễ hoài nghi, hoang mang, dao động, tự tô đậm các triệu chứng, tô đậm tầm
nghiêm trọng của bệnh, sợ chết, sợ mất khả năng lao động để nuôi sống gia
đình, sợ dở giang công trình và tham vọng. Do đó, rất dễ hoang mang nhưng
rất tích cực chữa bệnh, đòi hỏi bác sĩ giỏi, mong muốn hết bệnh, mong muốn
nhanh chóng ra khỏi bệnh viện, thức hiện đầy đủ, tích cực các chỉ dẫn của bác
sĩ.
- Nhận thức yếu, nhược nhận thức
Loại bệnh nhân này, thường coi thường bệnh tật, đánh giá thấp tính nguy
kịch trầm trọng của bệnh lý, xem nhẹ các triệu chứng, tính tích cực giảm, ít
quan tâm đến các khám nghiệm. Họ không chú ý nghe lời khuyên của các bác
sĩ, lừa dối đối với sức khỏe của chính mình, họ ưu tư, mặc cảm, khép kính, tự
giải quyết cho mình.
- Nhận thức không ổn định, loạn nhận thức
Loại này có thể do coi thường bệnh tật, hoặc liều lĩnh hoặc sợ hãi tính
trầm trọng của bệnh tật có thái độ phủ định bệnh tật, thường không thừa nhận
24
bệnh tật, đánh giá thấp bệnh, chủ quan, mặc kệ. Nhưng có lúc lại bi quan, sợ
chết, sợ biến chứng. Từ chỗ không tin mình bị bệnh đến không tin thầy thuốc,
nhận xét chuẩn đoán, điều trị của họ.
[24]
Bên cạnh đó, do hậu quả của cơn đột quỵ gây ra những tổn thương trên
não, nên nhận thức của bệnh nhân TBMM biến đổi như thế nào phụ thuộc vào
bên não mà bệnh nhân bị tổn thương. Trong cuốn Tâm lý học sức khỏe
(Health Spychology) của tác giả Shelly E.Taylor có viết rằng:
Bệnh nhân với não trái bị tổn thương có thể gặp vấn đề trong rối loạn
giao tiếp, ví dụ như không nói được, liên quan đến việc không hiểu người
khác và bày tỏ ý kiến của mình.
Một vấn đề khác của rối loạn chức năng não trái bao gồm xáo trộn nhận
thức, giảm trí thông minh, khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ mới.
Bệnh nhân tổn thương não phải có thể không thể xử lý hoặc sử dụng một
số loại thông tin phản hồi trực quan. Một kết quả nữa là bệnh nhân bị liệt một
bên của cơ mặt. Bệnh nhân có thể chỉ ăn thức ăn của bên phải của đĩa và từ
chối thức ăn bên phải. Bệnh nhân có thể có vấn đề ở việc đọc giờ, quay số
điện thoại… bệnh nhân thường có khó khăn trong việc tri giác khoảng cách
nên thường đâm vào vật cản hoặc tường.
Do những tổn thương ở não phải nên những bệnh nhân này không thể
hiểu những gì họ đọc hoặc chỉ có thể tri giác được phần cuối cùng của mỗi từ
mà thôi. Nếu một người đứng phía bên não họ bị tổn thương (não phải) mà
nói chuyện thì họ chỉ nghe được âm thanh chứ không hiểu được người đó nói
gì cũng như không thấy được người nói (W.A.Gordon & Diller, 1983) [40].
Những bệnh nhân bị TBMMN thường là những người cao tuổi (có độ
tuổi trung bình từ 45 tuổi trở lên). Kèm theo những tổn thương do TBMMN
gây ra trên não, bản thân bệnh nhân trong độ tuổi này đã bắt đầu có dấu hiệu
25
suy giảm về mặt nhận thức như sự giảm tốc trong quá trình nhận thức.
Nguyên nhân làm giảm tốc quá trình nhận thức có 2 nguyên nhân: thứ nhất là
do bệnh gây ra những tổn thương trên não làm giảm lượng máu vào não. Thứ
hai là do ứng xử. Người cao tuổi thường gặp khó khăn trong việc thay đổi
chiến lược để đáp ứng yêu cầu mới của vấn đề. Đồng thời, người cao tuổi còn
ra quyết định chậm là do thói quen cẩn thận, cần thời gian cân nhắc kỹ, không
đưa ra quyết định sai lầm. Trí nhớ trong giai đoạn này cũng bước vào thời kỳ
suy giảm. Họ gặp khó khăn trong cả 2 giai đoạn mã hóa lẫn hồi tưởng, thuộc
trí nhớ thứ cấp [21].
1.2.3.3 Đời sống tình cảm
Bệnh nhân bị tổn thương não trái thường phản ứng lại những rối loạn của
họ như lo âu và trầm cảm. Bệnh nhân tổn thương não phải thường thờ ơ với
tình trạng của họ. Những khác biệt trong cảm xúc bởi là vì tổn thương những
nơ-ron thần kinh khác nhau. Bệnh nhân với tổn thương não phải thường xuất
hiện chứng mất hiểu biết (alexithymia), chứng bệnh mà có liên quan đến việc
khó khăn trong việc nhận dạng và miêu tả cảm xúc (Spaletta et al., 2001) [40].
Sự đột ngột mất đi tự chủ trong sinh hoạt hằng ngày có thể trở thành nỗi
ám ảnh đau buồn đối với họ trong thời gian dài. Nhiều trường hợp đưa đến
tình trạng gánh nặng tài chính, khiến bệnh nhân có cảm giác tội lỗi và không
muốn tiếp tục tình trạng này nữa, đôi khi họ muốn được giải thoát. Họ mất đi
những quan tâm trong cuộc sống, chán ăn, chán tập luyện. Phát hiện và điều
trị trầm cảm cho bệnh nhân TBMMN rất quan trọng. Vì trầm cảm có thể làm
chậm hồi phục các di chứng và gia tăng các nguy cơ bệnh lý khác, dễ đưa đến
các cơn đột quỵ tái phát, làm tình trạng bệnh trở nên phức tạp hơn.
Ngoài ra, bệnh nhân TBMMN còn có thể xảy ra các rối loạn cảm xúc.
Người bệnh có thể cười hay khóc mà không có một lý do rõ ràng. Đây thực sự
là khó khăn cho người thân trong gia đình hay người chăm sóc để hiểu được,
26
cần một thời gian dài để làm quen, kiên nhẫn tìm hiểu ta mới hiểu được cách
làm thế nào để an ủi họ cho phù hợp [11].
1.2.3.4 Các vấn đề có liên quan đến tinh thần bệnh nhân TBMMN
Tổ chức Y tế Thế giới đã từng phát biểu rằng: “Không có sức khỏe nếu
không có sức khỏe tinh thần” đã giúp chúng ta khái quát được phần nào tầm
quan trọng của sức khỏe tinh thần cũng như việc chăm sóc tinh thần đối với
sức khỏe.
Theo một nghiên cứu của Đại học y khoa Brown thì hầu hết người Mỹ
tin rằng các bác sĩ nên xem xét nhu cầu tâm linh của họ như là một phần của
chăm sóc y tế cho họ. 73% tin rằng họ nên chia sẻ những niềm tin tôn giáo
của họ với bác sĩ của mình. 66% muốn bác sĩ hỏi về niềm tin tôn giáo hay tâm
linh nếu bị bệnh nặng. Từ 37 đến 40% tin rằng các bác sĩ nên hỏi về niềm tin
tôn giáo. Nhưng chỉ có hơn 10 đến 20 % báo cáo rằng bác sĩ của họ thảo luận
về tôn giáo hay tâm linh với họ [25].
Theo bài viết của “Trầm cảm và các dấu hiệu khác liên quan đến sức
khỏe tâm thần tăng nguy cơ tử vong sau đột quỵ thiếu máu cục bộ” của các
tác giả Linda S. Williams, Sushmita Shoma Ghose, Ralph W. Swindle, được
in trên tạp chí Tâm thần học Mỹ (The American Journal of Psychiatry) tháng
6, 2004 đã đưa ra trong số 51.119 bệnh nhân nhập viện sau một cơn đột quỵ
thiếu máu cục bộ và sống sót vượt quá 30 ngày sau đó, trong đó có 2.405
(4,7%) nhận được chẩn đoán là trầm cảm (ICD-9) và 2257 (4,4%) được chuẩn
đoán là có rối loạn thần hoặc lạm dụng khác trong vòng 3 năm sau đó. So với
những người không có chuẩn đoán bệnh thì những người có chuẩn đoán trầm
cảm hoặc các rối loạn tâm thần khác trẻ hơn và khả năng còn sống thấp hơn
vào cuối thời gian theo dõi [35].
Một số nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân là một điều hết sức cần thiết. Trong quá trình phục hồi chức năng cho
27
bệnh nhân, nếu bệnh nhân có một sức khỏe tinh thần khỏe mạnh họ sẽ có đầy
đủ lý do, động lực để vượt qua những khó khăn trong việc hoàn thành các bài
tập vật lý trị liệu, có khả năng để đối phó với những cảm xúc tiêu cực nảy
sinh trong quá trình điều trị. Từ đó có thể đẩy nhanh quá trình hồi phục cho
bệnh nhân, giúp bệnh nhân tận hưởng cuộc sống.
1.2.4 Một số phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Theo Shelly E.Taylor viết trong cuốn Tâm lý học sức khỏe tái bản lần
thứ 6, có 4 cách trong điều trị phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN:
Tâm lý trị liệu bao gồm các biện pháp chữa trị cho trầm cảm.
Huấn luyện hồi phục nhận thức để tái tạo trí nhớ.
Huấn luyện trong phát triển kỹ năng đặc biệt.
Sử dụng các cấu trúc, kích thích môi trường để thách thức khả năng của
bệnh nhân tai biến [40].
Do tính đặc trưng của bệnh nhân TBMMN, việc chăm sóc tinh thần bệnh
nhân có thể áp dụng các phương pháp sau:
Tổ chức các hoạt động giải trí, vui chơi tập thể như chơi bài, chơi lô tô,
văn nghệ… Những hoạt động vui chơi này sẽ đem lại những hiệu quả bất ngờ.
Trầm cảm, lo âu và rối loạn khác có thể để lại những cá nhân có tác biệt trong
xã hội. Giải trí trị liệu có thể cung cấp cho bệnh nhân với một cơ hội để cải
thiện chất lượng cuộc sống thông qua một cảm giác gia tăng kiểm soát, tương
tác xã hội, hỗ trợ xã hội và những khả năng hoàn thành nhiệm vụ được định
hướng. Nó cũng có thể giúp đỡ những người dễ bị tổn thương phát triển hoặc
tái thiết lập các kỹ năng xã hội trong một môi trường có kiểm soát.
Tạo càng nhiều tiếng cười càng tốt. Quan điểm cho rằng sự hài hước và
tiếng cười là tốt cho sức khỏe không phải là mới. Calman trong một nghiên
cứu về cách kể chuyện hài hước và thảo luận trên quan điểm y học về cách
hài hước có giá trị trong việc tăng cảm giác hạnh phúc, cải thiện các chức
28
năng sinh lý và tâm lý, và thậm chí thay đổi ngưỡng đau. Tiếng cười có tiềm
năng để giảm bớt căng thẳng ở những bệnh nhân và các chuyên gia y tế. Nó
có thể đem lại cơ hội để quên đi lo lắng và đau đớn trong một thời gian ngắn.
Khi các bác sĩ chia sẻ một cách hài hước với các bệnh nhân, họ tạo ra những
đường thông tin liên lạc mà làm cho bệnh nhân an tâm và có thể khuyến khích
họ để thảo luận về các vấn đề khó khăn. Tiếng cười có thể đặt cả hai bên thoải
mái trong một cách mà nhiều kiểu liên lạc chính thức thì không thể làm được.
Tổ chức các hoạt động như sáng tác, kể chuyện và đọc thơ. Mối quan
hệ giữa sáng tác và hạnh phúc tinh thần cho đến này được xem như là một
một phương thức đầy hứa hẹn cho sự hạnh phúc của bệnh nhân nói chung.
Trong sức khỏe tinh thần, việc sử dụng văn bản như một phương tiện để thể
hiện những suy nghĩ và cảm xúc có thể có giá trị chữa bệnh. Một nghiên cứu
của Deurzen Smith vào năm 1997 cho thấy một sự giảm đáng kể về mức độ
trầm cảm ở những bệnh nhân được hướng dẫn để chọn đọc văn học, tiểu
thuyết hay thơ ca, so với nhóm không được đọc. Thông qua thơ, truyền thuyết,
văn học dân gian, huyền thoại, lịch sử, tiểu thuyết hoặc buổi biểu diễn, câu
chuyện là một thành phần quan trọng của tất cả kinh nghiệm của con người.
Calman mô tả việc sử dụng các câu chuyện như là một phương tiện cho các
bác sĩ để thiết lập mối quan hệ tin cậy với các bệnh nhân và để học hỏi lẫn
nhau những bài học có giá trị. Cụ thể với lý do hài hước như một khía cạnh
quan trọng của cách kể chuyện, Calman khẳng định rằng câu chuyện hỗ trợ
trong việc phát triển kiến thức về cảm xúc, đặc biệt là liên quan đến việc chia
sẻ kinh nghiệm giữa các bác sĩ trong đào tạo.
Cho bệnh nhân nghe nhạc. Một nghiên cứu của trường đại học Helsinki
cho thấy rằng những bệnh nhân đột quỵ được nghe nhạc trong vòng 1 tới 2
giờ mỗi ngày hồi phục nhanh hơn (60%) so với bệnh nhân không nghe (29%).
29
Tổ chức các buổi vẽ tranh cho bệnh nhân. Hội họa đã được chứng
minh là có tác động tích cực trên những bệnh nhân tham gia. Nghiên cứu tại
Bệnh viện Chelsea và Westminster đã chỉ ra rằng những bệnh nhân hóa trị
liệu, người đã có thể xem luân phiên triển lãm nghệ thuật trong thời gian phục
hồi được báo cáo giảm giá của sự lo âu và trầm cảm. Tại Bệnh viện Conquest
ở Đông Sussex buổi vẽ tranh hàng tuần cho bệnh nhân đột quỵ, tập trung vào
việc cầm vật liệu và các công cụ, sử dụng cả hai tay, kỹ năng vận động tinh
luyện và tập luyện phối hợp tay và mắt tốt, giúp giảm bớt những ảnh hưởng
về tinh thần và thể chất của đột quỵ. Hội họa cũng đã được chứng minh là
giúp bệnh nhân giảm đau. Trong một nghiên cứu của Mỹ, người được lấy
máu trong phòng có những bức tranh nghệ thuật có cảm giác về nỗi và căng
thẳng giảm so với người được lấy máu trong một căn phòng không có gì.
Cho bệnh nhân xem các bộ phim truyền.Phim truyền hình hầu như tích
hợp hầu hết tất cả các nghệ thuật: bao gồm ca hát, nhảy múa, hội họa, điêu
khắc, kể chuyện, âm nhạc, múa rối, thơ ca và nghệ thuật diễn xuất. Một đánh
giá về vai trò của kịch cho những người thiếu khả năng giao tiếp nhận thức và
kỹ năng xã hội cho thấy hiệu quả tích cực trong việc giảm những khuyết tật
này. Những bộ phim đáp ứng các nhu cầu tâm lý sâu sắc của những người bị
sa sút trí tuệ để thể hiện và hiểu thế giới của riêng mình.
Cho bệnh nhân ca hát. Một nghiên cứu của Clair và các cộng sự thấy
rằng ca hát có thể là một phương tiện hiệu quả của việc tập trung khơi gợi
phản ứng ở những bệnh nhân ở giai đoạn cuối của bệnh mất trí nhớ, ngay cả
trong không đáp ứng với các loại kích thích khác trong cuộc sống hàng ngày
của họ. Nghiên cứu này nhấn mạnh tiềm năng ca hát để được sử dụng bởi tất
cả các loại của người chăm sóc: “Tiếng hát thành công khơi gợi các phản ứng
ngay khi hát mà không có nhạc đệm, và do đó có thể ảnh hưởng đế tất cả
những người muốn hát, bất kể việc hát hay hay dở”. Ca hát làm tăng giao tiếp
30
bằng lời nói, kích thích sự hợp tác của bệnh nhân trong công việc thường
ngày, cải thiện tâm trạng của họ và làm giảm kích động.
[26]
31
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Bệnh TBMMN là một căn bệnh tác gây ra tổn thương trên não người –
cơ quan tổ chức cao nhất, trung tâm điều hòa các hoạt động sống của cơ thể.
Do vậy, khi bị tổn thương trên não thì tâm lý con người nhất định sẽ bị ảnh
hưởng. Bệnh TBMMN làm thay đổi nhận thức, tình cảm… tùy thuộc vào bên
não bị tổn thương và mức độ của tổn thương. Việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân sau TBMMN đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Trong công tác chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN chủ yếu đi
theo ba hướng chính là:
- Quan tâm, nâng cao giá trị của đời sống tâm linh, niềm tin tôn giáo của bệnh
nhân.
- Dựa vào các quá trình của sự trao đổi với bệnh nhân: trao đổi, chia sẻ (being
present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes); tương tác (cocreating). Những
cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là
vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp
cho người chăm sóc có thể chú ý tới họ một cách toàn diện hơn.
- Quan tâm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Các biện pháp chăm sóc tinh thần bệnh nhân TBMMN có thể áp dụng
các phương pháp sau:
- Tổ chức các hoạt động giải trí, vui chơi tập thể.
- Tạo cho bệnh nhân càng nhiều tiếng cười càng tốt.
- Tổ chức các hoạt động như sáng tác, kể chuyện và đọc thơ.
- Cho bệnh nhân nghe nhạc.
- Tổ chức các buổi vẽ tranh cho bệnh nhân.
- Cho bệnh nhân xem các bộ phim truyền hình.
- Tổ chức các buổi ca hát.
32
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CHĂM SÓC
TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở
MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Thể thức nghiên cứu
2.1.1 Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN dự
kiến được tiến hành ở 2 bệnh viện: Viện Y Dược học Dân Tộc TPHCM, địa
chỉ: 273 Nguyễn Văn Trỗi, phường 10, quận Phú Nhuận và Bệnh viện Đại
học Y Dược TPHCM, địa chỉ: 215 Hồng Bàng, phường 11, quận 5.
Tại Viện Y dược học Dân tộc mẫu nghiên cứu gồm 35 người, trong đó
có 9bệnh nhân, 13 người chăm sóc và 13 nhân viên y tế.
Tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, đề tài đã được sự đồng ý của
Ban Giám đốc bệnh viện, nhưng giai đoạn thu số liệu cuối cùng không thực
hiện được do bị từ chối bởi Khoa Vật lý trị liệu.
Vì vậy mẫu nghiên cứu của đề tài thực tế chỉ có 35 người,sự phân bố
thành phần của mẫu nghiên cứu được trình bày trong bảng dưới đây:
Bảng 2.1.Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Nhóm khảo sát Tuổi tác Giới tính Tôn giáo
Nhân Bệnh Người Từ 30 Trên Nam Nữ Có Không
viên y nhân chăm tới 50 50
tuổi tuổi sóc tế
13 9 19 16 12 23 17 18 13
(37%) (26%) (37%) (54%) (46%) (34%) (66%) (49%) (51%)
33
2.1.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tiến hành thực hiện 2 phương pháp nghiên cứu là phỏng vấn và
điều tra bảng hỏi.
2.1.2.1 Phương pháp phỏng vấn:
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài, bao gồm phỏng vấn có
cấu trúc và phỏng vấn bán cấu trúc.
- Phỏng vấn có cấu trúc: trực tiếp phỏng vấn từng BN&NCStheo bảng câu hỏi
đã soạn sẵn và ghi lại kết quả để khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho
người chăm sóc TBMMN. Trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn trực
tiếp giải thích với BN&NCS nếu có thắc mắc.
- Phỏng vấn bán cấu trúc: tiến hành phỏng vấn chuyên sâu với 8 đối tượng: 2
bác sĩ, 2 nhân viên y tế, 2 bệnh nhân, 2 người chăm sóc, sử dụng các câu hỏi
đã soạn sẵn để khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN.
2.1.2.2 Phương pháp điều tra bảng hỏi
Đề tài tiến hành điều tra bằng bảng hỏi trên 13 người là bác sĩ và nhân
viên y tế (sau đây gọi chung là nhóm y tế). Sử dụng với bảng câu hỏi đã soạn
sẵn nhằm khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.
Bảng hỏi sau khi được giới thiệu sơ lược thì được phát đến từng người. Trong
quá trình thực hiện, người khảo sát trực tiếp giải thích với mọi người nếu có
thắc mắc.
2.1.3 Công cụ nghiên cứu
2.1.3.1 Phương pháp phỏng vấn:
a) Phỏng vấn có cấu trúc (xem ở phụ lục 1a)
Bảng hỏi bao gồm 2 phần: phần 1 đưa ra các câu hỏi nhằm nắm bắt một số
thông tin cần thiết của người được khảo sát như: giới tính, tuổi, thu nhập, tôn
34
giáo, người chăm sóc là ai? Số lần bệnh nhân bị TBMMN, đối tượng khảo sát
là bệnh nhân hay người chăm sóc.
Phần 2 bao gồm 8 câu hỏi:
Câu 1: 6 nhận định đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN (có thể chọn được nhiều đáp án).
Câu 2: 6 nhận định đúng hoặc sai về vật lý trị liệu (có thể chọn được nhiều
đáp án).
Câu 3: 21 biểu hiện đúng hay sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN.
Câu 4: thái độ bệnh nhân trong việc chăm sóc toàn diện của nhóm y tế dành
cho họ.
Câu 5: mức độ hài lòng của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh thần nói
chung.
Câu 6: mức độ hài lòng của bệnh nhân trên 18 biểu hiện chăm sóc tinh thần
cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0.89).
Câu 7: sự cần thiết theo bệnh nhân về 18 biểu hiện chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha =0,84).
Câu 8: mức độ thường xuyên của 26 biểu hiện (bao gồm 18 biểu hiện chăm
sóc tinh thần và 8 biểu hiện vật lý trị liệu) được thực hiện tại cơ sở y tế. (hệ số
Cronbach's Alpha = 0,87).
b) Phỏng vấn bán cấu trúc:
Nội dung phiếu phỏng vấn gồm có 3 câu:
- Các cô/bác/anh/chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong
việc chăm sóc tinh thần không? Tại sao?
- Các cô/bác/anh/chị có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
35
- Các cô/bác/anh/chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
2.1.3.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (xem ở phụ lục 1b)
Bảng hỏi cũng bao gồm 2 phần: phần 1 nhằm cung cấp các thông tin sơ
lược của nhóm y tế như: giới tính, tuổi tác, tôn giáo.
Phần 2 bao gồm 9 câu hỏi:
Câu 1: 6 nhận định đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN (có thể chọn được nhiều đáp án).
Câu 2: 6 nhận định đúng hoặc sai về vật lý trị liệu.
Câu 3: 21 biểu hiện đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN.
Câu 4: thái độ của nhóm y ttế trong việc chăm sóc toàn diện cho bệnh
nhân TBMMN của bệnh viện dành cho họ.
Câu 5: thái độ của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN.
Câu 6: thái độ của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân TBMMN.
Câu 7: mức độ hài lòng của nhóm y tế trên 18 biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,93).
Câu 8: mức độ cần thiết theonhóm y tế về 18 biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,91).
Câu 9: khảo sát mức độ thường xuyên của 26 biểu hiện (bao gồm 18 biểu
hiện chăm sóc tinh thần và 8 biểu hiện vật lý trị liệu) được thực hiện tại cơ sở
y tế. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,76).
36
2.1.4 Tiến trình nghiên cứu
2.1.4.1 Xây dựng bộ công cụ
Bước đầu tiên để có được bảng hỏi,tiến hành tìm hiểu về những vấn đề
có liên quan như bệnh TBMMN, quá trình điều trị cho bệnh TBMMN, các
phương pháp phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN, những điều cần
lưu ý trong việc chăm sóc cho bệnh nhân TBMMN… Trên có cơ sở đưa ra
một số câu hỏi thăm dò cho 15 bệnh nhân TBMMN và người chăm sóc, 13
bác sĩ và nhân viên y tế.
Sau đó, dựa vào kết quả của phiếu thăm dò sơ bộ trước đó và kết quả
nghiên cứu về mặt lý luận, tiến hành lọc kết quả, đưa ra các yếu tố cần thiết
để khảo sát, những biểu hiện trong việc chăm sóc tinh thần, vật lý trị liệu cho
bệnh nhân TBMMN vào trong bảng hỏi để hình thành bảng hỏi chính thức.
Sau khi có bảng hỏi chính thức, tiếp tục đi thử bảng hỏi với những đối
tượng đã thăm dò trên và tiến hành chỉnh sửa một số nội dung như: đưa vào
thêm một số biểu hiện vật lý trị liệu trong câu 3 của 2 bảng hỏi; thêm vào câu
hỏi 6 (mức độ hài lòng của nhóm y tế về ý kiến bệnh nhân được chăm sóc
tinh thần một cách toàn diện) vào trong bảng hỏi dành cho nhóm y tế để được
bảng hỏi chính thức.
Để có được phiếu phỏng vấn sâu với các đối tượng, bước đầu đưa ra các
vấn đề trọng tâm trong đề tài cần được làm rõ. Sau khi có kết quả sơ bộ của
bảng hỏi, so sánh những vấn đề trọng tâm với kết quả của bảng hỏi, sau đó
đưa ra một số vấn đề cần làm rõ hơn trong kết quả sơ bộ. Đưa ra các câu hỏi
để làm rõ vấn đề đó để tạo thành phiếu phỏng vấn sâu.
2.1.4.2 Tiến hành thu số liệu:
Việc thu thập số liệu tổ chức từ ngày 15/3 đến 26/3/2016 tại khoa Nội
tim mạch – thần kinh, Viện Y Dược học Dân Tộc TPHCM.
37
Đối với nhóm phỏng vấn (BN&NCS): việc thu thập dữ liệu tiến hành
trực tiếp trên từng cá nhân, người phỏng vấn đọc từng câu hỏi theo đúng trình
tự của phiểu hỏi đã soạn sẵn, sau đó ghi lại kết quả, giải thích cho đối tượng
nếu có thắc mắc. Phiếu được thu ngay sau khi hoàn thành. Thời gian để phỏng
vấn từng người khoảng 30-40 phút.
Đối với nhóm điều tra bằng bảng hỏi (nhóm y tế): việc thu thập dữ liệu
được tiến hành theo nhóm, giới thiệu bảng hỏi và hướng dẫn trả lời theo nhóm.
Phiếu được thusau khi họ hoàn thành xong. Thời gian để hoàn thành bảng hỏi
khoảng 15 – 20 phút.
Cách đánh giá điểm thang đo thái độ:
Bảng 2.2Cách đánh giá điểm thang đo 5 mức độ
Điểm trung bình Mức độ
1 – 1,79 Hoàn toàn không đồng ý/hài lòng/cần thiết
1,8 – 2,59 Không đồng ý/hài lòng/cần thiết
2,6 – 3,39 Phân vân/Bình thường
3,4 – 4,19 Đồng ý/hài lòng/cần thiết
4,2 – 5 Hoàn toàn đồng ý/hài lòng/cần thiết
Bảng 2.3 Cách đánh giá điểm thang đo 3 mức độ
Điểm trung bình
1 – 1,66
1,67 – 2,33
2,34 – 3 Mức độ
Hiếm khi
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
2.2 Kết quả nghiên cứu
Trong phần này, đề tài sẽ đưa ra một số thực trạng về chăm sóc tinh thần
cho bệnh nhân TBMMN như: thực trạng về nhận thức của các nhóm khảo sát,
thực trạng đánh giá của các nhóm khảo sát về những biểu hiện chăm sóc tinh
38
thần, và thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN sau
đó đưa ra sự so sánh để tìm kiếm sự khác biệt giữa các yếu tố.
2.2.1 Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát
Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát về chăm sóc tinh thầnchỉ
tập trung ở các biểu hiện liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân như:
thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân, tôn trọng bệnh nhân, giữ bí mật cho
bệnh nhân… và mục đích chính của cả nhóm y tế và nhóm BN&NCS đều
mong muốn bệnh nhân hợp tác, nhanh chóng hồi phục sức khỏe.
Ngay cả đối với những nhận định về vật lý trị liệu thì mục đích mọi
người mong muốn nhiều nhất cũng là giúp bệnh nhân mau khỏi bệnh, hồi
phục chức năng.
2.2.1.1 Những nhận định về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Bảng 2.4 Nhận định của nhóm y tế về việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN (N=13)
Các nhận định
Tần số
Tỉ lệ
(%)
34,4
a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị
11
bệnh, đối mặt với tình trạng bệnh
12
37,5
b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo
âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện
tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ
xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá
trình tất yếu.
5
15,6
c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp
tục tiến hành điều trị bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi
phục sức khỏe.
1
3,1
d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung
quanh mình, cải thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người
xung quanh.
e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được
1
3,1
niềm tin, phối hợp với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.
f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều trị
2
6,2
bệnh cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.
39
Như vậy, theo kết quả thu được thì nhận định chiếm đa số (37,5%) về
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN của nhóm y tế trùng với nhận
định của đề tài là: “Chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là hỗ trợ bệnh nhân,
làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm
lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân;
nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt
với cái chết như là một quá trình tất yếu”. Mặt khác 2 nhận định được cho
không phải là chăm sóc tinh thần với tỉ lệ chọn thấp nhất (3,7%) là: “Giúp
bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải
thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh”, “Giúp bệnh
nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp
với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh”. Ta có thể thấy, mặc dù tỉ lệ chọn nhận
định trùng với nhận định của đề tài là cao nhất, nhưng việc phân vân giữa 2
nhận định thứ nhất và nhận định thứ hai và cho rằng giúp bệnh nhân nhận ra
các giá trị và tầm quan trọng của các mối quan hệkhông phải là chăm sóc
tinh thần, ta có thể thấy việc nhận thức chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân vẫn
còn phiến diện, chỉ chú trọng một số vấn đề như cảm xúc của bệnh nhân và
đặc biệt là sự hợp tác trong quá trình điều trị bệnh của bệnh nhân.
Mặt khác, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân theo nhóm y tế là
không có sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm linh cho ta thấy việc áp dụng các
yếu tố tâm linh vào chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân đang không được quan
tâm một cách đúng mức, thậm chí bỏ qua yếu tố quan trọng này. Nguyên
nhân để xảy ra việc này có thể một phần là do số lượng của mẫu nghiên cứu
chưa đủ và việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào chăm sóc tinh thần chưa nằm
trong chính sách phát triển của Viện.
40
Bảng 2.5. Nhận định của BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN (N=22)
Các nhận định Tần Tỉ lệ
số (%)
g. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều 11 17,2
trị bệnh, đối mặt với tình trạng bệnh
h. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: 12 18,8
lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục
luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các
mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái
chết như là một quá trình tất yếu.
i. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để 16 25,0
tiếp tục tiến hành điều trị bệnh, không còn buồn phiền, lo âu;
nhanh hồi phục sức khỏe.
j. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội 11 17,2
xung quanh mình, cải thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với
mọi người xung quanh.
k. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại 10,9 7
được niềm tin, phối hợp với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.
l. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều 10,9 7
trị bệnh cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân hòa nhập với cuộc
sống.
Dựa vào kết quả của bảng 2.5, ta có nhận định: “Giúp bệnh nhân tìm lại
niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị bệnh, không
còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.” được chọn với tỉ lệ cao nhất
(25%) cho thấy rằng, mục đích lớn nhất của bệnh nhân chính là nhanh hồi
phục lại sức khỏe. Việc lựa chọn các nhận định còn có sự phân tán.
41
Tương tự với nhóm y tế, BN&NCS cũng chọn nhận định chăm sóc tinh
thần có sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm linh là thấp nhất (10,9%). Qua đây ta
có thể thấy, việc hỗ trợ tâm linh vào trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
không phải là vấn đềmới, nhưng đối với cả nhóm y tế hay nhóm BN&NCS
đều chưa thực sự đánh giá đúng vai trò của việc này. Hiện nay, các vấn đề có
liên quan đến tâm linh cả tích cực lẫn tiêu cực thường được quy chụp là mê
tín dị đoan, bị mọi người phản đối nên việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào
môi trường khoa học như bệnh viện thường bị mọi người bác bỏ, do đó, việc
chăm sóc tinh thần dựa trên các yếu tố tâm linh thường không được quan tâm
một cách đúng mức.
2.2.1.2 Các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Bảng 2.6. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện trao đổi, giao tiếp với
bệnh nhân TBMMN (N=13)
Biểu hiện
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi
mở
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.
Tần số
chọn
11
2
12
1
9
4
13 Tỉ lệ
(%)
84,6
15,4
92,3
7,7
69,2
30,8
100 Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh
nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được
của bệnh nhân. 13
13
12
1 Đúng
Đúng
Đúng
Sai
100
100
92,3
7,7
Từ kết quả của bảng 2.6 ta thấy rằng việc cho rằng các biểu hiện trên
đúng là chăm sóc tinh thần chiếm tỉ lệ cao (69,2 – 100%) cho thấy, tỉ lệ nhận
thức đúng rằng việc trao đổi giao tiếp với bệnh nhân chính là chăm sóc tinh
42
thần cho bệnh nhân khá cao. Đáng chú ý là 3 biểu hiện: “Cư xử phù hợp với
từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho
bệnh nhân.” với tỷ lệ 100% đồng ý là chăm sóc tinh thần.Tuy nhiên, biểu
hiện: “Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.” có tỉ lệ chọn sai là 30,8% cho
thấy việc nhận thức rằng quan tâm đến danh tính của bệnh nhân không được
đánh giá cao. Qua trao đổi với một số bệnh nhân thì việc nhóm y tế gọi tên
bệnh nhân chỉ xảy ra một các thỉnh thoảng trong một số trường hợp đặc biệt,
còn đa số thì nhóm y tế chỉ gọi bệnh nhân làcô, chú, bác…còn theo ý kiến của
một bác sĩ khác thì việc gọi bệnh nhân bằng tên không thân thiết bằng việc
gọi bệnh nhân bằng cô, chú, bác…
Bảng 2.7. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện nâng cao chất lượng
cuộc sống cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện
Tần số Tỉ lệ
(%)
84,6
15,4
100
Đúng 11
2
Sai
Đúng 13
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi
phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của
mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài
trời).
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc
61,5
38,5
61,5
38,5
84,6
15,4
100
Đúng 8
5
Sai
Đúng 8
5
Sai
Đúng 11
2
Sai
Đúng 13
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với
chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh
thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục
thành công.
84,6
15,4
Đúng 11
2
Sai
Bảng 2.7 cho ta thấy những biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc sống
được cho là chăm sóc tinh thần với tỉ lệ cao (61,5-100%). Có 2 biểu hiện
được đồng ý với mức tuyệt đối là: “Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
43
trạng bệnh của mình. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh
thần cho người chăm sóc.”
Bảng 2.8. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện hỗ trợ nhu cầu tâm
linh cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
chọn (%)
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc 84,6 Đúng 11
sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên 2 15,4 Sai
bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của 7,7 Đúng 1
Đấng tối cao. 12 92,3 Sai
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến 38,5 Đúng 5
tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. 8 61,5 Sai
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, 69,2 Đúng 9
chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. 4 30,8 Sai
Các biểu hiện liên quan đến yếu tố tâm linh được nhóm y tế cho không
phải là chăm sóc tinh thần chiếm tỉ lệ khá cao, có biểu hiện đạt tỉ lệ cho rằng
không phải là chăm sóc tinh thần lên tới 92,3%. Qua kết quả trên ta có thể
thấy rằng, việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong chăm sóc tinh thần đang
không được quan tâm một cách đúng mức với ngay cả nhóm y tế, nguyên
nhân có thể là do việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong một bệnh viện
của Nhà nước rất khó khăn – theo như bác sĩ Hồ Ngọc Hồng, trưởng khoa Nội
tim mạch-thần kinh.
44
Bảng 2.9. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện liên quan đến vật lý
trị liệu trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
chọn (%)
Châm cứu cho bệnh nhân. 46,2 Đúng 6
7 53,8 Sai
Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 30,8 Đúng 4
9 69,2 Sai
Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 23,1 Đúng 3
10 76,9 Sai
Quan sát bảng 2.9, ta thấy đối với việc chăm sóc tinh thần sử dụng các
yếu tố vật lý trị liệu ta thấy có sự phân vân cao ở biểu hiện châm cứu cho
bệnh nhân. Biểu hiện này hoàn toàn không phải là chăm sóc tinh thần nhưng
tại sao lại có sự phân vân như vậy? Nguyên nhân chính là do trong quá trình
thực hiện việc châm cứu thì nhóm y tế thường tiến hành song song những
biểu hiện chăm sóc tinh thần như: trao đổi, nói chuyện với bệnh nhân, chính
việc trao đổi, nói chuyện với bệnh nhân mới là biểu hiện của việc chăm sóc
tinh thần nhưng nhóm y tế lại cho rằng châm cứu cũng là biểu hiện của chăm
sóc tinh thần. Qua đây, ta có thể thấy được rằng, việc xác định như thế nào là
chăm sóc tinh thần còn chưa rõ ràng, còn xảy ra nhầm lẫn.
Từ kết quả của các bảng từ 2.6 tới 2.9 ta biết được thực trạng nhận thức
của nhóm y tế trên những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN, để thấy được thực trạng nhận thức của nhóm BN&NCS trên những
biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN theo các hướng ta sẽ
tìm hiểu qua các bảng 2.10 đến 2.13.
45
Bảng 2.10. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện trao đổi với bệnh
nhân TBMMN (N=22)
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
chọn (%)
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. 86,4 Đúng 19
3 13,6 Sai
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi 90,9 Đúng 20
mở 2 9,1 Sai
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện. 68,2 Đúng 15
7 31,8 Sai
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh 72,7 Đúng 16
nhân. 6 27,3 Sai
Tôn trọng bệnh nhân. 90,9 Đúng 20
2 9,1 Sai
Giữ bí mật cho bệnh nhân. 81,8 Đúng 18
4 18,2 Sai
90,9 Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được Đúng 20
của bệnh nhân. 2 9,1 Sai
Tương tự với nhận định của nhóm y tế, BN&NCS cũng cho rằng những
biểu hiện liên quan đến giao tiếp, trao đổi với bệnh nhân là chăm sóc tinh thần
chiếm tỉ lệ cao (68,2 - 90,9%). Cho thấy việc nhận định chăm sóc tinh thần
chủ yếu chỉ dựa trên các biểu hiện của sự giao tiếp giữa nhóm y tế và bệnh
nhân. BN&NCS cũng cho rằng, việc gọi bệnh nhân bằng tên không thực sự là
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân với mức chọn sai là 31,8%, theo ý kiến của
một bệnh nhân thì khi nhóm y tế gọi bệnh nhân bằng các đại từ nhân xưng (cô,
chú, bác, dì…) thì bệnh nhân cảm thấy thân thiết hơn so với gọi bằng tên.
46
Bảng 2.11. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện nâng cao chất
lượng cuộc sống cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
(%)
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi 77,3 Đúng 17
phục bệnh nhân. 5 22,7 Sai
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của 72,7 Đúng 16
mình. 6 27,3 Sai
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, 63,6 Đúng 14
ngoài trời). 8 36,4 Sai
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với 68,2 Đúng 15
chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. 7 31,8 Sai
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc 63,6 Đúng 14
tinh thần cho người chăm sóc. 8 36,4 Sai
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi 81,8 Đúng 18
phục thành công. 4 18,2 Sai
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc 81,8 Đúng 18
4 18,2 Sai
Tỉ lệ chọn đúng của những biểu hiện này có giảm hơn so với biểu hiện
liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân ở trên cho thấy việc nhận thức
rằng những biểu hiện liên quan đến nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh
nhân cũng là chăm sóc tinh thần có phần thấp hơn. Không có biểu hiện nào
được chọn với tỉ lệ tuyệt đối.
47
Bảng 2.12. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện hỗ trợ tâm linh cho
bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
chọn (%)
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc 45,5 Đúng 10
sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên 12 54,5 Sai
bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của 45,5 Đúng 10
Đấng tối cao. 12 54,5 Sai
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến 22,7 Đúng 5
tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. 17 77,3 Sai
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, 86,4 Đúng 14
chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. 7 13,6 Sai
Những biểu hiện liên quan yếu tố tâm linh đa phần được chọn là sai (cao
nhất đến 77,3%) chính vì bệnh nhân hầu như không cho rằng hỗ trợ tâm linh
cũng là một trong những phương pháp của chăm sóc tinh thần. Trong quá
trình phỏng vấn, các vấn đề thắc mắc chủ yếu cũng liên quan đến vấn đề này.
BN&NCSkhi được hỏi đến vấn đề này thường thắc mắc sức mạnh kỳ diệu của
Đấng Tối cao là gì? Ví dụ như cô Nguyễn Thị L (phòng 212) thắc mắc là:
“Đấng tối cao của con là ai? Chúa đó hả? Cô đâu phải đạo Chú đâu mà tin”,
chú Huỳnh Đức N (phòng 218) cho rằng: “Bác sĩ đâu được phép tuyên truyền
tôn giáo cho bệnh nhân đâu mà lại hỏi như vậy, với lại tôn giáo thì có liên
quan gì đến chữa bệnh cho bệnh nhân.”Thêm vào đó ông Nguyễn Văn T
(phòng 218) lại khẳng định rằng:“Bệnh nhân thì phải nghe lời bác sĩ chớ, bác
sĩ nói gì nghe đó chứ biết gì đâu mà thảo luận con”. Qua những thắc mắc trên
48
ta có thể thấy là BN&NCS không nhận ra được bất kì mối liên hệ nào giữa
chăm sóc tinh thần bệnh nhân với các yếu tố tâm linh hay thậm chí không
nhận định đó là một yếu tố của việc chăm sóc tinh thần.
Đối với biểu hiện: “Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan
đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.” có tỷ lệ chọn sai là cao nhất (77,3%)
chính là do thứ nhất: không phải nhóm y tế nào cũng am hiểu về tôn giáo, tâm
linh, tính ngưỡng; thứ hai: các bệnh nhân không phải ai cũng có tôn giáo, tính
ngưỡng, tâm linh hoặc nếu có thì rất đa dạng, rất khó để trao đổi với nhau; thứ
ba, cả hai bên nhóm y tế và cả bệnh nhân, người chăm sóc đều đánh giá
không cao về việc chăm sóc tinh thần nhờ vào hỗ trợ của các yếu tố tâm linh.
Bảng 2.13. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện liên quan đến vật lý
trị liệu trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Tần số Tỉ lệ
chọn (%)
Châm cứu cho bệnh nhân. 86,4 Đúng 19
3 13,6 Sai
Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 68,2 Đúng 15
7 31,8 Sai
Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 77,3 Đúng 17
5 22,7 Sai
Do đặc điểm của Viện là áp dụng các phương pháp y học cổ truyền trong
điều trị cho bệnh nhân nên việc châm cứu được thực hiện thường xuyên, mà
trong chính thời gian châm cứu này, nhóm y tế cũng tiến hành song song việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân nên có thể gây ra nhầm lẫn cho BN&NCS
cho rằng các biểu hiện vật lý trị liệu trên là chăm sóc tinh thần với tỷ lệ cao
(68,2 – 86,4%).
49
Qua 6 bảng thống kê số liệu về nhận thức trên các biểu hiện chăm sóc
tinh thần cho thấy có sự khác biệt giữa mức độ nhận thức giữa nhóm y tế
vàBN&NCS, bảng sau đây sẽ cho ta thấy rõ hơn về điều này.
Bảng 2.14. Sự khác biệt mức độ nhận thức giữa nhóm y tế và
BN&NCS
trung
Sig.
Biểu hiện
BN&
NCS
1.14
1.09
1.32
1.27
1.09
1.18
1.09
1.22
0.89
0.89
0.95
0.01
0.16
0.04
0.89
0.61
1.00
1.38
1.15
1.27
1.36
1.55
0.01
0.90
0.01
1.92
1.62
1.55
1.77
0.002
0.33
1.32
1.41
0.60
1.54
1.69
1.77
1.38
1.15
1.14
1.32
1.23
1.18
1.32
0.02
0.03
0.002
0.229
0.26
1.00
1.36
0.002
Điểm
bình
Nhóm
Y Tế
1.15
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
1.08
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.
1.31
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.
1.00
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.
1.00
Tôn trọng bệnh nhân.
1.00
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. 1.08
1.15
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh
nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và
tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm
linh, tín ngưỡng.
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn
giáo, tín ngưỡng đó.
Châm cứu cho bệnh nhân.
Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân.
Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý
chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho
người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.
1,15
1,18
0.83
50
Qua kết quả kiểm nghiện T-test, ta có thể thấy rằng có khá nhiều biểu
hiện thể hiện sự khác biệt (9/21 biểu hiện), ở các biểu hiện liên quan đến trao
đổi giao tiếp với bệnh nhân thì cả 2 nhóm đều nhận thức đúng đắn khá cao.
Ở 2 biểu hiện: “Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân
và Giữ bí mật cho bệnh nhân.” xảy ra sự khác biệt về nhận thức, ở nhóm y tế
thì nhận thức đúng đắn hơn với việc hai biểu hiện có mức lựa chọn tuyệt đối
vì hai biểu hiện này cũng nằm trong 12 điều y đức của ngành y.
Ở nhóm các biểu hiện của chăm sóc tinh thần thông qua các yếu tố tâm
linh thì việc yếu tố này không được nhận thức một cách đúng đắn xảy ra ở cả
2 nhóm. Tuy nhiên, hai biểu hiệu: “Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về
cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho
bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.” xảy ra sự khác biệt.
Ở nhóm y tế thì thể hiện sự phân vân, còn ở nhóm BN&NCS thì nghiêng hẳn
về việc chọn sai.
Đối với nhóm các biểu hiện có liên quan đến nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân thì ở 2 biểu hiện: “Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.” và “Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc
tinh thần cho người chăm sóc.” có sự khác biệt. Điều này nói lên rằng, nhóm
y tế đánh giá vai trò của 2 biểu hiện trên cao hơn so với bệnh nhân & người
chăm sóc.
Còn ở bảng vật lý trị liệu tuy cả hai nhóm đều có sự nhầm lẫn các biểu
hiện vật lý trị liệu thành chăm sóc tinh thần nhưng vẫn có sự khác biệt giữa
nhận thức của hai nhóm. Thể hiện ở chỗ có sự khác biệt xảy ra ở cả ba biểu
hiện: “Châm cứu cho bệnh nhân. Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. Kéo nắn
tay chân cho bệnh nhân.”
51
Qua bảng trên ta có thể thấy rằng, có sự khác biệt về nhận thức giữa
nhóm y tế và BN&NCS. Và nhận thức cả hai nhóm về chăm sóc tinh thần còn
chưa thật đầy đủ, chỉ tập trung ở một số phương diện phổ biến.
2.2.1.3 Những nhận định về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN
Bảng 2.15. Số lựa chọn đúng về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN
Đối tượng Các nhận định đúng
Chọn đủ 3 Chọn 2 Chỉ chọn 1
yếu tố yếu tố yếu tố
3 (13,6%) 8 (36,4%) 13 (59%) BN& NCS
4 (30.8%) 5 (38,4%) 4 (30,8%) Nhóm y tế
Sau khi thu được kết quả ở bảng trên, ta thấy nhóm y tế có tỉ lệ chọn
đúng cả 3 đáp án là 30,8%, và tỉ lệ chọn các câu cũng phân bố đồng đều (lần
lượt 30,8%, 38,4% và 30,8%) hơn so với BN&NCS (lần lượt là 13,6%, 36,4%,
59%%).
Tỉ lệ BN&NCSchọn đủ 3 yếu tố chỉ có 13,6% trong khi đó chỉ chọn
đúng 1 câu đúng lên tới 59%, một con số khá cao, chiếm hơn một nữa.
2.2.2 Thực trạng đánh giá của các đối tượng về chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN:
Ba bảng 2.16, 2.17, 2.18 dưới đây sẽ lần lần lượt nêu ra các đánh giá của
các nhóm khảo sát về các vấn đề như mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh
nhân TBMMN được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện, mức độ hài lòng
của bệnh nhân TBMMN trong việc được chăm sóc tinh thần và mức độ hài
lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.
52
Bảng 2.16. Mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh nhân TBMMN
được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện
Nhóm Hoàn toàn Không Phân vân Đồng ý Hoàn toàn
không đồng đồng ý đồng ý
ý
Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ
số (%) số (%) số (%) số (%) số (%)
Nhóm y tế 1 7,7 0 0 3 23,1 6 23,1 46,2 3
BN&NCS 0 0 1 4,5 2 9,1 11 8 36,4 50
Ở bảng 2.16 đánh giá về mức đồng ý của bệnh nhân trong ý kiến cho
rằng bệnh nhân TBMMN được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện thì cả
bệnh nhân, người chăm sóc và nhóm y tế đều đồng ý với ý kiến đó với tỉ lệ
chọn đồng ý là 46,2% đối với nhóm y tế và 50% đối với nhóm BN&NCS.
Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMMN
trong việc được chăm sóc tinh thần
Đối tượng Không hài Bình Hài lòng Hoàn toàn
lòng thường hài lòng
Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ
số (%) số (%) số (%) số (%)
Nhóm y tế 0 0 7 30,8 2 15,4 53,8 4
BN&NCS 1 4,5 3 13,1 9 40,9 40,9 9
Còn ở bảng 2.17 đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMM trong
việc được chăm sóc tinh thần thì xảy ra sự khác biệt giữa 2 nhóm đối tượng,
một nhóm thì cho rằng bệnh nhân hài lòng còn một nhóm thì cảm thấy bình
thường trong việc được chăm sóc tinh thần. Qua đó, ta thấy có sự khác biệt
trong mức độ hài lòng giữa hai nhóm đối tượng. Nhóm BN&NCS đánh giá
53
mức độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn so với nhóm y tế, có thể là do việc
đánh giá của 2 nhóm dựa trên các biểu hiện khác nhau.
Bảng 2.18. Mức độ hài lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN
Không hài Bình thường Hài lòng Hoàn toàn hài
lòng lòng
Tần số Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ
(%) số (%) số (%) (%)
1 7,7 4 30,8 6 2 15,4 46,2
Cuối cùng ở bảng tự đánh giá thái độ hài lòng của mình trong việc bệnh
nhân được chăm sóc tinh thần thì nhóm y tế cũng cảm thấy hài lòng trong
việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân.
Qua 2 bảng đánh giá thái độ hài lòng của bệnh nhân và thái độ hài lòng
của mình trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì nhóm y tế đều cảm
thấy hài lòng, cho thấy nhóm y tế rất tự tin trong công tác chăm sóc tinh thần
cho bệnh nhân đang thực hiện.
2.2.3 Thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Ta sẽ biết được thực trạng mức độhài lòng, cần thiết và thường xuyên
của các nhóm khảo sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân TBMMN thông qua phần 2.2.3 này.
2.2.3.1 Mức độ hài lòng của các nhóm khảo sát đối với những biểu hiện
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:
Thông qua các bảng 2.16, 2.17, 2.18 ta đã phần nào thấy được sơ lược
thái độ của nhóm y tế và nhóm BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. Để thấy được rõ hơn sự hài lòng của từng nhóm khảo
sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh thần cụ thể, ta đi sâu phân tích mức
54
độ hài lòng của từng nhóm khảo sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN thông qua bảng 2.19 dưới đây:
Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Nhóm y tế BN&NCS
ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT
1 0,69 0,52
0,97 4,00 4.54
2.46 1
18
1,07 2,77 18
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào
sức mạnh kỳ diệu của Đấng
tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các
vấn đề có liên quan đến tôn
giáo, tâm linh, tín ngưỡng.
Ghi chú: Bảng đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những
biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể
xem thêm ở phụ lục 2.
Biểu hiện được hài lòng cao nhất theo nhóm y tế là biểu hiện giữ bí mật
cho bệnh nhân với điểm trung bình 4,54 thuộc mức hoàn toàn hài lòng, còn
đối với BN&NCS thì biểu hiện tôn trọng bệnh nhân được hài lòng với mức
cao nhất có điểm trung bình là 4,00 thuộc mức hài lòng. Cả hai biểu hiện đều
thuộc nhóm biểu hiện liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân đã thể
hiện sự quan tâm đến việc chăm sóc tinh thần thông qua những biểu hiện này
của Viện, nơi bệnh nhân đang được điều trị. Tuy nhiên, qua điểm trung bình
của mức độ hài lòng ta cũng thấy được, nhóm y tế đang đánh giá việc sự hài
lòng của bệnh nhân cao hơn so với mức mà bệnh nhân hài lòng.
Biểu hiện: “Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối
cao.” theo nhóm y tế là có điểm trung bình hài lòng thấp nhất là 2,46 thuộc
55
mức không hài lòng, còn theo BN&NCS thì biểu hiện: “Thảo luận với bệnh
nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.” có điểm
trung bình là 2,77 thuộc mức bình thường. Cả hai biểu hiện đều thuộc nhóm
các biểu hiện có liên quan đến hỗ trợ tâm linh trong chăm sóc tinh thần có thể
nói biểu hiện này gần như không được chú ý đến trong quá trình chăm sóc
tinh thần tại Viện.
So sánh hai phần mức độ nhận thức và mức độ hài lòng, ta thấy chúng có
liên quan đến nhau: nhóm biểu hiện có liên quan đến trao đổi, giao tiếp với
bệnh nhân được chú ý cao tương ứng với mức độ hài lòng ở những biểu hiện
này cũng cao. Tương tự, sự chú ý của nhóm biểu hiện có liên quan đến hỗ trợ
tâm linh thấp tương ứng với mức độ hài lòng thấp.
2.2.3.2 Mức độ cần thiết của những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN các nhóm khảo sát
Bảng 2.20. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát
Biểu hiện Nhóm y tế BN&NCS
ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT
Trò chuyện với bệnh nhân một 0,61 4,09 1
cách thân thiện, cởi mở.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những 0,63 4,31 1
thành tích đạt được của bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức 1,09 2,23 18
mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn 0,95 2,36 18
đề có liên quan đến tôn giáo, tâm
linh, tín ngưỡng.
56
Ghi chú: Bảng đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc
tinh thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát một cách đầy đủ có
thể xem thêm ở phụ lục 2.
Dựa vào bảng 2.20 trên đây thì, nhóm y tế thì biểu hiện: “Cổ vũ, khen
ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.” là mức độ cần thiết
nhất với điểm trung bình 4,31 thuộc mức hoàn toàn cần thiết. Còn đối với
BN&NCS thì biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi
mở.” có điểm số cao nhất 4,09 thuộc mức cần thiết. Cả hai nhóm biểu hiện
đều nằm nhóm có liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân cho ta thấy
việc giao tiếp với bệnh nhân được cả 2 nhóm đánh giá mức cần thiết rất cao,
được xem như là một biểu hiện chủ yếu trong việc chăm sóc tinh thần. Khi
bệnh nhân khi chọn biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.” đứng thứ nhất cho ta thấy rằng bệnh nhân rất chú ý đến thái
độ của nhóm ý tế trong cách trò chuyện hằng ngày.
Biểu hiện được đánh là có mức cần thiết thấp nhất theo nhóm y tế là:
“Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.” với điểm
trung bình là 2,23 thuộc mức không cần thiết. Tương tự với một biểu hiện
cũng nằm trong nhóm các biểu hiện liên quan đến hỗ trợ nhu cầu tâm linh là:
“Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.” cũng có số điểm trung bình thấp nhất 2,36 thuộc mức không cần
thiết theo BN&NCS. Nguyên nhân việc cả 2 biểu hiện của nhóm này đều là
những biểu hiện có mức độ cần thiết thấp nhất theo cả nhóm y tế; BN&NCS
chính là việc đánh giá không đúng mức về giá trị, sức ảnh hưởng của nhóm
biểu hiện này. Khi 2 nhóm đối tượng không xác định được giá trị của nhóm
biểu hiện này thì họ sẽ dễ dàng nghĩ rằng biểu hiện đó không cần thiết.
57
2.2.3.3 Mức độ thường xuyên của các nhóm khảo sát đối với những biểu
hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Bảng 2.21. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc
tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát
Biểu hiện Nhóm y tế NCS&BN
ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT
Chăm sóc tinh thần
Thảo luận với bệnh nhân các 1,23 0,63 26
vấn đề có liên quan đến tôn
giáo, tâm linh, tín ngưỡng.
ĐTBĐHTĐ 2,07 2,06
Vật lý trị liệu
Thủy trị liệu. 1,07 0,28 26 2,14 0,94 16
Châm cứu. 2,92 0,28 1 3,00 0 1
ĐTBĐHTĐ 2,24 2,49
Ghi chú: Bảng đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc
tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát một cách đầy đủ có thể xem
thêm ở phụ lục 2.
Quan sát bảng trên, ta có thể thấy được cả 2 nhóm đối tượng đều đồng ý
cho rằng biểu hiện châm cứu thuộc nhóm vật lý trị liệu là biểu hiện được thực
hiện thường xuyên nhất (2,92 của nhóm y tế và 3,00 của BN &NCS). Trong
quá trình thực hiện khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân tại
VYDHDT TPHCM, đề tài ghi nhận lại việc châm cứu là việc được thực hiện
hàng ngày tại Viện. Do đặc thù của Viện là sử dụng các biện pháp y học cổ
truyền để chữa bệnh, nên có thể nói châm cứu là một trong những phương
58
pháp chính trong quá trình điều trị bệnh tại Viện. Vì là biện pháp chính nên
mức độ thực hiện biểu hiện này là cao nhất.
Biểu hiện có mức độ thường xuyên thấp nhất theo nhóm y tế chính là
biểu hiện thủy trị liệu, phương pháp sử dụng tác động của nước để hồi phục
chức năng cho bệnh nhân-với số điểm trung bình là 1,07 nằm trong mức hiếm
khi. Giải thích cho việc vì sao biểu hiện thủy trị liệu là biểu hiện có mức độ
thường xuyên thấp nhất là vì phương pháp vật lý trị liệu này khá phức tạp,
việc cho bệnh nhân sử dụng còn nhiều chống chỉ định. Còn đối với bệnh nhân
thì biểu hiện: “Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo,
tâm linh, tín ngưỡng.” đạt mức thấp nhất với điểm trung bình là 1,23 thuộc
mức hiếm khi. Tương quan đến mức độ thường xuyên và mức độ nhận thức,
do không thực hiện thường xuyên nên không có nhận thức đầy đủ về nó và
ngược lại, khi không có nhận thức đúng thì không thể thực hiện được.
Một điều nữa ta có thể thấy điểm trung bình điều hòa của nhóm các biểu
hiện vật lý trị liệu cao hơn so với nhóm các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN ( đối với nhóm y tế là 2,07 và 2,24; đối với BN&NCS là
2,06 và 2,49), ta có thể thấy được trong quá trình điều trị cho bệnh nhân
TBMMN thì việc sử dụng các phương pháp vật lý trị liệu được sử dụng nhiều
hơn so với các phương pháp chăm sóc tinh thần – đúng theo giả thuyết của đề
tài.
2.2.4 So sánh sự khác biệt theo các nhóm đối tượng khác nhau trong việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:
Để biết được có sự khác biệt ý nghĩa giữa BN&NCS về mức độ hài lòng
đối với các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN, sự khác
biệt về mức độ cần thiết theo nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN ta sẽ tìm hiểu thông qua các bảng dưới đây:
59
2.2.4.1 Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS
Bảng 2.22. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm
sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện Đối tượng Sig.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện ĐTB
3,44 3,85 0,01
Biểu hiện Thu nhập Sig.
ĐTB
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên. 3,69 3,33 0,01
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân 4,23 3,55 0,02
Biểu hiện Tôn giáo Sig.
ĐTB
4,10 3,92 Tôn trọng bệnh nhân. 0,03
Ghi chú: Bảng sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể xem thêm
ở phụ lục 2.
Sau khi sử dụng kiểm nghiệm T-test, cho thấy rằng không có sự khác
biệt đối với 17/18 biểu hiện, tuy nhiên, lại có sự khác biệt giữa 2 nhóm đối
tượng BN&NCS trong việc hài lòng đối với biểu hiện “Gọi bệnh nhân bằng
tên khi trò chuyện” là có sự khác biệt với Sig.= 0,01<0,05. Sở dĩ có sự khác
biệt trong mức độ hài lòng đối với biểu hiện này là những biến đổi trên não
làm cho bệnh nhân có sự thay đổi nhận thức.
Cũng có sự khác biệt mức độ hài lòng đối với hai biểu hiện “Thường
xuyên trò chuyện với bệnh nhân” (Sig.=0,01<0,05)và “Cư xử phù hợp với
từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.” (Sig.=0,02<0,05) dựa theo mức độ thu
nhập của hai nhóm đối tượng. Do đặc điểm của bệnh viện có phân bố phòng
bệnh thành 2 khu: phòng bình thường với số giường khoảng từ 8 – 10
60
giường/phòng và phòng dịch vụ với số giường khoảng 2 – 4 giường/phòng
với đầy đủ tủ lạnh, máy lạnh, tivi. Do nằm ở phòng bệnh khác nhau nên yêu
cầu của họ cũng khác nhau tùy theo phòng mình nằm, dẫn đến sự khác biệt
trong mức độ hài lòng với một vài biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân.
Đối với 2 đối tượng có tôn giáo và không là có sự khác biệt ở mức độ hài
lòng đối với biểu hiện “Tôn trọng bệnh nhân.”(Sig.=0,03<0,05) đối với những
đối tượng có tôn giáo thì họ có những hệ thống niềm tin, khác nhau, tùy thuộc
vào tôn giáo mà họ tin tưởng. Do vậy họ sẽ có các cư xử khác nhau, quan
điểm khác nhau, những điều cấm kỵ riêng. Như thế đối với 2 nhóm đối tượng
có tôn giáo và không có tôn giáo thì nhận thức như thế nào là tôn trọng sẽ
khác nhau dẫn tới sự khác biệt trong mức độ hài lòng đối với biểu hiện này
khác nhau.
2.2.4.2 Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tếtrong việc chăm
sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:
Bảng 2.23. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Sig.
Biểu hiện
Tuổi tác
ĐTB
30-50 >50
3,36
4,00 0,01
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói
chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên
gia tâm lý chuyên nghiệp.
3,36 4,00 0,03
Ghi chú: Bảng sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong
việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể xem
thêm ở phụ lục 2.
Từ kết quả thu được sau khi thực hiện kiểm nghiệm T-test ởbảng 2.23, ta
có thể thấy, không có sự khác biệt giữa nhóm y tế nam và nữ, có tôn giáo và
61
không có tôn giáo trong mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN. Chỉ có sự khác biệt giữa độ tuổi ở 2 biểu hiện
“Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo
nói riêng) của mình lên bệnh nhân.” (Sig.= 0,01<0,05) “Có các cuộc gặp định
kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.”
(Sig.=0,03<0,05). Ta có thể hiểu rằng, thời gian làm việc càng lâu thì kinh
nghiệm ích lũy càng nhiều và quan điểm cũng sẽ khác nhau, do đó, nảy sinh
một số khác biệt trong quan điểm về sự cần thiết đối với một vài biểu hiện
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.
2.3 Đề xuất biện pháp
Qua những kết quả thực trạng thu được trên đây, ta có thể thấy, việc
chăm sóc tinh thần đang được nhóm y tế thực hiện song song với quá trình vật
lý trị liệu. Việc chăm sóc tinh thần tương đối đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân,
mức hài lòng của bệnh nhân cũng khá cao. Để tiếp tục phát huy điểm mạnh
trên, ta cần tiếp tục quán triệt tác phong, thái độ của các bác sĩ và nhân viên y
tế trong quá trình tiếp xúc với bệnh nhân cũng như người chăm sóc bệnh nhân.
Tiếp tục phát huy những gì mình đã làm tốt để nâng cao mức độ hài lòng của
bệnh nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh, việc chăm sóc tinh thần vẫn còn
bị nhầm lẫn với các biểu hiện vật lý trị liệu, một vài biểu hiện vẫn chưa được
quan tâm một cách đúng mức. Ví dụ như việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào
trong chăm sóc tinh thần chưa được đánh giá đúng vai trò và chưa được quan
tâm một cách đúng mức. Theo như bác sĩ Hồ Ngọc Hồng – trưởng khoa Nội
tim mạch – thần kinh thì hiện nay việc áp dụng yếu tố tôn giáo một cách
chính qui vào trong một bệnh viện Nhà nước thì còn rất khó khăn, việc mời
62
các thầy sư, cha sứ về giảng đạo tại Viện thì không được phép, do đó, việc áp
dụng các yếu tố tâm linh còn đang rất hạn chế.
Như vậy, để có thể áp dụng những yếu tố tâm linh vào trong việc chăm
sóc tinh thần cho bệnh nhân thì những người có nhiệm vụ phải tích cực nâng
cao hiểu biết về tôn giáo, sau đó lại áp dụng một cách khéo léo vào trong việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân, tạo cho bệnh nhân một niềm tin, động lực
để bệnh nhân tiến hành điều trị bệnh.
Bên cạnh đó, trong quá trình điều trị phục hồi cho bệnh nhân thì tần suất
sử dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần vẫn còn chênh lệch với vật lý trị liệu.
Để nâng cao tần suất áp dụng việc chăm sóc tinh thần thì cần tổ chức các lớp
nhằm bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân giúp
cho nhóm y tế có một nền kiến thức vững vàng áp dụng một cách chuyên
nghiệp vào trong quá trình điều trị cho bệnh nhân.
63
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Kết quả thực trạng cho thấy tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu
nhiều hơn so với tần suất áp dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần ở cả 2 nhóm
khảo sát.
Nhận thức của cả hai nhóm khảo sát chỉ tập trung ở những biểu hiện liên
quan đến trao đổi, giao tiếp và không cho rằng những biểu hiện thuộc nhóm
các yếu tố tâm linh là chăm sóc tinh thần.
Mức độ hài lòng đối với việc chăm sóc tinh thần của cả hai nhóm đều
nằm trong mức độ hài lòng cho thấy việc chăm sóc tinh thần tại đây được
thực hiện khá tốt.
Đối với mức độ cần thiết thì hai nhóm có sự khác nhau ở các biểu hiện.
Nhóm y tế thì cho rằng biểu hiện: “Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.” là biểu hiện có mức độ cần thiết nhất. Còn đối
với nhóm BN&NCS thì biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.” lại là biểu hiện được đánh giá là biểu hiện có mức cần thiết
cao nhất. Trong bản thân nhóm y tế cũng nảy sinh sự khác biệt giữa 2 nhóm
tuổi từ 30 – 50 và nhóm 50 trở lên ở 2 biểu hiện “Không áp đặt những ý nghĩ,
quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh
nhân.” (Sig.= 0,01<0,05) và biểu hiện “Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có
nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.”
Tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu (2,37) cao hơn so với yếu tố
chăm sóc tinh thần (2,07) cho thấy thực tế trong quá trình điều trị thì chăm
sóc tinh thần vẫn được sử dụng nhưng chưa được quan tâm một cách đúng
mức.
64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua quá trình nghiên cứu lý luận về những phương hướng chính trong
công tác chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN thì có 3 hướng chính là:
- Hướng 1: Dựa vào các quá trình của sự trao đổi, giao tiếp với bệnh
nhân: trao đổi, chia sẻ (being present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes);
tương tác (cocreating). Những cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người
chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về
sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp
của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp cho người chăm sóc có thể chú ý tới
họ một cách toàn diện hơn.
- Hướng 2: Quan tâm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
- Hướng 3: Quan tâm, nâng cao giá trị của đời sống tâm linh, niềm tin
tôn giáo của bệnh nhân.
Theo kết quả nghiên cứu thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân
TBMMN ở một số cơ sở y tế tại TPHCM thì:
- Nhận thức của cả 2 nhóm khảo sát chỉ tập trung ở những biểu hiện của
hướng và hướng 2. Hướng 3 không được được quan tâm một cách đúng mức.
- Mức độ hài lòng của cả 2 nhóm khảo sát đều nằm trong mức độ hài
lòng.
- Mức độ cần thiết ở 2 nhóm có sự khác nhau về các biểu hiện.
- Tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu vào trong quá trình điều trị
bệnh cao hơn so với việc áp dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần.
65
Trên cơ sở những thực trạng trên, người nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị:
Đối với nhóm y tế:
- Tiếp tục phát huy những thành tích đã được trong việc chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân (nâng mức hài lòng của bệnh nhân lên,…)
- Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân để
có nền tảng thực hiện công việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân tốt
hơn.
- Tổ chức các lớp học cung cấp các kiến thức về chăm sóc tinh thần
nhằm nâng cao kiến thức cho người chăm sóc bệnh nhân TBMMN.
- Quan tâm đến những biểu hiện được bệnh nhân cho là cần thiết.
- Xây dựng phòng tâm lý chuyên trách các công việc chăm sóc tinh
thầnvà những vấn đề liên quan đến tâm lý cho bệnh nhân.
Đối với nhóm BN&NCS:
- Tham gia các lớp học bổ sung kiến thức về chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân.
- Đưa ra những yêu cầu cao hơn trong việc được chăm sóc tinh thần.
- Tiếp tục thực hiện việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân dài lâu, ngay
cả sau khi xuất viện.
Đối với những người tiếp tục nghiên cứu vấn đề này:
- Tìm hiểu và xác định vai trò của các yếu tố tâm linh trong việc chăm
sóc tinh thần cho người bệnh bằng cách mở rộng mẫu nghiên cứu, ....
- Tìm hiểu những phương pháp để áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong
việc chăm sóc tinh thần một cách khoa học.
66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Thị Thanh Bình(2007), Chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em, Tài liệuHội
thảo “Can thiệp và phòng ngừa các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt”, Hà
NộI.
2. Vũ Dũng (2012), Từ điển Thuật ngữ tâm lý học, NXB Từ điển Bách Khoa.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà, Đánh giá độ hiệu lực của bản kiểm hành vi trẻ em
ACHENBACH – phiên bản Việt Nam (CBCL-V) trên nhóm bệnh nhân, Luận
văn thạc sĩ 2014, Trường Đại học Giáo dục, ĐHQHHN.
4. Phạm Minh Hạc (2008), “Chăm sóc tinh thần”, Tạp chí Tâm lý học,106 (1).
5. Lê Thiện Kim Hữu (2013), “Phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân
sau tai biến mạch máu não”,Tạp chí Y học phổ thông dành cho mọi người,
Chuyên đề Hậu tai biến, tr 12-14.
6. Nguyễn Chí Hiếu (2006), “Về khái niệm “tinh thần tuyệt đối” trong triết
học Hêghen”, Tạp chí Triết học, 187 (12), tr 47-54.
7. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và nghĩa Việt Nam, NXBTPHCM.
8. Trần Thành Nam, Nguyễn Ngọc Diệp (2008), Nguyên tắc làm việc với trẻ
có vấn đề sức khỏe tinh thần – Bàn luận và giải pháp,Báo cáo Khoa học tại
Hội thảo quốc gia, Hà Tây.
9. Nguyễn Huỳnh Ngọc (2010), Tâm lý y học-y đức, NXB GDVN.
10. Nguyễn Xuân Nghiên (2011), Phục hồi chức năng, NXB YH.
11. Nguyễn Kỳ Xuân Nhị (2013), Chăm sóc tâm lý ở bệnh nhân sau tai biến
mạch máu não, NXB TN.
12. Nguyễn Ngọc Phúc(2008), Sức khỏe tinh thần tốt - Đòi hỏi thiết yếu của
mỗi người và toàn xã hội,Báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc gia,Hà Tây.
13. Nguyễn Thị Hằng Phương (2009), “Một số nguyên nhân gây ra rối loạn lo
âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, Tạp chí Tâm lý học, 123(6), tr 57-63.
67
14. Lê Đình Sáng, Tâm thần học 2.0, Đại học Y dược.
15. Bộ Y Tế (2006), Hướng dẫn chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư
và AIDS, NXB Y học.
16. Lê Hồng Thái(2008), Chăm sóc sức khỏe tinh thần – Vấn đề mang tầm thế
kỷ”, Báo cáo Khoa học Hội thảo quốc gia,Hà Tây.
17. Nguyễn Kim Thản (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài Gòn.
18. Nguyễn Văn Thọ(2008), Nghiên cứu thành lập mô hình chăm sóc sức khỏe
tâm lý và tâm thần cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai, Báo cáo Khoa học tại
Hội thảo quốc gia Hà Tây.
19. Trịnh Thị Diệu Thường (2013), Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng vận
động của phương pháp châm cải tiến kết hợp vận động trị liệu trên bệnh nhân
nhồi máu não trên lều, Luận văn tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Dược
TPHCM.
20. Hoàng Cẩm Tú (2007), Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ em, giáo
dục tâm lý và sức khỏe tâm thần trẻ em Việt nam một số vấn đề thực tiễn liên
nghành, Đặng Bá Lãm - WEISS BRAHR, NXB ĐHQG Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Tứ, Giáo trình tâm lý học phát triển 2, Tài liệu lưu hành nội bộ.
22. Huỳnh Tấn Vũ (2013), Hành trình phục hồi của bệnh nhân sau tai biến
mạch máu não, NXB TN.
23. Jackie Berger- RSW (2010), Sức Khỏe Tinh Thần, Dịch Vụ Sức Khỏe
Alberta
24. Trường đại học Y Dược TPHCM (2009), Tâm lý Y học,Tài liệu lưu hành
nội bộ.
Tiếng Anh
25. Averil Mansfield, (2011), The psychological and social needs of patients,
British Medical Association.
68
26. Best Practice (2009), The psychosocial spiritual experience of elderly
individuals recovering from stroke, The Joanna Briggs Institute.
27. Büssing, H.-J. Balzat, P. Heusser (2010), “Spiritual needs of patients with
chronic pain diseases and cancer-validation of the spiritual needs
questionnaire”, European Journal of Medical Research, 15(6), pg 266-73.
28. Daniel P. Sulmasy (2002), “A Biopsychosocial-Spiritual Model for the
Care of Patients at the End of Life”, The Gerontologist, Special Issue III (42),
pg 24–33.
29. Eran Chemerinski, Robert G. Robinson (2011), The Neuropsychiatry of
Stroke, Science Direct.
30. Erin L.Moss, Keith Dobson (2006), “The Place of Spirituality in
Psychological End of Life Care”, Canadian Psychology, (47), pg 284-299.
31. George L.Engel (1981), “The Clinical application of the Biopsychosocial
Model”, The Journal of Medicine and Philosophy, (6), pg 101-123.
32. Gowri Anandarajah, Ellen Hight, Spirituality and Medical Practice: Using
the HOPE Questions as a Practical Tool for Spiritual Assessment, Brown
University School of Medicine, Providence, Rhode Island.
33. Helsinki University (2008), “Music listening enhances cognitive recovery
and mood after middle cerebral artery stroke”, Brain, (131), pg 866 – 876.
34. Ken Wilber (2000), Integral Psychology: Consciousness, Spirit,
Psychology, Therapy, Shambhala Publications.
35. Linda S. Williams, Sushmita Shoma Ghose, Ralph W. Swindle (2004),
“Depression and Other Mental Health Diagnoses Increase Mortality Risk After
Ischemic Stroke”, The American Journal of Psychiatry, 161 (6), pg 1090-1095.
36. Oxford University (2012), Oxford Dictionary of English.
69
37. Peter Greasley, Lai Fong Chiu, Reverend Michael Gartland (2001), “The
concept of spiritual care in mental health nursing”, Journal of Advanced
Nursing, 33(5), pg 629-37.
38. Pranee C Lundberg, Petcharat Kerdonfag (2010), “Spiritual care provided
by Thai nurses in intensive care units”, Journal of Clinical Nursing, 19(7-8),
pg 1121-1128.
39. Royal College of Nursing (2011), Spirituality in nursing care: a pocket
guide.
40. Shelley E.Taylor (2006), Health psychology, McGraw-Hill Humanities.
41. Timothy P. Daaleman, Barbara M. Usher, Sharon W. Williams, Jim
Rawlings and Laura C (2008), “An Exploratory Study of Spiritual Care at the
End of Life”, Annals of Family Medicine, 6(5), pg 406–411.
42. Tracy Anne Balboni, Mary Elizabeth Paulk, Michael J. Balboni, Andrea C.
Phelps, Elizabeth Trice Loggers, Alexi A. Wright, Susan D. Block, Eldrin F.
Lewis, John R. Peteet, and Holly Gwen Prigerson (2010), “Provision of
Spiritual Care to Patients With Advanced Cancer: Associations With Medical
Care and Quality of Life Near Death”, Journal of Clinical Oncology,28(3), pg
445-452.
43. WHO Summary report (2004), Promoting Mental Health: Concept,
Emerging, Evidence, Practic.
Đường link
44. https://en.wikipedia.org/wiki/Palliative_care#History
45. http://www.mentalhealth.gov/basics/what-is-mental-health/
46. http://www.stroke.org/understand-stroke/what-stroke
47. https://www.vnu.edu.vn/home/?C2133/N16297/Nhom-nghien-cuu-Tam-ly-
hoc-lam-sang.htm
70
48. http://www.maihuong.gov.vn/vi/quan-he-quoc-te/91-chuong-trinh- suc-
khoe-tam-than-hoc-duong-.html
49. https://www.vinamilk.com.vn/vi/nguoi-lao-dong/phat-trien-ben-vung#nld
50. http://khoahoc.tv/sukien/su-kien/4618_hoi-thao-khoa-hoc-mau-thuan-
trong-doanh-nghiep-va-van-de-cham-soc-tinh-than-cho-nguoi-lao-dong.aspx
51. http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs402/en/
52. http://www.merriam-
webster.com/dictionary/physical%20medicine%20and%20rehabilitation
53. http://www.wcpt.org/policy/ps-descriptionPT
71
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Phụ lục 1a.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
KHOA TÂM LÝ HỌC
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não.
Nữ
Xin chào các cô bác anh chị!
Tôi đang là sinh viên năm 4 khoa Tâm lý học trường Đại học Sư Phạm TPHCM. Hiện tôi
đang thực hiện khóa luận tốt nghiệp về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến
mạch máu não. Mong quý cô, bác, anh, chị giúp đỡ bằng cách trả lời các câu hỏi sau. Tôi
xin cam kết các thông tin có được chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG:
Giới tính
Tuổi tác
Thu nhập
Nam
Dưới 30 tuổi
Từ 30 tuổi tới 50 tuổi
Trên 50 tuổi
Dưới 5 triệu
Từ 5 triệu tới 15 triệu
Trên 15 triệu
Người thân
Người thuê
Người chăm sóc là ai:
Bị tai biến lần thứ:
Các cô, bác, anh, chị là:
Có
Bệnh nhân
Người chăm sóc
Không
Tôn giáo:
PHẦN 2: HIỂU BIẾT VỀ CHĂM SÓC TINH THẦN
1. Các cô, bác, anh, chị cho rằng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là gì? (có thể chon
nhiều câu):
a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị bệnh, đối mặt với tình
trạng bệnh
b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ
tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị
của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá
trình tất yếu.
c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị
bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.
d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải thiện và
nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh,
e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp với
y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.
f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều trị bệnh cho bệnh nhân, giúp
bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.
72
2. Các cô, bác, anh, chị cho rằng vật lý trị liệu là gì? (có thể chon nhiều câu):
a. Vật lý trị liệu là các phương pháp chỉ sử dụng những tác nhân vật lý để chữa bệnh.
b. Vật lý trị liệu là các phương pháp hỗ trợ quá trình hồi phục chức năng của bệnh nhân
nhanh hơn.
c. Vật lý trị liệu không phải là một chuyên ngành y tế, chỉ có tác dụng hỗ trợ trong việc điều
trị phục hồi chức năng.
d. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động
đến cơ thể người bệnh, giúp họ phục hồi chức năng.
e. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các phương pháp vật lý kèm theo thuốc để
tác động đến cơ thể người bệnh, giúp họ khỏi bệnh.
f. Vật lý trị liệu không chỉ sử dụng các tác nhân vật lý mà còn sử dụng các tác nhân như hóa
học, sinh học vào điều trị bệnh cho bệnh nhân, nhằm mục địch giúp bệnh nhân khỏi bệnh.
3. Các cô, bác, anh, chị cho rằng những biểu hiện sau đây là chăm sóc tinh thần:
Đúng Sai
STT Biểu hiện
1
2
3
4
5
6
7
8
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh
nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.
9
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).
10
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và
12
13
tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm
linh, tín ngưỡng.
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn
giáo, tín ngưỡng đó.
15
Châm cứu cho bệnh nhân.
16 Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân.
17 Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân.
18
19
20
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý
chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho
người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.
21
73
4. Các cô, bác, anh, chị được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện tại cơ sở y tế đang
điều trị:
Hoàn toàn đồng ý
Đồng ý
Phân vân
Không đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
5. Các cô, bác, anh, chị hãy cho biết mức hài lòng của mình trong việc chăm sóc tinh
thần tại cơ sở y tế đang điều trị:
Hoàn toàn hài lòng
Hài lòng
Bình thường
Không hài lòng
Hoàn toàn không hài lòng
6. Các cô, bác, anh, chị cho biết sự hài lòng của mình đối với các biểu hiện chăm sóc
tinh thần dưới đây:
STT Biểu hiện
Bình
thường
Hài
lòng
Không
hài
lòng
Rất
hài
lòng
1
2
Hoàn
toàn
không
hài
lòng
3
4
5
6
7
8
9
10
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
12
13
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
(về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
15
16
17
18
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên
nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
74
7. Các cô, bác, anh, chị cho biết sự cần thiết của những biểu hiện dưới đây trong chăm
sóc tinh thần:
STT Biểu hiện
Bình
thường
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Rất
cần
thiết
1
2
Hoàn
toàn
không
cần
thiết
3
4
5
6
7
8
9
10
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
(về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
12
13
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
15
16
17
18
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng
đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
75
8. Các cô, bác, anh, chị hãy cho biết mức độ thường xuyên của các biểu hiện dưới đây
trong quá trình điều trị của các cô, bác, anh, chị tại cơ sở y tế:
STT Biểu hiện
Hiếm
khi
Thỉnh
thoảng
Thường
xuyên
Chăm sóc tinh thần
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi
mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh
nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được
của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi
phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của
mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà,
ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống
nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh
nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của
Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến
tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.
14
15
16
17
18
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân,
chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với
chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc
tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục
thành công.
Nhiệt trị liệu.
Thủy trị liệu.
Ánh sáng trị liệu.
Kéo giãn cột sống.
Kéo nắn trị liệu.
Xoa bóp trị liệu.
Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu).
Châm cứu.
76
Vật lý trị liệu
19
20
21
22
23
24
25
26
Xin chân thành cảm ơn các cô, bác, anh, chị!
77
Phụ lục 1b
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
KHOA TÂM LÝ HỌC
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não
Nữ
Xin chào các anh, chị!
Tôi đang là sinh viên năm 4 khoa Tâm lý học trường Đại học Sư Phạm TPHCM. Hiện tôi
đang thực hiện khóa luận tốt nghiệp về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến
mạch máu não. Mong Quý cô, bác, anh, chị giúp đỡ bằng cách trả lời các câu hỏi sau. Tôi
xin cam kết các thông tin có được chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG:
Giới tính
Tuổi tác
Nam
Dưới 30 tuổi
Từ 30 tuổi tới 50 tuổi
Trên 50 tuổi
Có
Không
Tôn giáo:
PHẦN 2: HIỂU BIẾT VỀ CHĂM SÓC TINH THẦN
1. Các anh/chị cho rằng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là gì? (có thể chon nhiều
câu):
a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị bệnh, đối mặt với tình
trạng bệnh
b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ
tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị
của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá
trình tất yếu.
c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị
bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.
d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải thiện và
nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh,
e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp với
y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.
f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,..để điều trị bệnh cho bệnh nhân, giúp
bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.
2. Các anh/chị cho rằng vật lý trị liệu là gì? (có thể chọn nhiều câu):
a. Vật lý trị liệu là các phương pháp chỉ sử dụng những tác nhân vật lý để chữa bệnh.
b. Vật lý trị liệu là các phương pháp hỗ trợ quá trình hồi phục chức năng của bệnh nhân
nhanh hơn.
c. Vật lý trị liệu không phải là một chuyên ngành y tế, chỉ có tác dụng hỗ trợ trong việc điều
trị phục hồi chức năng.
d. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động
đến cơ thể người bệnh, giúp họ phục hồi chức năng.
e. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các phương pháp vật lý kèm theo thuốc để
tác động đến cơ thể người bệnh, giúp họ khỏi bệnh.
78
3.
f. Vật lý trị liệu không chỉ sử dụng các tác nhân vật lý mà còn sử dụng các tác nhân như hóa
học, sinh học vào điều trị bệnh cho bệnh nhân, nhằm mục địch giúp bệnh nhân khỏi bệnh.
Các anh/chị cho rằng những biểu hiện sau đây là chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân:
Đúng Sai
STT Biểu hiện
1
2
3
4
5
6
7
8
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh
nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.
9
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).
10
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và
12
13
tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm
linh, tín ngưỡng.
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn
giáo, tín ngưỡng đó.
15
Châm cứu cho bệnh nhân.
16 Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân.
17 Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân.
18
19
20
21
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý
chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho
người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.
4. Anh/chị cho rằng bệnh nhân được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện:
Hoàn toàn đồng ý
Đồng ý
Phân vân
Không đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
5. Anh/chị hãy cho biết mức hài lòng của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh
thần:
Hoàn toàn hài lòng
Hài lòng
Bình thường
Không hài lòng
Hoàn toàn không hài lòng
79
6. Anh/chị cho biết mức hài lòng của mình trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân:
Hoàn toàn hài lòng
Hài lòng
Bình thường
Không hài lòng
Hoàn toàn không hài lòng
7. Các anh/chị đánh giá sự hài lòng của mình đối với các biểu hiện chăm sóc tinh thần
cho bệnh nhân dưới đây:
STT Biểu hiện
Bình
thường
Hài
lòng
Không
hài
lòng
Rất
hài
lòng
1
2
Hoàn
toàn
không
hài
lòng
3
4
5
6
7
8
9
10
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
12
13
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
(về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
15
16
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên
nghiệp.
17
18
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
80
8. Các anh/chị cho biết sự cần thiết của những biểu hiện dưới đây trong việc chăm sóc
tinh thần cho bệnh nhân:
STT Biểu hiện
Bình
thường
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Rất
cần
thiết
1
2
Hoàn
toàn
không
cần
thiết
3
4
5
6
7
8
9
10
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
12
13
11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
(về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
15
14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng
đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
16
17
18
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
81
9. Các anh/chị hãy cho biết mức độ thường xuyên của các biểu hiện dưới đây trong quá
trình điều trị của bệnh nhân:
STT Biểu hiện
Hiếm
khi
Thỉnh
thoảng
Thường
xuyên
Chăm sóc tinh thần
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi
mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh
nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được
của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi
phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của
mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà,
ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống
nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh
nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của
Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến
tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân,
chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với
chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc
tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục
thành công.
Nhiệt trị liệu.
Thủy trị liệu.
Ánh sáng trị liệu.
Kéo giãn cột sống.
Kéo nắn trị liệu.
Xoa bóp trị liệu.
Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu).
Châm cứu.
82
Vật lý trị liệu
19
20
21
22
23
24
25
26
Xin chân thành cảm ơn các anh, chị.
83
Phụ lục 2
Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểu hiện
Nhóm y tế
BN&NCS
ĐLC TT
ĐTB ĐLC TT ĐT
B
3,55
3,95
3.78
3.85
0.83
0.80
8
6
0,86
0,65
9
3
3.01
4.23
1.03
0.73
10
4
3,68
3,95
0,89
0,72
6
2
4.46
4.54
4.38
0.66
0,52
0,65
4,00
3,86
3,77
0,69
0,77
0,87
2
1
3
1
4
5
4.00
0,71
3,64
0,90
5
8
3.77
0,73
3,68
1,04
7
7
2.92
1,32
16
3,09
0,97
15
3.77
1,09
9
3,32
1,04
14
0,97
3,05
1,25
16
2.46
18
2.69
1,03
17
1,07
2,77
18
3.15
1,21
13
2,86
1,20
17
3.15
1,21
12
3,36
0,79
13
3,08
1,26
14
3,50
0,86
10
3.00
1,29
15
3,41
1,05
12
3,23
1,48
11
3,45
1,18
11
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
( về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng
đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
84
Bảng 2.24. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát
Biểu hiện
Nhóm y tế
BN&NCS
0.64
0,55
0,78
0,61
8
6
ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT
8
3,92
4,15
1
3,64
4,09
12
2
3,38
4,23
0,96
0,60
3,55
3,73
0,91
0,70
12
5
0,68
0,74
0,63
4,00
3,91
3,68
0,53
0,81
1,04
2
3
6
4
3
1
4,15
4,23
4,31
5
4,15
0,38
3,59
0,85
10
7
4,00
0,41
3,77
0,75
4
3,00
1,15
16
3,14
0,94
14
3,46
0,66
10
2,86
1,13
15
1,09
2,73
1,12
16
2,23
18
2,54
1,13
17
0,95
2,36
18
3,00
1,35
15
2,64
1,09
17
3,23
1,17
14
3,59
0,73
9
3,46
1,33
9
0,55
0,86
13
3,38
1,26
11
3,55
1,06
11
3,23
1,30
13
3,64
1,05
7
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức
của bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành
tích đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho
quá trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình
trạng bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể
(trong nhà, ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm
(về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói
riêng) của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ
diệu của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín
ngưỡng.
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên
nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người
đã hồi phục thành công.
85
Bảng 2.25. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc
tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát
Biểu hiện
Nhóm y tế
NCS&BN
ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT
Chăm sóc tinh thần
2,46
0,52
11
2,23
0,75
15
Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.
2,61
0,77
6
2,59
0,67
7
1,92
0,95
17
2,41
0,67
10
Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.
2,62
0,51
7
2,50
0,67
8
3
2,85
0,37
2,91
0,29
2
Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của
bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh nhân.
2,85
0,37
2,64
0,73
2
4
Giữ bí mật cho bệnh nhân.
8
2,54
0,52
2,36
0,79
12
2,46
0,52
10
2,27
0,77
14
2,38
0,65
12
2,41
0,67
11
1,38
0,65
24
1,64
0,79
23
2,00
0,82
15
1,68
0,89
21
1,53
0,38
25
1,23
0,94
20
1,46
0,66
23 1,23 0,63 26
1,92
0,95
16
1,41
0,73
25
1,92
0,64
18
1,95
0,72
18
1,61
0,77
20
1,59
0,79
24
1,46
0.77
22
1,64
0,84
22
1,69
0,75
19
1,77
0,92
19
Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích
đạt được của bệnh nhân.
Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá
trình hồi phục bệnh nhân.
Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng
bệnh của mình.
Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong
nhà, ngoài trời).
Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về
cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng)
của mình lên bệnh nhân.
Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu
của Đấng tối cao.
Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên
quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.
Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của
bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng
đó.
Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe
nhạc.
Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu
cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.
Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức
chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.
Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã
hồi phục thành công.
ĐTBĐHTĐ
2,07
2,06
1,53
0,88
21
2,05
0,90
17
86
Vật lý trị liệu
Nhiệt trị liệu.
0,94
16
Thủy trị liệu.
1,07 0,28 26 2,14
2,08
0,95
14
2,36
0,85
13
Ánh sáng trị liệu.
2,61
0,77
2,50
0,80
5
9
Kéo giãn cột sống.
2,46
0,87
2,59
0,73
9
6
Kéo nắn trị liệu.
2,85
0,38
2,68
0,65
4
3
Xoa bóp trị liệu.
5
2,38
087
13
2,64
0,73
Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu).
Châm cứu.
1
2,92 0,28 1
3,00 0
2,24
2,49
ĐTBĐHTĐ
Bảng 2.26. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm
sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Biểuhiện
Sig.
Sig.
Sig.
Thu nhập
ĐTB
Đối tượng
ĐTB
BN NCS
Tôn giáo
ĐTB
Có Không
Dưới
5
triệu
0,81 3,69
Từ 5
tới 15
triệu
3,33
3,44 3,62
0,51
0,01 3,50 3,58
3,78 4,07
0,62 4,15
3,67
0,62 3,90 4,00
0,33
3,44 3,85
3,55
0,18 3,50 3,83
0,59
0,01 3,77
4,00 3,92
0,57 4,23
3,55
0,096
0,02 4,10 3,83
4,00 4,00
1,00 4,23
3,76
0,29 4,10 3,92
0,03
Thường xuyên
trò chuyện với
bệnh nhân.
Trò chuyện với
bệnh nhân một
cách
thân
thiện, cởi mở.
Gọi bệnh nhân
bằng
tên khi
trò chuyên.
Cư xử phù hợp
với từng kiểu
nhận thức của
bệnh nhân.
Tôn trọng bệnh
nhân.
3,67 4,00
0,91 4,08
3,56
0,79 4,10 3,67
0,48
3,56 3,92
0,98 4,00
3,44
0,19 3,90 3,67
0,99
3,33 3,85
0,29 3,85
3,33
0,97 3,60 3,67
0,70
3,44 3,85
0,39 4,00
3,22
0,37 3,90 3,50
0,97
tình
3,00 3,15
0,24 3,23
2,89
0,66 3,20 3,00
0,26
3,33 3,31
0,59 3,54
3,00
0,41 3,30 3,33
0,80
3,56 2,69
0,53 3,15
2,89
0,81 2,80 3,25
0,79
2,89 2,69
0,59 2,69
2,89
0,59 2,30 3,17
0,63
3,00 2,77
0,47 2,92
2,77
0,88 2,50 3,17
0,64
Giữ bí mật cho
bệnh nhân.
Cổ vũ, khen
ngợi, khích lệ
những
thành
tích đạt được
của bệnh nhân.
Đặt
ra mục
tiêu, kế hoạch
thích hợp cho
quá trình hồi
phục
bệnh
nhân.
Thông báo cho
bệnh nhân nắm
rõ
trạng
bệnh của mình.
Tổ chức các
hoạt động vui
thể
tập
chơi
(trong
nhà,
ngoài trời).
Không áp đặt
những ý nghĩ,
quan điểm (về
cuộc sống nói
chung và tôn
giáo nói riêng)
của mình lên
bệnh nhân.
Làm cho bệnh
nhân
tin vào
sức mạnh kỳ
diệu của Đấng
tối cao.
Thảo luận với
bệnh nhân các
vấn đề có liên
quan đến tôn
giáo, tâm linh,
tín ngưỡng.
phán
Không
xét
tôn giáo,
tín ngưỡng của
nhân,
bệnh
chấp nhận tôn
87
tín
3,44 3,31
0,08 3,38
3,33
0,98 3,20 3,50
0,88
3,56 3,46
0,93 3,54
3,44
0,97 3,40 3,58
0,87
3,44 3,38
0,10 3,61
3,11
0,21 3,30 3,50
0,79
3,67 3,31
0,15 3.78
3,00
0,41 3,60 3,33
0,82
giáo,
ngưỡng đó.
Cho bệnh nhân
xem phim, hài
kịch,
nghe
nhạc.
Có các cuộc
gặp định kì
(hoặc khi có
nhu cầu) với
chuyên gia tâm
lý
chuyên
nghiệp.
Tổ chức các
khóa học bổ
sung kiến thức
chăm sóc tinh
thần cho người
chăm sóc.
Cho bệnh nhân
lưu với
giao
những
người
đã hồi phục
thành công.
88
89
Phụ lục 3:
Biên bảng phỏng vấn sâu đối tượng khảo sát.
Biên bảng 1
10h ngày 17/3/2016
Lê Thị H - Bệnh nhân - Độ tuổi: 50 - Tôn giáo: không – Nghề nghiệp:
nội trợ - Thu nhập: Dưới 5 triệu - Bị tai biến lần thứ 5 - Người chăm sóc:
chồng.
Dạ, con chào cô chú, sau khi trả lời xong phiếu thăm dò thì cô chú có thể
dành thêm cho con một chút thời gian để con phỏng vấn thêm không ạ.
Được rồi, con hỏi đi.
- Cô có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc chăm
sóc tinh thần không? Tại sao?
Nhu cầu tâm linh là sao con?
Dạ, nhu cầu tâm linh là ví dụ như việc cô có nhu cầu trao đổi về lòng tin
của mình trong tôn giáo mà cô có, thực hiện các nghi thức cầu nguyện, tụng
kinh… mà không bị cấm đoán vậy đó ạ.
Ah, cô đâu có đạo đâu mà nói, nhưng mà theo cô nghĩ thì cũng không
cần thiết đâu, bác sĩ đâu được truyền bá tôn giáo trong bệnh viện đâu con. Mà
bác sĩ bận lắm, có nói chuyện được với họ đâu mà trao đổi.
- Cô có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là cần
thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
Cần chứ con, cô thấy việc chăm sóc tinh thần rất là tốt đó, làm cho bệnh
nhân vui vẻ thì mới nhanh hồi phục được chớ, như cô nè. Cô mà buồn chuyện
gì là không thèm tập luyện gì cả.
90
- Cô cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
Cô nghĩ việc cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần là phải làm cho
họ vui vẻ, chăm lo tập luyện. Vui vẻ thì mới có động lực để tập luyện được,
có tập luyện thì mới mau hết bệnh được chớ.
Dạ, con cảm ơn cô chú nhiều vì đã giúp con hoàn thành bài phỏng vấn.
Chúc cô mau khỏi bệnh.
Biên bảng 2
10h13p ngày 17/3/2016
Nguyễn Văn L – Người chăm sóc – 52 tuổi – nghề nghiệp: làm nông –
tôn giáo: không.
Dạ, con chào chứ, sau khi phỏng vấn xong cô thì chú có thể trả lời thêm
cho con một vài câu hỏi được không chú.
Được rồi, hỏi đi.
Dạ, con cảm ơn.
- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Tại sao?
Theo chú thì cũng không cần thiết lắm, nhu cầu tâm linh thì có dính dáng
gì tới việc chăm sóc tinh thần.
- Chú có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là cần
thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
Không cần thiết lắm con ơi, chú nghĩ là cứ cho bệnh nhân châm cứu
nhiều với tập vật lý trị liệu nhiều vô là họ khỏi bệnh hết. Châm cứu với tập
vật ý trị liệu thì mới tác động đến bệnh nhân chứ chăm sóc tinh thần thì sao
bệnh nhân đi được được chớ con.
91
- Dạ, nhưng nếu mà như vậy thì chú nghĩ rằng nếu mà có chăm sóc tinh
thần cho bệnh nhân thì việc gì là cần thiết nhất. Vì sao?
Theo chú thì phải làm cho bệnh nhân tin tưởng là mình sẽ hết, bác sĩ
phải làm sao mà nói cho bệnh nhân tin tưởng là mình sẽ hết bệnh, có có như
vậy thì họ mới chăm chỉ luyện tập vật trị liệu.
Dạ, con cảm ơn chú nhiều ạ. Chúc cô mau khỏi bệnh xuất viện về nhà
nha.
92
Biên bảng 3
15h23p ngày 18/3/2016
Hồ Minh T – bệnh nhân – 58 tuổi – tôn giáo: có – nghề nghiệp: nhân
viên ăn phòng - thu nhập: 8 triệu – bị tai biến lần đầu – người chăm sóc:
không có.
Dạ, sau khi trả lời xong phiếu thăm dò thì chú có thể dành thêm một chút
thời gian đề cho con phỏng vấn được không ạ.
Được rồi, hỏi đi con.
- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Tại sao?
Theo chú thì cần thiết đó con, vấn đề tâm linh này rất quan trọng đó,
bệnh nhân mà có niềm tin tôn giáo thì việc đối mặt với tình trạng bệnh khá là
dễ dàng tại vì trong đạo họ có chỉ ra nguyên nhân của mọi chuyện, từ đó đưa
ra các phương pháp để xử lý chuyện đó. Nếu mà được hỗ trợ vấn đề này thì
rất hay đó con.
- Dạ, vậy chú cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân T BMMN là
cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
Rất cần thiết là đằng khác đó con, con học khoa tâm lý chắc biết, tâm lý
ảnh hưởng rất lớn đến con người, nếu mà tâm lý ổn định thì bệnh mới mau
khỏi được, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sẽ hỗ trợ rất lớn đến quá
trình hồi phục của bệnh nhân.
- Vậy trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì chú nghĩ việc gì là
cần thiết nhất. Vì sao?
93
Theo chú thì việc trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì việc
giúp cho bệnh nhân bớt lo lắng, tập trung vào việc chữa trị là quan trọng nhất.
Theo như chú biết thì việc mà bệnh nhân lo lắng dẫn đến trầm cảm, sau đó từ
bỏ hy vọng chữa trị thành công của mình thì khá là nhiều, nhất là những
trường hợp mà chữa trị một thời gian dài, đặc biệt là đối với bệnh nhân
TBMMN như chú đây.
Dạ, con cảm ơn chú nhiều. Chúc chú mau khỏi bệnh để về nhà nha.
Biên bảng 4
16h13p ngày 19/3/2016
Lê Văn B người chăm sóc – 55 tuổi – nghề nhiệp: người chăm sóc thuê –
thu nhập: 4 triệu/ tháng – tôn giáo: không.
Dạ, con chào chú, sau khi trả lời các câu hỏi thăm dò xong chú có thể
dành một chút thời gian để cho con phỏng vấn được không ạ?
Được rồi, hỏi đi con.
- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Tại sao?
Hỗ trợ nhu cầu tâm linh là gì con?
Dạ, hỗ trợ tâm nhu cầu tâm linh là ví dụ như việc nhân viên y tế không
tiến hành phê bình hay phán xét tôn giáo của chú hay mọi người xung quanh,
trao đổi một số vấn đề có liên quan đến tôn giáo như niềm tin…vậy thì chú
cho là có cần thiết không ạ?
Theo chú nghĩ thì không cần thiết cho lắm, vì chú nghĩ mỗi người có
theo một đạo riêng, bác sĩ cũng không phải ai cũng biết về tôn giáo một cách
cặn kẽ để trao đổi với bệnh nhân nếu họ không cùng một đạo. Đối với bản
94
thân chú không theo tôn giáo nào thì bác sĩ muốn nói cũng không biết nói gì
với chú hết.
- Chú làm ở đây được nhiêu năm rồi chú?
- Cũng được 5, 6 năm gì rồi đó.
- Vậy trong quá trình chăm sóc cho rất nhiều bệnh nhân, trong đó có bệnh
nhân TBMMN thì chú có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh
nhân nói chung và bệnh nhân TBMMN nói riêng là cần thiết trong quá
trình điều trị không? Vì sao?
- Theo kinh nghiêm của chú thì việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân rất là
quan trọng đó con. Trong quá trình làm của chú, chăm qua nhiều người rồi, đa
số là người già họ rất là khó tính, như con nít vậy, thêm cái bệnh tai biến này
làm họ không di chuyển được, nên càng khó tính hơn. Trong lúc chăm sóc
cho họ, chú với mấy cô chú khác toàn phải năn nỉ, dụ ngọt họ không, chứ nói
nặng họ là không được.
- Các cô bác anh chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc
tinh thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
Theo chú là phải làm cho bệnh nhân vui vẻ, thoải mái, quên đi nỗi đau
bệnh tật. Tại vì làm cho bệnh nhân vui vẻ mới là quan trọng nhất.
95
Biên bảng 5
8h ngày 24/3/2016
Bác sĩ T.Đ.T – 60 tuổi – Tôn giáo: có
- Dạ chào bác sĩ ạ
- Chào con.
- Dạ bác sĩ có thể dành chút thời gian cho con hỏi một vài câu hỏi được không
ạ?
- Cứ nói đi con.
- Dạ, bác sĩ có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không?
- Theo quan điểm của tôi thì việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh rất cần thiết, vì mỗi
con người nếu có niềm tin vào gì đó sẽ có sức mạnh để vượt qua khó khăn,
đặc biệt là lòng tin vào sức mạnh siêu nhiên. Niềm tin tâm linh như là một cái
phao cuối cùng cho những người tuyệt vọng vậy. Đặc biệt là những bệnh
nhân TBMMN, khó khăn trong việc hồi phục chức năng.
- Vậy bác sĩ có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
- Theo tôi thì việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân cũng quan trọng như là
việc sử dụng các phương pháp y tế để điều trị cho bệnh nhân. Tôi nghĩ là các
yếu tố tinh thần là cái gốc để chữa trị cho bệnh nhân. Tôi đã từng đọc báo
thấy được là họ đã phát minh ra thuốc placebo có thể chữa hết bệnh mà không
chứa bất kỳ thành phần dược phầm nào. Do đó, tôi đánh giá rất cao tầm quan
trọng của việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân.
- Bác sĩ cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
- Theo tôi việc cần thiết nhất chính là việc cỗ vũ, khen ngợi bệnh nhân đối với
từng thành tích bệnh nhân đạt được. Chính điều này sẽ làm cho bệnh nhân
96
thấy được mình có sự tiến bộ, như vậy sẽ là động lực cho họ tiếp tục tập luyện.
Bên cạnh đó, họ sẽ thấy tình trạng bệnh của mình được bác sĩ theo dõi một
cách tỉ mỹ, sát sao, thêm tin tưởng vào sự điều trị của Viện.
Biên bảng 6
Bác sĩ H.N.H – tuổi: 54 – tôn giáo: có.
- Dạ chào bác sĩ ạ
- Chào em.
- Dạ bác sĩ có thể dành chút thời gian cho em hỏi một vài câu hỏi được không
ạ?
- Vâng, em cứ hỏi đi.
- Dạ, bác sĩ có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Vì sao?
- Theo tôi thì việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là tương đối cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân. Vì theo chị thì nhu cầu tâm linh mỗi người
là rất cao, bệnh nhân có xu hướng tin và những điều siêu nhiên khi cảm thấy
bất lực. Nhưng, nhu cầu tâm linh rất là trừu tượng, mỗi bệnh nhân có một tôn
giáo, tâm linh, niềm tin tín ngưỡng khác nhau, thậm chí có những bệnh nhân
không theo tôn giáo nào. Chính do đó, việc hỗ trợ tâm linh rất là khó khăn
trên phương diện tập thể hay là đại trà, mà mang tính cá nhân rất cao. Do đó,
nếu thực hiện việc hỗ trợ tâm linh do một cách khoa học thì rất khó khăn.
- Vậy bác sĩ có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
- Theo chị thì cần thiết đó. Vì chị nghĩ rằng, con người có 2 phần là thể xác và
tinh thần. Chính vì vậy, cần phải chăm sóc cả hai phần thể xác và tinh thần,
nhưng mà hiện này việc chăm sóc tinh thần hiện đang còn rất hạn chế, chỉ tập
trung vào việc sử dụng thuốc và các phương pháp y học để điều trị cho bệnh
nhân nhanh chóng khỏi bệnh. Mà đối với bệnh nhân TBMMN thì việc chăm
97
sóc tinh thần cho họ rất cần thiết vì họ cảm thấy bị shock khi đột nhiên mất
khả năng vận động, phải phụ thuộc rất nhiều vào người chăm sóc, nếu mà
không chăm sóc tinh thần kịp lúc thì rất có thể nảy sinh các bệnh tâm lý như
trầm cảm, stress đó.
- Bác sĩ cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
- Theo chị chính là việc cư xử phù hợp theo từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.
Theo chị từng học thì chị nhớ bệnh nhân có 4 loại kiểu nhận thức, chính vì
vậy, mình cần phải cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức, ví dụ như bệnh
nhân mà thuộc kiểu nhận thức quá mức, hay làm quá lên với tình trạng bệnh
của mình, không đau mà nói đau, những biểu hiện mà bác sĩ đã nói là bình
thường nhưng lại rất là lo lắng. Đối với bệnh nhân như vậy thì mình phải cực
kì kiên nhân, giải thích với họ để họ yên tâm. Nếu mà cư xử không phù hợp
thì rất khó để bệnh nhân hợp tác trong quá trình điều trị.
Biên bảng 7
Chuyên viên vật lý trị liệu L.T.H – 32 tuổi – tôn giáo: không
Chào chị, chị có thể dành cho em một chút thời gian để hỏi một số câu
hỏi được không ạ
Được, nhưng mà em hỏi nhanh lên nha
- Dạ, chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Vì sao?
- Theo chị thì không cần thiết lắm. Nhu cầu tâm linh là tùy theo mỗi người,
không ai giống ai, không biết đường đâu mà hỗ trợ.
- Vậy chị có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là
cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
98
- Theo chị thì cần thiết, vì chị nghĩ bệnh nhân nếu mà thoải mái, vui vẻ thì mới
siêng năng tập luyện được, có siêng năng tập luyện thì mới nhanh chóng khỏe
được.
- Chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho
bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
- Theo chị thì việc trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện cởi mở chính
là yếu tố cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần. Vì nếu mà mình khó
chịu với bệnh nhân thì họ cũng khó mà vui vẻ, mà theo chị nghĩ việc bệnh
nhân thoải mái là quan trọng nhất.
99
Biên bảng 8
Chuyên viên Vật lý trị liệu N.H.H – 34 tuổi – tôn giáo: không
- Dạ, chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc
chăm sóc tinh thần không? Vì sao?
- Theo anh thì không cần thiết, việc quan trọng là phải làm cho bệnh nhân hợp
tác với mình, nghe lời và làm theo những hướng dẫn của mình đó. Chỉ có tác
động của các phương pháp khoa học, đã được sự kiểm chứng của các chuyên
gia thì mới mang lại hiểu quả, giúp bệnh nhân nhanh khỏi.
- Vậy anh có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là
cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?
- Anh nghĩ là có cũng được mà không có cũng được. Bởi vì trong điều trị cho
bệnh nhân TBMMN thì việc cho bệnh nhân tập vật lý trị liệu thường xuyên
mới chính là phương pháp tốt nhất, giúp cho bệnh nhân mau chóng hồi phục.
Nhưng mà nếu có thêm thì sẽ nâng cao hiệu quả trong việc hồi phục chức
năng cho bệnh nhân.
- Vậy nếu mà có chăm sóc tinh thần thì anh cho rằng việc gì là cần thiết
nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?
- Theo anh thì việc đặt mục tiêu thích hợp cho bệnh nhân chính là chìa khóa
trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân. Tùy theo tình trạng của từng
bệnh nhân thì đưa ra chương trình tập luyện thích hợp, giúp phát huy tối đa
khả năng của bệnh nhân, đẩy nhanh quá trình hồi phục của bệnh nhân.
100
Phụ lục SPSS
1. Thực trạng nhận thức nhóm khảo sát
Independent Samples Test
t-test for Equality of Means
Levene's Test
for Equality of
Variances
F
Sig.
t
df
Mean
Difference
Std. Error
Difference
Sig.
(2-
tailed)
95%
Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
.076
.784
.139
33
.891
.01748
.12603
.27390
-
.23893
Equal
variances
assumed
.136 23.956
.893
.01748
.12828
.28227
C3.1.
Thường
xuyên trò
chuyện với
bệnh nhân.
-
.24730
.078
.782
-.139
33
.891
-.01399
.10083
.19114
-
.21912
-.141 26.557
.889
-.01399
.09926
.18984
-
.21781
C3.2. Trò
chuyện với
bệnh nhân
một cách
thân thiện,
cởi mở.
.016
.900
-.063
33
.950
-.01049
.16724
.32976
-
.35074
C3.3. Gọi
bệnh nhân
bằng tên khi
trò chuyên.
-.063 25.162
.951
-.01049
.16758
.33453
-
.35551
47.067
.000
33
.039
-.27273
.12721
-
.53154
-
.01392
-
2.144
21.000
.011
-.27273
.09719
-
.47484
-
.07062
-
2.806
C3.4. Cư xử
phù hợp với
từng kiểu
nhận thức
của bệnh
nhân.
6.053
.019
33
.276
-.09091
.08211
.07615
-
1.107
-
.25797
C3.5. Tôn
trọng bệnh
nhân.
21.000
.162
-.09091
.06273
.03955
-
1.449
-
.22137
18.010
.000
33
.108
-.18182
.11017
.04232
-
1.650
-
.40595
C3.6. Giữ bí
mật cho bệnh
nhân.
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
21.000
.042
-.18182
.08417
-
2.160
-
.35685
-
.00679
.078
.782
-.139
33
.891
-.01399
.10083
.19114
-
.21912
-.141 26.557
.889
-.01399
.09926
.18984
-
.21781
C3.7. Cổ vũ,
khen ngợi,
khích lệ
những thành
tích đạt được
của bệnh
nhân.
1.136
.294
-.512
33
.612
-.07343
.14354
.21861
-
.36546
-.530 28.093
.600
-.07343
.13860
.21045
-
.35730
C3.8. Đặt ra
mục tiêu, kế
hoạch thích
hợp cho quá
trình hồi phục
bệnh nhân.
47.067
.000
33
.039
-.27273
.12721
-
.53154
-
.01392
-
2.144
21.000
.011
-.27273
.09719
-
.47484
-
.07062
-
2.806
C3.9. Thông
báo cho bệnh
nhân nắm rõ
tình trạng
bệnh của
mình.
.055
.815
.121
33
.905
.02098
.17404
.37506
-
.33311
.120 24.741
.906
.02098
.17534
.38228
-
.34033
C3.10. Tổ
chức các
hoạt động vui
chơi tập thể
(trong nhà,
ngoài trời).
17.469
.000
33
.022
-.39161
.16280
-
.72283
-
.06039
-
2.405
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
31.210
.014
-.39161
.15051
-
2.602
-
.69850
-
.08472
Equal
variances
not
assumed
C3.11. Không
áp đặt những
ý nghĩ, quan
điểm (về cuộc
sống nói
chung và tôn
giáo nói
riêng) của
mình lên
bệnh nhân.
47.827
.000 2.455
33
.020
.37762
.15379
.06474
.69051
2.836 32.874
.008
.37762
.13313
.10673
.64852
C3.12. Làm
cho bệnh
nhân tin vào
sức mạnh kỳ
diệu của
Đấng tối cao.
3.063
.089
-.981
33
.334
-.15734
.16043
.16906
-
.48374
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
C3.13.Thảo
luận với bệnh
nhân các vấn
101
-.939 22.066
.358
-.15734
.16759
.19016
-
.50484
1.369
.250
-.524
33
.604
-.10140
.19341
.29210
-
.49490
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
-.553 29.533
.584
-.10140
.18328
.27316
-
.47596
Equal
variances
not
assumed
đề có liên
quan đến tôn
giáo, tâm linh,
tín ngưỡng.
C3.14. Không
phán xét tôn
giáo, tín
ngưỡng của
bệnh nhân,
chấp nhận
tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
13.271
.001 2.737
33
.010
.40210
.14693
.10316
.70103
C3.15. Châm
cứu cho bệnh
nhân.
2.479 18.599
.023
.40210
.16223
.06205
.74214
.016
.900 2.237
33
.032
.37413
.16724
.03388
.71438
C3.16. Xoa
bóp tay chân
cho bệnh
nhân.
2.233 25.162
.035
.37413
.16758
.02911
.71914
.002
.963 3.582
33
.001
.54196
.15128
.23418
.84974
C3.17. Kéo
nắn tay chân
cho bệnh
nhân.
3.562 24.862
.002
.54196
.15217
.22847
.85545
5.600
.024 1.322
33
.195
.20280
.15345
.51500
-
.10940
1.239 20.646
.229
.20280
.16373
.54365
C3.18. Cho
bệnh nhân
xem phim, hài
kịch, nghe
nhạc.
-
.13806
5.630
.024
33
.296
-.16434
.15484
.15069
-
.47936
-
1.061
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
30.126
.268
-.16434
.14553
.13282
-
.46149
-
1.129
Equal
variances
not
assumed
152.533
.000
33
.012
-.36364
.13740
-
.64318
-
.08409
-
2.647
C3.19. Có
các cuộc gặp
định kì (hoặc
khi có nhu
cầu) với
chuyên gia
tâm lý chuyên
nghiệp.
C3.20. Tổ
chức các
khóa học bổ
Equal
variances
assumed
102
21.000
.002
-.36364
.10497
-
3.464
-
.58194
-
.14533
Equal
variances
not
assumed
sung kiến
thức chăm
sóc tinh thần
cho người
chăm sóc.
.174
.679
-.206
33
.838
-.02797
.13569
.24810
-
.30404
Equal
variances
assumed
-.209 26.365
.836
-.02797
.13391
.24710
-
.30304
C3.21. Cho
bệnh nhân
giao lưu với
những người
đã hồi phục
thành công.
Equal
variances
not
assumed
103
2. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theo BN&NCS
Independent Samples Test
t-test for Equality of Means
Levene's
Test for
Equality of
Variances
Sig.
F
t
df
Mean
Difference
Std. Error
Difference
Sig.
(2-
tailed)
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower
Upper
.056
.815
-.451
20
.657
-.17094
.37926
-.96206
.62018
-.450 17.201
.659
-.17094
.38027
-.97253
.63065
C6.1.
Thường
xuyên trò
chuyện với
bệnh nhân.
.246
.625
20
.302
-.29915
.28234
-.88809
.28980
-
1.060
16.893
.308
-.29915
.28450
-.89968
.30139
-
1.051
C6.2. Trò
chuyện với
bệnh nhân
một cách
thân thiện,
cởi mở.
8.780
.008
20
.311
-.40171
.38681
.40517
-
1.039
-
1.20859
18.493
.258
-.40171
.34443
.32054
C6.3. Gọi
bệnh nhân
bằng tên khi
trò chuyên.
-
1.166
-
1.12396
.328
.573
.240
20
.813
.07692
.32046
-.59155
.74539
.243 18.160
.810
.07692
.31612
-.58681
.74065
C6.4. Cư xử
phù hợp với
từng kiểu
nhận thức
của bệnh
nhân.
.006
.941
.000
20 1.000
.00000
.30662
-.63960
.63960
C6.5. Tôn
trọng bệnh
nhân.
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
.000 17.363 1.000
.00000
.30662
-.64589
.64589
.014
.907
-.992
20
.333
-.33333
.33589
.36732
-
1.03398
C6.6. Giữ bí
mật cho bệnh
nhân.
18.868
.321
-.33333
.32686
.35112
-
1.020
-
1.01778
.001
.976
-.974
20
.342
-.36752
.37735
.41961
-
1.15466
-.970 17.100
.346
-.36752
.37897
.43168
-
1.16672
C6.7. Cổ vũ,
khen ngợi,
khích lệ
những thành
tích đạt được
của bệnh
nhân.
1.164
.294
20
.197
-.51282
.38410
.28840
-
1.335
-
1.31404
19.945
.171
-.51282
.36126
.24088
-
1.420
-
1.26652
C6.8. Đặt ra
mục tiêu, kế
hoạch thích
hợp cho quá
trình hồi phục
bệnh nhân.
1.156
.295
-.885
20
.387
-.40171
.45391
.54513
-
1.34855
-.834 13.704
.418
-.40171
.48154
.63319
-
1.43661
C6.9. Thông
báo cho bệnh
nhân nắm rõ
tình trạng
bệnh của
mình.
1.446
.243
-.358
20
.724
-.15385
.43028
.74370
-
1.05140
-.331 12.693
.746
-.15385
.46473
.85262
-
1.16031
C6.10. Tổ
chức các
hoạt động vui
chơi tập thể
(trong nhà,
ngoài trời).
.296
.593
.055
20
.956
.02564
.46268
-.93949
.99077
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
.055 16.409
.957
.02564
.46983
-.96835 1.01963
Equal
variances
not
assumed
C6.11. Không
áp đặt những
ý nghĩ, quan
điểm (về
cuộc sống nói
chung và tôn
giáo nói
riêng) của
mình lên
bệnh nhân.
.406
.531 1.653
20
.114
.86325
.52208
-.22580 1.95229
1.597 15.181
.131
.86325
.54056
-.28773 2.01423
C6.12. Làm
cho bệnh
nhân tin vào
sức mạnh kỳ
diệu của
Đấng tối cao.
.307
.586
.417
20
.681
.19658
.47162
-.78720 1.18037
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
C6.13.Thảo
luận với bệnh
nhân các vấn
104
.421 17.941
.679
.19658
.46705
-.78488 1.17804
Equal
variances
not
assumed
.549
.467
.432
20
.670
.23077
.53380
-.88272 1.34426
Equal
variances
assumed
.412 14.338
.687
.23077
.56030
-.96831 1.42984
Equal
variances
not
assumed
đề có liên
quan đến tôn
giáo, tâm
linh, tín
ngưỡng.
C6.14. Không
phán xét tôn
giáo, tín
ngưỡng của
bệnh nhân,
chấp nhận
tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
3.384
.081
.391
20
.700
.13675
.34949
-.59227
.86577
.359 12.270
.725
.13675
.38049
-.69023
.96374
C6.15. Cho
bệnh nhân
xem phim,
hài kịch, nghe
nhạc.
.009
.927
.247
20
.808
.09402
.38116
-.70107
.88911
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
.246 17.299
.808
.09402
.38156
-.70995
.89799
Equal
variances
not
assumed
2.969
.100
.128
20
.900
.05983
.46803
-.91646 1.03612
Equal
variances
assumed
.141 19.531
.890
.05983
.42536
-.82882
.94848
Equal
variances
not
assumed
C6.16. Có
các cuộc gặp
định kì (hoặc
khi có nhu
cầu) với
chuyên gia
tâm lý chuyên
nghiệp.
C6.17. Tổ
chức các
khóa học bổ
sung kiến
thức chăm
sóc tinh thần
cho người
chăm sóc.
2.220
.152
.690
20
.498
.35897
.52008
-.72589 1.44384
.750 19.889
.462
.35897
.47884
-.64023 1.35818
C6.18. Cho
bệnh nhân
giao lưu với
những người
đã hồi phục
thành công.
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
105
106
3. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc chăm sóc
tinh thần cho bệnh nhân TBMMN
Independent Samples Test
t-test for Equality of Means
Levene's
Test for
Equality of
Variances
Sig.
F
t
df
Mean
Difference
Std. Error
Difference
Sig.
(2-
tailed)
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower
Upper
.136
.719 1.017
11
.331
.50000
.49167
-.58215 1.58215
.934 1.309
.490
.50000
.53513
4.46596
C8.1.
Thường
xuyên trò
chuyện với
bệnh nhân.
-
3.46596
.441
.520 2.036
11
.067
.77273
.37956
-.06268 1.60813
1.488 1.164
.351
.77273
.51946
5.53272
-
3.98726
C8.2. Trò
chuyện với
bệnh nhân
một cách
thân thiện,
cởi mở.
6.251
.029
.599
11
.561
.45455
.75912
2.12535
-
1.21626
1.456 10.000
.176
.45455
.31228
-.24126 1.15036
C8.3. Gọi
bệnh nhân
bằng tên khi
trò chuyên.
4.715
.053
.575
11
.577
.27273
.47397
-.77046 1.31592
1.399 10.000
.192
.27273
.19498
-.16171
.70717
C8.4. Cư xử
phù hợp với
từng kiểu
nhận thức
của bệnh
nhân.
3.785
.078
.330
11
.747
.18182
.55025
1.39292
-
1.02928
C8.5. Tôn
trọng bệnh
nhân.
.803 10.000
.441
.18182
.22636
-.32255
.68618
.097
.762
-.554
11
.591
-.31818
.57414
.94550
-
1.58186
C8.6. Giữ bí
mật cho bệnh
nhân.
-.580 1.446
.639
-.31818
.54885
3.16297
-
3.79934
.014
.908
-.453
11
.659
-.22727
.50150
.87652
-
1.33107
C8.7. Cổ vũ,
khen ngợi,
khích lệ
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
-.423 1.324
.730
-.22727
.53667
3.67607
-
4.13061
những thành
tích đạt được
của bệnh
nhân.
2.487
.143
.613
11
.552
.18182
.29649
-.47074
.83438
1.491 10.000
.167
.18182
.12197
-.08994
.45358
C8.8. Đặt ra
mục tiêu, kế
hoạch thích
hợp cho quá
trình hồi phục
bệnh nhân.
3.427
.091 2.148
11
.055
.59091
.27513
-.01464 1.19646
1.163 1.067
.443
.59091
.50820
6.16353
-
4.98172
C8.9. Thông
báo cho bệnh
nhân nắm rõ
tình trạng
bệnh của
mình.
.355
.564
-.649
11
.529
-.59091
.90981
1.41158
-
2.59340
-.952 2.310
.430
-.59091
.62092
1.76462
-
2.94644
C8.10. Tổ
chức các
hoạt động vui
chơi tập thể
(trong nhà,
ngoài trời).
7.211
.021
11
.224
-.63636
.49414
.45124
-
1.288
-
1.72397
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
10.000
.011
-.63636
.20328
-.18343
-
3.130
-
1.08930
Equal
variances
not
assumed
C8.11. Không
áp đặt những
ý nghĩ, quan
điểm (về
cuộc sống nói
chung và tôn
giáo nói
riêng) của
mình lên
bệnh nhân.
.063
.807
.312
11
.761
.27273
.87283
2.19381
-
1.64836
.259 1.232
.832
.27273
1.05392
8.95350
-
8.40805
C8.12. Làm
cho bệnh
nhân tin vào
sức mạnh kỳ
diệu của
Đấng tối cao.
7.211
.021
-.613
11
.552
-.54545
.88946
1.41223
-
2.50314
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
10.000
.167
-.54545
.36590
.26983
-
1.491
-
1.36074
Equal
variances
not
assumed
7.211
.021
.000
11 1.000
.00000
1.08711
2.39272
-
2.39272
Equal
variances
assumed
.000 10.000 1.000
.00000
.44721
-.99645
.99645
Equal
variances
not
assumed
1.865
.199
11
.332
-.90909
.89493
1.06064
-
1.016
-
2.87882
C8.13.Thảo
luận với bệnh
nhân các vấn
đề có liên
quan đến tôn
giáo, tâm
linh, tín
ngưỡng.
C8.14. Không
phán xét tôn
giáo, tín
ngưỡng của
bệnh nhân,
chấp nhận
tôn giáo, tín
ngưỡng đó.
C8.15. Cho
bệnh nhân
xem phim,
Equal
variances
assumed
107
hài kịch, nghe
nhạc.
10.000
.033
-.90909
.36815
-.08879
-
2.469
-
1.72939
3.537
.087
-.606
11
.557
-.63636
1.05056
1.67591
-
2.94864
Equal
variances
not
assumed
Equal
variances
assumed
10.000
.172
-.63636
.43218
.32659
-
1.472
-
1.59931
Equal
variances
not
assumed
2.949
.114
-.736
11
.477
-.72727
.98829
1.44793
-
2.90248
Equal
variances
assumed
10.000
.104
-.72727
.40656
.17859
-
1.789
-
1.63314
Equal
variances
not
assumed
C8.16. Có
các cuộc gặp
định kì (hoặc
khi có nhu
cầu) với
chuyên gia
tâm lý chuyên
nghiệp.
C8.17. Tổ
chức các
khóa học bổ
sung kiến
thức chăm
sóc tinh thần
cho người
chăm sóc.
2.657
.131
-.902
11
.386
-.90909
1.00786
1.30919
-
3.12737
10.000
.053
-.90909
.41461
.01472
-
2.193
-
1.83290
C8.18. Cho
bệnh nhân
giao lưu với
những người
đã hồi phục
thành công.
Equal
variances
assumed
Equal
variances
not
assumed
108