BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC Mai Thị Hoài Thư

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI TPHCM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Mai Thị Hoài Thư

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI TPHCM

Chuyên ngành: Tâm lý học

Mã số: K38.611.109

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HUỲNH MAI TRANG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016

i

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Tâm lý học đã tạo điều kiện

cho tôi thực hiện khóa luận này. Chân thành cảm ơn Tiến sĩ Huỳnh Mai Trang

đã hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.

Xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Viện Y dược học Dân tộc, Phòng

Đào tạo – Nghiên cứu khoa học – Chỉ đạo tuyến, các anh chị bác sĩ, nhân viên

y tế khoa Nội tim mạch – thần kinh, các BN&NCS bệnh nhân tai biến mạch

máu não tại Viện Y Dược học Dân tộc TPHCM đã tạo điều kiện cho tôi thu số

liệu thành công.

Xin chân thành bạn bè và tập thể lớp Tâm lý học 4B đặc biệt là các bạn

cùng làm khóa luận đã bên cạnh giúp đỡ, động viên trong suốt quá trình thực

hiện khóa luận.

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... vii

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................. 1

1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 1

1.1.1 Nước ngoài ............................................................................................ 1

1.1.2 Trong nước ............................................................................................ 8

1.2 Cơ sở lý luận ....................................................................................... 13

1.2.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài ......................................................... 13

1.2.2 Một số vấn đề lý luận có liên quan đến chăm sóc bệnh nhân TBMMN

............................................................................................................. 19

1.2.3 Đặc điểm tâm lý của bệnh nhân TBMMN .......................................... 21

1.2.4 Một số phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ... 27

TIỂU KẾT CHƯƠNG I .................................................................................. 31

Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CHĂM SÓC

TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở

MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................... 32

2.1 Thể thức nghiên cứu ........................................................................... 32

2.1.1 Mẫu nghiên cứu .................................................................................. 32

2.1.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 33

2.1.3 Công cụ nghiên cứu ............................................................................ 33

2.1.4 Tiến trình nghiên cứu .......................................................................... 36

2.2 Kết quả nghiên cứu ............................................................................. 37

iii

2.2.1 Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát ..................................... 38

2.2.2 Thực trạng đánh giá của các đối tượng về chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân TBMMN: ................................................................................................ 51

2.2.3 Thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN .. 53

2.2.4 So sánh sự khác biệt theo các nhóm đối tượng khác nhau trong việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN: ................................................. 58

2.3 Đề xuất biện pháp ............................................................................... 61

TIỂU KẾT CHƯƠNG II ................................................................................. 63

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 71

Phụ lục 1 .......................................................................................................... 71

Phụ lục 2 .......................................................................................................... 83

Phụ lục 3: ......................................................................................................... 89

Phụ lục SPSS ................................................................................................. 100

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ Viết tắt

Tai biến mạch máu não TBMMN

Viện Y Dược Học Dân Tộc VYDHDT

Thành phố Hồ Chí Minh TPHCM

Bệnh nhân và người chăm sóc BN&NCS

Chăm sóc tinh thần CSTT

Vật lý trị liệu VLTL

Điểm trung bình ĐTB

Độ lệch chuẩn ĐLC

Thứ tự TT

Điểm trung bình điều hòa thang đo ĐTBĐHTĐ

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1.Đặc điểm mẫu nghiên cứu ............................................................... 32

Bảng 2.2Cách đánh giá điểm thang đo 5 mức độ ........................................... 37

Bảng 2.3 Cách đánh giá điểm thang đo 3 mức độ .......................................... 37

Bảng 2.4 Nhận định của nhóm y tế về việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN (N=13) ............................................................................................. 38

Bảng 2.5. Nhận định của BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN (N=22) ............................................................................................. 40

Bảng 2.6. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện trao đổi, giao tiếp với bệnh

nhân TBMMN (N=13) .................................................................................... 41

Bảng 2.7. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc

sống cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 42

Bảng 2.8. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện hỗ trợ nhu cầu tâm linh cho

bệnh nhân TBMMN ........................................................................................ 43

Bảng 2.9. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện liên quan đến vật lý trị liệu

trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................... 44

Bảng 2.10. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện trao đổi với bệnh nhân

TBMMN (N=22) ............................................................................................. 45

Bảng 2.11. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc

sống cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 46

Bảng 2.12. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện hỗ trợ tâm linh cho bệnh

nhân TBMMN ................................................................................................. 47

vi

Bảng 2.13. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện liên quan đến vật lý trị liệu

trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................... 48

Bảng 2.14. Sự khác biệt mức độ nhận thức giữa nhóm y tế và BN&NCS ..... 49

Bảng 2.15. Số lựa chọn đúng về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN ....... 51

Bảng 2.16. Mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh nhân TBMMN được

chăm sóc tinh thần một cách toàn diện ........................................................... 52

Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMMN trong việc

được chăm sóc tinh thần .................................................................................. 52

Bảng 2.18. Mức độ hài lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN ........................................................................................ 53

Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN .................................................. 54

Bảng 2.20. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh thần

cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát ........................................... 55

Bảng 2.21. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc tinh thần

và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát ......................................................... 57

Bảng 2.22. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN ......................................................................... 59

Bảng 2.23. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc chăm

sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN ............................................................ 60

vii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới WHO tại Mỹ mỗi năm có

khoảng 795.000 người xảy ra đột quỵ, trong đó khoảng 610.000 là lần đầu

tiên. Đột quỵ là một trong 20 nguyên nhân gây ra tử vong hàng đầu tại Mỹ.

Đột quỵ do thiếu mãu não cục bộ là loại phổ biến nhất, trong đó chiếm

khoảng 87%.

Còn tại Việt Nam thì mỗi năm có hơn 200.000 người bị đột quỵ

(TBMMN), hơn 50% trong số đó tử vong và 90% số người sống sót sau đột

quỵ phải sống chung với các di chứng về thần kinh và vận động…Nghiêm

trọng hơn, độ tuổi bị TBMMN đang dần trẻ hóa, từ 40 - 45 tuổi so với trước

đây là 50 - 60 tuổi.

Nếu những năm 90, toàn cầu có khoảng 25% số ca đột quỵ ở người 20 –

64 tuổi thì những năm gần đây, con số này đã tăng lên 31%. Đáng lưu ý là

những người ở độ tuổi 20, thậm chí trẻ hơn cũng đang có nguy cơ bị đột quỵ.

Hiện con số thống kê cho nhóm đối tượng này khoảng 83.000 người/ năm.

Một người sau TBMMN bị ảnh hưởng như thế nào phụ thuộc vào cơn

đột quỵ của họ xảy ra ở đâu trên não và mức độ tổn thương của các tế bào não.

Ví dụ, một người bị 1 cơn đột quỵ nhỏ thì chỉ có thể chỉ bị yếu tạm thời của

một cánh tay hoặc chân. Những người bị đột quỵ nặng thì có thể bị tê liệt vĩnh

viễn ở một bên cơ thể của họ hoặc mất khả năng nói. Một số người hồi phục

hoàn toàn từ cơn đột quỵ, nhưng hơn 2/3 số người sống sót sẽ có một số loại

khuyết tật.

Qua những thống kê trên thì ta có thể thấy, bệnh đột quỵ hay còn gọi là

TBMMN là một bệnh vô cùng nguy hiểm và để lại các di chứng nặng nề.

Gánh nặng của việc chăm sóc những người sau TBMMN đè nặng lên vai

viii

người thân và xã hội. Do vậy, việc giúp phục hồi chức năng cho bệnh nhân

TBMMN vô cùng cần thiết.

Tác động đến việc phục hồi nhanh của bệnh nhân có thể do các phương

pháp vật lý trị liệu và chăm sóc tinh thần.

Nhưng thực tế hiện nay trong các cơ sở điều trị phục hồi chức năng cho

bệnh nhân TBMMN thì chỉ tập trung vào các phương pháp vật lý trị liệu như:

xoa bóp, kéo nắn, châm cứu… mà ít quan tâm đến những biến đổi tâm lý của

bệnh nhân.

Bệnh nhân sau TBMMN thường phải chịu cả những mất mát về vật chất

lẫn tinh thần. Bên cạnh tình trạng yếu liệt, giảm cảm giác hay rối loạn về nhận

thức, bệnh nhân phải gánh tác động rất lớn về tâm lý. Tâm lý con người có ý

nghĩa quyết định đến quá trình phát sinh bệnh, và cả quá trình phát triển, tiên

lượng, điều trị và chăm sóc. Để chấp nhận những tổn thương sau TBMMN,

bệnh nhân cần có hiểu biết và thời gian để thích nghi với nó. Tác động của

người cán bộ y tế một cách vô tình hay cố ý có thể làm thay đổi sự tiến triển

bệnh và kết quả điều trị.

Trên cơ sở đó, ta có thể thấy, quá trình chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả điều trị cho bệnh nhân. Xuất

phát từ yếu tố trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Thực trạng chăm sóc tinh thần

bệnh nhân sau tai biến mạch máu não của một số cơ sở y tế tại Thành Phố

Hồ Chí Minh”.

ix

2. Mục đích nghiên cứu

Xác định thực trạng chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau TBMMN ở một

số cơ sở y tế tại TP.HCM, rút ra kết luận.

Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân sau TBMMN.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu:

Bác sỹ, nhân viên y tế, người chăm sóc và bệnh nhân TBMMN tại một số cơ

sở y tế.

Đối tượng nghiên cứu:

Thực trạng chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não

4. Giả thuyết nghiên cứu

Trong quá trình điều trị cho bệnh nhân sau TBMMN thì điều trị bằng các

phương pháp vật lý trị liệu được sử dụng nhiều hơn so với việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích hệ, thống hóa cơ sở lý luận về chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân TBMMN.

Khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sau TBMMN ở

một số cơ sở y tế tại TP.HCM, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp tăng cường

hơn nữa việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau TBMMN.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp luận

- Quan điểm hệ thống – cấu trúc

- Quan điểm thực tiễn

- Quan điểm lịch sử - logic

x

6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích và tổng hợp lý thuyết về việc chăm sóc tinh thần cho người sau

TBMMN

Phân loại, hệ thống hóa lý thuyết cần nghiên cứu.

Tổng hợp, khai thác các công tình khoa học đã được nghiên cứu, thực

nghiệm đã được chứng minh…

6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Thu thập ý kiến về phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sau

TBMMN của các bác sỹ, y tá, bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân ở một số

cơ sở y tế.

- Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý các dữ liệu thu được từ việc thu thập

ý kiến bằng các phương pháp thống kê xác suất. Từ đó đưa ra kết luận.

- Phương pháp phỏng vấn.

Phỏng vấn một số nhân viên y tế, bệnh nhân, người nhà về phương pháp

chăm sóc tinh thần bệnh nhân ở một số cơ sở y tế.

1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1 Nước ngoài

Việc chú ý tới sự ảnh hưởng của các yếu tố tinh thần trong điều trị bệnh

cho các bệnh nhân đã được quan tâm từ lâu. Bệnh nhân được chú ý chăm sóc

tinh thần đầu tiên là những bệnh nhân hấp hối “hospice”.

“Hospices” ban đầu là nơi yên nghỉ dành cho du khách trong thế kỷ thứ

4. Vào thế kỷ 19 một dòng tu đã thành lập “hospices” cho người sắp chết ở

Ireland và London. “Hospice” hiện đại là một khái niệm tương đối mới được

bắt nguồn và phát triển trong Vương quốc Anh sau khi “St. Christopher’s

hospice” được thành lập vào năm 1967. Nó được thành lập bởi Dame Cicely

Saunders, bà được coi là người sáng lập của hoạt động “hospice” hiện đại

[44].

Mô hình truyền thống của chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân ban đầu

chỉ là một mô hình thuần y tế, tập trung nghiên cứu tiền sử của bệnh, tìm hiểu

cơ sở sinh lý của các triệu chứng, đưa ra các biện pháp để chữa khỏi bệnh,

tiếp theo là đo lường kết quả. Qua nhiều thập kỷ, mô hình này bộc lộ nhiều

khuyết điểm.

Theo tác giả Daniel P. Sulmasy tổng hợp trong cuốn “Mô hình tâm sinh

lý – tâm linh cho chăm sóc bệnh nhân cuối đời” (A Biopsychosocial-Spiritual

Model for the Care of Patients at the End of Life):

Năm 1970, Ramsey đã đưa ra một yếu tố mới, ông cho rằng: “Mỗi người

đều có một cái gọi là “tiền sử tinh thần” (spiritual history), nó sẽ được mở ra

trong một bối cảnh tôn giáo rõ ràng. Bất cứ khi nào cái “tiền sử tinh thần”

được khơi gợi, nó sẽ giúp định hình con người như là một cá thể hoàn thiện.

Khi nào con người đó bị các căn bệnh tấn công thì căn bệnh đó sẽ ảnh hưởng

lên toàn bộ con người.

2

George Engel (1977) đã đặt ra một tầm nhìn rộng lớn trong chăm sóc sức

khỏe cho bệnh nhân bằng cách đưa ra mô hình tâm sinh lý của mình

(biopsychosocial model). Mô hình này đưa ra giả định rằng sức khỏe và bệnh

tật đều là kết quả của tác động lẫn nhau giữa các yếu tố sinh học, tâm lý và

các tác nhân môi trường, và cả 3 yếu tố đều quan trọng ảnh hưởng đến sức

khỏe và bệnh tật. Mô hình hướng tới cả sức khỏe và bệnh tật chứ không chỉ

tập trung vào bệnh tật như độ lệch từ một số trạng thái ổn định. Mô hình này,

nó đặt bệnh nhân thẳng trong một mối quan hệ đó bao gồm các yếu tố tình

cảm và trạng thái tâm lý khác mà bệnh nhân được xem như một con người,

cũng như các mối quan hệ có ý nghĩa giữa bệnh nhân và những người xung

quanh.

White, Williamsvà Greenberg năm 1996 đã được giới thiệu một mô hình

sinh thái về chăm sóc bệnh nhân trong đó có quan tâm đến môi trường sinh

hoạt của bệnh nhân như là cơ sở của việc chăm sóc ban đầu cho bệnh nhân

[28].

Michael Balint và những cộng sự đã mô tả một cách tiếp cận khác nhau

để xét bệnh nhân, đầu tiên với tư cách là một con người, trong mối quan hệ

với gia đình, cộng đồng và nơi làm việc của họ. Cách tiếp cận này được biết

đến như là một cách tiếp cận toàn diện dễ dàng kết hợp vào quan điểm hiện

đại về chăm sóc bệnh nhân làm trung tâm, và các bệnh nhân như các đối tác

trong việc chăm sóc của họ. Ngoài ra thì người mà trở nên không khỏe có

những nhu cầu về xã hội và tâm lý. Đáp ứng những nhu cầu này sẽ cải thiện

sức khỏe của họ và giúp hồi phục. Nhu cầu tâm lý và xã hội của bệnh nhân

cũng cần phải được xem xét và giải quyết như là một phần của chăm sóc sức

khỏe toàn diện [28]. Việc chăm sóc tinh cho bệnh nhân còn được nghiên cứu

ở các lĩnh vực tâm linh. Sự kết hợp của tôn giáo và tâm linh vào chăm sóc

tâm lý là phù hợp với khuôn khổ tâm sinh lý từ nhiều nhà tâm lý học hoạt

3

động. Các quan điểm tâm sinh lý liên quan đến việc nhận ra các vấn đề của

bệnh nhân rất đa dạng, có những khía cạnh sinh học, tâm lý và xã hội (Bakal,

1999).

Có các nghiên cứu về tác động của tâm linh lên sức khỏe tinh thần theo

bài viết “Vị trí của tâm linh trong việc chăm sóc tinh thần cuối đời” (The

Place of Spirituality in Psychological End of Life Care) của 2 tác giả Erin L.

Moss và Keith Dobson. Các nhà nghiên cứu đã xác định tôn giáo như là một

biến quan trọng trong sức khỏe tinh thần (Koenig & Larson, 2001). Một đánh

giá toàn diện của Koenig, McCullough, & Larson (2001) chỉ ra rằng tôn giáo

có liên quan đến giảm tỷ lệ tự tử và thái độ tiêu cực hơn đối với hành vi tự tử.

Bài viết cũng đề cập đến các mối quan hệ giữa tâm linh và sức khỏe tâm

thần xuất hiện đặc biệt quan trọng trong trường hợp cần chăm sóc giảm

nhẹ. Ví dụ, Brady, Peterman, Fitchett, Mo và Cella (1999) đã nghiên cứu chất

lượng cuộc sống ở các cá nhân mắc bệnh ung thư hoặc HIV đã được chẩn

đoán là tính mạng bị đe dọa và thấy rằng có sự tỉ lệ thuận giữa mức độ của

tâm linh và khả năng chịu đựng đau đớn và mệt. Nghiên cứu này cũng chỉ ra

mối liên hệ ý nghĩa và tích cực giữa chất lượng cuộc sống và đời sống tinh

thần. Tương tự như vậy, Yates, Chalmer, St James, Follansbee, và McKegney

(1981) nhận thấy rằng những bệnh nhân ung thư, bệnh nan y người mà có

niềm tin vào Đấng tối cao, sự hiện diện của thế giới bên kia, sức mạnh của sự

cầu nguyện có mức đau thấp hơn so với những bệnh nhân không có tín

ngưỡng tâm linh mặc dù cả hai nhóm có mức độ đau tương tự.

Cũng trong bài viết “Vị trí của tâm linh trong việc chăm sóc tinh thần

cuối đời”. Tâm linh và tôn giáo cũng đã được tìm thấy có liên quan với sự lo

lắng và đau khổ ở mức độ thấp. McClain, Rosenfeld, và Breitbart (2003) nhận

thấy rằng đời sống tinh thần hạnh phúc được có tương quan nghịch với những

nỗi lo lắng cuối đời như tuyệt vọng, mong muốn cái chết và ý tưởng tự sát.

4

Một nghiên cứu khác (Dervic và các cộng sự, 2004) đã chứng minh rằng

những cá nhân có liên quan với tôn giáo có những nỗ lực đáng kể hơn trong

việc giảm ý muốn tự tử và nhận thức được nhiều lý do để sống hơn so với các

cá nhân không có liên quan tới tôn giáo. Khi bệnh nhân ở gần cuối của cuộc

đời, một số có thể trở nên chán nản hay mất tinh thần, bộc lộ một mong muốn

có một cái chết sớm, do đó có thể có nguy cơ cao xảy ra tự sát. Các bác sĩ

phải nhận thức được thực tế rằng các triệu chứng tâm lý và những nỗi lo tinh

thần thường là nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ của một cái chết sớm ngay cả

khi căn bệnh đã được điều trị hồi phục (Breitbart và các cộng sự, 2000).Gall,

Charbonneau, Grant, Joseph, và Shouldice (2005) xem xét các tài liệu về mối

quan hệ giữa nhận thức về Chúa, cách đối phó và giải quyết vấn đề, định

hướng tôn giáo, và các kết quả liên quan sức khỏe khác nhau. Họ báo cáo

rằng nếu nhìn nhận về Chúa như là tình yêu thương thì có liên quan đến việc

giải thích lại căn bệnh một cách tích cực, còn trong khi xem Thiên Chúa như

là trừng phạt thì có liên quan đến việc tăng cảm giác đau khổ khi đối mặt với

một căn bệnh [30].

Theo Học viện Bác sĩ gia đình Mỹ (American Academy of Family

Physicians) đánh giá tinh thần như bước đầu tiên để thực hiện việc kết hợp

xem xét về tinh thần của bệnh nhân vào y học. Các câu hỏi HOPE cung cấp

một công cụ chính thức có thể sẽ được sử dụng trong quá trình này. Các khái

niệm HOPE bao gồm:

H-nguồn gốc của niềm hy vọng, sức mạnh, thoải mái, ý nghĩa, hòa bình,

tình yêu và kết nối.

O-vai trò của các tổ chức tôn giáo đối với bệnh nhân.

P- vấn đề tâm linh cá nhân.

E- ảnh hưởng của việc chăm sóc y khoa và quyết định cuối đời.

[32]

5

Một nghiên cứu thăm dò được thức hiện bởi một nhóm các nhà khoa học

Timothy P. Daaleman, Barbara M. Usher, Sharon W. Williams, Jim Rawlings

và Laura C. Hanson của trường đại học Bắc Carolina, Mỹ (UNC) đã nghiên

cứu định tính bằng cách sử dụng các cuộc phỏng vấn và phân tích chỉnh sửa

với 12 bác sĩ và nhóm y tế khác, người mà được đề cử làm người chăm sóc

tinh thần bởi bệnh nhân sắp chết và người nhà của họ cho ra kết quả chăm sóc

tinh thần cho những bệnh nhân cuối đời có 3 quá trình: trao đổi, chia sẻ (being

present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes); tương tác (cocreating). Những

cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là

vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan

trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp

cho người chăm sóc có thể chú ý tới họ một cách toàn diện hơn. “Openning

eyes” là quá trình mà người chăm sóc nhận ra và thấu hiểu những trải nghiệm

cá nhân của bệnh nhân bằng cách hiểu những quan điểm của bệnh nhân về

bệnh của họ, kết hợp với quan điểm của gia đình và bạn bè của bệnh nhân.

Cuối cùng là quá trình tương tác giữa các bệnh nhân, người nhà và người

chăm sóc để tạo ra một kế hoạch hoàn thiện giúp bệnh nhân chuẩn bị tâm lý

sẵn sàng đối mặt trước cái chết [41].

Một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí JCO (Journal of Clinical

Oncology) số 28 ra ngày 20/1/2010, nghiên cứu được thực hiện trên 343 bệnh

nhân sắp chết đã thu được kết quả: bệnh nhân được hỗ trợ phần lớn hoặc hoàn

toàn các nhu cầu về tinh thần thì đánh giá chất lượng cuộc sống cuối đời tốt

hơn so với những người không được hỗ trợ [42].

Theo một bài viết “Chăm sóc tinh thần được cung cấp bởi các y tá Thái

trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt” (Spiritual care provided by Thai nurses in

intensive care units) được đăng trên tạo chí JCN (Journal of Clinical Nursing)

số 19, phát hành 4/2010 đã cho ra kết quả: năm vấn đề có liên quan đến việc

6

chăm sóc tinh thần: hỗ trợ tinh thần, tạo điều kiện cho các nghi lễ tôn giáo và

tín ngưỡng văn hóa, giao tiếp với bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, đánh giá

các nhu cầu tinh thần của bệnh nhân và cho thấy sự tôn trọng và tạo điều kiện

cho sự tham gia của gia đình trong việc chăm sóc [38].

Ngoài ra, một bài đăng trên tạp chí European Journal of Medical

Research số ra ngày 28/6/2010 với tiêu đề “Nhu cầu tinh thần của những

bệnh nhân mắc bệnh mãn tính và ung thư – đánh giá bảng hỏi các câu hỏi về

nhu cầu tinh thần” (Spiritual needs of patients with chronic pain diseases and

cancer - validation of the spiritual needs questionnaire) đã phân tích nhân tố

của 19 công cụ tập trung vào 4 yếu tố: nhu cầu tôn giáo, nhu cầu thanh thản,

nhu cầu hiện sinh (ảnh hưởng/ ý nghĩa) và sự cho đi tích cực. Trong mẫu

chính của bệnh nhân bị đau mãn tính và ung thư, nhu cầu thanh thản có số

điểm cao nhất, tiếp theo là tự quyết định; nhu cầu hiện sinh có điểm số thấp,

trong khi nhu cầu tôn giáo chỉ ra điểm số không quan tâm. Bệnh nhân ung thư

có điểm số cao hơn đáng kể so với bệnh nhân với bệnh đau mãn tính. Có một

sự liên kết yếu giữa sự cho đi tích cực và hài lòng cuộc sống và tỉ lệ nghịch

với các triệu chứng. Nhu cầu cho thanh thản có mối quan hệ không rõ ràng

với sự hài lòng về hiệu quả điều trị. Phân tích hồi quy cho thấy các bệnh tiềm

ẩn có liên quan vượt trội tới các nhu cầu tinh thần của bệnh nhân [27].

Đặc biệt đối với bệnh nhân bị TBMMN thì cũng đã có các nghiên cứu

về sự thay đổi của tâm lý, các vấn đề của sức khỏe tinh thần sau khi bị

TMMN.

Học viện Joanna Briggs đã nghiên cứu các kinh nghiệm tâm lý xã hội,

tinh thần của các đối tượng là là người già, chủ yếu ở độ tuổi từ 65 có ít nhất

1 lần bị đột quỵ cho thấy rằng giai đoạn đầu sau một cơn đột quỵ là một kinh

nghiệm mơ hồ và đáng sợ, nó làm thay đổi cuộc sống đối với hầu hết các cá

nhân. Các giai đoạn phục hồi liên quan đáng kể đến các yếu tố tâm lý, vật lý

7

để xây dựng lại cuộc sống của họ. Kết nối với những người khác và tinh thần

rất quan trọng trong quá trình phục hồi [26].

Theo bài viết của “Trầm cảm và các dấu hiệu khác liên quan đến sức

khỏe tâm thần tăng nguy cơ tử vong sau đột quỵ thiếu máu cục bộ”

(Depression and Other Mental Health Diagnoses Increase Mortality Risk

After Ischemic Stroke)của các tác giả Linda S. Williams, Sushmita Shoma

Ghose, Ralph W. Swindle được in trên tạp chí Tâm thần học Mỹ (The

American Journal of Psychiatry) tháng 6, 2004 đã đưa ra trong số 51.119

bệnh nhân nhập viện sau một cơn đột quỵ thiếu máu cục bộ và sống sót vượt

quá 30 ngày sau đó, trong đó có 2.405 (4,7%) nhận được chẩn đoán là trầm

cảm (ICD-9) và 2257 (4,4%) được chuẩn đoán là có rối loạn thần hoặc lạm

dụng khác trong vòng 3 năm. So với những người không có chuẩn đoán bệnh

thì những người có chuẩn đoán trầm cảm hoặc các rối loạn tâm thần khác trẻ

hơn và khả năng còn sống thấp hơn vào cuối thời gian theo dõi [35].

Trong bài đánh giá của Eran Chemerinski và Robert G. Robinson phát

biểu rằng rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu đã được chứng minh là ức chế

phục hồi thể chất sau đột quỵ. Dường như rối loạn tâm thần khác cũng ức chế

phục hồi và giới hạn chất lượng của cuộc sống. Có rất ít các thử nghiệm kiểm

soát kiểm tra tính hiệu quả của phương pháp điều trị cho các rối loạn sau khi

bị đột quỵ [29].

Một nghiên cứu khác của trường đại học Helsinki của Phần Lan đưa ra.

Với nghiên cứu này, nếu bệnh nhân tai biến mạch máu não thường xuyên

nghe nhạc khoảng vài giờ trong ngày sẽ phục hồi nhanh chóng. Kết quả này

được nghiên cứu dựa trên thực nghiệm của âm nhạc đối với gần 60 bệnh nhân

bị đột quỵ. Qua đó, các nhà khoa học đã chứng minh cho bệnh nhân bị đột

quỵ thấy rằng, âm nhạc có một tác động rất tích cực đến khu vực não kiểm

soát trạng thái tình cảm, cảm xúc và ghi nhớ ở bệnh nhân. Nó giúp đẩy nhanh

8

quá trình phục hồi tổn thương ở những khu vực này. Từ đó, đẩy nhanh sự

phục hồi kéo theo ở những khu vực bị tổn thương khác trong não cùng với

những tế bào thần kinh bị mất chức năng do đột quỵ. Nhóm bệnh nhân bị đột

quỵ này, sau 3 tháng được chọn lựa và nghe nhạc thường xuyên đã cho thấy,

các chức năng não kiểm soát cử động, quá trình nhận thức, khả năng tập

trung... ở nhóm những người nghe nhạc đã được cải thiện tới 60%. Ở nhóm

điều trị bằng phương pháp thông thường chỉ cải thiện khoảng 29%. Với biện

pháp kết hợp với biện pháp điều trị đột quỵ đã cho kết quả phục hồi rất đáng

kể so với những người không được hỗ trợ điều trị bằng âm nhạc. Ngoài ra, ở

nhóm nghe nhạc, khả năng kiểm soát và giải quyết xung đột của não bộ được

cải thiện khoảng 17%, trong khi những nhóm khác gần như không có sự thay

đổi [33].

1.1.2 Trong nước

Các công trình trong nước nghiên cứu về sức khỏe tinh thần có thể kể đến tác

giả Phạm Minh Hạc. Ông đã đưa ra một số lý luận cơ bản về sức khỏe tinh

thần một cách khái quát trong bài đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 1, 2008.

Theo giáo sư – viện sĩ Phạm Minh Hạc, nên phân tích cặp phạm trù “Thể chất

– Tinh thần” để hiểu sâu sắc hơn về sức khỏe tinh thần, theo ông: “phải xem

xét con người ở mức độ nào con người – cá thể, con người - cá nhân, con

người – nhân cách.” [4].

Nhóm nghiên cứu tâm lý học lâm sàng do PGS.TS Đặng Hoàng Minh

làm trưởng nhóm đã công bố các công trình nghiên cứu của nhóm mình có

liên quan đến thực trạng chăm sóc tinh thần tại Việt Nam hiện nay như:

- Nghiên cứu “Sức khỏe tinh thần của trẻ em Việt Nam: Thực trạng và các yếu

tố nguy cơ” hợp tác cùng PGS.TS Bahr Weiss - Trường ĐH Vanderbilt và

ThS. Nguyễn Cao Minh - Phòng Tâm lý học lâm sàng, Viện Tâm lý học được

thực hiện ở 60 địa điểm thuộc 10 tỉnh đại diện của Việt Nam, bao gồm 1314

9

cha mẹ của trẻ từ 6-16 tuổi và 591 vị thành niên từ 12-16 tuổi đã đưa ra kết

quả ngiên cứu gợi ý rằng có từ 12-13% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16)

gặp phải những vấn đề SKTT một các rõ rệt.

- Bài viết “Giáo dục và đào tạo sức khỏe tinh thần ở Việt Nam” (Mental Health

Education and Training in Vietnam) được in trong quyển sách “Giáo dục sức

khỏe trong bối cảnh: Một triển vọng quốc tế của sự phát triển giáo dục sức

khỏe trong trường học và cộng đồng địa phương” (Health Education in

Context: An International Perspective of the Development of Health

Education in Schools and Local Communities) xuất bản bởi nhà xuất bản

Sense năm 2012.

- Bài viết “Mô hình phát triển bền vững cơ sở hạ tầng của sức khỏe tinh thần

trẻ em trong các nước thu nhập thấp: Việt Nam là một trường hợp điển hình”

(A Model for Sustainable Development of Child Mental Health Infrastructure

in the LMIC World: Vietnam as a Case Example) do TS Đặng Hoàng Minh

cùng Weiss B, Victoria K.N và các công sự thực hiện được in trong tạp chí

International Perspective in Psychology: Research, Practice, Consultation số

1, 2012.

- Thích ứng bộ công cụ ASEBA đánh giá các vấn đề sức khỏe tinh thần cho trẻ

tuổi học đường

- Triển khai chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần dựa vào trường học ở

trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, Hà Nội và Trưng Nữ Vương, Đà Nẵng.

- Điều tra dịch tễ học các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt Nam trên toàn

quốc.

Các công trình nghiên cứu trên của nhóm này chủ yếu liên quan đến việc

chăm sóc tinh thần cho học sinh [47].

Theo bài báo cáo khoa học “Chăm sóc tinh thần – Vấn đề mang tầm thế

kỷ” của tác giả Lê Hồng Thái – Học viện Hải quân được in trong tài liệu của

10

hội thảo quốc gia “Chăm sóc sức khỏe tinh thần” (do Hội Khoa Học Tâm Lý-

Giáo Dục Việt Nam tổ chức tại Hà Tây ngày 12-1-2008) có 3 cách để giữ

được sức khỏe tinh thần tốt là: phát triển khả năng thích ứng của con người;

phổ biến rộng rãi tri thức về vệ sinh lao động trí óc; giáo dục, bồi dưỡng, phát

triển tâm năng [16].

Cũng trong hội thảo quốc gia trên, còn có các bài báo cáo khoa học liên

quan đến sức khỏe tinh thần như:

Bài viết “Sức khỏe tinh thần tốt - Đòi hỏi thiết yếu của mỗi người và

toàn xã hội” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Phúc đã nêu ra các luận thuyết y học

liên quan đến sức khoẻ thể chất và tinh thần của con người, nội dung của sức

khỏe tinh thần và phương thức chăm sóc sức khỏe tinh thần có hiệu quả [12].

Bài báo cáo của 2 tác giả ThS. Trần Thành Nam và ThS. Nguyễn Ngọc

Diệp khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đưa

ra các các nguyên tắc làm việc với trẻ có vấn đề về sức khỏe tinh thần [8].

Cũng trong hội thảo, hai tác giả trên cũng đưa ra mô hình can thiệp sức khỏe

tinh thần học đường đang được bước đầu thử nghiệm tại trường THPT Đinh

Tiên Hoàng, Hà Nội.

Nghiên cứu của tác giả Hoàng Cẩm Tú và cộng sự trên hơn 1500 trẻ tại

hai phường Kim Liên và Trung Tự (2000) cho thấy có tới 1,9% - 3% các em

có biểu hiện lo âu, trầm cảm.

Trong đề tài nghiên cứu “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tinh thần

cho học sinh trung học phổ thông Đồng Nai” do Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ và

cộng sự thực hiện (1998- 2000) đã đưa ra mô hình mạng lưới chăm sóc sức

khỏe tinh thần – tâm thần học đường. Mô hình bao gồm sự phối hợp giải

quyết vấn đề từ 3 bên tham gia: trung tâm tham vấn, nhà trường, gia đình-xã

hội. Chức năng nhiệm vụ của từng bên trong mạng lưới được quy định cụ thể

11

rõ ràng, giúp cho việc vận hành mạng lưới được đạt được nhiều kết quả khả

quan trong việc giải quyết các vấn đề tâm lý của học sinh [18].

Trong bài viết đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 6/2009 “Một số nguyên

nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, tác giả

Nguyễn Thị Hằng Phương đã nghiên cứu đối tượng học sinh chuyên Quảng

Bình và chỉ ra rằng có khoảng 21,66% học sinh có vấn đề về rối loạn lo âu

[13].

Ngoài các công trình nghiên cứu về sức khỏe tinh thần cho trẻ em thì còn

có các dự án chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ em như:

Dự án “Chăm sóc sức khoẻ tâm thần học sinh trường học thành phố Hà

Nội” được quản lý bởi Sở Y Tế Hà Nội. Dự án được thực hiện nhằm mục tiêu

khảo sát: đánh giá thực trạng các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh Tiểu học

trên một mẫu nghiên cứu tại Hà Nội; xây dựng mạng lưới can thiệp sớm,

tuyên truyền giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ tâm thần trẻ em tuổi học

đường tại các tuyến y tế cơ sở và tại Bệnh viện Mai Hương [48].

Ngoài ra, việc chăm sóc tinh thần người lao động đã được các công ty

chú ý đến trong nhiều năm qua.Các công ty ứng dụng tâm lý như Ý tưởng

Việt, Hồn Việt, WELink, Sư tử trẻ, Unity… tại Thành phố Hồ Chí Minh đã

đưa ra hàng loạt các dịch vụ chăm sóc tinh thần người lao động, nhằm phục

vụ cho các công ty, tập đoàn. Các dịch vụ này bao gồm các khóa học chăm

sóc tinh thần cho người lao động, các buổi báo cáo chuyên đề, du lịch tâm lý,

bảo hiểm tinh thần, quà tặng tinh thần, chăm sóc tinh thần trọn vẹn... và nhận

được nhiều ủng hộ tích cực từ các công ty, tập đoàn.

Ngoài ra, các công ty, tập đoàn còn có các hoạt động chăm sóc tinh thần

cho người lao động khác như:

Tập đoàn Vinamilk đã đưa ra chính sách phát triển bền vững cho tập

đoàn của mình bao gồm nhiều hạng mục, trong đó trong hạng mục người lao

12

động, tập đoàn đã đưa ra nhiều cam kết và hành động thiết thực chăm lo cho

đời sống người lao động như:

- Chăm sóc sức khỏe người lao động: thực hiện khám sức khỏe định kì 1

lần/năm cho nhân viên nam và 2 lần/năm cho nhân viên nữ; bảo hiểm sức

khỏe toàn diện; đối với trường hợp tử vong hoặc thương tật do tai nạn: mức

bảo hiểm bồi thường lên đến tối đa 30 tháng lương gần nhất; đặc biệt tập đoàn

còn cung cấp gói bảo hiểm sức khỏe cho người thân của các cấp quản lý.

- Đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động: xây dựng và duy trì cơ

chế tiếp nhận thông tin và giải quyết phản ánh, khiếu nại của người lao động

trực tiếp quan các cơ quan quản lý hoặc thông qua kênh nóng nhận thông tin

trực tiếp; công đoàn, đoàn thanh niên tại từng cơ sở tổ chức các hoạt động

nhằm mang lại cho người lao động các cơ hội vui chơi hoạt động ngoài giờ

làm việc.

- Ghi nhận và bù đắp thỏa đáng với những giá trị lao động của nhân viên:

thang lương của Vinamilk đang xây dựng theo hệ thống Merce. Năm 2013, tỷ

lệ tăng lương bình quân là 22.7%, vượt trội so với tỷ lệ các năm trước (2012:

18.5%; 2011: 10%).

- Đào tạo và phát triển nhân viên: năm 2013 Vinamilk đã chi ra hơn 6,5

tỷ đồng để thực hiện các khóa đào tạo, phát triển kỹ năng của nhân viên [49].

Ngày 5/4/2015, tại TP.HCM đã diễn ra Hội thảo khoa học với chủ đề

"Mâu thuẫn trong doanh nghiệp và vấn đề chăm sóc tinh thần cho người lao

động". Đây là hoạt động do Hội khoa học - Tâm lý giáo dục và Liên đoàn Lao

động thành phố tổ chức nhằm tổng hợp những mâu thuẫn đang diễn ra trong

các doanh nghiệp và đề xuất những giải pháp phù hợp hữu ích nhất, góp phần

chăm sóc tốt hơn đời sống tinh thần cho người lao động. Trong buổi hội thảo,

các bên đã đi sâu phân tích và đưa ra kết luận nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn

trong doanh nghiêp chủ yếu là do: nhu cầu chăm sóc tinh thần chưa được đáp

13

ứng; vai trò thực tế của công đoàn và những khó khăn trong việc chăm sóc

đời sống tinh thần cho người lao động; các vấn đề về tiền công, tiền lương,

điều kiện ăn, ở, làm việc của người lao động… [50].

Thông qua những nghiên cứu, bài viết, thực tế nêu trên ta có thể thấy,

việc chăm sóc tinh thần ở Việt Nam còn rất hạn chế. Đặc biệt là chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân, việc chăm sóc tinh thần chỉ tập trung vào các bệnh nhân

sắp chết mà chưa thực sự quan tâm đến những bệnh nhân khác; và chủ yếu sử

dụng thuốc trong quá trình chăm sóc; đội ngũ nhân viên chuyên đảm nhận

việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân chưa được đào tạo một cách chuyên

nghiệp. Đặc biệt đối với bệnh nhân TBMMN thì việc chăm sóc tinh thần sau

khi đột quỵ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hồi phục, trở lại với

cuộc sống nhưng thực tế thì chưa được quan tâm đúng mức.

1.2 Cơ sở lý luận

1.2.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1.1 Chăm sóc

Khái niệm chăm sóc thường gắn liền với một đối tượng nào đó, ví dụ

như: chăm sóc trẻ em, chăm sóc khách hàng, chăm sóc da, chăm sóc cây

trồng… chính vì vậy khái niệm chăm sóc cũng có thể được hiểu theo nhiều

các khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng được chăm sóc. Ví dụ như: chăm sóc

trẻ em cũng có có thể hiểu theo nghĩa như là nuôi nấng, giáo dục, bảo trợ;

chăm sóc khách hàng: cũng hiểu như làm vừa lòng khách hàng; chăm sóc da

có thể hiểu như giúp da đẹp hơn, khỏe mạnh hơn; chăm sóc cây trồng là giúp

cây trồng không bị chết, đạt năng suất...

Chính vì như vậy, chăm sóc có nhiều cách hiểu khác nhau, tùy thuộc vào

đối tượng chăm sóc. Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam: “chăm sóc” là chú ý

trông coi cẩn thận [7].

14

1.2.1.2 Tinh thần

Khái niệm tinh thần xuất hiện từ rất lâu, có rất nhiều cách hiểu khác

nhau về khái niệm tinh thần như là “tâm hồn”, “tâm lý”, “tâm thể”, “tâm trí”,

“xúc cảm – tình cảm”…

Theo từ điển Tiếng Việt khái niệm “tinh thần” là tổng thể nói chung

những ý nghĩ, tình cảm, v.v., những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của

con người; những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành

động cho con người; sự quan tâm thường xuyên trên cơ sở những nhận thức

nhất định, ý thức; cái sâu sắc nhất, cốt yếu nhất của một nội dung nào đó [17].

Theo Hêghen tinh thần là sự thống nhất giữa ý thức và tự ý thức, là quá

trình nó tự vận động, tự biểu hiện, tự nhận thức mình và đó chính là Ý niệm

đã trở lại với chính mình [6].

Theo tác giả Ken Wilber thì tinh thần là mức độ cao nhất và độc nhất vô

nhị của tất cả các cấp độ tồn tại trong các mức độ của sự tồn tại (The great

nest of being) [34].

Theo từ điển Thuật ngữ tâm lý học “tinh thần”: một mặt của xã hội thể

hiện ra ở các giá trị đạo đức, các truyền thống được kết tinh trong các hình

ảnh nghệ thuật. Tinh thần được phản ánh trong ý thức cá nhân trở thành lương

tâm. Quá trình phát triển tinh thần được thực hiện thông qua truyền thống,

giáo dục tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, khai hóa. Chủ nghĩa Mác-

Lênin xem tinh thần gắn bó chặt chẽ với hệ tư tưởng. Một xã hội mà không có

hệ tư tưởng sẽ diễn ra khủng hoảng về tinh thần, cụ thể là khủng hoảng niềm

tin, mất phương hướng trong suy nghĩ [2].

Vậy tinh thần được hiểu trong đề tài này là giá trị đạo đức, các vấn đề

tâm linh, niềm tin, mối quan hệ xã hội… của con người.

15

1.2.1.3 Chăm sóc tinh thần

Việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân dựa trên cơ sở lý luận đã đưa ra

phía trên có thể được tiến hành theo các hướng sau:

Dựa theo mô hình tâm sinh lý (Biopsychosocial Model) của G. Engel

(1977) Mô hình đặt bệnh nhân thẳng trong một mối quan hệ đó bao gồm các

yếu tố tình cảm và trạng thái tâm lý khác mà bệnh nhân được xem như một

con người, cũng như các mối quan hệ có ý nghĩa giữa bệnh nhân và những

người xung quanh. Đầu tiên bác sĩ phải tìm hiểu “như thế nào” và “cái gì”

hoặc là bệnh nhân cảm thấy và đã trải qua những gì sau đó đặt giả thuyết cho

những trạng thái đó (tại sao và cho cái gì), thứ hai: tham gia cùng bệnh nhân

trong các hoạt động thực tiễn hoặc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm để

chứng minh giả thuyết. Thứ ba là phải khơi gợi sự hợp tác của bệnh nhân

trong các hoạt động để giảm nhẹ cẳng thẳng hoặc (và) sữa chữa các nguyên

nhân dẫn đến căng thẳng hoặc bất lực [31].

Dựa theo đánh giá vấn đề tâm linh/ tôn giáo: các nhà tâm lý cần đánh giá

chính xác các hoạt động tâm linh /tôn giáo của cá nhân, và phân biệt các hoạt

niềm tin/hành vi có liên quan đến vấn đề hiện tại của cá nhân. Đánh giá khách

quan liên quan đến việc không quy kết niềm tin tâm linh như là bệnh lý. Hơn

thế nữa, kiến thức về hệ thống niềm tin của bệnh nhân có thể giúp cho các

chuyên viên y tế có thể một cách tinh tế và thích hợp để đáp ứng những nhu

cầu của bệnh nhân hoặc quá trình của cái chết. Đánh giá tâm linh/tôn giáo bao

gồm các mặt sau:

- Tôn giáo: xem xét thế giới quan tâm linh/tôn giáo, niềm tin, thực hành và cam

kết, phân biệt được định hướng tâm linh/tôn giáo bên trong hoặc bên ngoài.

- Đặc trưng tâm linh: xem xét cảm giác cá nhân ở giá trị và tiềm năng của Đấng

tối cao.

16

- Hỗ trợ và cách đối phó từ tâm linh/tôn giáo: xác đinh giá trị bên trong của

bệnh nhân, cho dù là niềm tin tinh thần/tôn giáo, thái độ, thực hành ảnh

hưởng đến phản ứng và đối phó với cái chết. Đánh giá xem các cá nhân sử

dụng cầu nguyện, chiêm niệm/thiền, đọc kinh, hoặc là tham gia với cộng đồng

tâm linh/tôn giáo. Xác định cá nhân được hỗ trợ nhận thức từ: cộng đồng tâm

linh/tôn giáo hoặc các Đấng siêu việc khác.

- Kiểu giải quyết các vấn đề tâm linh: xem xét phong cách giải quyết vấn đề

tâm linh của bệnh nhân đối với Đấng siêu Việt khác (ví dụ: tự giải quyết, phụ

thuộc hoặc hợp tác).

- Hạnh phúc tinh thần: đánh giá khía cạnh hạnh phúc tinh thần như là một mặt

của chất lượng cuộc sống.

- Nhu cầu tâm linh: xem xét bệnh nhân nhu cầu tâm linh về: hoàn cảnh (tìm

kiếm mục đích/hi vọng/ý nghĩa); cá nhân (hòa giải trong các mối quan hệ, cầu

nguyện, phân tích đạo đức và xã hội, sự tha thứ và chấm dứt); tôn giáo (hòa

giải, tha thứ và ủng hộ của Thiên Chúa, nghi lễ tôn giáo / rửa tội, chuyến

thăm của các giáo sĩ, văn học tôn giáo, và thảo luận về Thiên Chúa, sự sống

vĩnh cữu và hy vọng).

- Đánh giá tâm linh: xác nhận mức độ tác động của tâm linh tới nguyên nhân

gây bệnh cho bệnh nhân.

[28]

Theo 3 quá trình: trao đổi, chia sẻ (being present); mở rộng, thấu hiểu

(opening eyes); tương tác (cocreating). Theo 3 quá trình này, trước tiên, người

chăm sóc và bệnh nhân cần có những cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ, trong

đó cần những tương tác về mặt thể chất, giúp cho người chăm sóc có thể chú

ý tới bệnh nhân một cách toàn diện hơn. Sau đó là quá trình “Openning eyes”,

người chăm sóc cần nhận ra và thấu hiểu những trải nghiệm cá nhân của bệnh

nhân bằng cách hiểu những quan điểm của bệnh nhân về bệnh của họ, kết hợp

17

với quan điểm của gia đình và bạn bè của bệnh nhân. Cuối cùng sự hợp tác

của bệnh nhân, người nhà và người chăm sóc để tạo ra một kế hoạch hoàn

thiện giúp bệnh nhân chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đối mặt trước cái chết [41].

Còn theo các định nghĩa của các tổ chức khác thì:

Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO: Nâng cao sức khỏe tinh thần liên quan

đến hành động để tạo điều kiện môi trường sống và hỗ trợ sức khỏe tinh thần

cho phép cá nhân tiếp nhận và duy trì lối sống lành mạnh và làm việc hiệu

quả. Chúng bao gồm một loạt các hành động để tăng cơ hội của nhiều người

trải qua sức khỏe tinh thần tốt hơn.

Còn theo định nghĩa đưa ra bởi Sở Y tế Quốc dân Scotland (National

Health Service Education for Scotland, 2009) chăm sóc tinh thần đó là sự

chăm sóc trong đó nhận ra và đáp ứng các nhu cầu của tinh thần con người

khi phải đối mặt với chấn thương, bệnh tật hoặc nỗi buồn và có thể bao gồm

nhu cầu có ý nghĩa, tự trị, thể hiện bản thân, hỗ trợ niềm tin, có lẽ trong các

dịp lễ cầu nguyện hay rửa tội, hay chỉ đơn giản là một người biết lắng nghe

nhạy cảm. Chăm sóc tinh thần bắt đầu bằng việc khuyến khích sự tiếp xúc của

con người trong mối quan hệ từ bi, và di chuyển theo bất cứ hướng nhu cầu

đòi hỏi (NHS Giáo dục cho Scotland, 2009) [26].

Ngoài ra thì trong bài báo “Chăm sóc tinh thần trong điều dưỡng sức

khỏe tinh thần” (The concept of spiritual care in mental health nursing) đăng

trên Tạp chí Điều dưỡng nâng cao (Journal of Advanced Nursing) số ra tháng

3/2001 thì chăm sóc tinh thần có liên quan đến việc ghi nhận hiểu rõ của một

người về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống mà có thể hoặc không thể thể

hiện thông qua tín ngưỡng và kinh nghiệm. Khái niệm về chăm sóc tinh thần

cũng được kết hợp với chất lượng chăm sóc cá nhân trong giá trị của sự biểu

hiện tình yêu và lòng từ bi đối với bệnh nhân [37].

18

Theo đó, chăm sóc tinh thần trong đề tài này được hiểu như là hỗ trợ, tạo

điều kiện, đáp ứng các nhu cầu về tinh thần như nhu cầu xác định ý nghĩa của

sự tồn tại, niềm tin hiện thực, cải thiện các mối quan hệ xã hội, nhu cầu đối

mặt và giải quyết các khó khăn trong cuộc sống, nâng cao chất lượng cuộc

sống…cho con người.

Thêm vào đó, vì đối tượng để chăm sóc tinh thần trong đề tài này là

những bệnh nhân bị TBMMN nên việc chăm sóc tinh thần cho những đối

tượng này trước tiên tập trung vào giải quyết những triệu chứng tâm lý xảy ra

sau khi bị TBMMN. Theo bài viết “Chăm sóc tâm lý ở bệnh nhân sau tai biến

mạch máu não” của bác sĩ Nguyễn Kỳ Xuân Nhị được in trong tạp chí Y học

phổ thông cho mọi người phát hành tháng 5/2014 đã viết rằng những thay đổi

cảm xúc của bệnh nhân diễn ra rất phức tạp, họ có thể nhận thấy hoặc không

nhận thấy. Bệnh nhân thường bị trầm cảm và lo âu ở các mức độ khác nhau

[11]. Như vậy có thể thấy, việc cần quan tâm đầu tiên trong việc chăm sóc

tinh thần bệnh nhân là là giảm hoặc ngưng các triệu chứng tâm lý như lo âu

trầm cảm.

Ngoài nguy cơ dễ dàng mất các triệu chứng tâm lý, thì các di chứng yếu

liệt khiến cho bệnh nhân suy giảm khả năng tự chăm sóc và đa số trường hợp

họ trở nên lười biếng hơn, mất đi động lực, niềm tin để luyện tập [11]. Vì vậy,

việc đáp ứng các nhu cầu tinh thần như tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục

tập luyện, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã

hội... có thể góp phần thúc đầy cho quá trình luyện tập hoàn thiện hơn. Kết

quả tích cực của việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là giúp cho họ hồi

phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái với cái chết như một quá trình tất yếu của

cuộc đời.

Do đó, việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân TBMMN được hiểu trong đề

tài này là hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu,

19

trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa

tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức

khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá trình tất yếu.

1.2.2 Một số vấn đề lý luận có liên quan đến chăm sóc bệnh nhân

TBMMN

1.2.2.1 Chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân

Hiện nay việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân đang được quan tâm, đặc

biệt là những bệnh nhân phải đối mặt với những căn bệnh đe dọa đến cuộc

sống như ung thư, HIV, suy tim, suy thận, tiểu đường, lao, bệnh phổi tắc

nghẽn mạn tính, suy thận, Alzheimer, Parkinson... Việc sử dụng các biện pháp

nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người mắc bệnh đe doạ cuộc sống và

gia đình họ bằng cách phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị đau và các triệu

chứng thực thể, các vấn đề tâm lý và tinh thần mà bệnh nhân và gia đình họ

phải chịu đựng được Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là chăm sóc giảm nhẹ

[51]. Có thể thấy, việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân có thể xem như là một

phần của chăm chăm sóc giảm nhẹ.

Ngày 19/5/2006, Quyết định 3483/BYT của Bộ Y tế về việc ban hành

"Hướng dẫn Quốc gia về Chăm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư và

AIDS". Đây là bước đầu đánh dấu cơ sở pháp lý cho việc chăm sóc giảm nhẹ

cho bệnh nhân mắc các bệnh đe dọa cuộc sống. Trong tài liệu này, phần chăm

sóc tâm lý cho BN&NCS đã nêu ra nội dung chăm sóc tâm lý một số vấn đề

như phẩm chất của người chăm sóc tâm lý; phương pháp tư vấn, xây dựng

mối quan hệ hợp tác điều trị giữa người chăm sóc tâm lý với bệnh nhân. Đây

có thể xem như là tài liệu chăm sóc giảm nhẹ chính quy đầu tiên tại Việt Nam

[15].

1.2.2.2 Các phương pháp điều trị cho bệnh nhân TBMMN

2.1.1.1. Vật lý trị liệu

20

Theo từ điển Oxford, vật lý trị liệu là điều trị bệnh, tổn thương và thương

tật bằng các phương tiện vật lý như xoa bóp, nhiệt độ và vận động hơn là

thuốc và phẫu thuật [36]. Còn từ điển Merriam-Webster, thuộc Công ty từ

điển và bách khoa thư Britannica, thì định nghĩa vật lý trị liệu là điều trị bệnh,

tổn thương hoặc tàn tật bằng các công cụ vật lý hoặc cơ học, như xoa bóp, vận

động, nước, ánh sáng, nhiệt và điện [52].

Đến năm 2007, trong tài liệu hướng dẫn đào tạo vật lý trị liệu mức độ

đầu vào, Hội liên hiệp Vật lý trị liệu Thế giới (WCPT) quan niệm, vật lý trị

liệu là chuyên ngành y tế cung cấp các dịch vụ cho bệnh nhân và cộng đồng

để phát triển, duy trì và khôi phục khả năng vận động và các hoạt động chức

năng tối đa trong suốt cuộc đời, bao gồm các can thiệp khi khả năng vận động

và hoạt động chức năng bị đe dọa do các nguyên nhân tuổi tác, tổn thương,

bệnh tật, rối loạn, cũng như do các điều kiện và yếu tố môi trường; trong đó

vận động chức năng được xem là vấn đề cốt lõi của sức khỏe [53].

Như vậy, trong đề tài này, có thể hiểu vật lý trị liệu là một chuyên ngành

y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động đến cơ thể bệnh nhân ,

giúp họ phục hồi chức năng.

2.1.1.2. Các phương thức vật lý trị liệu

Theo tài liệu Phục hồi chức năng do tác giả Nguyễn Xuân Nghiên chủ

biên thì các phương pháp ứng dụng năng lượng vật lý để điều trị thường được

áp dụng trong chuyên ngành vật lý trị liệu – phục hồi chức năng gồm:

- Nhiệt trị liệu: biện pháp sử dụng nhiệt độ để tác động đến cơ thể. Gồm 2 loại

chính là nhiệt nóng trị liệu (bao gồm nhiệt nóng trị liệu nông và nhiệt nóng trị

liệu sâu), nhiệt lạnh trị liệu.

- Thủy trị liệu: sử dụng nước điều trị bề mặt để giải quyết giảm chức năng của

cơ thể. Tác dụng của thủy trị liệu nhờ tính chất đặc thù của nước (sức đẩy; áp

lực, trọng lực riêng; tính linh hoạt; nhiệt độ; hóa chất).

21

- Ánh sáng trị liệu: bao gồm tia cực tím và laser năng lượng thấp.

- Điện trị liệu: sử dụng năng lượng điện qua bề mặt cơ thể dể kích thích thần

kinh, cơ hoặc cả hai bằng cách sử dụng điện cực trên bề mặt cơ thể. Các kích

thích điện qua da được chia ra theo các loại dòng điện như sau: dòng điện 1

chiều, dòng điện xoay chiều. Có các loại trị liệu từ điện như từ trường trị liệu,

ion trị liệu.

- Kéo giãn cột sống: sử dụng lực thích ứng để kéo cột sống cổ hoặc cột sống

thắt lưng.

- Kéo nắn trị liệu: tiến hành các bài tập vận động cơ học bị động với những kỹ

năng chính xác để điều trị các khớp bị tắt nghẽn, lập lại tầm hoạt động khớp

động học.

- Xoa bóp trị liệu: kỹ thuật kích thích hệ thần kinh chi phối dưới da nhịp nhàng,

hệ thống kép giãn, tì nén nhằm mục đích trị liệu.

[10]

Theo luận văn tiến sĩ y học: “Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng vận

động của phương pháp châm cải tiến kết hợp vận động trị liệu trên bệnh nhân

nhồi máu não trên lều” của bác sĩ Trịnh Thị Diệu Thường thì việc châm cứu

cho bệnh nhân cũng là một trong những phương pháp vật lý trị liệu [19].

1.2.3 Đặc điểm tâm lý của bệnh nhân TBMMN

1.2.3.1 Tai biến mạch máu não là gì?

Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới , TBMMN là những thiếu sót

chức năng thần kinh thường là khu trú xảy ra đột ngột, có thể hồi phục hoàn

toàn hoặc dẫn đến tử vong trong 24 giờ, loại trừ các nguyên nhân sang chấn.

Nguyên nhân của nó là các bệnh lý khác nhau của mạch máu não [24,133].

Theo Hiệp hội đột quỵ quốc gia Mỹ (National Stroke Association)

TBMMN (đột quỵ) là một cơn đột quỵ là một "cuộc tấn công não". Nó có thể

xảy ra với bất cứ ai ở bất cứ lúc nào. Nó xảy ra khi dòng máu đến vùng não bị

22

cắt đứt. Khi điều này xảy ra, các tế bào não bị thiếu oxy và bắt đầu chết. Khi

các tế bào não bị chết trong một cơn đột quỵ, khả năng kiểm soát của khu vực

đó của não như bộ nhớ, cơ bắp… bị mất [46].

Một người bị ảnh hưởng như thế nào phụ thuộc vào cơn đột quỵ của họ

xảy ra ở đâu trên não và mức độ tổn thương của các tế bào não. Ví dụ, một

người bị 1 cơn đột quỵ nhỏ thì chỉ có thể chỉ bị yếu tạm thời của một cánh tay

hoặc chân. Những người bị đột quỵ nặng thì có thể bị tê liệt vĩnh viễn ở một

bên cơ thể của họ hoặc mất khả năng nói. Một số người hồi phục hoàn toàn từ

cơn đột quỵ, nhưng hơn 2/3 số người sống sót sẽ có một số loại khuyết tật

[40].

1.2.3.2 Đặc điểm nhận thức

Theo tài liệu lưu hành nội bộ Tâm lý Y học năm 2009 có 4 loại nhận

thức thức xuất hiện ở bệnh nhân:

- Nhận thức đúng đắn, bình thường:

Trong loại nhận thức này, các quá trình hưng phấn và ức chế xảy ra bằng

nhau, bệnh nhân có phản ứng nhanh, tiếp thu ý kiến của bác sĩ mau lẹ, làm

theo chỉ dẫn của bác sĩ, điều dưỡng nhưng nông cạn, vội vã, dễ bằng lòng,

nhưng khi gặp trở ngại không phù hợp với ý muốn thì dễ thay đổi, hoang

mang, dao động. Nhưng khi được giải thích thì nhận thức nhanh chóng. Bệnh

nhân này rất dễ tin và rất tín nhiệm thầy thuốc. Do nhận thức đúng đắn, bệnh

nhân dễ nhận biết được bệnh của mình, bệnh sẽ tiến triển ra sao, kết thúc thế

nào, bản thân phải phấn đấu ra sao để góp phần cùng thầy thuốc chữa khỏi

bệnh cho mình. Đặc biệt ở bệnh nhân này có ảnh hưởng đến các bệnh nhân

khác, thầy thuốc vận dụng khả năng để tác động tâm lý đối cới bệnh nhân

khác.

23

Trong loại này còn có một số khá lớn kiểu thần kinh cân bằng nhưng

chậm. Họ suy nghĩ cân nhắc, có chiều sâu, phải qua thực tế mới có nhận thức

đúng đắn đối với bệnh tật.

- Nhận thức quá mức

Loại bệnh nhân này thường có kiểu thần kinh có quá trình hưng phấn

nhiều hơn ức chế, dễ bị kích thích, quan trọng hóa tình trạng sức khỏe bệnh

tật của mình, dễ nổi nóng, dễ bị kích động, dễ phản ứng trên lời nói, nét mặt,

đòi hỏi phục vụ cao, đòi chuẩn đoán nhanh.

Trong quá trình điều trị cũng như vậy, đòi hỏi bệnh phải được thuyên

giảm ngay, thường chủ quan, chỉ tin ở mình nhiều hơn, thường biểu hiện quá

mức, quá đáng trong cư xử nhận xét. Nhạu cảm với cảm giác đau, cô đơn,

buồn phiền, dễ mất hy vọng, dễ thay đổi ý kiến, chính kiến không kiên định,

dễ hoài nghi, hoang mang, dao động, tự tô đậm các triệu chứng, tô đậm tầm

nghiêm trọng của bệnh, sợ chết, sợ mất khả năng lao động để nuôi sống gia

đình, sợ dở giang công trình và tham vọng. Do đó, rất dễ hoang mang nhưng

rất tích cực chữa bệnh, đòi hỏi bác sĩ giỏi, mong muốn hết bệnh, mong muốn

nhanh chóng ra khỏi bệnh viện, thức hiện đầy đủ, tích cực các chỉ dẫn của bác

sĩ.

- Nhận thức yếu, nhược nhận thức

Loại bệnh nhân này, thường coi thường bệnh tật, đánh giá thấp tính nguy

kịch trầm trọng của bệnh lý, xem nhẹ các triệu chứng, tính tích cực giảm, ít

quan tâm đến các khám nghiệm. Họ không chú ý nghe lời khuyên của các bác

sĩ, lừa dối đối với sức khỏe của chính mình, họ ưu tư, mặc cảm, khép kính, tự

giải quyết cho mình.

- Nhận thức không ổn định, loạn nhận thức

Loại này có thể do coi thường bệnh tật, hoặc liều lĩnh hoặc sợ hãi tính

trầm trọng của bệnh tật có thái độ phủ định bệnh tật, thường không thừa nhận

24

bệnh tật, đánh giá thấp bệnh, chủ quan, mặc kệ. Nhưng có lúc lại bi quan, sợ

chết, sợ biến chứng. Từ chỗ không tin mình bị bệnh đến không tin thầy thuốc,

nhận xét chuẩn đoán, điều trị của họ.

[24]

Bên cạnh đó, do hậu quả của cơn đột quỵ gây ra những tổn thương trên

não, nên nhận thức của bệnh nhân TBMM biến đổi như thế nào phụ thuộc vào

bên não mà bệnh nhân bị tổn thương. Trong cuốn Tâm lý học sức khỏe

(Health Spychology) của tác giả Shelly E.Taylor có viết rằng:

Bệnh nhân với não trái bị tổn thương có thể gặp vấn đề trong rối loạn

giao tiếp, ví dụ như không nói được, liên quan đến việc không hiểu người

khác và bày tỏ ý kiến của mình.

Một vấn đề khác của rối loạn chức năng não trái bao gồm xáo trộn nhận

thức, giảm trí thông minh, khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ mới.

Bệnh nhân tổn thương não phải có thể không thể xử lý hoặc sử dụng một

số loại thông tin phản hồi trực quan. Một kết quả nữa là bệnh nhân bị liệt một

bên của cơ mặt. Bệnh nhân có thể chỉ ăn thức ăn của bên phải của đĩa và từ

chối thức ăn bên phải. Bệnh nhân có thể có vấn đề ở việc đọc giờ, quay số

điện thoại… bệnh nhân thường có khó khăn trong việc tri giác khoảng cách

nên thường đâm vào vật cản hoặc tường.

Do những tổn thương ở não phải nên những bệnh nhân này không thể

hiểu những gì họ đọc hoặc chỉ có thể tri giác được phần cuối cùng của mỗi từ

mà thôi. Nếu một người đứng phía bên não họ bị tổn thương (não phải) mà

nói chuyện thì họ chỉ nghe được âm thanh chứ không hiểu được người đó nói

gì cũng như không thấy được người nói (W.A.Gordon & Diller, 1983) [40].

Những bệnh nhân bị TBMMN thường là những người cao tuổi (có độ

tuổi trung bình từ 45 tuổi trở lên). Kèm theo những tổn thương do TBMMN

gây ra trên não, bản thân bệnh nhân trong độ tuổi này đã bắt đầu có dấu hiệu

25

suy giảm về mặt nhận thức như sự giảm tốc trong quá trình nhận thức.

Nguyên nhân làm giảm tốc quá trình nhận thức có 2 nguyên nhân: thứ nhất là

do bệnh gây ra những tổn thương trên não làm giảm lượng máu vào não. Thứ

hai là do ứng xử. Người cao tuổi thường gặp khó khăn trong việc thay đổi

chiến lược để đáp ứng yêu cầu mới của vấn đề. Đồng thời, người cao tuổi còn

ra quyết định chậm là do thói quen cẩn thận, cần thời gian cân nhắc kỹ, không

đưa ra quyết định sai lầm. Trí nhớ trong giai đoạn này cũng bước vào thời kỳ

suy giảm. Họ gặp khó khăn trong cả 2 giai đoạn mã hóa lẫn hồi tưởng, thuộc

trí nhớ thứ cấp [21].

1.2.3.3 Đời sống tình cảm

Bệnh nhân bị tổn thương não trái thường phản ứng lại những rối loạn của

họ như lo âu và trầm cảm. Bệnh nhân tổn thương não phải thường thờ ơ với

tình trạng của họ. Những khác biệt trong cảm xúc bởi là vì tổn thương những

nơ-ron thần kinh khác nhau. Bệnh nhân với tổn thương não phải thường xuất

hiện chứng mất hiểu biết (alexithymia), chứng bệnh mà có liên quan đến việc

khó khăn trong việc nhận dạng và miêu tả cảm xúc (Spaletta et al., 2001) [40].

Sự đột ngột mất đi tự chủ trong sinh hoạt hằng ngày có thể trở thành nỗi

ám ảnh đau buồn đối với họ trong thời gian dài. Nhiều trường hợp đưa đến

tình trạng gánh nặng tài chính, khiến bệnh nhân có cảm giác tội lỗi và không

muốn tiếp tục tình trạng này nữa, đôi khi họ muốn được giải thoát. Họ mất đi

những quan tâm trong cuộc sống, chán ăn, chán tập luyện. Phát hiện và điều

trị trầm cảm cho bệnh nhân TBMMN rất quan trọng. Vì trầm cảm có thể làm

chậm hồi phục các di chứng và gia tăng các nguy cơ bệnh lý khác, dễ đưa đến

các cơn đột quỵ tái phát, làm tình trạng bệnh trở nên phức tạp hơn.

Ngoài ra, bệnh nhân TBMMN còn có thể xảy ra các rối loạn cảm xúc.

Người bệnh có thể cười hay khóc mà không có một lý do rõ ràng. Đây thực sự

là khó khăn cho người thân trong gia đình hay người chăm sóc để hiểu được,

26

cần một thời gian dài để làm quen, kiên nhẫn tìm hiểu ta mới hiểu được cách

làm thế nào để an ủi họ cho phù hợp [11].

1.2.3.4 Các vấn đề có liên quan đến tinh thần bệnh nhân TBMMN

Tổ chức Y tế Thế giới đã từng phát biểu rằng: “Không có sức khỏe nếu

không có sức khỏe tinh thần” đã giúp chúng ta khái quát được phần nào tầm

quan trọng của sức khỏe tinh thần cũng như việc chăm sóc tinh thần đối với

sức khỏe.

Theo một nghiên cứu của Đại học y khoa Brown thì hầu hết người Mỹ

tin rằng các bác sĩ nên xem xét nhu cầu tâm linh của họ như là một phần của

chăm sóc y tế cho họ. 73% tin rằng họ nên chia sẻ những niềm tin tôn giáo

của họ với bác sĩ của mình. 66% muốn bác sĩ hỏi về niềm tin tôn giáo hay tâm

linh nếu bị bệnh nặng. Từ 37 đến 40% tin rằng các bác sĩ nên hỏi về niềm tin

tôn giáo. Nhưng chỉ có hơn 10 đến 20 % báo cáo rằng bác sĩ của họ thảo luận

về tôn giáo hay tâm linh với họ [25].

Theo bài viết của “Trầm cảm và các dấu hiệu khác liên quan đến sức

khỏe tâm thần tăng nguy cơ tử vong sau đột quỵ thiếu máu cục bộ” của các

tác giả Linda S. Williams, Sushmita Shoma Ghose, Ralph W. Swindle, được

in trên tạp chí Tâm thần học Mỹ (The American Journal of Psychiatry) tháng

6, 2004 đã đưa ra trong số 51.119 bệnh nhân nhập viện sau một cơn đột quỵ

thiếu máu cục bộ và sống sót vượt quá 30 ngày sau đó, trong đó có 2.405

(4,7%) nhận được chẩn đoán là trầm cảm (ICD-9) và 2257 (4,4%) được chuẩn

đoán là có rối loạn thần hoặc lạm dụng khác trong vòng 3 năm sau đó. So với

những người không có chuẩn đoán bệnh thì những người có chuẩn đoán trầm

cảm hoặc các rối loạn tâm thần khác trẻ hơn và khả năng còn sống thấp hơn

vào cuối thời gian theo dõi [35].

Một số nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân là một điều hết sức cần thiết. Trong quá trình phục hồi chức năng cho

27

bệnh nhân, nếu bệnh nhân có một sức khỏe tinh thần khỏe mạnh họ sẽ có đầy

đủ lý do, động lực để vượt qua những khó khăn trong việc hoàn thành các bài

tập vật lý trị liệu, có khả năng để đối phó với những cảm xúc tiêu cực nảy

sinh trong quá trình điều trị. Từ đó có thể đẩy nhanh quá trình hồi phục cho

bệnh nhân, giúp bệnh nhân tận hưởng cuộc sống.

1.2.4 Một số phương pháp chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Theo Shelly E.Taylor viết trong cuốn Tâm lý học sức khỏe tái bản lần

thứ 6, có 4 cách trong điều trị phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN:

Tâm lý trị liệu bao gồm các biện pháp chữa trị cho trầm cảm.

Huấn luyện hồi phục nhận thức để tái tạo trí nhớ.

Huấn luyện trong phát triển kỹ năng đặc biệt.

Sử dụng các cấu trúc, kích thích môi trường để thách thức khả năng của

bệnh nhân tai biến [40].

Do tính đặc trưng của bệnh nhân TBMMN, việc chăm sóc tinh thần bệnh

nhân có thể áp dụng các phương pháp sau:

Tổ chức các hoạt động giải trí, vui chơi tập thể như chơi bài, chơi lô tô,

văn nghệ… Những hoạt động vui chơi này sẽ đem lại những hiệu quả bất ngờ.

Trầm cảm, lo âu và rối loạn khác có thể để lại những cá nhân có tác biệt trong

xã hội. Giải trí trị liệu có thể cung cấp cho bệnh nhân với một cơ hội để cải

thiện chất lượng cuộc sống thông qua một cảm giác gia tăng kiểm soát, tương

tác xã hội, hỗ trợ xã hội và những khả năng hoàn thành nhiệm vụ được định

hướng. Nó cũng có thể giúp đỡ những người dễ bị tổn thương phát triển hoặc

tái thiết lập các kỹ năng xã hội trong một môi trường có kiểm soát.

Tạo càng nhiều tiếng cười càng tốt. Quan điểm cho rằng sự hài hước và

tiếng cười là tốt cho sức khỏe không phải là mới. Calman trong một nghiên

cứu về cách kể chuyện hài hước và thảo luận trên quan điểm y học về cách

hài hước có giá trị trong việc tăng cảm giác hạnh phúc, cải thiện các chức

28

năng sinh lý và tâm lý, và thậm chí thay đổi ngưỡng đau. Tiếng cười có tiềm

năng để giảm bớt căng thẳng ở những bệnh nhân và các chuyên gia y tế. Nó

có thể đem lại cơ hội để quên đi lo lắng và đau đớn trong một thời gian ngắn.

Khi các bác sĩ chia sẻ một cách hài hước với các bệnh nhân, họ tạo ra những

đường thông tin liên lạc mà làm cho bệnh nhân an tâm và có thể khuyến khích

họ để thảo luận về các vấn đề khó khăn. Tiếng cười có thể đặt cả hai bên thoải

mái trong một cách mà nhiều kiểu liên lạc chính thức thì không thể làm được.

Tổ chức các hoạt động như sáng tác, kể chuyện và đọc thơ. Mối quan

hệ giữa sáng tác và hạnh phúc tinh thần cho đến này được xem như là một

một phương thức đầy hứa hẹn cho sự hạnh phúc của bệnh nhân nói chung.

Trong sức khỏe tinh thần, việc sử dụng văn bản như một phương tiện để thể

hiện những suy nghĩ và cảm xúc có thể có giá trị chữa bệnh. Một nghiên cứu

của Deurzen Smith vào năm 1997 cho thấy một sự giảm đáng kể về mức độ

trầm cảm ở những bệnh nhân được hướng dẫn để chọn đọc văn học, tiểu

thuyết hay thơ ca, so với nhóm không được đọc. Thông qua thơ, truyền thuyết,

văn học dân gian, huyền thoại, lịch sử, tiểu thuyết hoặc buổi biểu diễn, câu

chuyện là một thành phần quan trọng của tất cả kinh nghiệm của con người.

Calman mô tả việc sử dụng các câu chuyện như là một phương tiện cho các

bác sĩ để thiết lập mối quan hệ tin cậy với các bệnh nhân và để học hỏi lẫn

nhau những bài học có giá trị. Cụ thể với lý do hài hước như một khía cạnh

quan trọng của cách kể chuyện, Calman khẳng định rằng câu chuyện hỗ trợ

trong việc phát triển kiến thức về cảm xúc, đặc biệt là liên quan đến việc chia

sẻ kinh nghiệm giữa các bác sĩ trong đào tạo.

Cho bệnh nhân nghe nhạc. Một nghiên cứu của trường đại học Helsinki

cho thấy rằng những bệnh nhân đột quỵ được nghe nhạc trong vòng 1 tới 2

giờ mỗi ngày hồi phục nhanh hơn (60%) so với bệnh nhân không nghe (29%).

29

Tổ chức các buổi vẽ tranh cho bệnh nhân. Hội họa đã được chứng

minh là có tác động tích cực trên những bệnh nhân tham gia. Nghiên cứu tại

Bệnh viện Chelsea và Westminster đã chỉ ra rằng những bệnh nhân hóa trị

liệu, người đã có thể xem luân phiên triển lãm nghệ thuật trong thời gian phục

hồi được báo cáo giảm giá của sự lo âu và trầm cảm. Tại Bệnh viện Conquest

ở Đông Sussex buổi vẽ tranh hàng tuần cho bệnh nhân đột quỵ, tập trung vào

việc cầm vật liệu và các công cụ, sử dụng cả hai tay, kỹ năng vận động tinh

luyện và tập luyện phối hợp tay và mắt tốt, giúp giảm bớt những ảnh hưởng

về tinh thần và thể chất của đột quỵ. Hội họa cũng đã được chứng minh là

giúp bệnh nhân giảm đau. Trong một nghiên cứu của Mỹ, người được lấy

máu trong phòng có những bức tranh nghệ thuật có cảm giác về nỗi và căng

thẳng giảm so với người được lấy máu trong một căn phòng không có gì.

Cho bệnh nhân xem các bộ phim truyền.Phim truyền hình hầu như tích

hợp hầu hết tất cả các nghệ thuật: bao gồm ca hát, nhảy múa, hội họa, điêu

khắc, kể chuyện, âm nhạc, múa rối, thơ ca và nghệ thuật diễn xuất. Một đánh

giá về vai trò của kịch cho những người thiếu khả năng giao tiếp nhận thức và

kỹ năng xã hội cho thấy hiệu quả tích cực trong việc giảm những khuyết tật

này. Những bộ phim đáp ứng các nhu cầu tâm lý sâu sắc của những người bị

sa sút trí tuệ để thể hiện và hiểu thế giới của riêng mình.

Cho bệnh nhân ca hát. Một nghiên cứu của Clair và các cộng sự thấy

rằng ca hát có thể là một phương tiện hiệu quả của việc tập trung khơi gợi

phản ứng ở những bệnh nhân ở giai đoạn cuối của bệnh mất trí nhớ, ngay cả

trong không đáp ứng với các loại kích thích khác trong cuộc sống hàng ngày

của họ. Nghiên cứu này nhấn mạnh tiềm năng ca hát để được sử dụng bởi tất

cả các loại của người chăm sóc: “Tiếng hát thành công khơi gợi các phản ứng

ngay khi hát mà không có nhạc đệm, và do đó có thể ảnh hưởng đế tất cả

những người muốn hát, bất kể việc hát hay hay dở”. Ca hát làm tăng giao tiếp

30

bằng lời nói, kích thích sự hợp tác của bệnh nhân trong công việc thường

ngày, cải thiện tâm trạng của họ và làm giảm kích động.

[26]

31

TIỂU KẾT CHƯƠNG I

Bệnh TBMMN là một căn bệnh tác gây ra tổn thương trên não người –

cơ quan tổ chức cao nhất, trung tâm điều hòa các hoạt động sống của cơ thể.

Do vậy, khi bị tổn thương trên não thì tâm lý con người nhất định sẽ bị ảnh

hưởng. Bệnh TBMMN làm thay đổi nhận thức, tình cảm… tùy thuộc vào bên

não bị tổn thương và mức độ của tổn thương. Việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân sau TBMMN đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Trong công tác chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN chủ yếu đi

theo ba hướng chính là:

- Quan tâm, nâng cao giá trị của đời sống tâm linh, niềm tin tôn giáo của bệnh

nhân.

- Dựa vào các quá trình của sự trao đổi với bệnh nhân: trao đổi, chia sẻ (being

present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes); tương tác (cocreating). Những

cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là

vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan

trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp

cho người chăm sóc có thể chú ý tới họ một cách toàn diện hơn.

- Quan tâm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Các biện pháp chăm sóc tinh thần bệnh nhân TBMMN có thể áp dụng

các phương pháp sau:

- Tổ chức các hoạt động giải trí, vui chơi tập thể.

- Tạo cho bệnh nhân càng nhiều tiếng cười càng tốt.

- Tổ chức các hoạt động như sáng tác, kể chuyện và đọc thơ.

- Cho bệnh nhân nghe nhạc.

- Tổ chức các buổi vẽ tranh cho bệnh nhân.

- Cho bệnh nhân xem các bộ phim truyền hình.

- Tổ chức các buổi ca hát.

32

Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CHĂM SÓC

TINH THẦN CHO BỆNH NHÂN SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở

MỘT SỐ CƠ SỞ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Thể thức nghiên cứu

2.1.1 Mẫu nghiên cứu

Nghiên cứu thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN dự

kiến được tiến hành ở 2 bệnh viện: Viện Y Dược học Dân Tộc TPHCM, địa

chỉ: 273 Nguyễn Văn Trỗi, phường 10, quận Phú Nhuận và Bệnh viện Đại

học Y Dược TPHCM, địa chỉ: 215 Hồng Bàng, phường 11, quận 5.

Tại Viện Y dược học Dân tộc mẫu nghiên cứu gồm 35 người, trong đó

có 9bệnh nhân, 13 người chăm sóc và 13 nhân viên y tế.

Tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, đề tài đã được sự đồng ý của

Ban Giám đốc bệnh viện, nhưng giai đoạn thu số liệu cuối cùng không thực

hiện được do bị từ chối bởi Khoa Vật lý trị liệu.

Vì vậy mẫu nghiên cứu của đề tài thực tế chỉ có 35 người,sự phân bố

thành phần của mẫu nghiên cứu được trình bày trong bảng dưới đây:

Bảng 2.1.Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Nhóm khảo sát Tuổi tác Giới tính Tôn giáo

Nhân Bệnh Người Từ 30 Trên Nam Nữ Có Không

viên y nhân chăm tới 50 50

tuổi tuổi sóc tế

13 9 19 16 12 23 17 18 13

(37%) (26%) (37%) (54%) (46%) (34%) (66%) (49%) (51%)

33

2.1.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài tiến hành thực hiện 2 phương pháp nghiên cứu là phỏng vấn và

điều tra bảng hỏi.

2.1.2.1 Phương pháp phỏng vấn:

Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài, bao gồm phỏng vấn có

cấu trúc và phỏng vấn bán cấu trúc.

- Phỏng vấn có cấu trúc: trực tiếp phỏng vấn từng BN&NCStheo bảng câu hỏi

đã soạn sẵn và ghi lại kết quả để khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho

người chăm sóc TBMMN. Trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn trực

tiếp giải thích với BN&NCS nếu có thắc mắc.

- Phỏng vấn bán cấu trúc: tiến hành phỏng vấn chuyên sâu với 8 đối tượng: 2

bác sĩ, 2 nhân viên y tế, 2 bệnh nhân, 2 người chăm sóc, sử dụng các câu hỏi

đã soạn sẵn để khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN.

2.1.2.2 Phương pháp điều tra bảng hỏi

Đề tài tiến hành điều tra bằng bảng hỏi trên 13 người là bác sĩ và nhân

viên y tế (sau đây gọi chung là nhóm y tế). Sử dụng với bảng câu hỏi đã soạn

sẵn nhằm khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.

Bảng hỏi sau khi được giới thiệu sơ lược thì được phát đến từng người. Trong

quá trình thực hiện, người khảo sát trực tiếp giải thích với mọi người nếu có

thắc mắc.

2.1.3 Công cụ nghiên cứu

2.1.3.1 Phương pháp phỏng vấn:

a) Phỏng vấn có cấu trúc (xem ở phụ lục 1a)

Bảng hỏi bao gồm 2 phần: phần 1 đưa ra các câu hỏi nhằm nắm bắt một số

thông tin cần thiết của người được khảo sát như: giới tính, tuổi, thu nhập, tôn

34

giáo, người chăm sóc là ai? Số lần bệnh nhân bị TBMMN, đối tượng khảo sát

là bệnh nhân hay người chăm sóc.

Phần 2 bao gồm 8 câu hỏi:

Câu 1: 6 nhận định đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN (có thể chọn được nhiều đáp án).

Câu 2: 6 nhận định đúng hoặc sai về vật lý trị liệu (có thể chọn được nhiều

đáp án).

Câu 3: 21 biểu hiện đúng hay sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN.

Câu 4: thái độ bệnh nhân trong việc chăm sóc toàn diện của nhóm y tế dành

cho họ.

Câu 5: mức độ hài lòng của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh thần nói

chung.

Câu 6: mức độ hài lòng của bệnh nhân trên 18 biểu hiện chăm sóc tinh thần

cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0.89).

Câu 7: sự cần thiết theo bệnh nhân về 18 biểu hiện chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha =0,84).

Câu 8: mức độ thường xuyên của 26 biểu hiện (bao gồm 18 biểu hiện chăm

sóc tinh thần và 8 biểu hiện vật lý trị liệu) được thực hiện tại cơ sở y tế. (hệ số

Cronbach's Alpha = 0,87).

b) Phỏng vấn bán cấu trúc:

Nội dung phiếu phỏng vấn gồm có 3 câu:

- Các cô/bác/anh/chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong

việc chăm sóc tinh thần không? Tại sao?

- Các cô/bác/anh/chị có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

35

- Các cô/bác/anh/chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

2.1.3.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (xem ở phụ lục 1b)

Bảng hỏi cũng bao gồm 2 phần: phần 1 nhằm cung cấp các thông tin sơ

lược của nhóm y tế như: giới tính, tuổi tác, tôn giáo.

Phần 2 bao gồm 9 câu hỏi:

Câu 1: 6 nhận định đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN (có thể chọn được nhiều đáp án).

Câu 2: 6 nhận định đúng hoặc sai về vật lý trị liệu.

Câu 3: 21 biểu hiện đúng hoặc sai về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN.

Câu 4: thái độ của nhóm y ttế trong việc chăm sóc toàn diện cho bệnh

nhân TBMMN của bệnh viện dành cho họ.

Câu 5: thái độ của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN.

Câu 6: thái độ của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân TBMMN.

Câu 7: mức độ hài lòng của nhóm y tế trên 18 biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,93).

Câu 8: mức độ cần thiết theonhóm y tế về 18 biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,91).

Câu 9: khảo sát mức độ thường xuyên của 26 biểu hiện (bao gồm 18 biểu

hiện chăm sóc tinh thần và 8 biểu hiện vật lý trị liệu) được thực hiện tại cơ sở

y tế. (hệ số Cronbach's Alpha = 0,76).

36

2.1.4 Tiến trình nghiên cứu

2.1.4.1 Xây dựng bộ công cụ

Bước đầu tiên để có được bảng hỏi,tiến hành tìm hiểu về những vấn đề

có liên quan như bệnh TBMMN, quá trình điều trị cho bệnh TBMMN, các

phương pháp phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN, những điều cần

lưu ý trong việc chăm sóc cho bệnh nhân TBMMN… Trên có cơ sở đưa ra

một số câu hỏi thăm dò cho 15 bệnh nhân TBMMN và người chăm sóc, 13

bác sĩ và nhân viên y tế.

Sau đó, dựa vào kết quả của phiếu thăm dò sơ bộ trước đó và kết quả

nghiên cứu về mặt lý luận, tiến hành lọc kết quả, đưa ra các yếu tố cần thiết

để khảo sát, những biểu hiện trong việc chăm sóc tinh thần, vật lý trị liệu cho

bệnh nhân TBMMN vào trong bảng hỏi để hình thành bảng hỏi chính thức.

Sau khi có bảng hỏi chính thức, tiếp tục đi thử bảng hỏi với những đối

tượng đã thăm dò trên và tiến hành chỉnh sửa một số nội dung như: đưa vào

thêm một số biểu hiện vật lý trị liệu trong câu 3 của 2 bảng hỏi; thêm vào câu

hỏi 6 (mức độ hài lòng của nhóm y tế về ý kiến bệnh nhân được chăm sóc

tinh thần một cách toàn diện) vào trong bảng hỏi dành cho nhóm y tế để được

bảng hỏi chính thức.

Để có được phiếu phỏng vấn sâu với các đối tượng, bước đầu đưa ra các

vấn đề trọng tâm trong đề tài cần được làm rõ. Sau khi có kết quả sơ bộ của

bảng hỏi, so sánh những vấn đề trọng tâm với kết quả của bảng hỏi, sau đó

đưa ra một số vấn đề cần làm rõ hơn trong kết quả sơ bộ. Đưa ra các câu hỏi

để làm rõ vấn đề đó để tạo thành phiếu phỏng vấn sâu.

2.1.4.2 Tiến hành thu số liệu:

Việc thu thập số liệu tổ chức từ ngày 15/3 đến 26/3/2016 tại khoa Nội

tim mạch – thần kinh, Viện Y Dược học Dân Tộc TPHCM.

37

Đối với nhóm phỏng vấn (BN&NCS): việc thu thập dữ liệu tiến hành

trực tiếp trên từng cá nhân, người phỏng vấn đọc từng câu hỏi theo đúng trình

tự của phiểu hỏi đã soạn sẵn, sau đó ghi lại kết quả, giải thích cho đối tượng

nếu có thắc mắc. Phiếu được thu ngay sau khi hoàn thành. Thời gian để phỏng

vấn từng người khoảng 30-40 phút.

Đối với nhóm điều tra bằng bảng hỏi (nhóm y tế): việc thu thập dữ liệu

được tiến hành theo nhóm, giới thiệu bảng hỏi và hướng dẫn trả lời theo nhóm.

Phiếu được thusau khi họ hoàn thành xong. Thời gian để hoàn thành bảng hỏi

khoảng 15 – 20 phút.

Cách đánh giá điểm thang đo thái độ:

Bảng 2.2Cách đánh giá điểm thang đo 5 mức độ

Điểm trung bình Mức độ

1 – 1,79 Hoàn toàn không đồng ý/hài lòng/cần thiết

1,8 – 2,59 Không đồng ý/hài lòng/cần thiết

2,6 – 3,39 Phân vân/Bình thường

3,4 – 4,19 Đồng ý/hài lòng/cần thiết

4,2 – 5 Hoàn toàn đồng ý/hài lòng/cần thiết

Bảng 2.3 Cách đánh giá điểm thang đo 3 mức độ

Điểm trung bình 1 – 1,66 1,67 – 2,33 2,34 – 3 Mức độ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên

2.2 Kết quả nghiên cứu

Trong phần này, đề tài sẽ đưa ra một số thực trạng về chăm sóc tinh thần

cho bệnh nhân TBMMN như: thực trạng về nhận thức của các nhóm khảo sát,

thực trạng đánh giá của các nhóm khảo sát về những biểu hiện chăm sóc tinh

38

thần, và thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN sau

đó đưa ra sự so sánh để tìm kiếm sự khác biệt giữa các yếu tố.

2.2.1 Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát

Thực trạng nhận thức của các nhóm khảo sát về chăm sóc tinh thầnchỉ

tập trung ở các biểu hiện liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân như:

thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân, tôn trọng bệnh nhân, giữ bí mật cho

bệnh nhân… và mục đích chính của cả nhóm y tế và nhóm BN&NCS đều

mong muốn bệnh nhân hợp tác, nhanh chóng hồi phục sức khỏe.

Ngay cả đối với những nhận định về vật lý trị liệu thì mục đích mọi

người mong muốn nhiều nhất cũng là giúp bệnh nhân mau khỏi bệnh, hồi

phục chức năng.

2.2.1.1 Những nhận định về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Bảng 2.4 Nhận định của nhóm y tế về việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN (N=13)

Các nhận định

Tần số

Tỉ lệ (%) 34,4

a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị

11

bệnh, đối mặt với tình trạng bệnh

12

37,5

b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá trình tất yếu.

5

15,6

c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.

1

3,1

d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh.

e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được

1

3,1

niềm tin, phối hợp với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.

f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều trị

2

6,2

bệnh cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.

39

Như vậy, theo kết quả thu được thì nhận định chiếm đa số (37,5%) về

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN của nhóm y tế trùng với nhận

định của đề tài là: “Chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là hỗ trợ bệnh nhân,

làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm

lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân;

nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt

với cái chết như là một quá trình tất yếu”. Mặt khác 2 nhận định được cho

không phải là chăm sóc tinh thần với tỉ lệ chọn thấp nhất (3,7%) là: “Giúp

bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải

thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh”, “Giúp bệnh

nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp

với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh”. Ta có thể thấy, mặc dù tỉ lệ chọn nhận

định trùng với nhận định của đề tài là cao nhất, nhưng việc phân vân giữa 2

nhận định thứ nhất và nhận định thứ hai và cho rằng giúp bệnh nhân nhận ra

các giá trị và tầm quan trọng của các mối quan hệkhông phải là chăm sóc

tinh thần, ta có thể thấy việc nhận thức chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân vẫn

còn phiến diện, chỉ chú trọng một số vấn đề như cảm xúc của bệnh nhân và

đặc biệt là sự hợp tác trong quá trình điều trị bệnh của bệnh nhân.

Mặt khác, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân theo nhóm y tế là

không có sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm linh cho ta thấy việc áp dụng các

yếu tố tâm linh vào chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân đang không được quan

tâm một cách đúng mức, thậm chí bỏ qua yếu tố quan trọng này. Nguyên

nhân để xảy ra việc này có thể một phần là do số lượng của mẫu nghiên cứu

chưa đủ và việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào chăm sóc tinh thần chưa nằm

trong chính sách phát triển của Viện.

40

Bảng 2.5. Nhận định của BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN (N=22)

Các nhận định Tần Tỉ lệ

số (%)

g. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều 11 17,2

trị bệnh, đối mặt với tình trạng bệnh

h. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: 12 18,8

lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục

luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các

mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái

chết như là một quá trình tất yếu.

i. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để 16 25,0

tiếp tục tiến hành điều trị bệnh, không còn buồn phiền, lo âu;

nhanh hồi phục sức khỏe.

j. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội 11 17,2

xung quanh mình, cải thiện và nâng cao mối quan hệ tốt với

mọi người xung quanh.

k. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại 10,9 7

được niềm tin, phối hợp với y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.

l. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều 10,9 7

trị bệnh cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân hòa nhập với cuộc

sống.

Dựa vào kết quả của bảng 2.5, ta có nhận định: “Giúp bệnh nhân tìm lại

niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị bệnh, không

còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.” được chọn với tỉ lệ cao nhất

(25%) cho thấy rằng, mục đích lớn nhất của bệnh nhân chính là nhanh hồi

phục lại sức khỏe. Việc lựa chọn các nhận định còn có sự phân tán.

41

Tương tự với nhóm y tế, BN&NCS cũng chọn nhận định chăm sóc tinh

thần có sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm linh là thấp nhất (10,9%). Qua đây ta

có thể thấy, việc hỗ trợ tâm linh vào trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

không phải là vấn đềmới, nhưng đối với cả nhóm y tế hay nhóm BN&NCS

đều chưa thực sự đánh giá đúng vai trò của việc này. Hiện nay, các vấn đề có

liên quan đến tâm linh cả tích cực lẫn tiêu cực thường được quy chụp là mê

tín dị đoan, bị mọi người phản đối nên việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào

môi trường khoa học như bệnh viện thường bị mọi người bác bỏ, do đó, việc

chăm sóc tinh thần dựa trên các yếu tố tâm linh thường không được quan tâm

một cách đúng mức.

2.2.1.2 Các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Bảng 2.6. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện trao đổi, giao tiếp với

bệnh nhân TBMMN (N=13)

Biểu hiện

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.

Tần số chọn 11 2 12 1 9 4 13 Tỉ lệ (%) 84,6 15,4 92,3 7,7 69,2 30,8 100 Đúng Sai Đúng Sai Đúng Sai Đúng

Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. 13 13 12 1 Đúng Đúng Đúng Sai

100 100 92,3 7,7 Từ kết quả của bảng 2.6 ta thấy rằng việc cho rằng các biểu hiện trên

đúng là chăm sóc tinh thần chiếm tỉ lệ cao (69,2 – 100%) cho thấy, tỉ lệ nhận

thức đúng rằng việc trao đổi giao tiếp với bệnh nhân chính là chăm sóc tinh

42

thần cho bệnh nhân khá cao. Đáng chú ý là 3 biểu hiện: “Cư xử phù hợp với

từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho

bệnh nhân.” với tỷ lệ 100% đồng ý là chăm sóc tinh thần.Tuy nhiên, biểu

hiện: “Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện.” có tỉ lệ chọn sai là 30,8% cho

thấy việc nhận thức rằng quan tâm đến danh tính của bệnh nhân không được

đánh giá cao. Qua trao đổi với một số bệnh nhân thì việc nhóm y tế gọi tên

bệnh nhân chỉ xảy ra một các thỉnh thoảng trong một số trường hợp đặc biệt,

còn đa số thì nhóm y tế chỉ gọi bệnh nhân làcô, chú, bác…còn theo ý kiến của

một bác sĩ khác thì việc gọi bệnh nhân bằng tên không thân thiết bằng việc

gọi bệnh nhân bằng cô, chú, bác…

Bảng 2.7. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện nâng cao chất lượng

cuộc sống cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện

Tần số Tỉ lệ

(%) 84,6 15,4 100

Đúng 11 2 Sai Đúng 13

Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.

Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc

61,5 38,5 61,5 38,5 84,6 15,4 100

Đúng 8 5 Sai Đúng 8 5 Sai Đúng 11 2 Sai Đúng 13

Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

84,6 15,4

Đúng 11 2 Sai

Bảng 2.7 cho ta thấy những biểu hiện nâng cao chất lượng cuộc sống

được cho là chăm sóc tinh thần với tỉ lệ cao (61,5-100%). Có 2 biểu hiện

được đồng ý với mức tuyệt đối là: “Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình

43

trạng bệnh của mình. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh

thần cho người chăm sóc.”

Bảng 2.8. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện hỗ trợ nhu cầu tâm

linh cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

chọn (%)

Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc 84,6 Đúng 11

sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên 2 15,4 Sai

bệnh nhân.

Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của 7,7 Đúng 1

Đấng tối cao. 12 92,3 Sai

Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến 38,5 Đúng 5

tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. 8 61,5 Sai

Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, 69,2 Đúng 9

chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. 4 30,8 Sai

Các biểu hiện liên quan đến yếu tố tâm linh được nhóm y tế cho không

phải là chăm sóc tinh thần chiếm tỉ lệ khá cao, có biểu hiện đạt tỉ lệ cho rằng

không phải là chăm sóc tinh thần lên tới 92,3%. Qua kết quả trên ta có thể

thấy rằng, việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong chăm sóc tinh thần đang

không được quan tâm một cách đúng mức với ngay cả nhóm y tế, nguyên

nhân có thể là do việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong một bệnh viện

của Nhà nước rất khó khăn – theo như bác sĩ Hồ Ngọc Hồng, trưởng khoa Nội

tim mạch-thần kinh.

44

Bảng 2.9. Nhận định của nhóm y tế về biểu hiện liên quan đến vật lý

trị liệu trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

chọn (%)

Châm cứu cho bệnh nhân. 46,2 Đúng 6

7 53,8 Sai

Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 30,8 Đúng 4

9 69,2 Sai

Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 23,1 Đúng 3

10 76,9 Sai

Quan sát bảng 2.9, ta thấy đối với việc chăm sóc tinh thần sử dụng các

yếu tố vật lý trị liệu ta thấy có sự phân vân cao ở biểu hiện châm cứu cho

bệnh nhân. Biểu hiện này hoàn toàn không phải là chăm sóc tinh thần nhưng

tại sao lại có sự phân vân như vậy? Nguyên nhân chính là do trong quá trình

thực hiện việc châm cứu thì nhóm y tế thường tiến hành song song những

biểu hiện chăm sóc tinh thần như: trao đổi, nói chuyện với bệnh nhân, chính

việc trao đổi, nói chuyện với bệnh nhân mới là biểu hiện của việc chăm sóc

tinh thần nhưng nhóm y tế lại cho rằng châm cứu cũng là biểu hiện của chăm

sóc tinh thần. Qua đây, ta có thể thấy được rằng, việc xác định như thế nào là

chăm sóc tinh thần còn chưa rõ ràng, còn xảy ra nhầm lẫn.

Từ kết quả của các bảng từ 2.6 tới 2.9 ta biết được thực trạng nhận thức

của nhóm y tế trên những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN, để thấy được thực trạng nhận thức của nhóm BN&NCS trên những

biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN theo các hướng ta sẽ

tìm hiểu qua các bảng 2.10 đến 2.13.

45

Bảng 2.10. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện trao đổi với bệnh

nhân TBMMN (N=22)

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

chọn (%)

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. 86,4 Đúng 19

3 13,6 Sai

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi 90,9 Đúng 20

mở 2 9,1 Sai

Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện. 68,2 Đúng 15

7 31,8 Sai

Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh 72,7 Đúng 16

nhân. 6 27,3 Sai

Tôn trọng bệnh nhân. 90,9 Đúng 20

2 9,1 Sai

Giữ bí mật cho bệnh nhân. 81,8 Đúng 18

4 18,2 Sai

90,9 Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được Đúng 20

của bệnh nhân. 2 9,1 Sai

Tương tự với nhận định của nhóm y tế, BN&NCS cũng cho rằng những

biểu hiện liên quan đến giao tiếp, trao đổi với bệnh nhân là chăm sóc tinh thần

chiếm tỉ lệ cao (68,2 - 90,9%). Cho thấy việc nhận định chăm sóc tinh thần

chủ yếu chỉ dựa trên các biểu hiện của sự giao tiếp giữa nhóm y tế và bệnh

nhân. BN&NCS cũng cho rằng, việc gọi bệnh nhân bằng tên không thực sự là

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân với mức chọn sai là 31,8%, theo ý kiến của

một bệnh nhân thì khi nhóm y tế gọi bệnh nhân bằng các đại từ nhân xưng (cô,

chú, bác, dì…) thì bệnh nhân cảm thấy thân thiết hơn so với gọi bằng tên.

46

Bảng 2.11. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện nâng cao chất

lượng cuộc sống cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

(%)

Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi 77,3 Đúng 17

phục bệnh nhân. 5 22,7 Sai

Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của 72,7 Đúng 16

mình. 6 27,3 Sai

Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, 63,6 Đúng 14

ngoài trời). 8 36,4 Sai

Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với 68,2 Đúng 15

chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. 7 31,8 Sai

Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc 63,6 Đúng 14

tinh thần cho người chăm sóc. 8 36,4 Sai

Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi 81,8 Đúng 18

phục thành công. 4 18,2 Sai

Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc 81,8 Đúng 18

4 18,2 Sai

Tỉ lệ chọn đúng của những biểu hiện này có giảm hơn so với biểu hiện

liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân ở trên cho thấy việc nhận thức

rằng những biểu hiện liên quan đến nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh

nhân cũng là chăm sóc tinh thần có phần thấp hơn. Không có biểu hiện nào

được chọn với tỉ lệ tuyệt đối.

47

Bảng 2.12. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện hỗ trợ tâm linh cho

bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

chọn (%)

Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc 45,5 Đúng 10

sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên 12 54,5 Sai

bệnh nhân.

Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của 45,5 Đúng 10

Đấng tối cao. 12 54,5 Sai

Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến 22,7 Đúng 5

tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. 17 77,3 Sai

Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, 86,4 Đúng 14

chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. 7 13,6 Sai

Những biểu hiện liên quan yếu tố tâm linh đa phần được chọn là sai (cao

nhất đến 77,3%) chính vì bệnh nhân hầu như không cho rằng hỗ trợ tâm linh

cũng là một trong những phương pháp của chăm sóc tinh thần. Trong quá

trình phỏng vấn, các vấn đề thắc mắc chủ yếu cũng liên quan đến vấn đề này.

BN&NCSkhi được hỏi đến vấn đề này thường thắc mắc sức mạnh kỳ diệu của

Đấng Tối cao là gì? Ví dụ như cô Nguyễn Thị L (phòng 212) thắc mắc là:

“Đấng tối cao của con là ai? Chúa đó hả? Cô đâu phải đạo Chú đâu mà tin”,

chú Huỳnh Đức N (phòng 218) cho rằng: “Bác sĩ đâu được phép tuyên truyền

tôn giáo cho bệnh nhân đâu mà lại hỏi như vậy, với lại tôn giáo thì có liên

quan gì đến chữa bệnh cho bệnh nhân.”Thêm vào đó ông Nguyễn Văn T

(phòng 218) lại khẳng định rằng:“Bệnh nhân thì phải nghe lời bác sĩ chớ, bác

sĩ nói gì nghe đó chứ biết gì đâu mà thảo luận con”. Qua những thắc mắc trên

48

ta có thể thấy là BN&NCS không nhận ra được bất kì mối liên hệ nào giữa

chăm sóc tinh thần bệnh nhân với các yếu tố tâm linh hay thậm chí không

nhận định đó là một yếu tố của việc chăm sóc tinh thần.

Đối với biểu hiện: “Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan

đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.” có tỷ lệ chọn sai là cao nhất (77,3%)

chính là do thứ nhất: không phải nhóm y tế nào cũng am hiểu về tôn giáo, tâm

linh, tính ngưỡng; thứ hai: các bệnh nhân không phải ai cũng có tôn giáo, tính

ngưỡng, tâm linh hoặc nếu có thì rất đa dạng, rất khó để trao đổi với nhau; thứ

ba, cả hai bên nhóm y tế và cả bệnh nhân, người chăm sóc đều đánh giá

không cao về việc chăm sóc tinh thần nhờ vào hỗ trợ của các yếu tố tâm linh.

Bảng 2.13. Nhận định của BN&NCS về biểu hiện liên quan đến vật lý

trị liệu trong chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Tần số Tỉ lệ

chọn (%)

Châm cứu cho bệnh nhân. 86,4 Đúng 19

3 13,6 Sai

Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 68,2 Đúng 15

7 31,8 Sai

Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 77,3 Đúng 17

5 22,7 Sai

Do đặc điểm của Viện là áp dụng các phương pháp y học cổ truyền trong

điều trị cho bệnh nhân nên việc châm cứu được thực hiện thường xuyên, mà

trong chính thời gian châm cứu này, nhóm y tế cũng tiến hành song song việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân nên có thể gây ra nhầm lẫn cho BN&NCS

cho rằng các biểu hiện vật lý trị liệu trên là chăm sóc tinh thần với tỷ lệ cao

(68,2 – 86,4%).

49

Qua 6 bảng thống kê số liệu về nhận thức trên các biểu hiện chăm sóc

tinh thần cho thấy có sự khác biệt giữa mức độ nhận thức giữa nhóm y tế

vàBN&NCS, bảng sau đây sẽ cho ta thấy rõ hơn về điều này.

Bảng 2.14. Sự khác biệt mức độ nhận thức giữa nhóm y tế và

BN&NCS

trung

Sig.

Biểu hiện

BN& NCS 1.14 1.09 1.32 1.27 1.09 1.18 1.09 1.22

0.89 0.89 0.95 0.01 0.16 0.04 0.89 0.61

1.00 1.38 1.15

1.27 1.36 1.55

0.01 0.90 0.01

1.92 1.62

1.55 1.77

0.002 0.33

1.32

1.41

0.60

1.54 1.69 1.77 1.38 1.15

1.14 1.32 1.23 1.18 1.32

0.02 0.03 0.002 0.229 0.26

1.00

1.36

0.002

Điểm bình Nhóm Y Tế 1.15 Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. 1.08 Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. 1.31 Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện. 1.00 Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. 1.00 Tôn trọng bệnh nhân. 1.00 Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. 1.08 1.15 Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Châm cứu cho bệnh nhân. Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

1,15

1,18

0.83

50

Qua kết quả kiểm nghiện T-test, ta có thể thấy rằng có khá nhiều biểu

hiện thể hiện sự khác biệt (9/21 biểu hiện), ở các biểu hiện liên quan đến trao

đổi giao tiếp với bệnh nhân thì cả 2 nhóm đều nhận thức đúng đắn khá cao.

Ở 2 biểu hiện: “Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân

và Giữ bí mật cho bệnh nhân.” xảy ra sự khác biệt về nhận thức, ở nhóm y tế

thì nhận thức đúng đắn hơn với việc hai biểu hiện có mức lựa chọn tuyệt đối

vì hai biểu hiện này cũng nằm trong 12 điều y đức của ngành y.

Ở nhóm các biểu hiện của chăm sóc tinh thần thông qua các yếu tố tâm

linh thì việc yếu tố này không được nhận thức một cách đúng đắn xảy ra ở cả

2 nhóm. Tuy nhiên, hai biểu hiệu: “Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về

cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho

bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.” xảy ra sự khác biệt.

Ở nhóm y tế thì thể hiện sự phân vân, còn ở nhóm BN&NCS thì nghiêng hẳn

về việc chọn sai.

Đối với nhóm các biểu hiện có liên quan đến nâng cao chất lượng cuộc

sống cho bệnh nhân thì ở 2 biểu hiện: “Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình

trạng bệnh của mình.” và “Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc

tinh thần cho người chăm sóc.” có sự khác biệt. Điều này nói lên rằng, nhóm

y tế đánh giá vai trò của 2 biểu hiện trên cao hơn so với bệnh nhân & người

chăm sóc.

Còn ở bảng vật lý trị liệu tuy cả hai nhóm đều có sự nhầm lẫn các biểu

hiện vật lý trị liệu thành chăm sóc tinh thần nhưng vẫn có sự khác biệt giữa

nhận thức của hai nhóm. Thể hiện ở chỗ có sự khác biệt xảy ra ở cả ba biểu

hiện: “Châm cứu cho bệnh nhân. Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. Kéo nắn

tay chân cho bệnh nhân.”

51

Qua bảng trên ta có thể thấy rằng, có sự khác biệt về nhận thức giữa

nhóm y tế và BN&NCS. Và nhận thức cả hai nhóm về chăm sóc tinh thần còn

chưa thật đầy đủ, chỉ tập trung ở một số phương diện phổ biến.

2.2.1.3 Những nhận định về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN

Bảng 2.15. Số lựa chọn đúng về vật lý trị liệu cho bệnh nhân TBMMN

Đối tượng Các nhận định đúng

Chọn đủ 3 Chọn 2 Chỉ chọn 1

yếu tố yếu tố yếu tố

3 (13,6%) 8 (36,4%) 13 (59%) BN& NCS

4 (30.8%) 5 (38,4%) 4 (30,8%) Nhóm y tế

Sau khi thu được kết quả ở bảng trên, ta thấy nhóm y tế có tỉ lệ chọn

đúng cả 3 đáp án là 30,8%, và tỉ lệ chọn các câu cũng phân bố đồng đều (lần

lượt 30,8%, 38,4% và 30,8%) hơn so với BN&NCS (lần lượt là 13,6%, 36,4%,

59%%).

Tỉ lệ BN&NCSchọn đủ 3 yếu tố chỉ có 13,6% trong khi đó chỉ chọn

đúng 1 câu đúng lên tới 59%, một con số khá cao, chiếm hơn một nữa.

2.2.2 Thực trạng đánh giá của các đối tượng về chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN:

Ba bảng 2.16, 2.17, 2.18 dưới đây sẽ lần lần lượt nêu ra các đánh giá của

các nhóm khảo sát về các vấn đề như mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh

nhân TBMMN được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện, mức độ hài lòng

của bệnh nhân TBMMN trong việc được chăm sóc tinh thần và mức độ hài

lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.

52

Bảng 2.16. Mức độ đồng ý về ý kiến cho rằng bệnh nhân TBMMN

được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện

Nhóm Hoàn toàn Không Phân vân Đồng ý Hoàn toàn

không đồng đồng ý đồng ý

ý

Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ

số (%) số (%) số (%) số (%) số (%)

Nhóm y tế 1 7,7 0 0 3 23,1 6 23,1 46,2 3

BN&NCS 0 0 1 4,5 2 9,1 11 8 36,4 50

Ở bảng 2.16 đánh giá về mức đồng ý của bệnh nhân trong ý kiến cho

rằng bệnh nhân TBMMN được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện thì cả

bệnh nhân, người chăm sóc và nhóm y tế đều đồng ý với ý kiến đó với tỉ lệ

chọn đồng ý là 46,2% đối với nhóm y tế và 50% đối với nhóm BN&NCS.

Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMMN

trong việc được chăm sóc tinh thần

Đối tượng Không hài Bình Hài lòng Hoàn toàn

lòng thường hài lòng

Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ

số (%) số (%) số (%) số (%)

Nhóm y tế 0 0 7 30,8 2 15,4 53,8 4

BN&NCS 1 4,5 3 13,1 9 40,9 40,9 9

Còn ở bảng 2.17 đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân TBMM trong

việc được chăm sóc tinh thần thì xảy ra sự khác biệt giữa 2 nhóm đối tượng,

một nhóm thì cho rằng bệnh nhân hài lòng còn một nhóm thì cảm thấy bình

thường trong việc được chăm sóc tinh thần. Qua đó, ta thấy có sự khác biệt

trong mức độ hài lòng giữa hai nhóm đối tượng. Nhóm BN&NCS đánh giá

53

mức độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn so với nhóm y tế, có thể là do việc

đánh giá của 2 nhóm dựa trên các biểu hiện khác nhau.

Bảng 2.18. Mức độ hài lòng của nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN

Không hài Bình thường Hài lòng Hoàn toàn hài

lòng lòng

Tần số Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ

(%) số (%) số (%) (%)

1 7,7 4 30,8 6 2 15,4 46,2

Cuối cùng ở bảng tự đánh giá thái độ hài lòng của mình trong việc bệnh

nhân được chăm sóc tinh thần thì nhóm y tế cũng cảm thấy hài lòng trong

việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân.

Qua 2 bảng đánh giá thái độ hài lòng của bệnh nhân và thái độ hài lòng

của mình trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì nhóm y tế đều cảm

thấy hài lòng, cho thấy nhóm y tế rất tự tin trong công tác chăm sóc tinh thần

cho bệnh nhân đang thực hiện.

2.2.3 Thực trạng hoạt động chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Ta sẽ biết được thực trạng mức độhài lòng, cần thiết và thường xuyên

của các nhóm khảo sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân TBMMN thông qua phần 2.2.3 này.

2.2.3.1 Mức độ hài lòng của các nhóm khảo sát đối với những biểu hiện

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:

Thông qua các bảng 2.16, 2.17, 2.18 ta đã phần nào thấy được sơ lược

thái độ của nhóm y tế và nhóm BN&NCS về việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. Để thấy được rõ hơn sự hài lòng của từng nhóm khảo

sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh thần cụ thể, ta đi sâu phân tích mức

54

độ hài lòng của từng nhóm khảo sát đối với những biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN thông qua bảng 2.19 dưới đây:

Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Nhóm y tế BN&NCS

ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT 1 0,69 0,52 0,97 4,00 4.54 2.46 1 18

1,07 2,77 18

Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

Ghi chú: Bảng đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những

biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể

xem thêm ở phụ lục 2.

Biểu hiện được hài lòng cao nhất theo nhóm y tế là biểu hiện giữ bí mật

cho bệnh nhân với điểm trung bình 4,54 thuộc mức hoàn toàn hài lòng, còn

đối với BN&NCS thì biểu hiện tôn trọng bệnh nhân được hài lòng với mức

cao nhất có điểm trung bình là 4,00 thuộc mức hài lòng. Cả hai biểu hiện đều

thuộc nhóm biểu hiện liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân đã thể

hiện sự quan tâm đến việc chăm sóc tinh thần thông qua những biểu hiện này

của Viện, nơi bệnh nhân đang được điều trị. Tuy nhiên, qua điểm trung bình

của mức độ hài lòng ta cũng thấy được, nhóm y tế đang đánh giá việc sự hài

lòng của bệnh nhân cao hơn so với mức mà bệnh nhân hài lòng.

Biểu hiện: “Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối

cao.” theo nhóm y tế là có điểm trung bình hài lòng thấp nhất là 2,46 thuộc

55

mức không hài lòng, còn theo BN&NCS thì biểu hiện: “Thảo luận với bệnh

nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.” có điểm

trung bình là 2,77 thuộc mức bình thường. Cả hai biểu hiện đều thuộc nhóm

các biểu hiện có liên quan đến hỗ trợ tâm linh trong chăm sóc tinh thần có thể

nói biểu hiện này gần như không được chú ý đến trong quá trình chăm sóc

tinh thần tại Viện.

So sánh hai phần mức độ nhận thức và mức độ hài lòng, ta thấy chúng có

liên quan đến nhau: nhóm biểu hiện có liên quan đến trao đổi, giao tiếp với

bệnh nhân được chú ý cao tương ứng với mức độ hài lòng ở những biểu hiện

này cũng cao. Tương tự, sự chú ý của nhóm biểu hiện có liên quan đến hỗ trợ

tâm linh thấp tương ứng với mức độ hài lòng thấp.

2.2.3.2 Mức độ cần thiết của những biểu hiện chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN các nhóm khảo sát

Bảng 2.20. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát

Biểu hiện Nhóm y tế BN&NCS

ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT

Trò chuyện với bệnh nhân một 0,61 4,09 1

cách thân thiện, cởi mở.

Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những 0,63 4,31 1

thành tích đạt được của bệnh nhân.

Làm cho bệnh nhân tin vào sức 1,09 2,23 18

mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.

Thảo luận với bệnh nhân các vấn 0,95 2,36 18

đề có liên quan đến tôn giáo, tâm

linh, tín ngưỡng.

56

Ghi chú: Bảng đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc

tinh thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát một cách đầy đủ có

thể xem thêm ở phụ lục 2.

Dựa vào bảng 2.20 trên đây thì, nhóm y tế thì biểu hiện: “Cổ vũ, khen

ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.” là mức độ cần thiết

nhất với điểm trung bình 4,31 thuộc mức hoàn toàn cần thiết. Còn đối với

BN&NCS thì biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi

mở.” có điểm số cao nhất 4,09 thuộc mức cần thiết. Cả hai nhóm biểu hiện

đều nằm nhóm có liên quan đến trao đổi, giao tiếp với bệnh nhân cho ta thấy

việc giao tiếp với bệnh nhân được cả 2 nhóm đánh giá mức cần thiết rất cao,

được xem như là một biểu hiện chủ yếu trong việc chăm sóc tinh thần. Khi

bệnh nhân khi chọn biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân

thiện, cởi mở.” đứng thứ nhất cho ta thấy rằng bệnh nhân rất chú ý đến thái

độ của nhóm ý tế trong cách trò chuyện hằng ngày.

Biểu hiện được đánh là có mức cần thiết thấp nhất theo nhóm y tế là:

“Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.” với điểm

trung bình là 2,23 thuộc mức không cần thiết. Tương tự với một biểu hiện

cũng nằm trong nhóm các biểu hiện liên quan đến hỗ trợ nhu cầu tâm linh là:

“Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín

ngưỡng.” cũng có số điểm trung bình thấp nhất 2,36 thuộc mức không cần

thiết theo BN&NCS. Nguyên nhân việc cả 2 biểu hiện của nhóm này đều là

những biểu hiện có mức độ cần thiết thấp nhất theo cả nhóm y tế; BN&NCS

chính là việc đánh giá không đúng mức về giá trị, sức ảnh hưởng của nhóm

biểu hiện này. Khi 2 nhóm đối tượng không xác định được giá trị của nhóm

biểu hiện này thì họ sẽ dễ dàng nghĩ rằng biểu hiện đó không cần thiết.

57

2.2.3.3 Mức độ thường xuyên của các nhóm khảo sát đối với những biểu

hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Bảng 2.21. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc

tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát

Biểu hiện Nhóm y tế NCS&BN

ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT

Chăm sóc tinh thần

Thảo luận với bệnh nhân các 1,23 0,63 26

vấn đề có liên quan đến tôn

giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

ĐTBĐHTĐ 2,07 2,06

Vật lý trị liệu

Thủy trị liệu. 1,07 0,28 26 2,14 0,94 16

Châm cứu. 2,92 0,28 1 3,00 0 1

ĐTBĐHTĐ 2,24 2,49

Ghi chú: Bảng đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc

tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát một cách đầy đủ có thể xem

thêm ở phụ lục 2.

Quan sát bảng trên, ta có thể thấy được cả 2 nhóm đối tượng đều đồng ý

cho rằng biểu hiện châm cứu thuộc nhóm vật lý trị liệu là biểu hiện được thực

hiện thường xuyên nhất (2,92 của nhóm y tế và 3,00 của BN &NCS). Trong

quá trình thực hiện khảo sát thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân tại

VYDHDT TPHCM, đề tài ghi nhận lại việc châm cứu là việc được thực hiện

hàng ngày tại Viện. Do đặc thù của Viện là sử dụng các biện pháp y học cổ

truyền để chữa bệnh, nên có thể nói châm cứu là một trong những phương

58

pháp chính trong quá trình điều trị bệnh tại Viện. Vì là biện pháp chính nên

mức độ thực hiện biểu hiện này là cao nhất.

Biểu hiện có mức độ thường xuyên thấp nhất theo nhóm y tế chính là

biểu hiện thủy trị liệu, phương pháp sử dụng tác động của nước để hồi phục

chức năng cho bệnh nhân-với số điểm trung bình là 1,07 nằm trong mức hiếm

khi. Giải thích cho việc vì sao biểu hiện thủy trị liệu là biểu hiện có mức độ

thường xuyên thấp nhất là vì phương pháp vật lý trị liệu này khá phức tạp,

việc cho bệnh nhân sử dụng còn nhiều chống chỉ định. Còn đối với bệnh nhân

thì biểu hiện: “Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo,

tâm linh, tín ngưỡng.” đạt mức thấp nhất với điểm trung bình là 1,23 thuộc

mức hiếm khi. Tương quan đến mức độ thường xuyên và mức độ nhận thức,

do không thực hiện thường xuyên nên không có nhận thức đầy đủ về nó và

ngược lại, khi không có nhận thức đúng thì không thể thực hiện được.

Một điều nữa ta có thể thấy điểm trung bình điều hòa của nhóm các biểu

hiện vật lý trị liệu cao hơn so với nhóm các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN ( đối với nhóm y tế là 2,07 và 2,24; đối với BN&NCS là

2,06 và 2,49), ta có thể thấy được trong quá trình điều trị cho bệnh nhân

TBMMN thì việc sử dụng các phương pháp vật lý trị liệu được sử dụng nhiều

hơn so với các phương pháp chăm sóc tinh thần – đúng theo giả thuyết của đề

tài.

2.2.4 So sánh sự khác biệt theo các nhóm đối tượng khác nhau trong việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:

Để biết được có sự khác biệt ý nghĩa giữa BN&NCS về mức độ hài lòng

đối với các biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN, sự khác

biệt về mức độ cần thiết theo nhóm y tế trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN ta sẽ tìm hiểu thông qua các bảng dưới đây:

59

2.2.4.1 Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS

Bảng 2.22. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm

sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện Đối tượng Sig.

Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện ĐTB

3,44 3,85 0,01

Biểu hiện Thu nhập Sig.

ĐTB

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên. 3,69 3,33 0,01

Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân 4,23 3,55 0,02

Biểu hiện Tôn giáo Sig.

ĐTB

4,10 3,92 Tôn trọng bệnh nhân. 0,03

Ghi chú: Bảng sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể xem thêm

ở phụ lục 2.

Sau khi sử dụng kiểm nghiệm T-test, cho thấy rằng không có sự khác

biệt đối với 17/18 biểu hiện, tuy nhiên, lại có sự khác biệt giữa 2 nhóm đối

tượng BN&NCS trong việc hài lòng đối với biểu hiện “Gọi bệnh nhân bằng

tên khi trò chuyện” là có sự khác biệt với Sig.= 0,01<0,05. Sở dĩ có sự khác

biệt trong mức độ hài lòng đối với biểu hiện này là những biến đổi trên não

làm cho bệnh nhân có sự thay đổi nhận thức.

Cũng có sự khác biệt mức độ hài lòng đối với hai biểu hiện “Thường

xuyên trò chuyện với bệnh nhân” (Sig.=0,01<0,05)và “Cư xử phù hợp với

từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.” (Sig.=0,02<0,05) dựa theo mức độ thu

nhập của hai nhóm đối tượng. Do đặc điểm của bệnh viện có phân bố phòng

bệnh thành 2 khu: phòng bình thường với số giường khoảng từ 8 – 10

60

giường/phòng và phòng dịch vụ với số giường khoảng 2 – 4 giường/phòng

với đầy đủ tủ lạnh, máy lạnh, tivi. Do nằm ở phòng bệnh khác nhau nên yêu

cầu của họ cũng khác nhau tùy theo phòng mình nằm, dẫn đến sự khác biệt

trong mức độ hài lòng với một vài biểu hiện chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân.

Đối với 2 đối tượng có tôn giáo và không là có sự khác biệt ở mức độ hài

lòng đối với biểu hiện “Tôn trọng bệnh nhân.”(Sig.=0,03<0,05) đối với những

đối tượng có tôn giáo thì họ có những hệ thống niềm tin, khác nhau, tùy thuộc

vào tôn giáo mà họ tin tưởng. Do vậy họ sẽ có các cư xử khác nhau, quan

điểm khác nhau, những điều cấm kỵ riêng. Như thế đối với 2 nhóm đối tượng

có tôn giáo và không có tôn giáo thì nhận thức như thế nào là tôn trọng sẽ

khác nhau dẫn tới sự khác biệt trong mức độ hài lòng đối với biểu hiện này

khác nhau.

2.2.4.2 Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tếtrong việc chăm

sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN:

Bảng 2.23. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Sig.

Biểu hiện

Tuổi tác ĐTB 30-50 >50 3,36

4,00 0,01

Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.

3,36 4,00 0,03

Ghi chú: Bảng sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong

việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN một cách đầy đủ có thể xem

thêm ở phụ lục 2.

Từ kết quả thu được sau khi thực hiện kiểm nghiệm T-test ởbảng 2.23, ta

có thể thấy, không có sự khác biệt giữa nhóm y tế nam và nữ, có tôn giáo và

61

không có tôn giáo trong mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN. Chỉ có sự khác biệt giữa độ tuổi ở 2 biểu hiện

“Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo

nói riêng) của mình lên bệnh nhân.” (Sig.= 0,01<0,05) “Có các cuộc gặp định

kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.”

(Sig.=0,03<0,05). Ta có thể hiểu rằng, thời gian làm việc càng lâu thì kinh

nghiệm ích lũy càng nhiều và quan điểm cũng sẽ khác nhau, do đó, nảy sinh

một số khác biệt trong quan điểm về sự cần thiết đối với một vài biểu hiện

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN.

2.3 Đề xuất biện pháp

Qua những kết quả thực trạng thu được trên đây, ta có thể thấy, việc

chăm sóc tinh thần đang được nhóm y tế thực hiện song song với quá trình vật

lý trị liệu. Việc chăm sóc tinh thần tương đối đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân,

mức hài lòng của bệnh nhân cũng khá cao. Để tiếp tục phát huy điểm mạnh

trên, ta cần tiếp tục quán triệt tác phong, thái độ của các bác sĩ và nhân viên y

tế trong quá trình tiếp xúc với bệnh nhân cũng như người chăm sóc bệnh nhân.

Tiếp tục phát huy những gì mình đã làm tốt để nâng cao mức độ hài lòng của

bệnh nhân.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh, việc chăm sóc tinh thần vẫn còn

bị nhầm lẫn với các biểu hiện vật lý trị liệu, một vài biểu hiện vẫn chưa được

quan tâm một cách đúng mức. Ví dụ như việc áp dụng các yếu tố tâm linh vào

trong chăm sóc tinh thần chưa được đánh giá đúng vai trò và chưa được quan

tâm một cách đúng mức. Theo như bác sĩ Hồ Ngọc Hồng – trưởng khoa Nội

tim mạch – thần kinh thì hiện nay việc áp dụng yếu tố tôn giáo một cách

chính qui vào trong một bệnh viện Nhà nước thì còn rất khó khăn, việc mời

62

các thầy sư, cha sứ về giảng đạo tại Viện thì không được phép, do đó, việc áp

dụng các yếu tố tâm linh còn đang rất hạn chế.

Như vậy, để có thể áp dụng những yếu tố tâm linh vào trong việc chăm

sóc tinh thần cho bệnh nhân thì những người có nhiệm vụ phải tích cực nâng

cao hiểu biết về tôn giáo, sau đó lại áp dụng một cách khéo léo vào trong việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân, tạo cho bệnh nhân một niềm tin, động lực

để bệnh nhân tiến hành điều trị bệnh.

Bên cạnh đó, trong quá trình điều trị phục hồi cho bệnh nhân thì tần suất

sử dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần vẫn còn chênh lệch với vật lý trị liệu.

Để nâng cao tần suất áp dụng việc chăm sóc tinh thần thì cần tổ chức các lớp

nhằm bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân giúp

cho nhóm y tế có một nền kiến thức vững vàng áp dụng một cách chuyên

nghiệp vào trong quá trình điều trị cho bệnh nhân.

63

TIỂU KẾT CHƯƠNG II

Kết quả thực trạng cho thấy tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu

nhiều hơn so với tần suất áp dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần ở cả 2 nhóm

khảo sát.

Nhận thức của cả hai nhóm khảo sát chỉ tập trung ở những biểu hiện liên

quan đến trao đổi, giao tiếp và không cho rằng những biểu hiện thuộc nhóm

các yếu tố tâm linh là chăm sóc tinh thần.

Mức độ hài lòng đối với việc chăm sóc tinh thần của cả hai nhóm đều

nằm trong mức độ hài lòng cho thấy việc chăm sóc tinh thần tại đây được

thực hiện khá tốt.

Đối với mức độ cần thiết thì hai nhóm có sự khác nhau ở các biểu hiện.

Nhóm y tế thì cho rằng biểu hiện: “Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành

tích đạt được của bệnh nhân.” là biểu hiện có mức độ cần thiết nhất. Còn đối

với nhóm BN&NCS thì biểu hiện: “Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân

thiện, cởi mở.” lại là biểu hiện được đánh giá là biểu hiện có mức cần thiết

cao nhất. Trong bản thân nhóm y tế cũng nảy sinh sự khác biệt giữa 2 nhóm

tuổi từ 30 – 50 và nhóm 50 trở lên ở 2 biểu hiện “Không áp đặt những ý nghĩ,

quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh

nhân.” (Sig.= 0,01<0,05) và biểu hiện “Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có

nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.”

Tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu (2,37) cao hơn so với yếu tố

chăm sóc tinh thần (2,07) cho thấy thực tế trong quá trình điều trị thì chăm

sóc tinh thần vẫn được sử dụng nhưng chưa được quan tâm một cách đúng

mức.

64

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua quá trình nghiên cứu lý luận về những phương hướng chính trong

công tác chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN thì có 3 hướng chính là:

- Hướng 1: Dựa vào các quá trình của sự trao đổi, giao tiếp với bệnh

nhân: trao đổi, chia sẻ (being present), mở rộng, thấu hiểu (opening eyes);

tương tác (cocreating). Những cuộc tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ giữa người

chăm sóc tinh thần và bệnh nhân là vấn đề nổi bật, trong đó có góp mặt về

sự gần gũi về thể chất là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự giao tiếp

của người chăm sóc và bệnh nhân, giúp cho người chăm sóc có thể chú ý tới

họ một cách toàn diện hơn.

- Hướng 2: Quan tâm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

- Hướng 3: Quan tâm, nâng cao giá trị của đời sống tâm linh, niềm tin

tôn giáo của bệnh nhân.

Theo kết quả nghiên cứu thực trạng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân

TBMMN ở một số cơ sở y tế tại TPHCM thì:

- Nhận thức của cả 2 nhóm khảo sát chỉ tập trung ở những biểu hiện của

hướng và hướng 2. Hướng 3 không được được quan tâm một cách đúng mức.

- Mức độ hài lòng của cả 2 nhóm khảo sát đều nằm trong mức độ hài

lòng.

- Mức độ cần thiết ở 2 nhóm có sự khác nhau về các biểu hiện.

- Tần suất áp dụng các yếu tố vật lý trị liệu vào trong quá trình điều trị

bệnh cao hơn so với việc áp dụng các yếu tố chăm sóc tinh thần.

65

Trên cơ sở những thực trạng trên, người nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị:

Đối với nhóm y tế:

- Tiếp tục phát huy những thành tích đã được trong việc chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân (nâng mức hài lòng của bệnh nhân lên,…)

- Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân để

có nền tảng thực hiện công việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân tốt

hơn.

- Tổ chức các lớp học cung cấp các kiến thức về chăm sóc tinh thần

nhằm nâng cao kiến thức cho người chăm sóc bệnh nhân TBMMN.

- Quan tâm đến những biểu hiện được bệnh nhân cho là cần thiết.

- Xây dựng phòng tâm lý chuyên trách các công việc chăm sóc tinh

thầnvà những vấn đề liên quan đến tâm lý cho bệnh nhân.

Đối với nhóm BN&NCS:

- Tham gia các lớp học bổ sung kiến thức về chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân.

- Đưa ra những yêu cầu cao hơn trong việc được chăm sóc tinh thần.

- Tiếp tục thực hiện việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân dài lâu, ngay

cả sau khi xuất viện.

Đối với những người tiếp tục nghiên cứu vấn đề này:

- Tìm hiểu và xác định vai trò của các yếu tố tâm linh trong việc chăm

sóc tinh thần cho người bệnh bằng cách mở rộng mẫu nghiên cứu, ....

- Tìm hiểu những phương pháp để áp dụng các yếu tố tâm linh vào trong

việc chăm sóc tinh thần một cách khoa học.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lê Thị Thanh Bình(2007), Chăm sóc sức khỏe tinh thần trẻ em, Tài liệuHội

thảo “Can thiệp và phòng ngừa các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt”, Hà

NộI.

2. Vũ Dũng (2012), Từ điển Thuật ngữ tâm lý học, NXB Từ điển Bách Khoa.

3. Nguyễn Thị Thanh Hà, Đánh giá độ hiệu lực của bản kiểm hành vi trẻ em

ACHENBACH – phiên bản Việt Nam (CBCL-V) trên nhóm bệnh nhân, Luận

văn thạc sĩ 2014, Trường Đại học Giáo dục, ĐHQHHN.

4. Phạm Minh Hạc (2008), “Chăm sóc tinh thần”, Tạp chí Tâm lý học,106 (1).

5. Lê Thiện Kim Hữu (2013), “Phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân

sau tai biến mạch máu não”,Tạp chí Y học phổ thông dành cho mọi người,

Chuyên đề Hậu tai biến, tr 12-14.

6. Nguyễn Chí Hiếu (2006), “Về khái niệm “tinh thần tuyệt đối” trong triết

học Hêghen”, Tạp chí Triết học, 187 (12), tr 47-54.

7. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và nghĩa Việt Nam, NXBTPHCM.

8. Trần Thành Nam, Nguyễn Ngọc Diệp (2008), Nguyên tắc làm việc với trẻ

có vấn đề sức khỏe tinh thần – Bàn luận và giải pháp,Báo cáo Khoa học tại

Hội thảo quốc gia, Hà Tây.

9. Nguyễn Huỳnh Ngọc (2010), Tâm lý y học-y đức, NXB GDVN.

10. Nguyễn Xuân Nghiên (2011), Phục hồi chức năng, NXB YH.

11. Nguyễn Kỳ Xuân Nhị (2013), Chăm sóc tâm lý ở bệnh nhân sau tai biến

mạch máu não, NXB TN.

12. Nguyễn Ngọc Phúc(2008), Sức khỏe tinh thần tốt - Đòi hỏi thiết yếu của

mỗi người và toàn xã hội,Báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc gia,Hà Tây.

13. Nguyễn Thị Hằng Phương (2009), “Một số nguyên nhân gây ra rối loạn lo

âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, Tạp chí Tâm lý học, 123(6), tr 57-63.

67

14. Lê Đình Sáng, Tâm thần học 2.0, Đại học Y dược.

15. Bộ Y Tế (2006), Hướng dẫn chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư

và AIDS, NXB Y học.

16. Lê Hồng Thái(2008), Chăm sóc sức khỏe tinh thần – Vấn đề mang tầm thế

kỷ”, Báo cáo Khoa học Hội thảo quốc gia,Hà Tây.

17. Nguyễn Kim Thản (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài Gòn.

18. Nguyễn Văn Thọ(2008), Nghiên cứu thành lập mô hình chăm sóc sức khỏe

tâm lý và tâm thần cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai, Báo cáo Khoa học tại

Hội thảo quốc gia Hà Tây.

19. Trịnh Thị Diệu Thường (2013), Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng vận

động của phương pháp châm cải tiến kết hợp vận động trị liệu trên bệnh nhân

nhồi máu não trên lều, Luận văn tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Dược

TPHCM.

20. Hoàng Cẩm Tú (2007), Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ em, giáo

dục tâm lý và sức khỏe tâm thần trẻ em Việt nam một số vấn đề thực tiễn liên

nghành, Đặng Bá Lãm - WEISS BRAHR, NXB ĐHQG Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Tứ, Giáo trình tâm lý học phát triển 2, Tài liệu lưu hành nội bộ.

22. Huỳnh Tấn Vũ (2013), Hành trình phục hồi của bệnh nhân sau tai biến

mạch máu não, NXB TN.

23. Jackie Berger- RSW (2010), Sức Khỏe Tinh Thần, Dịch Vụ Sức Khỏe

Alberta

24. Trường đại học Y Dược TPHCM (2009), Tâm lý Y học,Tài liệu lưu hành

nội bộ.

Tiếng Anh

25. Averil Mansfield, (2011), The psychological and social needs of patients,

British Medical Association.

68

26. Best Practice (2009), The psychosocial spiritual experience of elderly

individuals recovering from stroke, The Joanna Briggs Institute.

27. Büssing, H.-J. Balzat, P. Heusser (2010), “Spiritual needs of patients with

chronic pain diseases and cancer-validation of the spiritual needs

questionnaire”, European Journal of Medical Research, 15(6), pg 266-73.

28. Daniel P. Sulmasy (2002), “A Biopsychosocial-Spiritual Model for the

Care of Patients at the End of Life”, The Gerontologist, Special Issue III (42),

pg 24–33.

29. Eran Chemerinski, Robert G. Robinson (2011), The Neuropsychiatry of

Stroke, Science Direct.

30. Erin L.Moss, Keith Dobson (2006), “The Place of Spirituality in

Psychological End of Life Care”, Canadian Psychology, (47), pg 284-299.

31. George L.Engel (1981), “The Clinical application of the Biopsychosocial

Model”, The Journal of Medicine and Philosophy, (6), pg 101-123.

32. Gowri Anandarajah, Ellen Hight, Spirituality and Medical Practice: Using

the HOPE Questions as a Practical Tool for Spiritual Assessment, Brown

University School of Medicine, Providence, Rhode Island.

33. Helsinki University (2008), “Music listening enhances cognitive recovery

and mood after middle cerebral artery stroke”, Brain, (131), pg 866 – 876.

34. Ken Wilber (2000), Integral Psychology: Consciousness, Spirit,

Psychology, Therapy, Shambhala Publications.

35. Linda S. Williams, Sushmita Shoma Ghose, Ralph W. Swindle (2004),

“Depression and Other Mental Health Diagnoses Increase Mortality Risk After

Ischemic Stroke”, The American Journal of Psychiatry, 161 (6), pg 1090-1095.

36. Oxford University (2012), Oxford Dictionary of English.

69

37. Peter Greasley, Lai Fong Chiu, Reverend Michael Gartland (2001), “The

concept of spiritual care in mental health nursing”, Journal of Advanced

Nursing, 33(5), pg 629-37.

38. Pranee C Lundberg, Petcharat Kerdonfag (2010), “Spiritual care provided

by Thai nurses in intensive care units”, Journal of Clinical Nursing, 19(7-8),

pg 1121-1128.

39. Royal College of Nursing (2011), Spirituality in nursing care: a pocket

guide.

40. Shelley E.Taylor (2006), Health psychology, McGraw-Hill Humanities.

41. Timothy P. Daaleman, Barbara M. Usher, Sharon W. Williams, Jim

Rawlings and Laura C (2008), “An Exploratory Study of Spiritual Care at the

End of Life”, Annals of Family Medicine, 6(5), pg 406–411.

42. Tracy Anne Balboni, Mary Elizabeth Paulk, Michael J. Balboni, Andrea C.

Phelps, Elizabeth Trice Loggers, Alexi A. Wright, Susan D. Block, Eldrin F.

Lewis, John R. Peteet, and Holly Gwen Prigerson (2010), “Provision of

Spiritual Care to Patients With Advanced Cancer: Associations With Medical

Care and Quality of Life Near Death”, Journal of Clinical Oncology,28(3), pg

445-452.

43. WHO Summary report (2004), Promoting Mental Health: Concept,

Emerging, Evidence, Practic.

Đường link

44. https://en.wikipedia.org/wiki/Palliative_care#History

45. http://www.mentalhealth.gov/basics/what-is-mental-health/

46. http://www.stroke.org/understand-stroke/what-stroke

47. https://www.vnu.edu.vn/home/?C2133/N16297/Nhom-nghien-cuu-Tam-ly-

hoc-lam-sang.htm

70

48. http://www.maihuong.gov.vn/vi/quan-he-quoc-te/91-chuong-trinh- suc-

khoe-tam-than-hoc-duong-.html

49. https://www.vinamilk.com.vn/vi/nguoi-lao-dong/phat-trien-ben-vung#nld

50. http://khoahoc.tv/sukien/su-kien/4618_hoi-thao-khoa-hoc-mau-thuan-

trong-doanh-nghiep-va-van-de-cham-soc-tinh-than-cho-nguoi-lao-dong.aspx

51. http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs402/en/

52. http://www.merriam-

webster.com/dictionary/physical%20medicine%20and%20rehabilitation

53. http://www.wcpt.org/policy/ps-descriptionPT

71

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Phụ lục 1a.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM KHOA TÂM LÝ HỌC

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não.

Nữ

Xin chào các cô bác anh chị! Tôi đang là sinh viên năm 4 khoa Tâm lý học trường Đại học Sư Phạm TPHCM. Hiện tôi đang thực hiện khóa luận tốt nghiệp về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não. Mong quý cô, bác, anh, chị giúp đỡ bằng cách trả lời các câu hỏi sau. Tôi xin cam kết các thông tin có được chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong đề tài. Xin chân thành cảm ơn! PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG: Giới tính Tuổi tác

Thu nhập

Nam Dưới 30 tuổi Từ 30 tuổi tới 50 tuổi Trên 50 tuổi Dưới 5 triệu Từ 5 triệu tới 15 triệu Trên 15 triệu

Người thân

Người thuê

Người chăm sóc là ai: Bị tai biến lần thứ: Các cô, bác, anh, chị là:

Bệnh nhân Người chăm sóc

Không

Tôn giáo: PHẦN 2: HIỂU BIẾT VỀ CHĂM SÓC TINH THẦN

1. Các cô, bác, anh, chị cho rằng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là gì? (có thể chon

nhiều câu):

a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị bệnh, đối mặt với tình

trạng bệnh

b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá trình tất yếu.

c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị

bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.

d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải thiện và

nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh,

e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp với

y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.

f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,…để điều trị bệnh cho bệnh nhân, giúp

bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.

72

2. Các cô, bác, anh, chị cho rằng vật lý trị liệu là gì? (có thể chon nhiều câu): a. Vật lý trị liệu là các phương pháp chỉ sử dụng những tác nhân vật lý để chữa bệnh. b. Vật lý trị liệu là các phương pháp hỗ trợ quá trình hồi phục chức năng của bệnh nhân

nhanh hơn.

c. Vật lý trị liệu không phải là một chuyên ngành y tế, chỉ có tác dụng hỗ trợ trong việc điều

trị phục hồi chức năng.

d. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động

đến cơ thể người bệnh, giúp họ phục hồi chức năng.

e. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các phương pháp vật lý kèm theo thuốc để

tác động đến cơ thể người bệnh, giúp họ khỏi bệnh.

f. Vật lý trị liệu không chỉ sử dụng các tác nhân vật lý mà còn sử dụng các tác nhân như hóa học, sinh học vào điều trị bệnh cho bệnh nhân, nhằm mục địch giúp bệnh nhân khỏi bệnh.

3. Các cô, bác, anh, chị cho rằng những biểu hiện sau đây là chăm sóc tinh thần:

Đúng Sai

STT Biểu hiện 1 2 3 4 5 6 7 8

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. 9 Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). 10 11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và

12 13

tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn

giáo, tín ngưỡng đó. 15 Châm cứu cho bệnh nhân. 16 Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 17 Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 18 19

20

Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

21

73

4. Các cô, bác, anh, chị được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện tại cơ sở y tế đang

điều trị:

Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Phân vân Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

5. Các cô, bác, anh, chị hãy cho biết mức hài lòng của mình trong việc chăm sóc tinh

thần tại cơ sở y tế đang điều trị: Hoàn toàn hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Hoàn toàn không hài lòng

6. Các cô, bác, anh, chị cho biết sự hài lòng của mình đối với các biểu hiện chăm sóc

tinh thần dưới đây: STT Biểu hiện

Bình thường

Hài lòng

Không hài lòng

Rất hài lòng

1 2

Hoàn toàn không hài lòng

3 4

5 6 7

8

9

10

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

12

13

11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín

ngưỡng.

15

16

17

18

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

74

7. Các cô, bác, anh, chị cho biết sự cần thiết của những biểu hiện dưới đây trong chăm

sóc tinh thần: STT Biểu hiện

Bình thường

Cần thiết

Không cần thiết

Rất cần thiết

1 2

Hoàn toàn không cần thiết

3 4

5 6 7

8

9

10

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ

12

13

diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

15

16

17

18

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

75

8. Các cô, bác, anh, chị hãy cho biết mức độ thường xuyên của các biểu hiện dưới đây

trong quá trình điều trị của các cô, bác, anh, chị tại cơ sở y tế: STT Biểu hiện

Hiếm khi

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

Chăm sóc tinh thần 1 2

3 4

5 6 7

8

9

10

11

12

13

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

14

15 16

17

18

Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

Nhiệt trị liệu. Thủy trị liệu. Ánh sáng trị liệu. Kéo giãn cột sống. Kéo nắn trị liệu. Xoa bóp trị liệu. Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu). Châm cứu.

76

Vật lý trị liệu 19 20 21 22 23 24 25 26

Xin chân thành cảm ơn các cô, bác, anh, chị!

77

Phụ lục 1b

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM KHOA TÂM LÝ HỌC

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não

Nữ

Xin chào các anh, chị! Tôi đang là sinh viên năm 4 khoa Tâm lý học trường Đại học Sư Phạm TPHCM. Hiện tôi đang thực hiện khóa luận tốt nghiệp về việc chăm sóc tinh thần bệnh nhân sau tai biến mạch máu não. Mong Quý cô, bác, anh, chị giúp đỡ bằng cách trả lời các câu hỏi sau. Tôi xin cam kết các thông tin có được chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong đề tài. Xin chân thành cảm ơn! PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG: Giới tính Tuổi tác

Nam Dưới 30 tuổi Từ 30 tuổi tới 50 tuổi Trên 50 tuổi Có

Không

Tôn giáo: PHẦN 2: HIỂU BIẾT VỀ CHĂM SÓC TINH THẦN

1. Các anh/chị cho rằng chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân là gì? (có thể chon nhiều

câu):

a. Giúp bệnh nhân vui vẻ,hoàn toàn hợp tác trong quá trình điều trị bệnh, đối mặt với tình

trạng bệnh

b. Hỗ trợ bệnh nhân, làm giảm nhẹ các triệu chứng về tâm lý như: lo âu, trầm cảm,…giúp họ tìm lại niềm tin, động lực để tiếp tục luyện tập, ý nghĩa tồn tại của bản thân; nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội; hồi phục sức khỏe hoặc đối mặt với cái chết như là một quá trình tất yếu.

c. Giúp bệnh nhân tìm lại niềm tin vào cuộc sống; có động lực để tiếp tục tiến hành điều trị

bệnh, không còn buồn phiền, lo âu; nhanh hồi phục sức khỏe.

d. Giúp bệnh nhân nhận ra giá trị của các mối quan hệ xã hội xung quanh mình, cải thiện và

nâng cao mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh,

e. Giúp bệnh nhân tin tưởng sức mạnh của Đấng tối cao, tìm lại được niềm tin, phối hợp với

y bác sỹ tiến hành điều trị bệnh.

f. Sử dụng các biện pháp như dùng thuốc, phẫu thuật,..để điều trị bệnh cho bệnh nhân, giúp

bệnh nhân hòa nhập với cuộc sống.

2. Các anh/chị cho rằng vật lý trị liệu là gì? (có thể chọn nhiều câu): a. Vật lý trị liệu là các phương pháp chỉ sử dụng những tác nhân vật lý để chữa bệnh. b. Vật lý trị liệu là các phương pháp hỗ trợ quá trình hồi phục chức năng của bệnh nhân

nhanh hơn.

c. Vật lý trị liệu không phải là một chuyên ngành y tế, chỉ có tác dụng hỗ trợ trong việc điều

trị phục hồi chức năng.

d. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các biện pháp, tác nhân vật lý tác động

đến cơ thể người bệnh, giúp họ phục hồi chức năng.

e. Vật lý trị liệu là một chuyên ngành y tế, sử dụng các phương pháp vật lý kèm theo thuốc để

tác động đến cơ thể người bệnh, giúp họ khỏi bệnh.

78

3.

f. Vật lý trị liệu không chỉ sử dụng các tác nhân vật lý mà còn sử dụng các tác nhân như hóa học, sinh học vào điều trị bệnh cho bệnh nhân, nhằm mục địch giúp bệnh nhân khỏi bệnh. Các anh/chị cho rằng những biểu hiện sau đây là chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân:

Đúng Sai

STT Biểu hiện 1 2 3 4 5 6 7 8

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyện. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. 9 Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). 10 11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và

12 13

tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn

giáo, tín ngưỡng đó. 15 Châm cứu cho bệnh nhân. 16 Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân. 17 Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân. 18 19

20

21

Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công. 4. Anh/chị cho rằng bệnh nhân được chăm sóc tinh thần một cách toàn diện:

Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Phân vân Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

5. Anh/chị hãy cho biết mức hài lòng của bệnh nhân trong việc được chăm sóc tinh

thần:

Hoàn toàn hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Hoàn toàn không hài lòng

79

6. Anh/chị cho biết mức hài lòng của mình trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân:

Hoàn toàn hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Hoàn toàn không hài lòng

7. Các anh/chị đánh giá sự hài lòng của mình đối với các biểu hiện chăm sóc tinh thần

cho bệnh nhân dưới đây: STT Biểu hiện

Bình thường

Hài lòng

Không hài lòng

Rất hài lòng

1 2

Hoàn toàn không hài lòng

3 4

5 6 7

8

9

10

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

12

13

11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

15

16

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp.

17

18

Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

80

8. Các anh/chị cho biết sự cần thiết của những biểu hiện dưới đây trong việc chăm sóc

tinh thần cho bệnh nhân: STT Biểu hiện

Bình thường

Cần thiết

Không cần thiết

Rất cần thiết

1 2

Hoàn toàn không cần thiết

3 4

5 6 7

8

9

10

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

12

13

11 Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng.

15

14 Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.

16

17

18

Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

81

9. Các anh/chị hãy cho biết mức độ thường xuyên của các biểu hiện dưới đây trong quá

trình điều trị của bệnh nhân: STT Biểu hiện

Hiếm khi

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

Chăm sóc tinh thần 1 2

3 4

5 6 7

8

9

10

11

12

13

14

15 16

17

18

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thường xuyên. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

Nhiệt trị liệu. Thủy trị liệu. Ánh sáng trị liệu. Kéo giãn cột sống. Kéo nắn trị liệu. Xoa bóp trị liệu. Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu). Châm cứu.

82

Vật lý trị liệu 19 20 21 22 23 24 25 26

Xin chân thành cảm ơn các anh, chị.

83

Phụ lục 2

Bảng 2.19. Đánh giá chi tiết sự hài lòng nhóm khảo sát về những biểu hiện

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểu hiện

Nhóm y tế

BN&NCS

ĐLC TT

ĐTB ĐLC TT ĐT B 3,55 3,95

3.78 3.85

0.83 0.80

8 6

0,86 0,65

9 3

3.01 4.23

1.03 0.73

10 4

3,68 3,95

0,89 0,72

6 2

4.46 4.54 4.38

0.66 0,52 0,65

4,00 3,86 3,77

0,69 0,77 0,87

2 1 3

1 4 5

4.00

0,71

3,64

0,90

5

8

3.77

0,73

3,68

1,04

7

7

2.92

1,32

16

3,09

0,97

15

3.77

1,09

9

3,32

1,04

14

0,97

3,05

1,25

16

2.46

18

2.69

1,03

17

1,07

2,77

18

3.15

1,21

13

2,86

1,20

17

3.15

1,21

12

3,36

0,79

13

3,08

1,26

14

3,50

0,86

10

3.00

1,29

15

3,41

1,05

12

3,23

1,48

11

3,45

1,18

11

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm ( về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

84

Bảng 2.24. Đánh giá mức độ cần thiết của các biểu hiện chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân TBMMN theo các nhóm khảo sát

Biểu hiện

Nhóm y tế

BN&NCS

0.64 0,55

0,78 0,61

8 6

ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT 8 3,92 4,15 1

3,64 4,09

12 2

3,38 4,23

0,96 0,60

3,55 3,73

0,91 0,70

12 5

0,68 0,74 0,63

4,00 3,91 3,68

0,53 0,81 1,04

2 3 6

4 3 1

4,15 4,23 4,31

5

4,15

0,38

3,59

0,85

10

7

4,00

0,41

3,77

0,75

4

3,00

1,15

16

3,14

0,94

14

3,46

0,66

10

2,86

1,13

15

1,09

2,73

1,12

16

2,23

18

2,54

1,13

17

0,95

2,36

18

3,00

1,35

15

2,64

1,09

17

3,23

1,17

14

3,59

0,73

9

3,46

1,33

9

0,55

0,86

13

3,38

1,26

11

3,55

1,06

11

3,23

1,30

13

3,64

1,05

7

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân. Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

85

Bảng 2.25. Đánh giá mức độ thường xuyên thực hiện việc chăm sóc

tinh thần và vật lý trị liệu theo các nhóm khảo sát

Biểu hiện

Nhóm y tế

NCS&BN

ĐTB ĐLC TT ĐTB ĐLC TT

Chăm sóc tinh thần

2,46

0,52

11

2,23

0,75

15

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.

2,61

0,77

6

2,59

0,67

7

1,92

0,95

17

2,41

0,67

10

Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.

2,62

0,51

7

2,50

0,67

8

3

2,85

0,37

2,91

0,29

2

Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân.

2,85

0,37

2,64

0,73

2

4

Giữ bí mật cho bệnh nhân.

8

2,54

0,52

2,36

0,79

12

2,46

0,52

10

2,27

0,77

14

2,38

0,65

12

2,41

0,67

11

1,38

0,65

24

1,64

0,79

23

2,00

0,82

15

1,68

0,89

21

1,53

0,38

25

1,23

0,94

20

1,46

0,66

23 1,23 0,63 26

1,92

0,95

16

1,41

0,73

25

1,92

0,64

18

1,95

0,72

18

1,61

0,77

20

1,59

0,79

24

1,46

0.77

22

1,64

0,84

22

1,69

0,75

19

1,77

0,92

19

Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công. ĐTBĐHTĐ

2,07

2,06

1,53

0,88

21

2,05

0,90

17

86

Vật lý trị liệu Nhiệt trị liệu.

0,94

16

Thủy trị liệu.

1,07 0,28 26 2,14

2,08

0,95

14

2,36

0,85

13

Ánh sáng trị liệu.

2,61

0,77

2,50

0,80

5

9

Kéo giãn cột sống.

2,46

0,87

2,59

0,73

9

6

Kéo nắn trị liệu.

2,85

0,38

2,68

0,65

4

3

Xoa bóp trị liệu.

5

2,38

087

13

2,64

0,73

Điện trị liệu (từ trường tri liệu, ion trị liệu).

Châm cứu.

1

2,92 0,28 1

3,00 0

2,24

2,49

ĐTBĐHTĐ

Bảng 2.26. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theoBN&NCS việc chăm

sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Biểuhiện

Sig.

Sig.

Sig.

Thu nhập ĐTB

Đối tượng ĐTB BN NCS

Tôn giáo ĐTB Có Không

Dưới 5 triệu 0,81 3,69

Từ 5 tới 15 triệu 3,33

3,44 3,62

0,51

0,01 3,50 3,58

3,78 4,07

0,62 4,15

3,67

0,62 3,90 4,00

0,33

3,44 3,85

3,55

0,18 3,50 3,83

0,59

0,01 3,77

4,00 3,92

0,57 4,23

3,55

0,096

0,02 4,10 3,83

4,00 4,00

1,00 4,23

3,76

0,29 4,10 3,92

0,03

Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân. Tôn trọng bệnh nhân.

3,67 4,00

0,91 4,08

3,56

0,79 4,10 3,67

0,48

3,56 3,92

0,98 4,00

3,44

0,19 3,90 3,67

0,99

3,33 3,85

0,29 3,85

3,33

0,97 3,60 3,67

0,70

3,44 3,85

0,39 4,00

3,22

0,37 3,90 3,50

0,97

tình

3,00 3,15

0,24 3,23

2,89

0,66 3,20 3,00

0,26

3,33 3,31

0,59 3,54

3,00

0,41 3,30 3,33

0,80

3,56 2,69

0,53 3,15

2,89

0,81 2,80 3,25

0,79

2,89 2,69

0,59 2,69

2,89

0,59 2,30 3,17

0,63

3,00 2,77

0,47 2,92

2,77

0,88 2,50 3,17

0,64

Giữ bí mật cho bệnh nhân. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ trạng bệnh của mình. Tổ chức các hoạt động vui thể tập chơi (trong nhà, ngoài trời). Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao. Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. phán Không xét tôn giáo, tín ngưỡng của nhân, bệnh chấp nhận tôn

87

tín

3,44 3,31

0,08 3,38

3,33

0,98 3,20 3,50

0,88

3,56 3,46

0,93 3,54

3,44

0,97 3,40 3,58

0,87

3,44 3,38

0,10 3,61

3,11

0,21 3,30 3,50

0,79

3,67 3,31

0,15 3.78

3,00

0,41 3,60 3,33

0,82

giáo, ngưỡng đó. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc. Cho bệnh nhân lưu với giao những người đã hồi phục thành công.

88

89

Phụ lục 3:

Biên bảng phỏng vấn sâu đối tượng khảo sát.

Biên bảng 1

10h ngày 17/3/2016

Lê Thị H - Bệnh nhân - Độ tuổi: 50 - Tôn giáo: không – Nghề nghiệp:

nội trợ - Thu nhập: Dưới 5 triệu - Bị tai biến lần thứ 5 - Người chăm sóc:

chồng.

Dạ, con chào cô chú, sau khi trả lời xong phiếu thăm dò thì cô chú có thể

dành thêm cho con một chút thời gian để con phỏng vấn thêm không ạ.

Được rồi, con hỏi đi.

- Cô có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc chăm

sóc tinh thần không? Tại sao?

Nhu cầu tâm linh là sao con?

Dạ, nhu cầu tâm linh là ví dụ như việc cô có nhu cầu trao đổi về lòng tin

của mình trong tôn giáo mà cô có, thực hiện các nghi thức cầu nguyện, tụng

kinh… mà không bị cấm đoán vậy đó ạ.

Ah, cô đâu có đạo đâu mà nói, nhưng mà theo cô nghĩ thì cũng không

cần thiết đâu, bác sĩ đâu được truyền bá tôn giáo trong bệnh viện đâu con. Mà

bác sĩ bận lắm, có nói chuyện được với họ đâu mà trao đổi.

- Cô có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là cần

thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

Cần chứ con, cô thấy việc chăm sóc tinh thần rất là tốt đó, làm cho bệnh

nhân vui vẻ thì mới nhanh hồi phục được chớ, như cô nè. Cô mà buồn chuyện

gì là không thèm tập luyện gì cả.

90

- Cô cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

Cô nghĩ việc cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần là phải làm cho

họ vui vẻ, chăm lo tập luyện. Vui vẻ thì mới có động lực để tập luyện được,

có tập luyện thì mới mau hết bệnh được chớ.

Dạ, con cảm ơn cô chú nhiều vì đã giúp con hoàn thành bài phỏng vấn.

Chúc cô mau khỏi bệnh.

Biên bảng 2

10h13p ngày 17/3/2016

Nguyễn Văn L – Người chăm sóc – 52 tuổi – nghề nghiệp: làm nông –

tôn giáo: không.

Dạ, con chào chứ, sau khi phỏng vấn xong cô thì chú có thể trả lời thêm

cho con một vài câu hỏi được không chú.

Được rồi, hỏi đi.

Dạ, con cảm ơn.

- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Tại sao?

Theo chú thì cũng không cần thiết lắm, nhu cầu tâm linh thì có dính dáng

gì tới việc chăm sóc tinh thần.

- Chú có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là cần

thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

Không cần thiết lắm con ơi, chú nghĩ là cứ cho bệnh nhân châm cứu

nhiều với tập vật lý trị liệu nhiều vô là họ khỏi bệnh hết. Châm cứu với tập

vật ý trị liệu thì mới tác động đến bệnh nhân chứ chăm sóc tinh thần thì sao

bệnh nhân đi được được chớ con.

91

- Dạ, nhưng nếu mà như vậy thì chú nghĩ rằng nếu mà có chăm sóc tinh

thần cho bệnh nhân thì việc gì là cần thiết nhất. Vì sao?

Theo chú thì phải làm cho bệnh nhân tin tưởng là mình sẽ hết, bác sĩ

phải làm sao mà nói cho bệnh nhân tin tưởng là mình sẽ hết bệnh, có có như

vậy thì họ mới chăm chỉ luyện tập vật trị liệu.

Dạ, con cảm ơn chú nhiều ạ. Chúc cô mau khỏi bệnh xuất viện về nhà

nha.

92

Biên bảng 3

15h23p ngày 18/3/2016

Hồ Minh T – bệnh nhân – 58 tuổi – tôn giáo: có – nghề nghiệp: nhân

viên ăn phòng - thu nhập: 8 triệu – bị tai biến lần đầu – người chăm sóc:

không có.

Dạ, sau khi trả lời xong phiếu thăm dò thì chú có thể dành thêm một chút

thời gian đề cho con phỏng vấn được không ạ.

Được rồi, hỏi đi con.

- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Tại sao?

Theo chú thì cần thiết đó con, vấn đề tâm linh này rất quan trọng đó,

bệnh nhân mà có niềm tin tôn giáo thì việc đối mặt với tình trạng bệnh khá là

dễ dàng tại vì trong đạo họ có chỉ ra nguyên nhân của mọi chuyện, từ đó đưa

ra các phương pháp để xử lý chuyện đó. Nếu mà được hỗ trợ vấn đề này thì

rất hay đó con.

- Dạ, vậy chú cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân T BMMN là

cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

Rất cần thiết là đằng khác đó con, con học khoa tâm lý chắc biết, tâm lý

ảnh hưởng rất lớn đến con người, nếu mà tâm lý ổn định thì bệnh mới mau

khỏi được, việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân sẽ hỗ trợ rất lớn đến quá

trình hồi phục của bệnh nhân.

- Vậy trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì chú nghĩ việc gì là

cần thiết nhất. Vì sao?

93

Theo chú thì việc trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân thì việc

giúp cho bệnh nhân bớt lo lắng, tập trung vào việc chữa trị là quan trọng nhất.

Theo như chú biết thì việc mà bệnh nhân lo lắng dẫn đến trầm cảm, sau đó từ

bỏ hy vọng chữa trị thành công của mình thì khá là nhiều, nhất là những

trường hợp mà chữa trị một thời gian dài, đặc biệt là đối với bệnh nhân

TBMMN như chú đây.

Dạ, con cảm ơn chú nhiều. Chúc chú mau khỏi bệnh để về nhà nha.

Biên bảng 4

16h13p ngày 19/3/2016

Lê Văn B người chăm sóc – 55 tuổi – nghề nhiệp: người chăm sóc thuê –

thu nhập: 4 triệu/ tháng – tôn giáo: không.

Dạ, con chào chú, sau khi trả lời các câu hỏi thăm dò xong chú có thể

dành một chút thời gian để cho con phỏng vấn được không ạ?

Được rồi, hỏi đi con.

- Chú có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Tại sao?

Hỗ trợ nhu cầu tâm linh là gì con?

Dạ, hỗ trợ tâm nhu cầu tâm linh là ví dụ như việc nhân viên y tế không

tiến hành phê bình hay phán xét tôn giáo của chú hay mọi người xung quanh,

trao đổi một số vấn đề có liên quan đến tôn giáo như niềm tin…vậy thì chú

cho là có cần thiết không ạ?

Theo chú nghĩ thì không cần thiết cho lắm, vì chú nghĩ mỗi người có

theo một đạo riêng, bác sĩ cũng không phải ai cũng biết về tôn giáo một cách

cặn kẽ để trao đổi với bệnh nhân nếu họ không cùng một đạo. Đối với bản

94

thân chú không theo tôn giáo nào thì bác sĩ muốn nói cũng không biết nói gì

với chú hết.

- Chú làm ở đây được nhiêu năm rồi chú?

- Cũng được 5, 6 năm gì rồi đó.

- Vậy trong quá trình chăm sóc cho rất nhiều bệnh nhân, trong đó có bệnh

nhân TBMMN thì chú có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh

nhân nói chung và bệnh nhân TBMMN nói riêng là cần thiết trong quá

trình điều trị không? Vì sao?

- Theo kinh nghiêm của chú thì việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân rất là

quan trọng đó con. Trong quá trình làm của chú, chăm qua nhiều người rồi, đa

số là người già họ rất là khó tính, như con nít vậy, thêm cái bệnh tai biến này

làm họ không di chuyển được, nên càng khó tính hơn. Trong lúc chăm sóc

cho họ, chú với mấy cô chú khác toàn phải năn nỉ, dụ ngọt họ không, chứ nói

nặng họ là không được.

- Các cô bác anh chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc

tinh thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

Theo chú là phải làm cho bệnh nhân vui vẻ, thoải mái, quên đi nỗi đau

bệnh tật. Tại vì làm cho bệnh nhân vui vẻ mới là quan trọng nhất.

95

Biên bảng 5

8h ngày 24/3/2016

Bác sĩ T.Đ.T – 60 tuổi – Tôn giáo: có

- Dạ chào bác sĩ ạ

- Chào con.

- Dạ bác sĩ có thể dành chút thời gian cho con hỏi một vài câu hỏi được không

ạ?

- Cứ nói đi con.

- Dạ, bác sĩ có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không?

- Theo quan điểm của tôi thì việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh rất cần thiết, vì mỗi

con người nếu có niềm tin vào gì đó sẽ có sức mạnh để vượt qua khó khăn,

đặc biệt là lòng tin vào sức mạnh siêu nhiên. Niềm tin tâm linh như là một cái

phao cuối cùng cho những người tuyệt vọng vậy. Đặc biệt là những bệnh

nhân TBMMN, khó khăn trong việc hồi phục chức năng.

- Vậy bác sĩ có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

- Theo tôi thì việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân cũng quan trọng như là

việc sử dụng các phương pháp y tế để điều trị cho bệnh nhân. Tôi nghĩ là các

yếu tố tinh thần là cái gốc để chữa trị cho bệnh nhân. Tôi đã từng đọc báo

thấy được là họ đã phát minh ra thuốc placebo có thể chữa hết bệnh mà không

chứa bất kỳ thành phần dược phầm nào. Do đó, tôi đánh giá rất cao tầm quan

trọng của việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân.

- Bác sĩ cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

- Theo tôi việc cần thiết nhất chính là việc cỗ vũ, khen ngợi bệnh nhân đối với

từng thành tích bệnh nhân đạt được. Chính điều này sẽ làm cho bệnh nhân

96

thấy được mình có sự tiến bộ, như vậy sẽ là động lực cho họ tiếp tục tập luyện.

Bên cạnh đó, họ sẽ thấy tình trạng bệnh của mình được bác sĩ theo dõi một

cách tỉ mỹ, sát sao, thêm tin tưởng vào sự điều trị của Viện.

Biên bảng 6

Bác sĩ H.N.H – tuổi: 54 – tôn giáo: có.

- Dạ chào bác sĩ ạ

- Chào em.

- Dạ bác sĩ có thể dành chút thời gian cho em hỏi một vài câu hỏi được không

ạ?

- Vâng, em cứ hỏi đi.

- Dạ, bác sĩ có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Vì sao?

- Theo tôi thì việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là tương đối cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân. Vì theo chị thì nhu cầu tâm linh mỗi người

là rất cao, bệnh nhân có xu hướng tin và những điều siêu nhiên khi cảm thấy

bất lực. Nhưng, nhu cầu tâm linh rất là trừu tượng, mỗi bệnh nhân có một tôn

giáo, tâm linh, niềm tin tín ngưỡng khác nhau, thậm chí có những bệnh nhân

không theo tôn giáo nào. Chính do đó, việc hỗ trợ tâm linh rất là khó khăn

trên phương diện tập thể hay là đại trà, mà mang tính cá nhân rất cao. Do đó,

nếu thực hiện việc hỗ trợ tâm linh do một cách khoa học thì rất khó khăn.

- Vậy bác sĩ có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

là cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

- Theo chị thì cần thiết đó. Vì chị nghĩ rằng, con người có 2 phần là thể xác và

tinh thần. Chính vì vậy, cần phải chăm sóc cả hai phần thể xác và tinh thần,

nhưng mà hiện này việc chăm sóc tinh thần hiện đang còn rất hạn chế, chỉ tập

trung vào việc sử dụng thuốc và các phương pháp y học để điều trị cho bệnh

nhân nhanh chóng khỏi bệnh. Mà đối với bệnh nhân TBMMN thì việc chăm

97

sóc tinh thần cho họ rất cần thiết vì họ cảm thấy bị shock khi đột nhiên mất

khả năng vận động, phải phụ thuộc rất nhiều vào người chăm sóc, nếu mà

không chăm sóc tinh thần kịp lúc thì rất có thể nảy sinh các bệnh tâm lý như

trầm cảm, stress đó.

- Bác sĩ cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

- Theo chị chính là việc cư xử phù hợp theo từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.

Theo chị từng học thì chị nhớ bệnh nhân có 4 loại kiểu nhận thức, chính vì

vậy, mình cần phải cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức, ví dụ như bệnh

nhân mà thuộc kiểu nhận thức quá mức, hay làm quá lên với tình trạng bệnh

của mình, không đau mà nói đau, những biểu hiện mà bác sĩ đã nói là bình

thường nhưng lại rất là lo lắng. Đối với bệnh nhân như vậy thì mình phải cực

kì kiên nhân, giải thích với họ để họ yên tâm. Nếu mà cư xử không phù hợp

thì rất khó để bệnh nhân hợp tác trong quá trình điều trị.

Biên bảng 7

Chuyên viên vật lý trị liệu L.T.H – 32 tuổi – tôn giáo: không

Chào chị, chị có thể dành cho em một chút thời gian để hỏi một số câu

hỏi được không ạ

Được, nhưng mà em hỏi nhanh lên nha

- Dạ, chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Vì sao?

- Theo chị thì không cần thiết lắm. Nhu cầu tâm linh là tùy theo mỗi người,

không ai giống ai, không biết đường đâu mà hỗ trợ.

- Vậy chị có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là

cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

98

- Theo chị thì cần thiết, vì chị nghĩ bệnh nhân nếu mà thoải mái, vui vẻ thì mới

siêng năng tập luyện được, có siêng năng tập luyện thì mới nhanh chóng khỏe

được.

- Chị cho rằng việc gì là cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho

bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

- Theo chị thì việc trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện cởi mở chính

là yếu tố cần thiết nhất trong việc chăm sóc tinh thần. Vì nếu mà mình khó

chịu với bệnh nhân thì họ cũng khó mà vui vẻ, mà theo chị nghĩ việc bệnh

nhân thoải mái là quan trọng nhất.

99

Biên bảng 8

Chuyên viên Vật lý trị liệu N.H.H – 34 tuổi – tôn giáo: không

- Dạ, chị có cho rằng việc hỗ trợ nhu cầu tâm linh là cần thiết trong việc

chăm sóc tinh thần không? Vì sao?

- Theo anh thì không cần thiết, việc quan trọng là phải làm cho bệnh nhân hợp

tác với mình, nghe lời và làm theo những hướng dẫn của mình đó. Chỉ có tác

động của các phương pháp khoa học, đã được sự kiểm chứng của các chuyên

gia thì mới mang lại hiểu quả, giúp bệnh nhân nhanh khỏi.

- Vậy anh có cho rằng việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN là

cần thiết trong quá trình điều trị không? Vì sao?

- Anh nghĩ là có cũng được mà không có cũng được. Bởi vì trong điều trị cho

bệnh nhân TBMMN thì việc cho bệnh nhân tập vật lý trị liệu thường xuyên

mới chính là phương pháp tốt nhất, giúp cho bệnh nhân mau chóng hồi phục.

Nhưng mà nếu có thêm thì sẽ nâng cao hiệu quả trong việc hồi phục chức

năng cho bệnh nhân.

- Vậy nếu mà có chăm sóc tinh thần thì anh cho rằng việc gì là cần thiết

nhất trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân TBMMN. Vì sao?

- Theo anh thì việc đặt mục tiêu thích hợp cho bệnh nhân chính là chìa khóa

trong việc chăm sóc tinh thần cho bệnh nhân. Tùy theo tình trạng của từng

bệnh nhân thì đưa ra chương trình tập luyện thích hợp, giúp phát huy tối đa

khả năng của bệnh nhân, đẩy nhanh quá trình hồi phục của bệnh nhân.

100

Phụ lục SPSS

1. Thực trạng nhận thức nhóm khảo sát

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances

F

Sig.

t

df

Mean Difference

Std. Error Difference

Sig. (2- tailed)

95% Confidence Interval of the Difference

Lower Upper

.076

.784

.139

33

.891

.01748

.12603

.27390

- .23893

Equal variances assumed

.136 23.956

.893

.01748

.12828

.28227

C3.1. Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.

- .24730

.078

.782

-.139

33

.891

-.01399

.10083

.19114

- .21912

-.141 26.557

.889

-.01399

.09926

.18984

- .21781

C3.2. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.

.016

.900

-.063

33

.950

-.01049

.16724

.32976

- .35074

C3.3. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.

-.063 25.162

.951

-.01049

.16758

.33453

- .35551

47.067

.000

33

.039

-.27273

.12721

- .53154

- .01392

- 2.144

21.000

.011

-.27273

.09719

- .47484

- .07062

- 2.806

C3.4. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.

6.053

.019

33

.276

-.09091

.08211

.07615

- 1.107

- .25797

C3.5. Tôn trọng bệnh nhân.

21.000

.162

-.09091

.06273

.03955

- 1.449

- .22137

18.010

.000

33

.108

-.18182

.11017

.04232

- 1.650

- .40595

C3.6. Giữ bí mật cho bệnh nhân.

Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

21.000

.042

-.18182

.08417

- 2.160

- .35685

- .00679

.078

.782

-.139

33

.891

-.01399

.10083

.19114

- .21912

-.141 26.557

.889

-.01399

.09926

.18984

- .21781

C3.7. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.

1.136

.294

-.512

33

.612

-.07343

.14354

.21861

- .36546

-.530 28.093

.600

-.07343

.13860

.21045

- .35730

C3.8. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân.

47.067

.000

33

.039

-.27273

.12721

- .53154

- .01392

- 2.144

21.000

.011

-.27273

.09719

- .47484

- .07062

- 2.806

C3.9. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.

.055

.815

.121

33

.905

.02098

.17404

.37506

- .33311

.120 24.741

.906

.02098

.17534

.38228

- .34033

C3.10. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

17.469

.000

33

.022

-.39161

.16280

- .72283

- .06039

- 2.405

Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

31.210

.014

-.39161

.15051

- 2.602

- .69850

- .08472

Equal variances not assumed

C3.11. Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.

47.827

.000 2.455

33

.020

.37762

.15379

.06474

.69051

2.836 32.874

.008

.37762

.13313

.10673

.64852

C3.12. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.

3.063

.089

-.981

33

.334

-.15734

.16043

.16906

- .48374

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

C3.13.Thảo luận với bệnh nhân các vấn

101

-.939 22.066

.358

-.15734

.16759

.19016

- .50484

1.369

.250

-.524

33

.604

-.10140

.19341

.29210

- .49490

Equal variances not assumed Equal variances assumed

-.553 29.533

.584

-.10140

.18328

.27316

- .47596

Equal variances not assumed

đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. C3.14. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó.

13.271

.001 2.737

33

.010

.40210

.14693

.10316

.70103

C3.15. Châm cứu cho bệnh nhân.

2.479 18.599

.023

.40210

.16223

.06205

.74214

.016

.900 2.237

33

.032

.37413

.16724

.03388

.71438

C3.16. Xoa bóp tay chân cho bệnh nhân.

2.233 25.162

.035

.37413

.16758

.02911

.71914

.002

.963 3.582

33

.001

.54196

.15128

.23418

.84974

C3.17. Kéo nắn tay chân cho bệnh nhân.

3.562 24.862

.002

.54196

.15217

.22847

.85545

5.600

.024 1.322

33

.195

.20280

.15345

.51500

- .10940

1.239 20.646

.229

.20280

.16373

.54365

C3.18. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.

- .13806

5.630

.024

33

.296

-.16434

.15484

.15069

- .47936

- 1.061

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

30.126

.268

-.16434

.14553

.13282

- .46149

- 1.129

Equal variances not assumed

152.533

.000

33

.012

-.36364

.13740

- .64318

- .08409

- 2.647

C3.19. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. C3.20. Tổ chức các khóa học bổ

Equal variances assumed

102

21.000

.002

-.36364

.10497

- 3.464

- .58194

- .14533

Equal variances not assumed

sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.

.174

.679

-.206

33

.838

-.02797

.13569

.24810

- .30404

Equal variances assumed

-.209 26.365

.836

-.02797

.13391

.24710

- .30304

C3.21. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

Equal variances not assumed

103

2. Sự khác biệt về mức độ hài lòng theo BN&NCS

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances Sig.

F

t

df

Mean Difference

Std. Error Difference

Sig. (2- tailed)

95% Confidence Interval of the Difference

Lower

Upper

.056

.815

-.451

20

.657

-.17094

.37926

-.96206

.62018

-.450 17.201

.659

-.17094

.38027

-.97253

.63065

C6.1. Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.

.246

.625

20

.302

-.29915

.28234

-.88809

.28980

- 1.060

16.893

.308

-.29915

.28450

-.89968

.30139

- 1.051

C6.2. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.

8.780

.008

20

.311

-.40171

.38681

.40517

- 1.039

- 1.20859

18.493

.258

-.40171

.34443

.32054

C6.3. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.

- 1.166

- 1.12396

.328

.573

.240

20

.813

.07692

.32046

-.59155

.74539

.243 18.160

.810

.07692

.31612

-.58681

.74065

C6.4. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.

.006

.941

.000

20 1.000

.00000

.30662

-.63960

.63960

C6.5. Tôn trọng bệnh nhân.

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

.000 17.363 1.000

.00000

.30662

-.64589

.64589

.014

.907

-.992

20

.333

-.33333

.33589

.36732

- 1.03398

C6.6. Giữ bí mật cho bệnh nhân.

18.868

.321

-.33333

.32686

.35112

- 1.020

- 1.01778

.001

.976

-.974

20

.342

-.36752

.37735

.41961

- 1.15466

-.970 17.100

.346

-.36752

.37897

.43168

- 1.16672

C6.7. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ những thành tích đạt được của bệnh nhân.

1.164

.294

20

.197

-.51282

.38410

.28840

- 1.335

- 1.31404

19.945

.171

-.51282

.36126

.24088

- 1.420

- 1.26652

C6.8. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân.

1.156

.295

-.885

20

.387

-.40171

.45391

.54513

- 1.34855

-.834 13.704

.418

-.40171

.48154

.63319

- 1.43661

C6.9. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.

1.446

.243

-.358

20

.724

-.15385

.43028

.74370

- 1.05140

-.331 12.693

.746

-.15385

.46473

.85262

- 1.16031

C6.10. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

.296

.593

.055

20

.956

.02564

.46268

-.93949

.99077

Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

.055 16.409

.957

.02564

.46983

-.96835 1.01963

Equal variances not assumed

C6.11. Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.

.406

.531 1.653

20

.114

.86325

.52208

-.22580 1.95229

1.597 15.181

.131

.86325

.54056

-.28773 2.01423

C6.12. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.

.307

.586

.417

20

.681

.19658

.47162

-.78720 1.18037

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

C6.13.Thảo luận với bệnh nhân các vấn

104

.421 17.941

.679

.19658

.46705

-.78488 1.17804

Equal variances not assumed

.549

.467

.432

20

.670

.23077

.53380

-.88272 1.34426

Equal variances assumed

.412 14.338

.687

.23077

.56030

-.96831 1.42984

Equal variances not assumed

đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. C6.14. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó.

3.384

.081

.391

20

.700

.13675

.34949

-.59227

.86577

.359 12.270

.725

.13675

.38049

-.69023

.96374

C6.15. Cho bệnh nhân xem phim, hài kịch, nghe nhạc.

.009

.927

.247

20

.808

.09402

.38116

-.70107

.88911

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

.246 17.299

.808

.09402

.38156

-.70995

.89799

Equal variances not assumed

2.969

.100

.128

20

.900

.05983

.46803

-.91646 1.03612

Equal variances assumed

.141 19.531

.890

.05983

.42536

-.82882

.94848

Equal variances not assumed

C6.16. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. C6.17. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.

2.220

.152

.690

20

.498

.35897

.52008

-.72589 1.44384

.750 19.889

.462

.35897

.47884

-.64023 1.35818

C6.18. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

Equal variances assumed Equal variances not assumed

105

106

3. Sự khác biệt về mức độ cần thiết của nhóm y tế trong việc chăm sóc

tinh thần cho bệnh nhân TBMMN

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances Sig.

F

t

df

Mean Difference

Std. Error Difference

Sig. (2- tailed)

95% Confidence Interval of the Difference

Lower

Upper

.136

.719 1.017

11

.331

.50000

.49167

-.58215 1.58215

.934 1.309

.490

.50000

.53513

4.46596

C8.1. Thường xuyên trò chuyện với bệnh nhân.

- 3.46596

.441

.520 2.036

11

.067

.77273

.37956

-.06268 1.60813

1.488 1.164

.351

.77273

.51946

5.53272

- 3.98726

C8.2. Trò chuyện với bệnh nhân một cách thân thiện, cởi mở.

6.251

.029

.599

11

.561

.45455

.75912

2.12535

- 1.21626

1.456 10.000

.176

.45455

.31228

-.24126 1.15036

C8.3. Gọi bệnh nhân bằng tên khi trò chuyên.

4.715

.053

.575

11

.577

.27273

.47397

-.77046 1.31592

1.399 10.000

.192

.27273

.19498

-.16171

.70717

C8.4. Cư xử phù hợp với từng kiểu nhận thức của bệnh nhân.

3.785

.078

.330

11

.747

.18182

.55025

1.39292

- 1.02928

C8.5. Tôn trọng bệnh nhân.

.803 10.000

.441

.18182

.22636

-.32255

.68618

.097

.762

-.554

11

.591

-.31818

.57414

.94550

- 1.58186

C8.6. Giữ bí mật cho bệnh nhân.

-.580 1.446

.639

-.31818

.54885

3.16297

- 3.79934

.014

.908

-.453

11

.659

-.22727

.50150

.87652

- 1.33107

C8.7. Cổ vũ, khen ngợi, khích lệ

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

-.423 1.324

.730

-.22727

.53667

3.67607

- 4.13061

những thành tích đạt được của bệnh nhân.

2.487

.143

.613

11

.552

.18182

.29649

-.47074

.83438

1.491 10.000

.167

.18182

.12197

-.08994

.45358

C8.8. Đặt ra mục tiêu, kế hoạch thích hợp cho quá trình hồi phục bệnh nhân.

3.427

.091 2.148

11

.055

.59091

.27513

-.01464 1.19646

1.163 1.067

.443

.59091

.50820

6.16353

- 4.98172

C8.9. Thông báo cho bệnh nhân nắm rõ tình trạng bệnh của mình.

.355

.564

-.649

11

.529

-.59091

.90981

1.41158

- 2.59340

-.952 2.310

.430

-.59091

.62092

1.76462

- 2.94644

C8.10. Tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể (trong nhà, ngoài trời).

7.211

.021

11

.224

-.63636

.49414

.45124

- 1.288

- 1.72397

Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

10.000

.011

-.63636

.20328

-.18343

- 3.130

- 1.08930

Equal variances not assumed

C8.11. Không áp đặt những ý nghĩ, quan điểm (về cuộc sống nói chung và tôn giáo nói riêng) của mình lên bệnh nhân.

.063

.807

.312

11

.761

.27273

.87283

2.19381

- 1.64836

.259 1.232

.832

.27273

1.05392

8.95350

- 8.40805

C8.12. Làm cho bệnh nhân tin vào sức mạnh kỳ diệu của Đấng tối cao.

7.211

.021

-.613

11

.552

-.54545

.88946

1.41223

- 2.50314

Equal variances assumed Equal variances not assumed Equal variances assumed

10.000

.167

-.54545

.36590

.26983

- 1.491

- 1.36074

Equal variances not assumed

7.211

.021

.000

11 1.000

.00000

1.08711

2.39272

- 2.39272

Equal variances assumed

.000 10.000 1.000

.00000

.44721

-.99645

.99645

Equal variances not assumed

1.865

.199

11

.332

-.90909

.89493

1.06064

- 1.016

- 2.87882

C8.13.Thảo luận với bệnh nhân các vấn đề có liên quan đến tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng. C8.14. Không phán xét tôn giáo, tín ngưỡng của bệnh nhân, chấp nhận tôn giáo, tín ngưỡng đó. C8.15. Cho bệnh nhân xem phim,

Equal variances assumed

107

hài kịch, nghe nhạc.

10.000

.033

-.90909

.36815

-.08879

- 2.469

- 1.72939

3.537

.087

-.606

11

.557

-.63636

1.05056

1.67591

- 2.94864

Equal variances not assumed Equal variances assumed

10.000

.172

-.63636

.43218

.32659

- 1.472

- 1.59931

Equal variances not assumed

2.949

.114

-.736

11

.477

-.72727

.98829

1.44793

- 2.90248

Equal variances assumed

10.000

.104

-.72727

.40656

.17859

- 1.789

- 1.63314

Equal variances not assumed

C8.16. Có các cuộc gặp định kì (hoặc khi có nhu cầu) với chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. C8.17. Tổ chức các khóa học bổ sung kiến thức chăm sóc tinh thần cho người chăm sóc.

2.657

.131

-.902

11

.386

-.90909

1.00786

1.30919

- 3.12737

10.000

.053

-.90909

.41461

.01472

- 2.193

- 1.83290

C8.18. Cho bệnh nhân giao lưu với những người đã hồi phục thành công.

Equal variances assumed Equal variances not assumed

108