ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC MAI PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI, 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC MAI PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phan Thị Thanh Thủy

HÀ NỘI, 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự

hướng dẫn khoa học của TS. Phan Thị Thanh Thủy. Các nội dung nghiên cứu,

kết quả đề tài này là trung thực và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào

trước đây. Trong khóa luận có sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số

liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích

nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm về nội dung khóa luận của mình.

Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, hoàn thiện bản khóa luận này, tôi

đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn bè

trong và ngoài lớp học, cùng với lượng thông tin kiến thức từ các phương tiện

thông tin đại chúng như đài, báo chí, tivi đến các nguồn khác như sự giao lưu

giữa các sinh viên với nhau cùng một đề tài đã cung cấp cho tôi lượng thông tin

bổ ích để làm cho bản khóa luận này thêm phong phú. Tôi xin gửi lời cảm ơn và

lòng trân trọng đối với sự giúp đỡ quý báu đó.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016

Sinh viên

Nguyễn Ngọc Mai

1

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................1

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................4

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THÀNH LẬP CÔNG TY TẠI VIỆT NAM ..........................................7

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ ...................................................7

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ .............................................................7

1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ ...............................................................8

1.1.3. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ được dùng để góp vốn thành lập công ty ....................................................................................................................... 13

1.2. Khái quát về góp vốn thành lập công ty ................................................. 17

1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty .............................................. 17

1.2.2. Thỏa thuận góp vốn thành lập công ty ............................................ 17

1.2.3. Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp ......................................... 18

1.3. Góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ........................... 21

CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ........................ 23

2.1. Nội dung các quy định hiện hành về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ .......................................................................................... 23

2.1.1. Chủ thể góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ........ 23

2.1.2. Đối tượng góp vốn ........................................................................... 33

2.1.3. Định giá tài sản góp vốn .................................................................. 36

2.1.4. Thủ tục góp vốn ............................................................................... 42

2.1.5. Vấn đề chuyển giao tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ ........... 46

2.1.6. Xử lý tài sản khi hết thời hạn góp vốn ................................................ 48

2.2. Đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ............................................................................. 48

2.2.1. Ưu điểm ........................................................................................... 48

2.2.2. Hạn chế ............................................................................................ 49

2

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM .................................................................................. 52

3.1. Thực trạng hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam ....................................................................................................... 52

3.2. Kiến nghị giải pháp cải thiện thực trạng hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam ......................................................... 54

3.2.1. Xây dựng hệ thống hóa văn bản pháp luật riêng biệt ......................... 54

3.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ .................................................................. 56

3.2.4. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể tham gia ............... 56

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 60

3

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh

doanh dù ít hay nhiều đều liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), nhất là

trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Các doanh nghiệp

trên thế giới, khi xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh, đã sử dụng các tài

sản trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp...làm đòn bẩy để tìm

kiếm các nguồn lực để đầu tư vào doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, ngày càng xuất hiện những doanh nghiệp thành lập dựa

trên các phần vốn góp, đầu tư hoặc liên doanh bằng quyền SHTT, cụ thể như

quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại; chỉ dẫn địa lý; sáng kiến hay phần

mềm, chương trình máy tính. Thực tiễn phát triển của hình thức góp vốn doanh

nghiệp này đặt ra yêu cầu về hệ thống pháp lý điều chỉnh những vấn đề liên quan

như làm thể nào để xác định giá trị phần vốn góp, chuyển giao sử dụng loại tài

sản “vô hình” này như thế nào,…

Với đề tài “Pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty bằng

quyền sở hữu trí tuệ”, chúng tôi mong muốn đưa ra một cái nhìn tổng quát về

hiện trạng pháp lý và thực tiễn đời sống doanh nghiệp, cụ thể về góp vốn thành

lập bằng quyền SHTT.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp đã được các nàh khoa học

chuyên ngành quan tâm nghiên cứu, cùng với đó là các chuyên đề tập trung vào

việc xác định quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản có thể lưu thông trong

giao dịch dân sự nói chung. Các công trình nghiên cứu có thể kể đến như “Góp

vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam” (Luận văn thạc sĩ luật của tác

giả Phạm Tuấn Anh), hay những bài viết đăng trên các tạp chí như “Hoàn thiện 4

quy định về góp vốn và xác định tư cách thành viên công ty theo Luật doanh

nghiệp 2005” của tác giả Nguyễn Thị Dung (Tạp chí Luật học Trường Đại học

Luật Hà Nội số 9/2010); “Một số vấn đề về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng

nhãn hiệu” của tác giả Nguyễn Hồng Vân (Tạp chí Hoạt động khoa học tháng

7/2010).

Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động góp vốn thành lập

công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có thể kể đến công trình luận văn

thạc sĩ “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ” của tác giả

Đoàn Thu Hồng (2012). Theo đó, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề khoa học

pháp lý về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt

Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thay đổi, chỉnh sửa hệ thống pháp luật, cụ

thể là Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2015, cần thiết có

một công trình nghiên cứu các vấn đề pháp lý xoay quanh những sự thay đổi

pháp luật đó.

Luận văn đi vào việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống pháp

luật liên quan đến hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

ở Việt Nam, có sự so sánh giữa những quy định pháp luật hiện hành và những

quy định cũ hơn trong quá trình pháp điển hóa luật pháp.

3. Mục đích nghiên cứu

Tác giả đưa ra cái nhìn tổng thể và giải pháp phù hợp để đảm bảo tính

minh bạch, thống nhất và hiệu quả khi áp dụng pháp luật trong việc góp vốn

thành lập công ty bằng quyền SHTT. Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn đi

sâu nghiên cứu những vấn đề sau:

+ Làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty

bằng quyền sở hữu trí tuệ.

5

+ Đánh giá và phân tích những bất cập trong việc áp dụng pháp luật thông

qua thực trạng tại một số doanh nghiệp Việt Nam.

+ Đề xuất phương án phù hợp nhằm cải thiện các bất cập trên.

4. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu, phân tích các khái niệm vầ quyền SHTT, góp vốn

thành lập doanh nghiệp bằng quyền SHTT, nghiên cứu những quy định của pháp

luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ, nêu ra

những điểm hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật, kết hợp

với thực tiễn quá trình góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam để đưa ra kiến

nghị, cải thiện.

5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài góp vốn bằng quyền SHTT bao gồm nhiều nội dung nghiên cứu

khác nhau, để đảm bảo phân tích, đánh giá sâu sắc và đáp ứng nhu cầu thực tiễn,

luận văn tập trung chủ yếu vào việc phân tích các thủ tục góp vốn theo quy định

pháp luật của Việt Nam, đồng thời hướng đến nghiên cứu thực tiễn góp vốn bằng

tên thương mai – đối tượng góp vốn phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam.

6. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó

lấy phương pháp luận duy vật biện chứng làm nền tảng. Trên cơ sở các dữ liệu

thống kê, tác giả đã tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng góp vốn

thành lập doanh nghiệp bằng quyền SHTT ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập và

đề xuất phương án cải thiện các quy định pháp luật, góp phần cải biến thực trạng

tại các doanh nghiệp hiện nay.

6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THÀNH LẬP CÔNG TY TẠI VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Tài sản trí tuệ là sản phẩm của trí óc con người, là tri thức của nhân loại.

Các tài sản này liên quan đến những thông tin mà có thể được thể hiện bằng các

vật thể hữu hình với số lượng bản sao không hạn chế, ở cùng một thời điểm và

các địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này không

phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao, mà chính là những thông tin chứa

đựng trong bản sao đó. Để bảo hộ những tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ đã ra

đời với tư cách là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ mà tổ

chức, các nhân đó phát minh, chế tạo.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ sở hữu trí tuệ và Quyền sở

hữu trí tuệ được chính thức sử dụng từ Bộ luật dân sự năm 1995 và các đạo luật

được ban hành sau đó. Mặc dù không được định nghĩa trực tiếp song cấu trúc và

nội dung phần thứ 6 bộ luật dân sự cho thấy: Quyền sở hữu trí tuệ là một chế

định pháp lý gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật

quy định và bảo hộ. Đó là một loại quyền sở hữu đặc biệt mà đối tượng là các

sản phẩm sáng tạo do lao động trí óc con người tạo ra, là sản phẩm trí tuệ con

người. Bộ luật dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm đối tượng của quyền sở hữu trí

tuệ là quyền đối với giống cây trồng.

Theo Lê Nết: “Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản

vô hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể,

được pháp luật quy định bảo hộ”.

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) lại định nghĩa: “Sở hữu trí tuệ

được hiểu rộng rãi hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sảm phẩm văn 7

học, nghệ thuật, khoa học, sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát

và truyền thanh, phát và truyền hình, các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực, các phát

minh khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ,

các tên thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh

và các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực hoa học,

công nghệ, văn học nghệ thuật”.

Quyền sở hữu trí tuệ là một loại đặc biệt của tài sản vô hình. Quyền sở

hữu trí tuệ mang đầy đủ đặc tính kinh tế , mang giá trị kinh tế như các loại tài

sản vô hình khác. Do tính đặc trưng của chúng, quyền sở hữu trí tuệ được công

nhận pháp lý và bảo hộ đặc biệt bới pháp luật quốc gia.

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đưa ra khái niệm: Quyền sở hữu trí tuệ là

quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và

quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với

giống cây trồng.

Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với

những tài sản trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được trao cho một

người, một nhóm người hoặc một tổ chức để khai thác, sử dụng, định đoạt những

sản phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ.

1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc

tính của quyền tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản

của mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của

chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tình chất đặc thù của đối tượng là tài sản

trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở

hữu khác.

Thứ nhất, tính vô hình của đối tượng sở hữu trí tuệ

8

Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mang đặc trưng vô hình; đặc tính này

hoàn toàn trái ngược với đặc tính hữu hình của tài sản vật chất. Là sản phẩm của

sáng tạo trí tuệ, mang tính vô hình nên đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ phải

được vật chất hóa, phải được thể hiện trên các vật cụ thể. Nói cách khác, tài sản

sở hữu trí tuệ vô hình phải được phản sánh, thể hiện thông qua những vật thể

hữu hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là đối tượng của quyền sở hữu tài sản

vật chất, lài vừa chứa đựng trong nó đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Đặc tính

vô hình của quyền sở hữu trí tuệ là đặc trưng quan trọng nhất.

Thứ hai, căn cứ phát sinh và xác lập quyền

Căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ khác với

các tài sản hữu hình. Quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình là thời điểm chủ

sở hữu xác lập việc chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó. Theo quy định của

Bộ luật dân sự, căn cứ xác lập quyền sở hữu gồm: do lao động, do hoạt động sản

xuất, kinh doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo

quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; thu hoa lợi, lợi tức; tạo thành

vật mới do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến; được thừa kế tài sản; chiếm hữu trong

các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ bỏ

quên, bị chôn dấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự

nhiên; chiếm giữ tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,

công khai phù hợp với thời hiệu do pháp luật quy định (Điều 170).

Tuy nhiên, quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bởi trí tuệ của con người hoặc

từ những hoạt động cảm hứng. Hoạt động như vậy mang tính riêng biệt và có ý

thức, sáng tạo, khó có thể xác định chính xác theo quy tắc tài sản hữu hình thông

thường. Do đó, căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ

hầu hết là khi tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ hoặc nhận chuyển nhượng, thừa

kế từ chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.

9

Một số trường hợp ngoại lệ như quyền tác giả và quyền liên quan đến

quyền tác giả; quyền đối với bí mật kinh doanh; quyền đối với tên thương mại.

Căn cứ phát sinh và xác lập đối với những quyền này được quy định cụ thể dứoi

dạng các điều kiện mà không phải tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ.

Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi quốc gia bảo hộ và thời hạn

bảo hộ

Khác với quyền sở hữu thông thường, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi

không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộc mang tính lãnh thổ triệt để.

Điều này có nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận bởi

cơ quan thẩm quyền một quốc gia cụ thể và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh

thổ quốc gia đó. Có thê rlaasy ví dụ như sáng chế công nghiệp tại Việt Nam chỉ

được bảo hộ khi được được cấp văn bằng bảo hộc và cũng chỉ được bảo hộ trên

lãnh thổ Việt Nam. Chính bản thân sáng chế này là sản phẩm trí tuệ được thể

hiện ra bằng hiện vật, chứa đựng sáng tạo của người phát minh, gắn liền với quá

trình áp dụng sáng chế vào hoạt động sản xuất công nghiệp tạo lợi nhuận và thỏa

mãn nhu cầu vật chất của cong người. Hay nói cách khác, chỉ khi được áp dụng

vào sản xuất thì sáng chế mới có giá trị, mà giá trị do sáng chế mang lại thường

có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của

quốc gia. Vì tính khó kiểm soát phạm vi phát tán của một loại tài sản vô hình

cũng như tầm ảnh hưởng, tính giá trị lớn của tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu trí

tuệ mang tính lãnh thổ tuyệt đối.

Về mặt thời gian, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ trong một khoảng thời

gian nhất định, vì đối tượng sở hữu trí tuệ là các sản phẩm trí tuệ dễ thay đổi, có

thể bị mai một, dễ bị thay thế so với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất

nước. Đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả thường được

bảo hộ trong khoảng thời gian tương đối dài, tùy vào pháp luật của mỗi nước thì

thông thường từ 25 đến 100 năm. Khoảng thời gian này đảm bảo đầy đủ quyền

10

lợi của tác giả (tương ứng với thời gian tuổi đời con người). Các đối tượng sở

hữu công nghiệp mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất như

sáng chế, giải pháp hữu ích,… thì thường được bảo hộ trong một khoảng thời

gian tương đối ngắn (tối đa là 20 năm) và có thể được gia hạn bảo hộ. Hầu hết

pháp luật về sở hữu công nghiệp các nước đều quy định thời hạn bảo hộc sáng

chế là 20 năm, thời hạn bảo hộc nhãn hiệu hàng hóa là 10 năm. Hết thời hạn bảo

hộc, chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như những quyền khác đối với đối tượng

được bảo hộ. Tuy nhiên, một số đối tượng sở hữu công nghiệp như tên thương

mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu nổi tiếng,.. lại được bảo hộ vô thời hạn (chủ sở

hữu cũng như đối tượng phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật quy định).

Sở dĩ các đối tượng này được coi là những trường hợp đặc biệt do tính cố định

của chúng; chúng không dễ bị loại bỏ, trở nên lạc hậu trong quá trình khai khác,

sử dụng.

Thứ tư, quyền năng sử dụng là quyền năng phổ biến

Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm hữu,

sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan

trọng hơn cả. Trong rất nhiều trường hợp tranh chấp về sở hữu tài sản, chủ thể

nào đang chiếm hữu tài sản thường có lợi thế hơn hẳn so với các chủ thể khác.

Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: vì hiện hữu trong hình

thái vật chất nên chủ thể chiếm hữu tài sản thì thường có thể khai thác công dụng

của tài sản đó.

Trong khi đó, đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng lại được coi là

quyền năng cơ bản nhất. Điều này xuất phát từ tính vô hình của đối tượng sở hữu

trí tuệ. Chủ sở hữu khó có thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản trí tuệ mà chỉ

có thể chiếm hữu hình thái vật chất được thể hiện của sở hữu trí tuệ. Chính bản

thân hình thái vật chất ấy không thể bị giới hạn số lượng sao chép, chính bản

thân thông tin trong hình thái vật chất ấy với có giá trị độc quyền. Quyền sử

11

dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung khai thác công

dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khai thác

quyền này thông qua hành vi ứng dụng vào các loại vật chất hữu hình cụ thể và

phát sinh giá trị quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các laoij vật chất hữu

hình này. Vì vậy, về bản chất việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo hộc độc

quyền khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ.

Cũng phải nhắc thêm, quyền sử dụng của chủ sở hữu đối với tài sản hữu

hình sẽ làm giảm tính tác dụng của nó đối với người khác. Nhưng đối với tài sản

trí tuệ, việc chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng sẽ không làm thuyên giảm tính

tác dụng của nó đối với các chủ thể khác. Có thể nhận thấy đặc tính này trong

trường hợp chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ li-xăng quyền cảu mình cho người

khác sử dụng. Khác với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ

đem lại cho các cá nhân đặc quyền kiểm soát đối với một đối tượng nào đó.

Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu kiểm soát số lượng sản phẩm được

khai thác và thiết lập mức giá độc quyền trong phạm vi giới hạn mà lượng cầu

sản phẩm chấp nhận. Do vậy bất kỳ người nào muốn thực hiện việc khai thác giá

trị tài sản trí tuệ đều phải được sự cho phép của người có bản quyền và phải trả

tiền.

Thứ năm, căn cứ chấm dứt quyền sở hữu tài sản.

Đối với tài sản nói chung, pháp luật quy định quyền sở hữu chấm dứt

trong các trường hợp: Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người

khác; chủ sở hữu từ chối quyền sở hữu của mình; tài sản bị tiêu hủy; tài sản bị xử

lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu; tài sản bị trưng mua; tài sản bị tịch thu;

vật bị đánh rơi, bị bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di

chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều

kiện do pháp luật quy định.

12

Cũng giống như quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ

cũng đều được phát sinh và chấm dứt dựa trên những căn cứ nhất định. Những

căn cứ này không dựa trên điều kiện tồn tại của tài sản như đối với các quyền tài

sản hữu hình mà dựa trên thời hạn bảo hộ của Nhà nước đối với tài sản trí tuệ.

Khi đã chấm dứt sự bảo hộ do hết thời hạn thì chủ sở hữu hay người nắm bản

quyền không còn vị thế độc quyền của mình nữa, mọi hành vi khai thác, sử dụng

đều được thực hiện hợp pháp nhằm đảm bảo cân bằng hài hòa lợi ích của chủ sở

hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích chung của toàn xã hội.

Mặt khác, phải khẳng định tính đặc thù trong mối liên hệ giữa tài sản và

chủ sở hữu không thể chấm dứt khi tài sản được chuyển nhượng. Đối với tài sản

hữu hình, một khi chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thông

qua các hình thức bán, tặng cho, thừa kế,… thì mọi sự liên hệ đối với tài sản của

chủ sở hữu sẽ chấm dứt từ thời điểm chuyển giao. Ngược lại chủ sở hữu quyền

sở hữu trí tuệ khi thực hiện quyền năng định đoạt tài sản của mình, trong một số

trường hợp pháp luật quy định vẫn có thể thông qua quyền nhân thân của mình

nhằm kiểm soát tài sản. Cụ thể trong trường hợp quyền tác giả, quyền nhân thân

là quyền gắn liền với người sáng tạo ra tác phẩm và không thể chuyển giao được.

Bất kỳ trường hợp thay đổi tác phẩm sau khi chuyển nhượng bản quyền đều phải

thông báo và nhận được sự đồng ý của tác giả. Việc kiểm soát này không nằm

ngoài mục đích bảo vệ chính tác phẩm sáng tạo, sự vẹn toàn của ý tưởng mà tác

giả muốn truyền đạt đến người khác.

1.1.3. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ được dùng để góp vốn thành lập công ty

Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đó chính là các tài sản trí tuệ. “Tài

sản trí tuệ” có thể được hiểu là bao gồm tất cả các thông tin có giá trị thương

mại. Còn theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp, “tài sản trí tuệ” là những

thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo thể hiện thành

13

các vật thể hữu hình trong cùng một thời gian và không gian với số lượng bản

sao không giới hạn và được thừa nhận là tài sản. Hình thức hữu hình của tài sản

trí tuệ có thể kể đến như: tác phẩm văn học, nghệ thuật; cuộc biểu diễn, bản ghi

âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tình mang chương trình được

mã hóa; sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;

nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh; giống cây trồng vật

nuôi mới,…

Quyền tác giả là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tác phẩm

văn học, nghệ thuật và khoa học do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, thường gọi là

bản quyền tác giả. Quyền tác giả thường được xác lập đối với những người sáng

tạo ra tác phẩm gốc về văn học, kịch, âm nhạc, nghệ thuật. Nội dung quyền tác

giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân cho phép người

sáng tạo kiểm soát được việc khai thác, sao chép, cải biên, công bố tác phẩm của

mình và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền tài sản bao gồm những

quyền nhằm khai thác, sử dụng tác phẩm như là tác phẩm tái sinh; biểu diễn tác

phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc

bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu

tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiễn kỹ thuật nào

khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy

tính,… Quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thực hiện hoặc chính

người sáng tạo tác phẩm thực hiện.

Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với

cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh

mang chương trình được mã hóa. Đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả

bao gồm các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín

hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá. Chủ thể của quyền này bao gồm người

biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng. Sở dĩ đây được

14

gọi là quyền liên quan đến quyền tác giả do đối tượng của quyền này là tác phẩm

phái sinh dựa trên tác phẩm gốc của tác giả. Tuy nhiên, những đối tượng này,

thông qua sự sáng tạo, công sức trí tuệ của chủ thể quyền liên quan đã biến đổi

một phần hay toàn bộ về hình thức và cũng có thể là nội dung để đưa đến công

chúng.

Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế, thiết kế bố

trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên

thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp

luật quy định. Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộc quyền sử dụng độc quyền vì

mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu

công nghiệp, chống lại việc khai tác bất hợp pháp ở quy mô công nghiệp. Đối

tượng của sở hữu công nghiệp rất rộng nhưng chủ yếu là sáng chế, kiểu dáng

công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại.

Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm

giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Sáng

chế sẽ được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu có tính

mới; tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.

Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, thể hiện

bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Để được bảo

hộ, kiểu dáng công nghiệp phải có tính mới đối với thế giới, có tính sáng tạo và

có khả năng áp dụng công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp có chức năng thẩm

mỹ, hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng bằng nét độc đáo, vẽ đẹp và nâng cao tính

tiện ích của sản phẩm.

Chỉ dẫn địa lý không chỉ là tên gọi xuất xứ hàng hóa như thường được

hiểu mà còn bao gồm cả dấu hiện, biểu tượng, hình ảnh dùng để chỉ một khu vực

địa lý. Đối với những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải là sản phẩm có đặc

15

trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác mà không một khu

vực địa lý khác có. Đối với những đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa

chỉ dẫn địa lý là những đối tượng chỉ mang tính gọi chung cho hàng hóa quốc gia

hay có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm.

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ

chức, cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đồng thời đáp ứng hai điều

kiện: Dấu hiệu sử dụng làm nhãn hiệu là (i) dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là

dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc kết

hợp các yếu tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; (ii) dấu hiệu đó

có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá,

dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu phải đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ

cấp văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Chủ sở hữu có toàn

quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ. Phân loại nhãn hiệu bao gồm nhãn

hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu nổi tiếng.

Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh

doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh

khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh là khu vực

đại lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc danh tiếng. Để được

bảo hộ, tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh sử dụng

tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực.

Quyền đối với giống cây trồng: Giống cây trồng là quần thể cây trồng

thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định

qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính

trạng do kiểu gien hoặc sự phối hợp các kiểu gien quy định và phân biệt được

với bất kỳ quần thể giống cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một

tính trạng có khả năng di truyền được.

16

1.2. Khái quát về góp vốn thành lập công ty

1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty

Mục tiêu thành lập của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là vì mục đích lợi

nhuận, cá nhân, tổ chức khi muốn trở thành thành viên hay cổ đông của doanh

nghiệp đều muốn hưởng lợi nhuận. Dựa trên nguyên tắc công bằng, việc chia lợi

nhuận giữa các thành viên hay cổ đông này phải tùy thuộc vào tỷ lệ vốn đóng

góp vào quỹ chung của công ty để sử dụng. Khi mà các hình thức đóng góp càng

ngày càng trở nên đa dạng nhằm thu hút càng nhiều cá nhân, tổ chức vào hoạt

động kinh doanh thì pháp luật càng cần phải đưa ra những quy định loại tài sản

góp vốn, định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng các loại tài sản khác nhau.

Theo Luật doanh nghiệp 2014, hành vi góp vốn được hiểu là việc góp tài

sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập

doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.

Xét trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào hành vi góp vốn thành lập

doanh nghiệp.

1.2.2. Thỏa thuận góp vốn thành lập công ty

Góp vốn thành lập công ty khác với hoạt động góp vốn thông thường, là

bước quan trọng trong quá trình đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hình thức thể

hiện việc góp vốn có thể là hợp đồng dạng văn bản riêng hoặc thể hiện ngay

trong Điều lệ công ty. Nội dung của hợp đồng thỏa thuận góp vốn thể hiện được

nội dung chính việc cá nhân, tổ chức góp phần vốn là tài sản thuộc sở hữu hợp

pháp của mình để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, hộ gia đình, chủ thể

khác và hưởng một hoặc một số quyền lợi từ doanh nghiệp mới thành lập theo

quy định pháp luật dân sự và pháp luật doanh nghiệp, bao gồm các nguyên tắc tự

do ý chí, giới hạn tài sản góp vốn, giới hạn ngành nghề kinh doanh,…

17

Pháp luật Việt Nam đồng nhất hợp đồng thành lập doanh nghiệp với điều

lệ doanh nghiệp trong khi pháp luật quốc tế thiên về khái niệm điều lệ doanh

nghiệp là các quy tắc nội bộ của doanh nghiệp, có thể ghi nhận những nguyên

tắc quản lý nhân sự hay văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công sở. Trong khi đó,

hợp đồng thành lập doanh nghiệp ghi nhận phần góp vốn của các thành viên, số

vốn đóng góp hay cổ phần sẽ mua, cách thức phân chia lợi nhuận và chế độ trách

nhiệm đối với từng thành viên/ nhóm thành viên.

1.2.3. Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp

Những doanh nghiệp thành lập theo hiệu lực của Luật doanh nghiệp năm

2005 sẽ khó có thể đóng góp thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

khi mà Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định tài sản có thể dùng để

góp vốn thành lập doanh nghiệp bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền

tài sản; đồng thời mở rộng các tài sản thống nhất trong Điều lệ doanh nghiệp.

Thì đến khi Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực đã sử đổi nhiều quy định

điều chỉnh vấn đề này, cụ thể: tài sản góp vốn có thể là “Đồng Việt Nam, ngoại

tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ,

công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng

Việt Nam.”

Tuy nhiên, nhà làm luật Việt Nam vẫn sử dụng phương pháp liệt kê để

hướng dẫn các loại tài sản được góp vốn, việc này rất dễ dẫn tới sự không đầy

đủ, giới hạn hình thức góp vốn của cá nhân, tổ chức. Các nước trên thế giới như

Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đức thường không mang tính liệt kê đối với khái niệm

“tài sản” mà chỉ phân ra làm động sản hoặc bất động sản, mỗi loại có những quy

định áp dụng riêng và đề cao tính thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức tự thống

nhất về các tài sản làm tài sản chung khi thành lập.

Dựa vào quy định nêu trên, ta có thể phân loại tài sản để góp vốn thành

lập công ty gồm những đối tượng sau:

18

Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng. Thay cho khái niệm quy

định trong Luật doanh nghiệp 2005 liệt kê tiền và giấy tờ có giá, Luật doanh

nghiệp 2014 đã chỉ rõ tiền thông hành tại Việt Nam và ngoại tệ do pháp luật Việt

Nam cho phép tự do chuyển đổi. Việc pháp luật cho phép góp vồn bằng tiền có

tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong doanh nghiệp, chỉ có điều

quyền lợi ấy được tạo ra do chính những người góp vốn và hình thành trong

tương lai.

Cũng theo quy định về tài sản được phép góp vốn, vàng cũng được coi là

tài sản được phép sử dụng. Tuy nhiên, theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản

lý hoạt động kinh doanh vàng, việc thanh toán bằng vàng bị coi là hành vi vi

phạm trong hoạt động kinh doanh vàng nên việc quy định như trên tạo nên mâu

thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Liệu rằng quy định cá nhân, tổ chức được phép

góp vốn bằng vàng có là thừa thãi khi muốn đưa nguồn vốn vào kinh doanh lại

phải thông qua bước chuyển đổi sang tiền mặt, chênh lệch tỷ giá giữa thời điểm

góp vốn và thời điểm chuyển đổi sử dụng có thể khiến doanh nghiệp thất thu một

khoản không nhỏ?

Giá trị quyền sử dụng đất. Đất đai thông thường được coi là bất động sản,

tức là một loại tài sản. Riêng đối với Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước thống nhất quản lý, nghĩa là không một con người hay tổ chức cá thể

nào có quyền tài sản. Vậy nên, để các bên có thể đem góp vốn, quyền sử dụng

đất phải được định giá thông qua các bên thỏa thuận định giá, đồng thời các bên

cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc thuê tổ chức định giá

chuyên nghiệp.1

Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký, do vậy sau khi

thỏa thuận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì thời điểm góp vốn, bên

góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho doanh 1 Điều 37 Luật doanh nghiệp 2014

19

nghiệp và doanh nghiệp là chủ thể đăng ký để được cấy Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất. Kể từ thời điểm doanh nghiệp hoàn thành việc đăng ký quyền sử

dụng đất thì việc góp vốn thành lập doanh nghiệp của thành viên hoặc cổ đông

được hoàn thành. Đây chính là điểm đặc thù của hình thức góp vốn bằng loại tài

sản đặc thù - giá trị quyền sử dụng đất.

Giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật. Điểm mới của

Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005 đó chính là quy định rõ

về hình thức góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Bằng phương pháp liệt

kê, luật đã quy định các đối tượng được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác

giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với

giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về

sở hữu trí tuệ.2

Các loại tài sản trí tuệ dùng góp vốn thành lập doanh nghiệp phải kể đến

các yếu tố sau: mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ; tên thương

mại; biển hiệu; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh,…

Cũng như giá trị quyền sử dụng đất, yêu cầu của Luật doanh nghiệp 2014

đối với tài sản đặc thù này về định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng được quy

định cụ thể thông qua các điều luật.

Ngoài ra, còn rất nhiều yếu tố có thể coi là tài sản có giá trị góp vốn, lấy

ví dụ như tri thức, kinh nghiệm làm việc. Tri thức nếu được định nghĩa trên

phương diện hành vi có thể quan sát được là khả năng của một cá nhân hay một

nhóm thực hiệ, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy dình

nhằm tạo ra sự chuyển hóa có thể sự báo được của các vật liệu. Loại thành tố này

khó có thể định nghĩa và nhận dạng, có thể đó là chu trình hoạt động của doanh

nghiệp, hay kinh nghiệm quản lý nhân sự của một trưởng phòng. Chính yếu tố

2 Điều 35, khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014

20

khó xác định đó gây cản trở việc pháp điển hóa thành điều luật. Tuy nhiên không

thể hoàn toàn phủ nhận các hình thức góp vốn khác với liệt kê trong điều luật.

Dựa trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên, việc định giá có thể

do thành viên tự thỏa thuận khi góp vốn và cùng chịu trách nhiệm thỏa thuận đó,

pháp luật chỉ quy định những nguyên tắc chung nhất để đảm bảo sự công bằng

trong góp vốn và đảm bảo được lợi ích của một thực thể độc lập sau này đó là

doanh nghiệp được thành lập.

1.3. Góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Phải khẳng định rằng quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản. Nó có đầy

đủ những đặc tính của quyền tài sản đó là có thể định giá được bằng tiền và có

thể quyển giao trong giáo dịch dân sự. Nghĩa là, nó có thể được sử dụng để góp

vốn, mua, bán, tặng cho,… Quyền sở hữu trí tuệ đã mang lại cho chủ sở hữu tài

sản trí tuệ những quyền như đối với các loại tài sản khác, trong đó có quyền góp

vốn thành lập doanh nghiệp. Và việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng

quyền sở hữu trí tuệ cũng được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, Luật doanh

nghiệp 2014 lại quy định: “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự

do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công

nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt

Nam”3. Theo khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu đối tượng dùng để góp vốn thành

lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ là “giá trị quyền sở hữu trí tuệ”.

Theo đó, giá trị quyền sở hữu trí tuệ là giá trị bằng tiền của quyền sở hữu trí tuệ

đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ được xác định trong thời hạn bảo hộ. Ở đây,

dường như có sự mâu thuẫn với các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập

doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật trong hoạt động góp vốn thành lập

doanh nghiệp, sẽ có sự dịch chuyển về tài sản góp vốn từ bên góp vốn sang cho

doanh nghiệp nhận góp vốn. Tuy nhiên, nếu sử dụng khái niệm “giá trị quyền sở

3 Điều 35, khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014

21

hữu trí tuệ” thì sẽ không thể hiện được sự chuyển dịch tài sản đó. Ngay chính

khái niệm “giá trị sở hữu trí tuệ” cũng khó xác định do khi hình thành tài sản trí

tuệ, giá trị của nó chưa thể định ra chính xác ngay lập tức. Đối với loại tài sản

này, cần phải xác định thời điểm định giá trị, hoàn cảnh trị giá và nhiều yếu tố dễ

thay đổi khác. Cũng không thể không nhắc đến đối tượng các bên hướng đến khi

góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ chính là bản thân quyền, hay đúng hơn là

quyền được sử dụng các tài sản trí tuệ. Còn việc xác định giá trị quyền sở hữu trí

tuệ có thể do các bên định đoạt. Dường như ở đây đang có sự không thống nhất

về đối tượng góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ.

Việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ buộc người góp

vốn phải đảm bảo cho doanh nghiệp khai thác tài sản để đem lại các lợi ích phát

sinh từ đó. Ngược lại, người góp vốn có quyền lợi tương ứng trong doanh nghiệp

theo thỏa thuận trong điều lệ công ty. Do quy mô rộng lớn của đối tượng quyền

sở hữu trí tuệ nên việc thỏa thuận giữa các bên trong quá trình định giá và xác

định quyền lợi cần được khuyến khích thực hiện theo đúng pháp luật sở hữu trí

tuệ.

Có thể rút ra định nghĩa về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền

sở hữu trí tuệ như sau: “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí

tuệ là việc các chủ thể quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng

quyền sử dụng đối với tài sản trí tuệ của mình để góp vốn thành lập doanh

nghiệp”.

22

CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

2.1. Nội dung các quy định hiện hành về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm

tổng thể những quy định về thành lập doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, thỏa

thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp, nghĩa vụ và quyền lợi từ thỏa thuận góp

vốn, phương thức góp vốn, thời điểm và thủ tục chuyển giao/chuyển nhượng

quyền sở hữu tài sản góp vốn, hình thức và nội dung hợp đồng góp vốn,… với

tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ. Những quy định trên đây là cơ sở pháp lý

cho việc điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động góp vốn thành lập công ty

bằng quyền sở hữu trí tuệ và đã được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật

cơ bản như Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí

tuệ và các văn bản dưới luật khác.

Quá trình nghiên cứu vấn đề góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ cần quan

tâm đến những yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật góp vốn bằng nói chung cũng

như những yếu tố cấu thành riêng của hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng

quyền sở hữu trí tuệ. Khi nói đến hoạt động góp vốn, yếu tố đầu tiên được đề cập

đến là chủ thể góp vốn.

2.1.1. Chủ thể góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

Chủ thể góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ theo như quy

định tại Luật doanh nghiệp 2014 là “tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ

phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ cơ quan nhà nước, đơn vị vũ

trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi

riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối tượng không được góp vốn vào doanh

23

nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức”4, đồng thời là “cá

nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền

sử dụng các tài sản đó để góp vốn”5.

Khái niệm “chủ sở hữu hợp pháp với các quyền” thể hiện bằng việc cá

nhân, tổ chức đó có các quyền năng cơ bản (quyền nhân thân và quyền tài sản)

đối với tài sản sở hữu trí tuệ (quyền tác gải, quyền liên quan đến quyền tác giả,

quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) và các quyền năng đó

được pháp luật bảo hộ. Các điều kiện cấu thành nên sự bảo hộ của pháp luật đối

với quyền năng của chủ thể được quy định cụ thể đối với từng đối tượng tài sản

trí tuệ, cũng như cơ chế hình thành bảo hộ khác nhau tùy thuộc vào đối tượng tài

sản nói trên. Dựa vào cơ chế xác lập bảo hộ, có thể phân loại chủ thể theo chủ sở

hữu xác lập trên cơ chế bảo hộ tự động và chủ sở hữu xác lập trên cơ chế đăng

ký bảo hộ.

2.1.1.1. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động

Cơ chế bảo hộ tự động đối với chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ là việc các

quyền hợp pháp của chủ sở hữu quyền được pháp luật tự động bảo hộ khi đáp

ứng đủ các điều kiện về nội dung và hình thức theo luật định mà không cần

thông qua thủ tục đăng ký bảo hộ. Cơ chế bảo hộ này chỉ áp dụng đối với chủ sở

hữu của đối tượng sở hữu trí tuệ là quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền

tác giả. Đối với hai đối tượng quyền này, sự bảo hộ đối với chủ thể phát sinh

ngay từ thời điểm đối tượng quyền được định hình dưới một hình thức vật chất

nhất định, bất kể đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.

a. Chủ sở hữu quyền tác giả

Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là “tổ

chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng 4 Điều 18 khoản 3 Luật doanh nghiệp 2014 5 Điều 35, Khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014

24

tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả”6. Điều này có nghĩa tác giả, chủ sở

hữu quyền tác giả có thể là người trực tiếp sáng tạo, sáng tác tác phẩm, hoặc là

người đầu tư công sức, tiền bạc vào quá trình sáng tác tác phẩm. Dựa trên định

nghĩa, có thể liệt kê chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm:

 Tác giả hoặc đồng tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đóng góp thời

gian, tài chính, kỹ thuật, công sức để tạo ra tác phẩm;

 Cá nhân, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, có thể thông qua giao kết hợp

đồng;

 Cá nhân, tổ chức được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật;

 Cá nhân, tổ chức được chuyển giao một số hoặc toàn bộ quyền tác giả;

 Đối với các tác phẩm khuyết danh, tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà

chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ

chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản, tác phẩm được tác

giả chuyển giao cho Nhà nước thì chủ sở hữu là Nhà nước.

Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ

bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các tác phẩm văn học, khoa

học, nghệ thuật. Quyền nhân thân của quyền tác giả bao gồm quyền đặt tên cho

tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật

hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố tác phẩm

hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác

phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất

kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả7. Nội dung

của quyền tài sản bao gồm làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước

công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác

phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô

6 Điều 13, Khoản 1 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 7 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005

25

tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho

thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Nếu cá

nhân, tổ chức đồng thời là chủ đầu tư và tác giả sáng tạo ra tác phẩm sẽ có đầy

đủ các quyền nói trên. Trong trường hợp tác giả sáng tạo ra tác phẩm không đầu

thời là chủ đầu tư sáng tạo ra tác phẩm thì tác giả có quyền nhân thân và chủ đầu

tư có quyền tài sản. Tuy nhiên, tùy theo mức độ và nội dung thỏa thuận giữa các

bên, một số trường hợp ngoại lệ chủ đầu tư có thể có một số quyền nhân thân

nhất định đối với tác phẩm đó.

b. Chủ sở hữu quyền liên quan đến quyền tác giả

Quyền liên quan đến quyền tác giả (Quyền liên quan) là quyền của tổ

chức, cá nhân đối với các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình

phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Tiêu chí phân biệt

chủ thể sở hữu quyền liên quan với chủ sở hữu quyền tác giả là việc cá nhân, tổ

chức đó không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm gốc nhưng lại có sự đóng góp công

sức, trí tuệ, tài chính trong việc thể hiện tác phẩm, hoặc truyền tải tác phẩm đến

công chúng. Chính vì vậy, đối tượng tài sản của quyền liên quan thường mang

hình thức khác biệt hẳn so với tác phẩm gốc, đồng thời thể hiện sức sáng tạo của

chủ thể quyền trong việc đưa nội dung tác phẩm gốc đến với lượng công chúng

rộng hơn. Không thể phủ nhận sức sáng tạo của chủ thể quyền liên quan, cũng

như phải khẳng định rằng quyền liên quan không vi phạm quyền của tác giả của

tác phẩm ban đầu. Quyền tài sản của tác giả có quyền làm tác phẩm phái sinh,

hay biểu diễn tác phẩm trước công chúng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng

bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ

phương tiện kỹ thuật nào khác, đã thể hiện sự bảo hộ của pháp luật đối với sáng

tạo của tác giả. Tuy nhiên, pháp luật cũng công nhận sự đóng góp của chủ thể

quyền liên quan mang ý nghĩa thay đổi ở mức độ nào đó tác phẩm gốc, không

26

làm phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả mà còn truyền đạt tác phẩm

đến lượng công chúng lớn hơn, khiến cho giá trị của tác phẩm được đề cao.

Luật sở hữu trí tuệ quy định các chủ thể của quyền liên quan bao gồm:

 Diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác

phẩm văn học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn);

 Tổ chức, cá nhân được chuyển giao một số hoặc toàn bộ quyền liên quan

với đối tượng là cuộc biểu diễ ;

 Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn

hoặc các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm,

ghi hình);

 Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức

phát sóng).

Cũng giống như chủ sở hữu đới với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên

quan có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Người biểu

diễn nếu như vừa là người đóng góp trong quá trình hình thành cuộc biểu diễn,

vừa là chủ đầu tư thì có quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với các cuộc

biểu diễn đó. Nếu như chủ đầu tư là cá nhân, tổ chức độc lập khác thì người biểu

diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư đó có các quyền tài sản. Tuy nhiên

nếu trong hợp đồng đầu tư có thỏa thuận khác thì một phần quyền nhân thân

được phép chuyển giao có thể thuộc về chủ đầu tư. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi

hình và tổ chức phát sóng có các quyền tài sản đối với bản ghi âm, ghi hình và

chương trình phát sóng.

2.1.1.2. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ xác lập theo cơ chế đăng ký bảo hộ

Đối tượng sở hữu trí tuệ áp dụng cơ chế bảo hộ đăng ký bao gồm quyền

sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Cơ chế đăng ký bảo hộ

thể hiện bằng việc quyền của chủ thể chỉ được xác lập khi tiến hành thủ tục đăng

27

ký bảo hộ. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp có độc queyenf sử dụng và

định đoạt các đối tượng, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố

trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh

doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành

mạnh8. Quyền của chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp được quy định cụ thể

tùy thuộc vào từng đối tượng quyền nêu trên, các quyền đó được pháp luật bảo

hộ trong mức giới hạn lãnh thổ đăng ký và thời gian bảo hộ tùy thuộc vào đối

tượng bảo hộ.

 Về chủ thể quyền được bảo hộ

Đối với nhãn hiệu: Chủ sở hữu nhãn hiệu là cá nhân, tổ chức được cơ

quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ; hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký

quốc tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; hoặc có nhãn

hiệu nổi tiếng.

Đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp: Chủ thể có quyền đăng ký sáng

chế có thể là tác giả sáng tạo ra sáng chế đó bằng chính công sức và chi

phí của mình; hoặc là cá nhân, tổ chức đầu tư kinh phí, phương tiện vật

chất cho tác giả sáng tạo.

Đối với tên thương mại: Chủ sở hữu tên thương mại là tổ chức, cá nhân sử

dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh.

Đối với giống cây trồng: Chủ sở hữu quyền đối với giống cây trồng là cá

nhâ, tổ chức chọn tạo hoặc phát hiển và phát triển giống cây trồng; hoặc

được chuyển giao quyền đối với giống cây trồng đó.

 Về điều kiện bảo hộ và cơ sở xác lập quyền

Quy định về điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ được cụ thể hóa trong

Luật sở hữu trí tuệ, chỉ khi đáp ứng đủ các điều kiện này, chủ sở hữu được cơ

quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ thì quyền năng chủ thể mới chính thức

8 Điều 4, khoản 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005

28

tồn tại. Các điều kiện đối với đối tượng tài sản trí tuệ khác nhau được pháp luật

quy định khác nhau nhưng đều có chung một ý nghĩa nhằm phân biệt chủ thể

mang quyền với chủ thể khác trong cũng lĩnh vực hay khu vực kinh doanh nhằm

chống cạnh tranh không lành mạnh.Có thể lấy ví dụ như đối với nhãn hiệu, phải

có những điều kiện về hình thức trình bày, đồng thời phải có dấu hiệu phân biệt

với hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau9. Tuy nhiên, đối với

nhãn hiệu nổi tiếng, điều kiện bảo hộ lại là cơ sở sử dụng thực tế của nhãn hiệu

đó. Hay với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, phải đảm bảo có tính mới; có trình

độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp10. Trong trường hợp sáng chế, kiểu

dáng công nghiệp không phải là các hiểu biết thông thường mà có tính mới và

khả năng áp dụng công nghiệp cũng sẽ được bảo hộ độc quyền. Đối với tên

thương mại, về cơ bản chỉ cần đáp ứng điều kiện chung của bảo hộ quyền sở hữu

công nghiệp là có sự phân biệt giữa các chủ thể trong cũng lĩnh vực và khu vực

kinh doanh. Cơ sở xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại

cũng giống nhãn hiệu nổi tiếng, đó là thực tiễn sử dụng hợp pháp tương ứng với

khu vực và lĩnh vực kinh doanh.

2.1.1.3. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ xác lập trên cơ sở nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sở hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Bản chất của quyền tài sản sở hữu trí tuệ là một loại tài sản, chủ sở hữu

đối với quyền tài sản này hoàn toàn có thể chuyển nhượng, tặng cho tài sản của

mình. Tuy nhiên, quyền sở hữu trí tuệ là loại tài sản có những đặc thù của tài sản

vô hình vì vậy pháp luật quy định về những điều kiện hạn chế nhất định khi tiến

hành việc chuyển giao các đối tượng này. Chủ thể nhận chuyển giao cũng chịu

những giới hạn nhất định về nội dung đối tượng quyền được chuyển giao.

9 Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ 2005 10 Điều 58, Điều 63 Luật sở hữu trí tuệ 2005

29

Đối với từng hình thức xác lập quyền khác nhau, pháp luật có những quy

định khác nhau điều chỉnh. Có thể phân chia các hình thức xác lập quyền như

sau:

 Chủ thể nhận chuyển nhượng

Khái niệm chủ thể nhận chuyển nhượng các đối tượng quyền sở hữu trí

tuệ không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nhưng dựa vào định

nghĩa về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, có thể hiểu chủ thể nói trên

là cá nhân, tổ chức được chủ sở hữu quyền chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Về

vấn đề chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật quy định về điều kiện hợp

đồng chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng cũng như hạn chế chuyển nhượng

như sau: Về hình thức hợp đồng, việc chuyển nhượng các đối tượng quyền phải

được lập thành văn bản11. Đối với các đối tượng có yêu cầu phải tiến hành thủ

tục đăng ký thì thủ tục chuyển nhượng được coi là hoàn tất khi các bên tiến hành

xong thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển nhượng tại cơ quan nhà nước có thẩm

quyền12.

Pháp luật về sở hữu trí tuệ hạn chế chung về chuyển nhượng quyền sở hữu

trí tuệ chỉ trong phạm vi quyền được phép chuyển nhượng, cụ thể chủ thể quyền

chỉ được chuyển nhượng quyền tài sản trong phạm vi quyền được bảo hộ của

mình, còn đối với quyền nhân thân sẽ không được chuyển giao. Tuy nhiên, nội

dung quyền tài sản được quy định bao gồm những quyền cơ bản độc lập với

nhau, vì vậy vấn đề chủ thể quyền được phép chuyển nhượng một quyền tài sản,

cũng có thể chuyển nhượng một số hoặc toàn bộ quyền tài sản của mình. Điều

này cũng có nghĩa chủ thể quyền có toàn quyền trong việc sử dụng quyền sở hữu

trí tuệ để tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp.

 Chủ thể nhận thừa kế

11 Điều 138 Luật sở hữu trí tuệ 2005 12 Điều 148 Luật sở hữu trí tuệ 2005

30

Cá nhân nhận thừa kế quyền sở hữu trí tuệ sẽ trở thành chủ sở hữu quyền

theo quy định pháp luật về thừa kế. Cá nhân có các quyền tài sản đối với quyền

sở hữu trí tuệ và có thế sử dụng tài sản để tham gia góp vốn.

Đối với tổ chức được kế thừa quyền sở hữu trí tuệ, các tổ chức này được

hình thành sẽ được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ các

đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc sở hữu của một số tổ chức sau khi hoàn thành quá

trình chia tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp.

 Chủ thể được tặng cho

Chủ thể nhận tặng cho quyền sở hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là

cá nhân, tổ chức được chủ sở hữu quyền tặng cho quyền sở hữu theo quy định

của pháp luật. Giới hạn quyền được phép tặng cho được công nhận là các quyền

tài sản và một số quyền nhân thân được phép chuyển giao theo quy định của

pháp luật (quyền công bố tác phẩm).

 Chủ thể nhận chuyển quyền sử dụng

Khái niệm nhận chuyển quyền sử dụng là việc chủ sở hữu đối tượng

quyền cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng có thời hạn đối tượng quyền

trong phạm vi quyền được bảo hộ của mình. Sự hạn chế đối với chủ thể nhận

chuyển quyền sử dụng thể hiện ở hợp đồng của bên chuyển quyền và bên nhận

chuyển quyền, về những quy định quyền lợi, nghĩa vụ. Bên nhận chuyển quyền

sử dụng sẽ có quyền khai thác, sử dụng các đối tượng quyền trong phạm vi cho

phép của chủ sở hữu. Cụ thể trong phạm vi góp vốn thành lập doanh nghiệp

bằng quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng nói trên

cần có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền.

 Chủ thể có quyền sử dụng trước đối với một số đối tượng quyền

31

Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ quyền của chủ sở hữu, đồng thời công nhận

quyền của các chủ thể đã sử dụng hoặc đã có đầy đủ các điều kiện cần thiết để sử

dụng quyền. Có thể lấy ví dụ với quyền đới với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,

nếu như trước ngày đơn đăng ký bảo hộ được công bố mà đã có cá nhân, tổ chức

sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng

công nghiệp đồng nhất với đối tượng trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một

cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục

sử dụng đối tượng trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc chuẩn bị sử

dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu được bảo hộ13.

Quyền sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được quy định nhằm phù

hợp với tình hình thực tế, chủ thể quyền sử dụng trước không bị coi là xâm phạm

quyền được bảo hộ của cá nhân, tổ chức khác nếu như hoàn thành nghĩa vụ

chứng minh điều kiện sáng chế, kiểu dáng công nghiệp mà mình sử dụng trước

hình thành độc lập. Cùng với đó, pháp luật giới hạn quyền được sử dụng sau thời

điểm văn bằng được cấp để bảo đảm cân bằng lợi ích của cả hai bên. Tuy nhiên,

pháp luật về sở hữu trí tuệ chỉ quy định chung mà không đưa ra tiêu chí xác định

phạm vi quyền đã sử dụng và quyền không thể sử dụng gây hạn chế trong áp

dụng luật và đặt gánh nặng chứng minh cho bên có văn bằng, tức là bên được

pháp luật được bảo hộ theo quy định.

2.1.1.4. Chủ thể nhận góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

Cơ sở hình thành hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền

sở hữu trí tuệ chính là mục đích của bên góp vốn, mong muốn sử dụng tài sản

của mình vào kinh doanh kiếm lời, vì vậy bên góp vốn có thể lựa chọn doanh

nghiệp với hình thức tổ chức khác nhau để thực hiện góp vốn. Theo quy định của

pháp luật doanh nghiệp, các hình thức tổ chức của doanh nghiệp bao gồm: doanh

nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, 13 Điều 134 Luật sở hữu trí tuệ 2005

32

công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, doanh

nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn

đầu tư nước ngoài. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể lựa chọn một trong

các loại hình doanh nghiệp nói trên, nhưng cần chú ý đến giới hạn về góp vốn

của pháp luật doanh nghiệp.

Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân, do hình thức hình thành sản nghiệp

đặc thù, cụ thể: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ

và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của

doanh nghiệp”, vấn đề góp vốn thành lập bằng quyền sở hữu trí tuệ dường như

không được đặt ra. Lý do là vì sản nghiệp của doanh nghiệp tư nhân không tách

biệt khỏi sản nghiệp của chủ doanh nghiệp, hoạt động của doanh nghiệp tư nhân

sử dụng tài sản có đăng ký của chủ sở hữu, vì vậy việc chủ sở hữu sử dụng

quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ của mình vào kinh doanh không mang ý nghĩa

góp vốn doanh nghiệp mà chỉ là hình thức sử dụng tài sản của cá nhân đó. Đồng

thời, pháp luật doanh nghiệp cũng quy định hạn chế quyền góp vốn của doanh

nghiệp tư nhân: “Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập

hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm

hữu hạn hoặc công ty cổ phần”14. Nếu như chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân

mong muốn được góp vốn vào công ty khác bằng quyền sở hữu trí tuệ của mình

sẽ hoàn thành thủ tục góp vốn với tư cách cá nhân chủ doanh nghiệp đó mà

không phải là tư cách đại diện cho doanh nghiệp tư nhân của mình.

2.1.2. Đối tượng góp vốn

Tài sản góp vốn nói chung được Luật doanh nghiệp 2014 quy định “có thể

là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất,

giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể

14 Điều 183, khoản 4 Luật doanh nghiệp 2014

33

định giá được bằng Đồng Việt Nam”15. Vậy, tài sản có thể sử dụng tham gia góp

vốn thành lập doanh nghiệp là “giá trị quyền sở hữu trí tuệ”. Tuy nhiên, giá trị

quyền sở hữu trí tuệ không thể coi là quyền sở hữu trí tuệ mà có ý nghĩa giá trị

quy đổi ra đơn vị tiền tệ hoặc giá trị sử dụng của quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật

dân sự nói chung và pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng đều chỉ công nhận

quyền sở hữu trí tuệ mới là quyền tài sản, có thể chuyển giao được và có đầy đủ

đặc điểm của một loại tài sản, có thể được sử dụng tham gia góp vốn. Pháp luật

về doanh nghiệp hay về sở hữu trí tuệ cũng như pháp luật các quốc gia phát triển

đều công nhận quyền sở hữu trí tuệ mới thực sự là đối tượng của góp vốn kinh

doanh, pháp luật Việt Nam ghi nhận các quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để

góp vốn bao gồm “quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở

hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác

theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ”16.

 Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả

Quyền tác giả theo pháp luật sở hữu trí tuệ bao gồm quyền nhân thân và

quyền tài sản, trong đó, quyền nhân thân là quyền gắn liền với tác giả, không thể

chuyển giao trong giao dịch dân sự thông thường (trừ quyền công bố tác phẩm);

quyền tài sản bao gồm nhiều quyền độc lập và có thể chuyển giao cho cá nhân,

tổ chức khác một hay một số hoặc toàn bộ các quyền. Trong khi đó, khi chủ thể

góp vốn thành lập doanh nghiệp phải chuyển giao tài sản để doanh nghiệp sử

dụng trong qúa trình sản xuất, kinh doanh, vì vậy đối tượng quyền tác giả được

coi là đối tượng của góp vốn thành lập doanh nghiệp là quyền tài sản của chủ thể

quyền.

Cụ thể, quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm: Làm tác

phẩm phái sinh; Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; Sao chép tác phẩm; Phân

15 Điểu 35 khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014 16 Điều 35 khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014

34

phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến công

chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ

phương tiện kỹ thuật nào khác; Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện

ảnh, chương trình máy tính. Quyền tài sản của chủ sở hữu quyền liên quan đến

quyền tác giả bao gồm: người biểu diễn có các quyền định hình, sao chép, phát

sóng hoặc phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn của

mình; nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quyền phân phối đến công chúng bản

gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình; tổ chức phát sóng có quyền phát

sóng, tái phát sóng, phân phối, định hình và sao chép bản định hình chương trình

phát sóng của mình.

Cũng trong quy định của Luật doanh nghiệp 2014, “chỉ cá nhân, tổ chức

là chủ sở hữu hợp pháp” đối với các quyền sở hữu trí tuệ mới có quyền sử dụng

các tài sản đó để góp vốn17. Điều kiện để chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể

dùng quyền của mình góp vốn đó là yêu cầu sở hữu hợp pháp, chủ sở hữu có

những quyền cơ bản gắn với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo

hộ và thời gian bảo hộ vẫn còn theo quy định của pháp luật. Có thể lấy ví dụ cụ

thể đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm

khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công

bố lần đầu tiên.

 Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng

Với đối tượng là quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây

trồng, chủ sở hữu được độc quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng và

ngăn cấm người khác sử dụng và định đoạt đối với các đối tượng quyền. Chủ sở

hữu quyền cũng hoàn toàn có thể chuyển giao một hoặc một phần hoặc toàn bộ

nội dung quyền của mình cho cá nhân, tổ chức khác, vì vậy quyền sở hữu công

nghiệp và quyền đối với giống cây trồng hoàn toàn có thể được sử dụng làm tài 17 Điều 35 khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014

35

sản góp vốn thành lập doanh nghiệp. Điều kiện để đối tượng này sử dụng góp

vốn bao gồm:

Phạm vi quyền được chuyển giao, bao gồm những quyền hạn chế chuyển

giao/chuyển nhượng: Chỉ dân địa lý không được chuyển nhượng; Tên

thương mại phải được chuyển giao cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và

mọi hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại; Nhãn hiệu chỉ được

chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện đối với người có

quyền đăng ký nhãn hiệu đó.

Quyền của chủ sở hữu còn trong thời gian bảo hộ: Yêu cầu thời hạn bảo

hộ là thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ độc quyền/giấy chứng

nhận đăng ký.

2.1.3. Định giá tài sản góp vốn

Mục đích chủ yếu của việc xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ là nhằm

xác định chính xác, đầy đủ và khách quan giá trị của tài sản đó, từ đó giúp chủ

sở hữu đưa ra quyết định tối ưu trong việc sử dụng quyền, hiểu được giá trị

quyền để bảo hộ chống cạnh tranh hiệu quả nhất.

Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, giá trị của nó không bị giới hạn

ở những đặc điểm vật chất mà được thể hiện trong quá trình sử dụng. Giá trị của

loại tài sản này rất lớn và được xác định có khả năng sinh ra lợi nhuận cao, trở

thành sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh doanh toàn

cầu hiện nay. Việc xác định giá trị của tài sản trí tuệ có rất nhiều điểm khác biệt

so với xác định giá trị tài sản hữu hình, nhất là khi tài sản này được sử dụng

tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp. Về vấn đề này, Luật doanh nghiệp

2014 đã quy định cụ thể như sau:

36

“1. Tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển

đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm

định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng Việt Nam.

2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên,

cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức

thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hạp tổ chức thẩm định giá

chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các

thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.

Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế

tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới

góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế

của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu

trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá

trị thực tế.

3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, Hội đồng

thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, Hội

đồng quản trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thỏa thuận định

giá hoặc do một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường

hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp

vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận.

Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại

thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên Hội đồng

thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh,

thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp

thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của

tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu

37

trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn

giá trị thực tế.”18

 Thẩm quyền định giá

Quy định nói trên đưa ra lựa chọn về thẩm quyền định giá cho các thành

viên doanh nghiệp. Chủ thể có thẩm quyền định giá có thể là các thành viên, cổ

đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Thành viên

công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ đông sáng lập của công

ty cổ phần là cá nhân, pháp nhân có tên trong danh sách sáng lập trong đăng ký

thành lập doanh nghiệp và sở hữu ít nhất một cổ phần/phần góp vốn vào doanh

nghiệp. Yêu cầu về thẩm quyền định giá của thành viên, cổ đông sáng lập gắn

liền với trách nhiệm và quyền hạn thành lập doanh nghiệp của chính những cá

nhân, tổ chức này. Các thành viên, cổ đông sáng lập định giá tài sản góp vốn dựa

trên nguyên tắc nhất trí, đề cao tính tự do thỏa thuận của các chủ thể tham gia

quan hệ dân sự, kinh doanh. Tuy thế, tự cho thỏa thuận phải tuân theo những hạn

chế nhất định của pháp luật về định giá giá trị thực tế của tài sản, trách nhiệm

pháp lý khi có chênh lệch định giá.

Tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp hay tổ chức nghề nghiệp về thẩm

định giá là tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập theo quy định của pháp

luật trên cơ sở tham gia tự nguyện của các thẩm định viên về giá, doanh nghiệp

thẩm định giá và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong lĩnh vực thẩm định

giá. Tổ chức định giá chuyên nghiệp bao gồm các doanh nghiệp thẩm định giá,

được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp và được Bộ

Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

theo quy định của pháp luật và các cá nhân, tổ chức liên quan đến ngành nghề

này. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá khác với tổ chức thẩm định giá nhà

nước về các vấn đề quyền hạn và trách nhiệm, đối tượng tài sản thẩm định, yêu 18 Điều 37 Luật doanh nghiệp 2014

38

cầu giấy phép thẩm định giá viên và vấn đề cung cấp dịch vụ thẩm định giá.

Cũng có trường hợp tổ chức thẩm định giá nhà nước có thẩm quyền định giá tài

sản góp vốn thành lập doanh nghiệp nhưng chỉ là với những đối tượng doanh

nghiệp đặc thù là doanh nghiệp nhà nước hay tài sản định giá là tài sản nhà nước.

Trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức thẩm định giá do Bộ Tài chính quyd định,

cụ thể tại Nghị định 89/2013/NĐ-CP ban hành ngày 06/8/2013, Quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.

 Phương pháp định giá

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản, tức là loại tài sản vô hình, vấn đề

định giá tài sản vô hình được Bộ Tài chính quy định cụ thể và khá chi tiết trong

Thông tư 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 Ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá

số 13 Thẩm định giá tài sản vô hình. Nội dung của thông tư nói trên đưa ra các

cách tiếp cận nhằm định giá tài sản vô hình có thể áp dụng trong thẩm định giá

quyền sở hữu trí tuệ tham gia góp vốn bao gồm:

Tiếp cận theo thu nhập: Quá trình thẩm định giá được xác định thông qua

giá trị hiện tại của các khoản thu nhập, các dòng tiền và các chi phí tiết

kiệm do tài sản vô hình mang lại. Cách tiếp cận này gồm ba phương pháp

chính là: phương pháp tiền sử dụng tài sản vô hình, phương pháp lợi

nhuận vượt trội, phương pháp thu nhập tăng thêm.

Cách tiếp cận theo thị trường: Quá trình thẩm định giá được xác định căn

cứ vào việc so sánh, phân tích thông tin của các tài sản vô hình tương tự

có giá giao dịch trên thị trường. Phương pháp này yêu cầu có sự lựa chọn

và phân tích chi tiết đặc điểm, tính tương đồng của tài sản vô hình so sánh

với tài sản vô hình cần thẩm định giá, cụ thể: Các quyền liên quan đến sở

hữu tài sản vô hình; Các điều khoản về tài chính liên quan đến việc mua

bán, hoặc chuyển giao quyền sử dụng; Lĩnh vực ngành nghề mà tài sản vô

hình đang được sử dụng; Yếu tố địa lý, khu vực ảnh hưởng đến việc sử

39

dụng tài sản vô hình; Các đặc điểm ảnh hưởng đến tuổi đời kinh tế còn lại

của tài sản vô hình; Các đặc điểm khác của tài sản vô hình.

Cách tiếp cận theo chi phí: Qua trình định giá phải ước tính giá trị tài sản

vô hình căn cứ vào chi phí tái tạo ra tài sản vô hình giống nguyên mẫu với

tài sản cần thẩm định giá hoặc chi phí thay thế để tạo ra một tài sản vô

hình tương tự có cùng chức năng, công dụng theo giá thị trường hiện

hành. Cách tiếp cận từ chi phí gồm hai phương pháp chính là: Phương

pháp chi phí tái tạo và phương pháp chi phí thay thế.

 Đáng giá áp dụng các cách tiếp cận để thẩm định giá

Đối với cách tiếp cận thu nhập: Giá trị tài sản được định giá theo phương

pháp này dựa trên thu nhập từ việc áp dụng tài sản trong kinh doanh trong

quá khứ, hiện tại hoặc dự kiến tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai. Nếu

như tài sản trí tuệ đã được sử dụng, mang lại lợi nhuận cụ thể mà khi

chuyển giao tài sản dùng trong góp vốn vẫn có giá trị sử dụng thì có thể

áp dụng phương pháp này do đã có tiền lệ trên. Cách tiếp cận này được sử

dụng phổ biến và được khuyến khích sử dụng do đưa ra kết quả đáng tin

cậy.

Đối với cách tiếp cận thị trường: Phương pháp tiếp cận theo thị trường có

ưu thể hơn về tính khách quan và độ tin cậy do có sử dụng những dự liệu

tương ứng trên thị trường, có thể ước tính giá trị thực tiễn gần nhất của tài

sản trí tuệ. Tuy nhiên khi áp dụng trên thực tế, khó tìm được các cuộc giao

dịch về tài sản vô hình tương tự và các thông tin đáng tin cậy về chúng.

Những thông tin về giao dịch trên thị trường mở thường được giữ bí mật,

có thể tồn tại những chi phí phát sinh khác thêm mà không được đề cập

đến một cách công khai.

Đối với cách tiếp cận chi phí: Cách tiếp cận này có ưu điểm là số liệu

phục vụ tính toán rõ ràng, dễ thu thập, cách tính toán đơn giản. Tuy nhiên,

phương pháp tiếp cận chi phí sẽ không phản ánh được tiềm năng và rủi ro

40

của tài sản trí tuệ do chỉ dựa vào số liệu quá khứ, chưa đáng giá dự đoán

trong tương lai. Hơn nữa, do phương pháp này được thực hiện dựa trên

nguyên tắc thay thế, tức là giá trị của tài sản sẽ không lớn hơn chi phí thay

thế tất cả các bộ phận hợp thành của nó nên việc áp dụng có hạn chế về

đối tượng, không phải đối tượng tài sản trí tuệ nào cũng có thể xác định rõ

từng bước tạo ra tài sản, giá trị đã khai thác.

 Trách nhiệm trong thẩm định giá

Trách nhiệm của thành viên, cổ đông sáng lập

Yêu cầu trách nhiệm thành viên, cố đông sáng lập đối với thỏa thuận định

giá đối tượng góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ thể hiện tính liên đới chịu trách

nhiệm. Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế

tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp

thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản

góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối

với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế. Quy định

này có pháp luật nhằm tạo tính kiểm soát cho hoạt động tự định giá của doanh

nghiệp, hạn chế việc lợi dụng nguyên tắc tự do ý chí của pháp luật dành cho

doanh nghiệp nhằm trục lợi cá nhân; đồng thời cũng thể hiện được tính trách

nhiệm với đối tác của doanh nghiệp, bảo vệ môi trường kinh doanh an toàn và tự

do.

Trách nhiệm của tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp

Những yêu cầu về điều kiện thành lập, cách thức tổ chức doanh nghiệp

định giá, cơ quan định giá nhà nước; yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp, giấy phép

cua rthaamr định giá viên được quy định tại Nghị định 89/2013/NĐ-CP ban hành

ngày 06/8/2013, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm

định giá. Trách nhiệm của tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp bao gồm đảm

bảo chuyên môn và trung thực khi tiến hành thẩm định; thực hiện bảo mật thông

41

tin khách hàng khi có yêu cầu trong quá trình thẩm định (trừ trường hợp pháp

luật yêu cầu công bố thông tin); có trách nhiệm đối với kết quả thẩm định giá tài

sản19.

Pháp luật về doanh nghiệp Việt Nam quy định về thẩm định giá với tài

sản góp vốn mới và tiến bộ khi đưa ra yêu cầu kết quả thẩm định của tổ chức

thẩm định chuyên nghiệp xác định giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các

thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận thể hiện đúng vai trò của tổ chức thẩm

định giá trong thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp là tư vấn, cung cấp dịch

vụ thẩm định. Điều này cũng củng cố thêm quyền quyết định của các thành viên,

cổ đông sáng lập doanh nghiệp, đồng thời hình thành thêm một bước kiểm tra

kết quả kết quả thẩm định. Cũng có nghĩa, nếu các thành viên, cổ đông sáng lập

nhận thấy giá trị định giá là không hợp lý, quá trình định giá xảy ra sai sót gây

chênh lệch só với giá trị thực tế sẽ có quyền từ chối sử dụng kết quả của tổ chức

thẩm định chuyên nghiệp.

2.1.4. Thủ tục góp vốn

Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay quy định các bước góp vốn

thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ như sau:

Bước 1. Cam kết hoặc thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng

quyền sở hữu trí tuệ.

Bản chất của quá trình thành lập doanh nghiệp đó chính là một hợp đồng,

thể hiện thỏa thuận, thống nhất về ý chí giữa hai hay nhiều cá nhân, tổ chức trở

lên. Cũng giống như quá trình hình thành hợp đồng trong giao dịch dân sự thông

thường, bước đầu tiên là mời giao kết và chấp nhận lời giao kết. Yêu cầu đối với

quá trình thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp, nhất là tài sản góp vốn là

quyền sở hữu trí tuệ cần có sự thỏa thuận về quyền lợi cũng như cam kết thực 19 Điều 29 khoản 2 Nghị định 89/2013/NĐ-CP ban hành ngày 06/8/2013, Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá

42

hiện nghĩa vụ giữa các bên. Nội dung thỏa thuận xác định rõ các điều khoản cơ

bản như chủ thể góp vốn, đối tượng và điều kiện đối tượng góp vốn là quyền sở

hữu trí tuệ, thời hạn góp vốn, định giá quyền sở hữu trí tuệ, phương thức chuyển

giao vốn góp, thời điểm góp vốn, phương thức xử lý tài sản góp vốn khi hết thời

hạn góp vốn hoặc khi doanh nghiệp bị giải thể, phá sản. Đây là bước đầu tiên

quết định việc doanh nghiệp có được thành lập hay không, vậy nên các điều

khoản được thỏa thuận càng đầy đủ, chi tiết sẽ càng có lợi cho quá trình xác lập

hợp đồng, điều lệ công ty và chuyển giao sau này.

Bước 2. Thông qua điều lệ công ty.

Pháp luật Việt Nam ghi nhận đồng nhất hợp đồng góp vốn thành lập

doanh nghiệp với điều lệ của doanh nghiệp. Vậy nên việc ghi nhận những nội

dung về tỷ lệ vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò hợp thức hóa những

thỏa thuận trước đó của các thành viên, cổ đông của công ty. Đối với công ty

trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, cần ghi rõ phần vốn góp và giá trị vốn

góp của mỗi thành viên; đối với công ty cổ phần, nội dung cơ bản bao gồm số cổ

phần của cổ đông sáng lập, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng số cổ phần

được quyền chào bán của từng loại. Ngoài ra, do loại vốn góp đặc thù là quyền

sở hữu trí tuệ nên trong điều lệ phải ghi rõ đối tượng quyền sở hữu trí tuệ nào

được dùng để góp vốn, thời hạn góp vốn, xứ tài sản góp vốn sau khi hết thời hạn.

Bước 3. Đăng ký kinh doanh.

Hồ sơ đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký bao gồm: Giấy đề nghị

đăng ký doanh nghiệp; Điều lệ công ty; Danh sách thành viên; Bản sao chứng

thực cá nhân hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc đại diện hợp pháp của cá nhân,

tổ chức là thành viên, cổ đông sáng lập ; Đối với thành viên là tổ chức nước

ngoài thì bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc tài liệu tương

đương phải được hợp pháp hóa lãnh sự; Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với

43

nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật đầu tư; Biên bản họp của các

thành viên, cổ đông sáng lập về việc định giá tài sản trí tuệ dùng để góp vốn

hoặc biên bản định giá của cơ quan định giá chuyên nghiệp về quyền sở hữu trí

tuệ dùng để góp vốn.

Sau khi người thành lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền nộp hồ

sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp cho cơ quan đăng ký kinh doanh (Phòng

Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh hoặc Phòng Tài

chính - Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện20), cơ quan sẽ xem xét và

cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Doanh nghiệp chính thức được

thành lập và hoạt động kể từ thời ddiemr được cấp Giấy chứng nhận.

Bước 4. Chuyển quyền sở hữu vốn góp cho doanh nghiệp

Sau khi hoàn thành xác định phần vốn góp của các thành viên, cổ đông

sáng lập, để doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động thực tế cần có sự chuyển giao

tài sản giữa thành viên vào sản nghiệp của doanh nghiệp. Quy định về chuyển

quyền sở hữu tài sản góp vốn được Luật doanh nghiệp 2014 quy định như sau:

“Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông

công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty

theo quy định sau đây:

a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất

thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc

quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí

trước bạ;

20 Điều 13 khoản 1 Nghị định 78/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14/9/2015 về Đăng ký doanh nghiệp

44

b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được

thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.

Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty;

họ, tên, địa chỉ thường trú, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh

nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết

định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị

tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài

sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người

góp vốn hoặc đại diện theo ủy quyền của người góp vốn và người đại diện

theo pháp luật của công ty;

c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là Đồng Việt

Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi

quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.”21

Bước 5. Cấp giấy chứng nhận vốn góp cho thành viên, cổ đông sáng lập

góp vốn.

 Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh

Tại thời điểm thành viên đã góp đủ phần vốn góp, công ty phải cấp giấy

chứng nhận phần vốn góp cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã góp.

Giấy chứng nhận phần vốn góp có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên, mã số

doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Vốn điều lệ của công ty; Họ, tên,

địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân

dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với thành viên là cá

nhân; tên, số quyết định thành lập hoặc mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính

đối với thành viên là tổ chức; Phần vốn góp, giá trị vốn góp của thành viên; Số

21 Điều 36 Luật doanh nghiệp 2014

45

và ngày cấp giấy chứng nhận phần vốn góp; Họ, tên, chữ ký của người đại diện

theo pháp luật của công ty22.

 Công ty cổ phần

Đối với công ty cổ phần thì giấy chứng nhận phần tài sản góp vốn của cổ

đông chính là cổ phiếu – là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút

toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Nội

dung ghi trên cổ phiếu có đầy đủ những khoản sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính của

công ty; Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Số lượng cổ phần

và loại cổ phần; Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ

phiếu; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ

chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa

chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh

của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; Tóm tắt về thủ tục chuyển

nhượng cổ phần; Chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công

ty; Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu;

Các nội dung khác theo quy định đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi23.

2.1.5. Vấn đề chuyển giao tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ

Với đặc thù của quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản, là loại tài sản

vô hình, vậy nên thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn sau khi thành lập

doanh nghiệp đối với loại tài sản này phức tạp hơn chuyển giao đối với tài sản

hữu hình mà phải tuân thủ theo những quy định của cả pháp luật doanh nghiệp

và pháp luật sở hữu trí tuệ. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được cho phép góp

vốn đã nêu ở trên bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả,

quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

22 Điều 48 khoản 5 Luật doanh nghiệp 2014 23 Điều 85 khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014

46

Với các đối tượng quyền tác giả và quyền liên quan, do cơ chế xác lập và

bảo hộ quyền là cơ chế tự động không cần thông qua đăng ký nên việc chuyển

giao quyền sở hữu được coi là hoàn thành khi chuyển giao quyền tài sản và

quyền công bố tác phẩm được ghi nhận bằng hợp đồng chuyển giao giữa các bên

chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Với các đối tượng của quyền sở hữu công

nghiệp mà việc xác lập và bảo hộ quyền cần thông qua thủ tục đăng ký (quyền

bảo hộ đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, tên

thương mại), để hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu cần có hợp đồng bằng

văn bản và lập hồ sơ chuyển nhượng để gửi lên cơ quan có thẩm quyền (Cục Sở

hữu trí tuệ Việt Nam đối với trường hợp chuyển nhượng quyền tác giả, quyền

liên quan và quyền sở hữu công nghiệp, và Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với trường hợp chuyển nhượng quyền đối

với giống cây trồng). Nội dung hồ sơ bao gồm Tờ khai đăng ký theo mẫu quy

định; Bản gốc hoặc bản sao hợp lệ hợp đồng; Bản gốc văn bằng bảo hộ đối với

trường hợp chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp; Văn bản đồng ý của các

đồng chủ sở hữu, văn bản giải trình lý do không đồng ý của bất kỳ đồng chủ sở

hữu nào về việc chuyển giao quyền nếu quyền sở hữu công nghiệp thuộc sở hữu

chung; Chứng từ nộp phí, lệ phí; Giấy uỷ quyền nếu nộp hồ sơ thông qua đại

diện24. Sau khi xem xét hồ sơ đầy đủ và hợp pháp, Cục Sở hữu trí tuệ ra quyết

định cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công

nghiệp, đồng thời ghi nhận việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp vào Sổ

đăng ký quốc gia về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp và công bố quyết

định cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công

nghiệp trên Công báo sở hữu công nghiệp.

24 Điều 149 Luật sở hữu trí tuệ 2005

47

2.1.6. Xử lý tài sản khi hết thời hạn góp vốn

Trong trường hợp hết thời hạn góp vốn hoặc do các bên thỏa thuận chắm

dứt việc góp vốn mà vẫn chưa hết thời hạn được bảo hộ đối với quyền sở hữu trí

tuệ tương ứng thì bên góp vốn được nhận lại quyền sở hữu trí tuệ đó. Nếu bên

góp vốn không có nhu cầu sử dụng quyền sở hữu trí tuệ thì doanh nghiệp nhận

góp vốn vẫn có thể sử dụng quyền sở hữu trí tuệ nếu có sự đồng ý của bên góp

vốn.

Nếu thời hạn bảo hộ đối với quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn đã hết,

doanh nghiệp nhận góp vốn vẫn có tểh tiếp tục sử dụng các đối tượng góp vốn

nhưng không còn vị thể độc quyền sử dụng nữa. Lúc này, quyền sở hữu trí tuệ

trở thành tài sản chung, mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền sử dụng.

Nếu doanh nghiệp nhận góp vốn hoặc bên góp vốn bị phá sản thì quyền sở

hữu trí tuệ được xử lý theo quy định về phá sản. Nếu doanh nghiệp nhận góp vốn

bị giải thể hoặc bên góp vốn là tổ chức bị giải thể thì quyền sở hữu trí tuệ được

xử lý theo thỏa thuận giữa các bên phù hợp quy định pháp luật sở hữu trí tuệ và

các quy định pháp luật khác.

2.2. Đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

2.2.1. Ưu điểm

Về cơ bản, pháp luật nước ta về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng

quyền sở hữu trí tuệ đã đáp ứng nhu cầu hình thành của đời sống xã hội. Khung

pháp lý cơ bản cho hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở

hữu trí tuệ được chú ý xây dựng và hoàn thiện trong cả quá trình phát triển của

nền kinh tế nước ta. Đi từ việc công nhận hoạt động đầu tư kinh doanh cá nhân,

quyền được lập hội kinh doanh cho đến những ghi nhận bảo hộ về tài sản trí tuệ

phù hợp với quá trình tham gia thị trường quốc tế của Việt Nam, khung pháp lý

đã dần đáp ứng được thực tiễn thị trường. Gần đây nhất, việc ban hành và đưa 48

vào áp dụng Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản dưới luật điều chỉnh đã cụ

thể hóa quyền được góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

của cá nhân, tổ chức.

Những yêu cầu về nội dung và thủ tục thực hiện hoạt động góp vốn bằng

quyền sở hữu trí tuệ cũng góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về tài sản trí

tuệ. Chủ sở hữu đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ chỉ được phép góp vốn thành

lập doanh nghiệp khi là chủ sở hữu hợp pháp của đối tượng quyền. Để khẳng

định quyền sở hữu của mình, cá nhân, tổ chức phải tuân thủ quy định về đăng ký

bảo hộ (đối với loại tài sản trí tuệ yêu cầu đăng ký) và có ý thức tự bảo vệ quyền

lợi của mình (đối với quyền sở hữu trí tuệ bảo hộ tự động).

Việc quy định mở rộng loại tài sản được góp vốn mang lại nhiều lợi ích

cho quá trình huy động vốn kinh doanh, đóng góp lợi ích cho nền kinh tế. Rất

nhiều tài sản trí tuệ chỉ mang lại giá trị khi được sử dụng vào sản xuất, kinh

doanh, hơn thế còn là giá trị rất lớn. Hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập

doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ mang lại cơ hội cho chính chủ sở hữu

đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ khi nhận thức được đầu tư kinh doanh kiếm lời,

được sử dụng sáng tạo bản thân tạo ra lợi nhuận mà không yêu cầu chủ sở hữu

phải trực tiếp thực hiện từng hoạt động kinh doanh.

2.2.2. Hạn chế

Việc sử dụng thuật ngữ “giá trị quyền sở hữu trí tuệ” là một trong các loại

tài sản được sử dụng góp vốn chưa phản ánh được đúng bản chất của hoạt động

góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ. Như đã đề cập đến ở

trên, điều mà bên nhận góp vốn mong muốn là quyền sử dụng, quyền khai thác

tài sản trí tuệ mà không phải giá trị quy đổi ra tiền của quyền sở hữu trí tuệ. Chỉ

khi áp dụng tài sản trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh kết hợp với những tài

nguyên khác của doanh nghiệp, lúc ấy doanh nghiệp mới nâng cao giá trị tài sản,

49

thu về lợi nhuận. Giá trị quy đổi thành tiền của quyền sở hữu trí tuệ không còn

mang lại tác dụng giống như bản chất quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn.

Tuy đã quy định thêm và có phần kỹ hơn về tài sản góp vốn là giá trị

quyền sở hữu trí tuệ nhưng xét thấy trong việc áp dụng pháp luật vào thực tế có

thể gây cản trở cho doanh nghiệp. Cụ thể những quyền sở hữu trí tuệ thường

được nhìn nhận nhiều hơn là sáng chế hay nhãn hiệu, tên thương mại, điều này

dễ khiến doanh nghiệp lãng quên những đối tượng khác có thể được sử dụng làm

gia tăng sản nghiệp của công ty như mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng

dịch vụ, cụ thể là danh sách khách hàng thân thiết hay nguồn cung ứng nguyên

vật liệu; yếu tố bí mật kinh doanh khác như nguồn thông tin nội bộ.

Cùng với giá trị quyền sở hữu trí tuệ, luật cũng liệt kê loại tài sản công

nghệ, bí quyết kỹ thuật làm tài sản góp vốn. Điều này có vẻ khá thừa thãi khi mà

yếu tố công nghệ thường được coi là sở hữu công nghiệp, cụ thể tùy vào lĩnh vực

kinh doanh là kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; bí

quyết kỹ thuật cũng được coi là một loại bí mật kinh doanh, thuộc vào quyền sở

hữu công nghiệp. Nếu như ý định của nhà làm luật chỉ nhằm nhấn mạnh vào loại

hình tài sản trí tuệ cụ thể nói trên thì sẽ làm mất đi tính khách quan của điều luật.

Liên quan đến vấn đề thẩm quyền thẩm định giá trị quyền sở hữu trí tuệ

tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp, pháp luật Việt Nam chưa có những

quy định yêu cầu cụ thể cơ quan nhà nước quản lý riêng biệt mà chỉ đưa ra yêu

cầu đối với đối tượng tài sản đặc thù thuộc sở hữu nhà nước, còn lại để cho các

bên tự do thỏa thuận về giá trị tài sản. Điều này tạo ra sự tự do thỏa thuận cho

các bên tham gia quan hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí

tuệ nhưng cũng đồng thời tạo lỗ hổng cho các doanh nghiệp khi thỏa thuận định

giá cao hơn nhiều lần so với giá trị thực tế. Việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí

tuệ không yêu cầu các bên nộp thuế, các thành viên/cổ đông doanh nghiệp tự ý

định giá cao tài sản nhằm tạo nên uy thể cao hơn cho doanh nghiệp, từ đó thu hút

50

được đối tác, gây cho đối tác sự nhầm tưởng vào giá trị và khả năng hoạt động

của công ty.

51

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM

3.1. Thực trạng hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

Thực tế hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở

Việt Nam do hệ thống văn bản pháp luật còn chưa quy định chi tiết và đầy đủ

nên các doanh nghiệp còn gặp một số khó khăn trong quá trình huy động vốn.

 Vướng mắc về ghi nhận phần vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ

Vấn đề ghi nhận về góp vốn thành lập công ty tuy đối tượng góp vốn là

quyền sở hữu trí tuệ, một loại tài sản vô hình, mang những đặc thù riêng so với

loại tài sản góp vốn như tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ hay vàng nhưng hình thức

xác nhận góp vốn lại là hợp thương mại thông thường. Trong hợp đồng thương

mại dạng này, phần vốn góp là giá trị quyền sở hữu trí tuệ được quy đổi hẳn

thành giá trị tiền mặt hay “góp vốn bằng tiền” và điều này gây khó khăn cho hệ

thống kế toán của doanh nghiệp; đồng thời, gây ra rất nhiều vướng mắc nếu chủ

sở hữu quyền muốn rút vốn, hay khi bên nhận vốn góp không muốn tiếp tục hợp

tác.

 Ghi nhận nhưng không chuyển giao

Yêu cầu về thủ tục góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ

bao gồm một bước rất quan trọng là chuyển quyền sở hữu tài sản là quyền sở

hữu trí tuệ sang cho công ty mới thành lập. Tuy đã quy định về trách nhiệm của

bên chuyển giao quyền nhưng có rất nhiều trường hợp tuy đã ghi nhận trong điều

lệ thành lập công ty rằng phần vốn góp là quyền sở hữu trí tuệ nhưng sau khi

được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp đã đi vào hoạt

động nhưng thành viên, cổ đông góp vốn chưa chuyển giao quyền khai thác giá

52

trị quyền sở hữu trí tuệ, hơn thể còn yêu cầu đền bù giá trị quyền bằng tiền mặt

thay thế cho quyền. Trường hợp này khá phổ biến khi doanh nghiệp muốn tạo

thanh thế nên ngay khi đăng ký kinh doanh đã ghi nhận những giá trị quyền sở

hữu trí tuệ có khả năng sinh lời lớn nằm trong sản nghiệp của mình. Tuy nhiên

đến khi đi vào hoạt động, công ty lúc này lại không có quyền sử dụng tài sản trí

tuệ đã đăng ký dù cho vốn điều lệ không thay đổi, giá trị sản nghiệp vẫn giữ

nguyên. Cũng có trường hợp bên góp vốn đơn phương không mong muốn

chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ hay bên góp vốn không có quyền chuyển giao,

góp vốn đối với tài sản trí tuệ nói trên.

 Hạn chế trong vấn đề thẩm định giá trị tài sản góp vốn

Trong thực tiễn những doanh nghiệp nhận góp vốn thành lập bằng quyền

sở hữu trí tuệ đa phần là những công ty con, công ty nhánh với đối tượng sở hữu

trí tuệ là nhãn hiệu, tên thương mại, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Bên góp

vốn đa phần là những công ty mẹ, có số vốn lớn, là cổ đông, thành viên quyết

định trong công ty. Hình thức hoạt động chuỗi này đặt ra vấn đề định giá tài sản

góp vốn không sát với thực tiễn thị trường khi mà bên góp vốn có vị thế đơn

phương quyết định giá trị quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn.

 Hệ thống pháp luật áp dụng cho hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng

quyền sở hữu trí tuệ còn chồng chéo, chưa khả thi

Hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ chịu sự

điều chỉnh của hai hệ thồng pháp luật là pháp luật doanh nghiệp và pháp luật sở

hữu trí tuệ. Trong rất nhiều vấn đề về chủ thể, đối tượng được góp vốn, thủ tục

hoàn thành góp vốn, việc áp dụng hai hệ thống pháp luật khác nhau gây khó

khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện theo đúng quy trình pháp luật, tạo tâm lý

“ngại” cho doanh nghiệp không muốn huy động vốn với loại tài sản có giá trị

cao nhưng nhiều cản trở pháp lý. Không chỉ là sự mẫu thuẫn giữa hai ngành luật

53

nói trên mà hoạt động này còn liên quan tới những lĩnh vực pháp luật khác gắn

liễn với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như kế toán – tài chính, hoạt

động thuế thu nhập doanh nghiệp, … Mỗi một bước trong quá trình góp vốn

thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ lại liên quan đến của lĩnh vực pháp

luật khác nhau, chính chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa chắc

nhận thức hết những văn bản pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mình.

3.2. Kiến nghị giải pháp cải thiện thực trạng hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

3.2.1. Xây dựng hệ thống hóa văn bản pháp luật riêng biệt

Dựa trên những hạn chế cũng như bất cập trong quy định pháp luật và

thực tiễn áp dụng, cần thiết phải có hành lang pháp lý thống nhất cho phép các cá

nhân, tổ chức được góp vốn đầu tư bằng quyền sở hữu trí tuệ. Việc xây dựng hệ

thống pháp luật cụ thể hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện dễ dàng sẽ

mang lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế. Những điểm cần chú ý trong xây dựng hệ

thống pháp luật riêng biệt này bao gồm:

 Tiếp thu ý kiến đóng góp của các bên liên quan

Để hệ thống pháp luật đi vào thực tiễn, cần có sự đóng góp cảu các bên

liên quan. Chính những chủ thể này trực tiếp thực thi pháp luật. Nếu như những

điều luật được soạn thảo ra những lại mang hiểu quản ngược, cản trở tự do kinh

doanh của các bên góp vốn và nhận góp vốn, hay gây khó khăn trong thực hiện

thủ tục đăng ký bảo hộ quyền, đăng ký kinh doanh, định giá tài sản góp vốn,…

thì tốt hơn hết là không nên xây dựng hệ thống riêng.

 Cần sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan

Lý do không thể phủ nhận cho tình trạng chồng chéo áp dụng các quy

định pháp luật đó chính là sự thiết tương tác giữa các cơ quan quản lý nhà nước

liên quan. Vì hoạt động động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở

54

hữu trí tuệ liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật, không chỉ sở hữu trí tuệ, pháp

luật doanh nghiệp mà còn có những vấn đề về kê khai thuế, ghi nhận kế toán

doanh nghiệp, … Nếu như có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý những vấn

đề này từ hướng dẫn thực hiện pháp luật đến công nhận quyền góp vốn và thủ

tục góp vốn thì nguồn đầu tư bằng quyền sở hữu trí tuệ sẽ trở thành kênh đầu tư

lớn mạnh trong thị trường Việt Nam.

 Cần xây dựng nghị định điều chỉnh và hướng dẫn

Những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn thành lập doanh

nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn rời rạc, gây trở ngại cho các doanh

nghiệp tra cứu và thực hiện. Không chỉ có văn bản Luật sở hữu trí tuệ và Luật

doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động này mà còn có những văn bản dưới luật

khác, các thông tư, hướng dẫn của Bộ Tài chính về thẩm định giá trị tài sản vô

hình, Thông tư về kế toán, hạch toán tài sản vô hình,… Thiết nghĩ đã đến lúc xây

dựng một Nghị định thống nhất do Chính phủ ban hành quy tụ đầy đủ những quy

phạm pháp luật điều chỉnh nói trên. Không chỉ đưa ra những khái niệm cụ thể

chính xác về tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề quyền và nghĩa vụ

chủ thể, thủ tục góp vốn mà văn bản này còn cần đưa ra quy định cụ thể về đặc

điểm hành vi xâm phạm cũng như hình thức truy cứu trách nhiệm của các bên.

 Lập các tổ công tác thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình

thực hiện pháp luật

Khi đã có văn bản quy phạm pháp luật thống nhất điều chỉnh hoạt động

góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ, nhất thiết trong quá

trình áp dụng cần sát sao phát hiện những trường hợp vi phạm pháp luật, xâm

phạm quyền lợi hợp pháp của các chủ thể tham gia khác và có biện pháp xử lý

nhanh chóng, kịp thời.

55

3.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

Hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

không chỉ liên quan đến các chủ thể tham gia trực tiếp là bên góp vốn và bên

nhận góp vốn mà còn có vai trò quan trọng của cơ quan quản lý nhà nước. Việc

các cơ quan này ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài sản góp vốn tạo

điều kiện không nhỏ cho các chủ thể nói trên thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình. Các cơ quan nhà nước liên quan không chỉ là cơ quan đăng ký kinh doanh,

cơ quan đăng ký bảo hộ mà còn là những cơ quan có thẩm quyền trong một số

hoạt động của quá trình góp vốn, cụ thể là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư,

Bộ Khoa học và công nghệ.

Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc đơn giản hóa thủ tục

đăng ký cho doanh nghiệp cũng như xây dựng hướng dẫn cụ thể cho quy trình

góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Yêu cầu đối với các cơ quan nhà nước nói

trên là sự phối hợp, hợp tác để xây dựng hướng dẫn hiệu quả, tránh chồng chéo

không thể áp dụng thực tiễn.

3.2.4. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể tham gia

Các bên tham gia hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền

sở hữu trí tuệ trước hết cần phải nhận biết quyền và nghĩa vụ của chính mình khi

đưa ra quyết định thành lập doanh nghiệp và góp vốn thành lập. Để bảo vệ quyền

lợi của chính mình đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp sau khi thành lập đi

vào hoạt động trôi chảy, tạo ra lợi nhuận, yêu cầu đối với chủ sở hữu góp vốn

phải thực hiện đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ pháp luật về thủ tục

góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.

Yêu cầu đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chủ sở hữu cho thấy

sự hiểu biết pháp luật của chủ sở hữu quyền, chỉ khi nhận thức được điều kiện và

giới hạn bảo hộ quyền, những yếu điểm có thể bị xâm phạm của mình thì chủ sở

56

hữu mới nhận biết được hết giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, nó tạo tiền đề

cho việc quản lý nhà nước về xác lập quyền, hoạt động chuyển giao quyền sở

hữu trí tuệ, cũng tạo cơ sở xác định cho các chủ thể khác tham gia doanh nghiệp.

Pháp luật về thủ tục góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm những

yêu cầu về xác định chủ sở hữu hợp pháp của quyền tài sản, thẩm định giá trị

quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục chuyển giao quyền. Chủ thể tham gia hoạt động góp

vốn không chỉ bảo vệ được quyền lợi cơ bản của mình không bị xâm phạm, đồng

thời có tểh khai thác tối đa giá trị của quyền sở hữu trí tuệ, tạo ra lợi nhuận. Tuân

theo đúng thủ tục, đúng quy trình không chỉ dễ dang hơn cho quản lý nhà nước

mà còn gián tiếp tạo nên môi trường kinh doanh lý tưởng, thu hút nhiều đầu tư

hơn nữa.

Để thực hiện đúng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng

quyền sở hữu trí tuệ cần có ý thức mạnh mẽ của cá nhân, tổ chức liên quan, các

chủ thể tham gia cần có kiến thức về sở hữu trí tuệ, về hoạt đông kinh doanh,

nắm rõ được quyền lợi và trách nhiệm của mình, tự bảo vệ được bản thân không

bị xâm phạm quyền lợi. Kết hợp với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật

điều chỉnh và hệ thống thông tin cập nhật, phổ biến sẽ góp phần làm giảm những

trường hợp vi phạm, gây tổn hại cho xã hội.

57

KẾT LUẬN

Hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ đã và

đang diễn ra ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội dẫn đến yêu cầu cần có hệ

thống quy phạm pháp luật hoàn thiện và thống nhất điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh từ hoạt động này. Tuy pháp luật Việt Nam về cơ bản đã hình thành

những định nghĩa, hướng dẫn thực hiện hoạt động góp vốn thành lập công ty

bằng quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời thường xuyên sửa đổi, bổ sung những quy

định đáp ứng thực tiễn xã hội, nhưng vẫn còn tồn tại một số nội dung, quan điểm

liên quan chưa thực sự được hiểu và giải quyết hiệu quả, triệt để.

Luận văn nghiện cứu, làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn các khái niệm về

quyền sở hữu trí tuệ, hoạt đồng góp vốn thành lập công ty, và cụ thể hơn là hoạt

động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ. Từ những định nghĩa

cơ bản đó, luận văn đã tiếp cận thực tiễn pháp luật về góp vốn bằng quyền sở

hữu trí tuệ tại Việt Nam, những quy định cụ thể về điều kiện chủ thể và đối

tượng được phép góp vốn, thủ tục góp vốn và những nội dung khác. Các nội

dung pháp luật được phân tích, so sánh với các quy định pháp luật của quốc tế và

các giai đoạn trong quá trình hình thành và phát triển trước đó, từ đó rút ra đánh

giá ưu điểm và hạn chế của những quy định pháp luật này. Cụ thể tuy đã bước

đầu đưa ra những định nghĩa và hướng dẫn căn bản, những giới hạn trong việc

thực hiện góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, góp phần giảm thiểu những vi

phạm pháp luật về vấn đề này, thực tiễn pháp lý còn có nhiều quy định chưa

khoa học, thống nhất, yêu cầu có sự phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền giải quyết.

Sau khi phân tích những quy định pháp luật về hoạt động góp vốn thành

lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ, luận văn đã đưa ra những tồn tại thực tế,

hiện trạng áp dụng các quy định pháp luật và một số kiến nghị cải thiện tình

trạng thực thi pháp luật. Bằng việc xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật cụ thể

58

và chi tiết; đồng thời nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động

góp vốn kinh doanh và quản lý sở hữu trí tuệ; nhấn mạnh tầm quan trọng của sự

phối hợp giữa các cơ quan; xác định những yêu cầu đối với cá nhân, tổ chức

tham gia hoạt động góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ, từ đó

góp phần ổn định nền kinh tế đất nước.

59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Phạm Tuấn Anh (2009), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam,

Luận văn ThS, Luật, Thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội.

2. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận

án Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

3. Vũ Duy Khang (2003), Hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, NXB Thống Kê,

Hà Nội.

4. Đoàn Thu Hồng (2012), Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu

trí tuệ ở Việt Nam, Luận văn ThS, Luật, Thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội.

5. Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NSB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ

Chí Minh.

6. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

7. Nguyễn Như Phát (1997), Lý luận chung về luật kinh tế, Giáo trình luật kinh

tế Việt Nam, Khoa Luật, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại

học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

8. Quốc hội (1996), Bộ luật dân sự 1995, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

9. Quốc hội (1997), Luật Thương mại 1997, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Quốc hội (2006), Bộ luật dân sự 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Quốc hội (2006), Luật doanh nghiệp 2005, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh.

60

12. Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp 2014, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

13. Quốc hội (2009), Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),

NXB Tư pháp, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Thanh (2002), Những vấn đề pháp lý về góp vốn thành lập công

ty trách nhiệm hữu hạn theo luật doanh nghiệp, Luận văn tốt nghiệp, Thư viện

ĐHQG Hà Nội.

15. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

16. Trường đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Đoàn Văn Trường (2007), Các phương pháp thẩm định giá quyền sở hữu trí

tuệ, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

18. Hồng Văn (2009), Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam, Luận văn

ThS. Luật, Thư viện ĐHQG Hà Nội.

19. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề

cơ bản của Bộ luật dân sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

B. Tiếng nước ngoài

20. Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ: Chính

sách, pháp luật và áp dụng.

61