TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA VẬT LÝ

VĂN THÚY HÀ

SỨC CĂNG TẠI MẶT PHÂN CÁCH CỦA NGƢNG TỤ

BOSE –EINSTEIN HAI THÀNH PHẦN BỊ GIỚI HẠN

BỞI HAI TƢỜNG CỨNG VỚI ĐIỀU KIỆN BIÊN ROBIN

Chuyên ngành: Vật lý lý thuyết

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

-

HÀ NỘI, 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA VẬT LÝ

VĂN THÚY HÀ

SỨC CĂNG TẠI MẶT PHÂN CÁCH CỦA NGƢNG TỤ

BOSE –EINSTEIN HAI THÀNH PHẦN BỊ GIỚI HẠN

BỞI HAI TƢỜNG CỨNG VỚI ĐIỀU KIỆN BIÊN ROBIN

Chuyên ngành: Vật lý lý thuyết

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Th.S Hoàng Văn Quyết

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Trƣớc khi trình bày nội dung chính của khóa luận, tôi xin bày tỏ lòng

biết ơn sâu sắc tới ThS. Hoàng Văn Quyết ngƣời đã định hƣớng chọn đề tài

và tận tình hƣớng dẫn để tôi có thể hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin

bày tỏ lòng biết ơn, các thầy cô giáo giảng dạy chuyên ngành Vật lý lý

thuyết và Vật lý Toán trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình học tập và làm khóa luận. Cuối cùng, tôi xin đƣợc gửi lời cảm

ơn chân thành tới gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện

về mọi mặt trong quá trình học tập để tôi hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Văn Thúy Hà

LỜI CAM ĐOAN

Dƣới sự hƣớng dẫn của ThS. Hoàng Văn Quyết khóa luận tốt nghiệp

chuyên ngành Vật lý lý thuyết với đề tài “ Sức căng tại mặt phân cách của

ngƣng tụ BOSE - EINSTEIN hai thành phần bị giới hạn bởi hai tƣờng cứng

với điều kiện biên Robin” đƣợc hoàn thành bởi chính sự nhận thức của bản

thân, không trùng với bất cứ khóa luận nào khác.

Trong khi nghiên cứu khóa luận, tôi đã kế thừa những thành tựu của các

nhà khoa học với sự trân trọng và biết ơn.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Văn Thúy Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 3

6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 3

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ NGƢNG TỤ BOSE-

EINSTEIN ......................................................................................................... 4

1.1. Hệ hạt đồng nhất ........................................................................................ 4

1.2. Thống kê Bose – Einstein .......................................................................... 5

1.3. Tình hình nghiên cứu về ngƣng tụ Bose – Einstein ................................. 15

1.4. Thực nghiệm về ngƣng tụ Bose - Einstein ............................................... 18

1.4.1. Ngưng tụ Bose – Einstein đầu tiên của nguyên tố erbium .................... 18

1.4.2. Loại ánh sáng mới tạo đột phá về vật lý ............................................... 20

1.4.3. Kỹ thuật lưu trữ và khôi phục ánh sáng ................................................ 22

1.4.4. Các nhà Vật lý khẳng định sự tồn tại của trạng thái ngưng tụ polartion

......................................................................................................................... 24

1.4.5. Chất siêu dẫn mới ................................................................................. 27

1.4.6. Lần đầu tiên quan sát thấy hiệu ứng Hall ở một ngưng tụ Bose -

Einstein ............................................................................................................ 28

CHƢƠNG 2. TRẠNG THÁI CƠ BẢN CỦA NGƢNG TỤ BOSE-EINSTEIN

HAI THÀNH PHẦN PHÂN TÁCH YẾU ...................................................... 31

2.1. Phƣơng trình Gross-Pitaevskii ................................................................. 31

2.1.1. Phương trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian ............................. 31

2.1.2 Phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào thời gian ............ 32

2.2. Gần đúng parabol kép (Double parabola approximation - DPA) .......... 35

2.3. Trạng thái cơ bản trong gần đúng parabol kép ....................................... 37

CHƢƠNG 3. SỨC CĂNG MẶT NGOÀI CỦA NGƢNG TỤ BOSE-

EINSTEIN HAI THÀNH PHẦN BỊ GIỚI HẠN BỞI HAI TƢỜNG CỨNG

TRONG GẦN ĐÚNG PARABOL KÉP ........................................................ 42

3.1. Khái niệm về sức căng mặt ngoài ............................................................ 42

3.2. Suất căng mặt ngoài của ngƣng tụ Bose-Einstenin hai thành phần bị giới

hạn bởi hai tƣờng cứng .................................................................................... 46

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 50

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 51

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vào đầu thế kỉ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên nhƣ các ngành

nghiên cứu riêng độc lập với nhau, vật lý học giao nhau với nhiều lĩnh vực

nghiên cứu, các phát hiện mới trong vật lý thƣờng giải thích những cơ chế cơ

bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hƣớng nghiên cứu

mới trong đó có trạng thái ngƣng tụ Bose - Einstein (BEC). Xuất phát từ ý

tƣởng của nhà lý thuyết Ấn Độ Satyendra Nath Bose về một phân bố lƣợng

tử cho các photon đƣợc đƣa ra năm 1924 để giải thích phổ phát xạ và hấp thụ

của vật đen tuyệt đối. Năm 1925 nhà vật lí ngƣời Đức Albert Einstein đƣa ra

dự đoán về BEC cho các nguyên tử với spin toàn phần có giá trị nguyên đó là:

khi làm lạnh các nguyên tử, bƣớc sóng của chúng tăng lên đến mức có thể so

sánh với kích thƣớc không gian giữa các nguyên tử, các bó sóng nguyên tử sẽ

chồng chất lên nhau, các nguyên tử mất nhận dạng các nhân, tạo nên một

trạng thái lƣợng tử vĩ mô hay nói cách khác một siêu nguyên tử tức là một

BEC. BEC đƣợc đề xuất nhƣ một cơ chế chính để giải thích các hiện tƣợng

lƣợng tử vĩ mô nhƣ siêu chảy và siêu dẫn. Mãi tới năm 1980 kỹ thuật laser

phát triển đủ để làm siêu lạnh các nguyên tử đến nhiệt độ rất thấp thì BEC

mới thực hiện đƣợc và đến năm 1995 mới quan sát đƣợc bằng thực nghiệm,

một loạt tính chất quan trọng chƣa từng biết đến trƣớc đây đã đƣợc phát hiện.

Trạng thái vật chất này hoàn toàn mới trong đó các hạt bị giam chung trong

trạng thái ở năng lƣợng thấp nhất, không giống với trạng thái vật chất nào mà

con ngƣời đƣợc biết. BEC đƣợc tạo thành thuần túy từ hiệu ứng lƣợng tử dựa

trên thống kê Bose - Einstein vì thế nó đƣợc coi là vật chất lƣợng tử với các

tính chất rất đặc biệt: là 1 chất lỏng lƣợng tử với tính kết hợp rất cao nhƣ các

tia laser. Từ các tính chất cơ bản của BEC ngƣời ta có thể suy ra nhiều loại

1

linh kiện thiết bị tinh vi, chế tạo các chíp nguyên tử, thực hiện các chức năng

đa dạng trong giao thoa kế, máy kĩ thuật toàn ảnh, kính hiển vi đầu dò xét và

xử lí thông tin lƣợng tử. Đây là lĩnh vực khoa học hay và có hƣớng phát triển

mạnh mẽ, chúng ta có thể quan sát đƣợc nhiều hiệu ứng vật lý mà các dạng

vật chất khác không có, nó mang ý nghĩa quan trọng trong ngành vật lý.

Nhận thức đƣợc việc tìm hiểu về BEC đối với sinh viên là điều cần thiết,

mặt khác muốn tổng hợp kiến thức từ nhiều tài liệu khác nhau nhằm tích lũy

kiến thức cho bản thân. Do điều kiện về thời gian, kinh phí và kiến thức còn

hạn hẹp nên đối với sinh viên chỉ có thể tìm hiểu một khía cạnh nhỏ của BEC

vì vậy em chọn và nghiên cứu đề tài “ Sức căng tại mặt phân cách của

ngưng tụ BOSE - EINSTEIN hai thành phần bị giới hạn bởi hai tường

cứng với điều kiện biên Robin”.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý thuyết về ngƣng tụ Bose - Einstein nghiên cứu sức căng tại

mặt phân cách của ngƣng tụ Bose - Einstein hai thành phần bị giới hạn bởi

hai tƣờng cứng với điều kiện biên robin.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng: các tính chất ở bề mặt tiếp giáp, tính nhiệt động, tính thống kê

của hệ BEC hai thành phần.

Phạm vi: chỉ nghiên cứu trƣờng hợp hai chất lỏng không trộn lẫn nhau.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trình bày tổng quan đƣợc các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về

BEC.

Trình bày hệ phƣơng trình Gross – Pitaevskii.

2

Trình bày về phƣơng pháp gần đúng Parabol kép.

Áp dụng phƣơng pháp gần đúng Parabol kép để nghiên cứu sức căng tại

mặt phân cách của ngƣng tụ Bose - Einstein hai thành phần bị giới hạn bởi hai

tƣờng cứng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đọc sách và tra cứu tài liệụ.

Đàm thoại và trao đổi với giảng viên.

Trong khuôn khổ lý thuyết Gross - Pitaevskii áp dụng phƣơng pháp gần

đúng Parabol kép.

6. Đóng góp của đề tài

Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên.

3

CHƢƠNG 1.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ NGƢNG TỤ BOSE-EINSTEIN

1.1. Hệ hạt đồng nhất

Chúng ta hãy nghiên cứu một hệ N hạt chuyển động phi tƣơng đối tính.

Trong trƣờng hợp này toán tử Hamilton có thể viết dƣới dạng

(1.1)

trong đó là toán tử thế năng tƣơng tác giữa các hạt, nó là hàm của tọa độ

của tất cả các hạt, là toán tử đặc trƣng cho tƣơng tác spin – quỹ đạo, tƣơng

tác giữa các spin của các hạt và thế năng của trƣờng ngoài…

Phƣơng trình Schrodinger cho trạng thái của hệ có dạng

(1.2)

với toán tử Hamilton (1.1) là hàm của thời gian, của tọa độ không gian và spin

của các hạt 1, 2, 3,…, N.

Nếu các hạt có các đặc trƣng nhƣ điện tích, khối lƣợng, spin,…không

phân biệt đƣợc với nhau thì chúng ta có một hệ N hạt đồng nhất. Trong một

hệ nhƣ thế, làm thế nào có thể phân biệt đƣợc hai hạt với nhau? Trong vật lý

học cổ điển đối với trƣờng hợp tƣơng tự ngƣời ta có thể phân biệt các hạt theo

các trạng thái của chúng, nghĩa là nêu ra các tọa độ và xung lƣợng của từng

hạt. Nhƣng biện pháp này không thể áp dụng đƣợc trong cơ học lƣợng tử.

Chẳng hạn hai electron ở thời điểm đầu có thể phân biệt đƣợc bằng cách đặt

chúng ở hai hố thế khác nhau, cách nhau bởi một rào thế, thì do hiệu ứng

đƣờng hầm, theo thời gian, các electron có thể trao đổi các trạng thái cho

nhau và việc phân biệt hai electron với nhau sẽ mất hết ý nghĩa.

4

Tính không phân biệt đƣợc các hạt đồng nhất theo các trạng thái trong cơ

học lƣợng tử dẫn tới nguyên lý về tính đồng nhất: Trong hệ các hạt đồng nhất

chỉ tồn tại những trạng thái không thay đổi khi đổi chỗ các hạt đồng nhất cho

nhau.

Dựa vào tính chất nội tại của các hạt ngƣời ta chia hệ hạt đồng nhất thành

hai nhóm cụ thể là:

+ Hệ fermion: hệ này bao gồm các hạt fermion, đó là các hạt có spin bán

nguyên ; ví dụ nhƣ electron, các nucleon,… Hệ này bị chi phối bởi

nguyên lý loại trừ Pauli: “Hai fermion cùng loại không bao giờ đƣợc tìm thấy

ở tại cùng một vị trí”. Nguyên lý này đƣợc rút ra từ tính phản đối xứng của

hàm sóng trên các fermion.

+ Hệ boson: hệ này bao gồm các hạt boson, đó là các hạt có spin nguyên; ví

dụ nhƣ photon, - meson, - meson… Hệ này không bị chi phối bởi nguyên

lý loại trừ Pauli, các boson có thể tìm thấy ở cùng một vị trí.

Do hệ boson tuân theo thống kê Bose – Einstein nên ngƣời ta đã áp dụng

thống kê Bose – Einstein tìm đƣợc tính chất điển hình của boson là ngƣng tụ

Bose – Einstein trong đó nhiều hạt giống nhau đóng vai trò nhƣ nhau nhƣ một

hạt, điều mà các fermion nằm tại các vị trí khác nhau không làm đƣợc.

1.2. Thống kê Bose – Einstein

Đối với các hệ hạt đồng nhất, chúng ta không cần biết cụ thể hạt nào ở

trạng thái nào mà chỉ cần biết trong mỗi trạng thái đơn hạt có bao nhiêu hạt.

Xuất phát từ công thức chính tắc lƣợng tử

5

(1.3)

trong đó là độ suy biến.

Nếu hệ gồm các hạt không tƣơng tác thì ta có

(1.4)

ở đây, là năng lƣợng của một hạt riêng lẻ, là số chứa đầy tức là số hạt có

cùng năng lƣợng .

Số hạt trong hệ có thể nhận giá trị từ với xác suất khác nhau. Độ

suy biến trong (1.3) sẽ tìm đƣợc bằng cách tính số các trạng thái khác nhau

về phƣơng diện Vật lý ứng với cùng một giá trị đó chính là số mới vì số

hạt trong hệ không phải là bất biến nên tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp thống kê cổ

điển thay thế cho phân bố chính tắc lƣợng tử ta có thể áp dụng phân bố chính

tắc lớn lƣợng tử hay phân bố Gibbs suy rộng.

Phân bố chính tắc lớn lƣợng tử có dạng

(1.5)

trong đó , thế nhiệt động lớn, là thế hóa.

Sở dĩ có thừa số xuất hiện trong công thức (1.5) là vì có kể đến tính

đồng nhất của các hạt và tính không phân biệt của các trạng thái mà ta thu

đƣợc do hoán vị các hạt.

Ta kí hiệu

6

(1.6)

Khi đó (1.5) đƣợc viết lại nhƣ sau

(1.7)

Từ đây ta có hai nhận xét về công thức (1.7) nhƣ sau:

Một là vế phải của (1.7) có thể coi là hàm của các nên ta có thể đoán

nhận công thức đó nhƣ là xác suất để cho có hạt nằm trên mức hạt

nằm trên mức , đó là xác suất chứa đầy. Do đó nhờ công thức này ta có thể

tìm đƣợc số hạt trung bình nằm trên các mức năng lƣợng

(1.8)

Hai là đại lƣợng xuất hiện vì ta kể đến khả năng xuất hiện các

trạng thái Vật lý mới hoán vị (về tọa độ) các hạt. Đối với hệ boson và hệ

fermion, tức là hệ đƣợc mô tả bằng hàm sóng đối xứng và phản đối xứng, thì

các phép hoán vị đều không đƣa đến một trạng thái Vật lý mới nào cả, bởi vì

khi đó hàm sóng của hệ sẽ chỉ hoặc không đổi dấu, hoặc đổi dấu nghĩa là diễn

tả cùng một trạng thái lƣợng tử. Do đó đối với các hạt boson và hạt fermion

ta có

7

(1.9)

Tìm

Trong phân bố Maxwell – Boltzmann tất cả các phép hoán vị khả dĩ của

tọa độ của các hạt có cùng một năng lƣợng . Do đó số tổng cộng các trạng

thái khác nhau về phƣơng diện Vật lý sẽ bằng số hoán vị tổng cộng chia

cho số hoán vị trong các nhóm có cùng năng lƣợng tức là chia cho

Khi đó

(1.10)

thay giá trị của vào (1.6) ta thu đƣợc (1.9). Để tính trị trung bình của các

số chứa đầy (số hạt trung bình nằm trên mức năng lƣợng khác nhau) ta gắn

cho đại lƣợng trong công thức (1.7) chỉ số , tức là ta sẽ coi hệ ta xét hình

nhƣ không phải chỉ có một thế hóa học mà ta có cả một tập hợp thế hóa

học . Và cuối phép tính ta cho .

Tiến hành phép thay thế nhƣ trên ta có thể viết điều kiện chuẩn hóa nhƣ

sau

(1.11)

với

(1.12)

8

nghĩa là (1.13)

Khi đó đạo hàm của dựa vào (1.12) và (1.13) theo

(1.14

)

Nếu trong biểu thức (1.14) ta đặt thì theo (1.8) vế phải của công

thức (1.14) có nghĩa là giá trị trung bình của số chứa đầy tức là ta thu đƣợc

(1.15)

Đối với hệ hạt Boson, số hạt trên các mức có thể có trị số bất kì (từ

) và do đó theo (1.11) ta có

(1.16)

khi đó

(1.17)

Theo (1.15) ta tìm đƣợc phân bố của các số chứa đầy trung bình

9

(1.18)

ta có (1.18) là công thức của thống kê Bose – Einstein. Thế hóa học trong

công thức (1.18) đƣợc xác định từ điều kiện

(1.19)

Đối với khí lí tƣởng, theo công thức của thống kê Bose – Einstein, số hạt

trung bình có năng lƣợng trong khoảng từ bằng

(1.20)

trong đó là số các mức năng lƣợng trong khoảng

Tìm

Theo quan điểm lƣợng tử, các hạt Boson chứa trong thể tích V có thể xem

nhƣ các sóng dừng De Broglie. Vì vậy có thể xác định bằng cách áp

dụng công thức

cho ta số các sóng dừng có chiều dài (mô đun) của véctơ từ

(1.21)

Theo hệ thức De Broglie giữa xung lƣợng và véc tơ sóng

10

(1.22)

khi đó (1.21) có thể đƣợc viết dƣới dạng

(1.23)

Đối với các hạt phi tƣơng đối tính tức là hạt có vận tốc thì

suy ra

do đó (1.23) có dạng

Vì các hạt có thể có các định hƣớng spin khác nhau nên số trạng thái khả

dĩ ứng với cùng một giá trị của spin của hạt Do đó, số các mức

năng lƣợng trong khoảng là

(1.24)

Theo (1.20) số hạt trung bình có năng lƣợng trong khoảng là

(1.25)

Vì số hạt toàn phần là N nên ta có phƣơng trình sau

11

(1.26)

Phƣơng trình này về nguyên tắc cho ta xác định thế hóa học . Ta xét

một số tính chất tổng quát của thế hóa học đối với khí Bose lí tƣởng. Đầu

tiên ta chứng minh rằng

(1.27)

Thực vậy, số hạt trung bình chỉ có thể là một số dƣơng, do đó, theo

(1.25), điều kiện đó chỉ thỏa mãn khi mẫu số ở (1.25) luôn luôn dƣơng (nghĩa

là khi , để cho luôn luôn lớn hơn 1 với mọi giá trị của ).

Tiếp theo chúng ta có thể chứng minh rằng, giảm dần khi nhiệt độ tăng

lên. Thực vậy, áp dụng qui tắc lấy đạo hàm các hàm ẩn vào (1.26) ta có:

(1.28)

12

Nhƣng do (1.26) nên , do đó biểu thức dƣới dấu tích phân ở vế

phải (1.28) luôn luôn dƣơng với mọi giá trị của , vì vậy . Từ các tính

chất và của hàm ta thấy khi nhiệt độ giảm thì tăng (từ giá

trị âm tăng đến giá trị lớn hơn “nhƣng vẫn là âm”) và tới nhiệt độ T0 nào đó

sẽ đạt giá trị cực đại bằng không ( ).

Xác định nhiệt độ T0

Chọn và . Khi đó phƣơng trình (1.26) trở thành

Đặt suy ra

(1.29)

Mà ta biết nên từ (1.29) và , ta đƣợc

(1.30)

Đối với tất cả các khí boson quen thuộc thì nhiệt độ đó là rất nhỏ. Chẳng hạn nhƣ đối với 4He, ngay cả với khối lƣợng riêng của chất lỏng Hêli vào cỡ 120kg/m3 ta đƣợc . Tuy nhiên, sự tồn tại nhiệt độ có ý nghĩa

13

rất quan trọng. Để hiểu ý nghĩa của nó ta xét khoảng nhiệt độ Khi

giảm nhiệt độ xuống tới thì thế hóa học tăng tới giá trị , mà

nên không thể giảm nữa, do đó trong khoảng nhiệt độ thì

.

Với nhiệt độ số hạt có năng lƣợng là

(1.31)

So sánh (1.29) và (1.31) ta thấy

Vì số hạt toàn phần trong hệ là không đổi, nên kết quả trên phải đƣợc

đoán nhận Vật lý một cách đặc biệt. Khi thì chỉ ra rằng số hạt

toàn phần N chỉ có một phần số hạt có thể phân bố theo các mức năng

lƣợng một cách tƣơng ứng với công thức (1.20), tức là

(1.32)

Các hạt còn lại , cần phải đƣợc phân bố nhƣ thế nào đó khác đi,

chẳng hạn nhƣ tất cả số đó nằm trên mức năng lƣợng thấp nhất, nghĩa là

chúng hình nhƣ nằm ở một pha khác mà ngƣời ta quy ƣớc gọi là pha ngưng

tụ.

Nhƣ vậy ở các nhiệt độ thấp hơn T0 , một phần các hạt của khí bose sẽ

nằm ở mức năng lƣợng thấp nhất (năng lƣợng không) và các hạt còn lại sẽ

14

đƣợc phân bố trên các mức khác theo định luật . Hiện tƣợng mà ta vừa

mô tả, trong đó một số hạt của khí bose chuyển xuống mức “năng lƣợng

không” và hai phần của khí bose phân bố khác nhau theo năng lƣợng đƣợc

gọi là sự ngưng tụ Bose. Ở nhiệt độ không tuyệt đối ( ) tất cả các hạt

boson sẽ nằm ở mức không.

1.3. Tình hình nghiên cứu về ngƣng tụ Bose – Einstein

Ngƣng tụ Bose – Einstein là một trạng thái vật chất của khí boson loãng bị

làm lạnh đến nhiệt độ rất gần độ không tuyệt đối (hay rất gần giá trị 0 K hay - 2730C). Dƣới những điều kiện này, một tỉ lệ lớn các boson tồn tại ở trạng thái

lƣợng tử thấp nhất, tại điểm mà các hiệu ứng lƣợng tử trở lên rõ rệt ở mức vĩ

mô. Những hiệu ứng này đƣợc gọi là hiện tƣợng lƣợng tử mức vĩ mô. Hiện

tƣợng này đƣợc dự đoán bởi Einstein vào năm 1925 cho các nguyên tử với

spin toàn phần có những giá trị nguyên. Dự đoán này dựu trên ý tƣởng về một

phân bố lƣợng tử cho các photon đƣợc đƣa ra bởi Bose trƣớc đó một năm để

giải thích phổ phát xạ và hấp thụ của các vật đen tuyệt đối. Einstein sau đó

mở rộng ý tƣởng của Bose cho hệ hạt vật chất. Những nỗ lực của Bose và

Einstein cho kết quả về khái niệm khí bose trong khuôn khổ lý thuyết thống

kê Bose – Einstein, miêu tả phân bố thống kê của những hạt đồng nhất với

spin nguyên, mà sau này Paul Dirac gọi là các boson. Các hạt boson bao gồm

photon cũng nhƣ các nguyên tử Heli-4 đƣợc phép tồn tại ở cùng trạng thái

lƣợng tử nhƣ nhau. Einstein chứng minh rằng khi làm lạnh các nguyên tử

boson đến nhiệt độ rất thấp thì hệ này tích tụ lại (hay ngƣng tụ) trong trạng

thái lƣợng tử thấp nhất có thể và tạo lên trạng thái mới của vật chất.

15

Cho đến nay, trên khắp thế giới có tổng cộng 13 nguyên tố đã đƣợc làm

cho ngƣng tụ. Mƣời trong số những ngƣng tụ này đã đƣợc tạo ra bởi mƣời

nhóm nghiên cứu quốc tế khác nhau.

Năm 1938, Fritz London đề xuất trạng thái BEC nhƣ là một cơ chế giải thích cho tính siêu chảy của 4He cũng nhƣ tính siêu dẫn ở nhiệt độ thấp của

một số vật liệu.

Năm 1995, khí ngƣng tụ đầu tiên đã đƣợc tạo ra bởi nhóm của Eric

Cornell và Carl Wieman ở phòng thí nghiệm JILA thuộc Viện Công nghệ

Tiêu chuẩn Quốc gia (NIST) tại Đại học Colorada ở Boulder, khi họ làm lạnh

khí nguyên tử Rubidi đến nhiệt độ 170 nanokelvin (nk). Cũng trong thời gian

này, Wolfgang Ketterle ở Học viện Công nghệ Massachusetts tạo ra đƣợc

ngƣng tụ Bose – Einstein đối với nguyên tử Natri và duy trì đƣợc hệ 2000

nguyên tử này trong thời gian lâu cho phép nghiên cứu những tính chất của

hệ. Vì vậy mà Cornell, Wieman, Ketterle đƣợc nhận giải Nobel Vật lý năm

2001.

Các hạt trong Vật lý đƣợc chia ra làm hai lớp cơ bản: lớp các boson và lớp

các fermion. Boson là những hạt với “spin nguyên” (0, 1, 2,...), fermion là các

hạt với “spin bán nguyên” (1/2, 3/2,...). Các hạt boson tuân theo thống kê

Bose – Einstein, còn các hạt fermion tuân theo thống kê Fermi – Dirac. Ngoài

ra các hạt fermion còn tuân theo nguyên lí ngoại trừ Pauli, “hai hạt fermion

không thể cùng tồn tại trên một trạng thái lƣợng tử”.

Ở nhiệt độ phòng khí boson và khí fermi đều phản ứng rất giống nhau,

giống hạt cổ điển tuân thủ theo gần đúng thống kê Maxwell - Boltzman (bởi

cả thống kê Bose – Einstein và thống kê Fermi – Dirac đều tiệm cận đến

thống kê Maxwell - Boltzman). Có thể khẳng định rằng ở nhiệt độ thấp khí

boson có tính chất khác hẳn khí fermi (chẳng hạn nhƣ khí điện tử tự do trong

16

kim loại). Thật vậy, vì các hạt boson không chịu sự chi phối của nguyên lý

cấm Pauli nên ở nhiệt độ không tuyệt đối tất cả các hạt đều có năng lƣợng

, do đó trạng thái cơ bản của tất cả chất khí là trạng thái có . Còn

đối với khí fermion thì khác, ở nhiệt độ các hạt lần lƣợt chiếm các

trạng thái có năng lƣợng từ 0 đến mức fermion, do đó năng lƣợng của cả hệ

khác không .

Việc áp dụng thống kê Bose – Einstein vào hệ hạt có spin nguyên hay spin

bằng không (ví dụ nhƣ các photon, các mezon, các nguyên tử trong đó các

electron và nucleon là chẵn, …) đƣợc gọi là các hạt boson hay khí boson.

Hình 1.1: Trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein của các boson, trong trường hợp

này là các nguyên tử Rubidi. Hình vẽ là phân bố tốc độ chuyển động của các

nguyên tử theo từng vị trí. Màu đỏ chỉ nguyên tử chuyển động nhanh, màu

xanh và trắng chỉ nguyên tử chuyển động chậm. Bên trái là trước khi xuất

hiện ngưng tụ Bose – Einstein. Ở giữa là ngay sau khi ngưng tụ. Bên phải là

trạng thái ngưng tụ xuất hiện rõ hơn. Ở trạng thái ngưng tụ, rất nhiều nguyên

tử có cùng vận tốc và vị trí (cùng trạng thái lượng tử) nằm ở đỉnh màu trắng.

(Ảnh: Wikipedia)

17

Ngƣng tụ Bose – Einstein theo quan điểm vĩ mô là tập hợp các hạt có spin

nguyên (các boson) trong trạng thái cơ bản tại nhiệt độ thấp và mật độ cao, đã

đƣợc quan sát trong một vài hệ Vật lý. Bao gồm khí nguyên tử lạnh và vật lý

chất rắn chuẩn hạt. Tuy nhiên, đối với khí boson là phổ biến nhất. Bức xạ của

vật đen (bức xạ trong trạng thái cân bằng nhiệt trong một hố thế) không diễn

ra sự chuyển pha, bởi vì thế hóa của các photon bị triệt tiêu và khi nhiệt độ

giảm, các photon không xuất hiện trong hố thế. Các nghiên cứu về mặt lý

thuyết đã coi số photon bảo toàn trong các quá trình nhiệt, tiếp theo sử dụng

tán xạ Compton cho khí điện tử, hoặc tán xạ photon – photon trong mô hình

cộng hƣởng phi tuyến để tìm điều kiện tạo thành ngƣng tụ Bose – Einstein.

Trong một số thí nghiệm gần đây, ngƣời ta đã tiến hành nghiên cứu với khí

photon hai chiều trong trạng thái lấp đầy của các vi hốc. Ở đây, ngƣời ta đã

mô tả lại ngƣng tụ Bose – Einstein cho các photon. Dạng của vi hốc quyết

định cả thế giam cầm và sự không ảnh hƣởng bởi khối lƣợng các photon, làm

cho hệ tƣơng đƣơng với một hệ khí hai chiều. Khi tăng mật độ của photon, ta

thấy dấu hiệu của ngƣng tụ Bose – Einstein, năng lƣợng photon phân bố chủ

yếu ở trạng thái cơ bản, chuyển pha xuất hiện phụ thuộc vào cả giá trị khả dĩ

và dạng hình học của hốc thế đƣợc dự đoán từ trƣớc

1.4. Thực nghiệm về ngƣng tụ Bose - Einstein

1.4.1. Ngưng tụ Bose – Einstein đầu tiên của nguyên tố erbium

Các chất khí lƣợng tử siêu lạnh có những tính chất đặc biệt mang lại một

hệ lí tƣởng để nghiên cứu những hiện tƣợng Vật lý cơ bản. Với việc chọn

Erbium, đội nghiên cứu đứng đầu là Francesca Ferlaino thuộc Viện Vật lý

Thực Nghiệm, Đại học Innsbruck, đã chọn một nguyên tố rất lạ, đó là vì

những tính chất đặc biệt của nó mang lại những khả năng mới và hấp dẫn để

nghiên cứu những những câu hỏi cơ bản trong lĩnh vực Vật lý lƣợng tử.

18

“Erbium tƣơng đối nặng và có từ tính mạnh. Những tính chất này dẫn tới

một trạng thái lƣỡng cực cực độ của các hệ lƣợng tử”, Ferlaino cho biết.

Cùng với nhóm nghiên cứu của mình, bà đã tìm ra một phƣơng pháp đơn

giản đến bất ngờ để làm lạnh nguyên tố phức tạp này bằng phƣơng tiện laser

và kĩ thuật làm lạnh bay hơi. Ở những nhiệt độ gần độ không tuyệt đối, một

đám mây gồm khoảng 70.000 nguyên tử erbium tạo ra một ngƣng tụ Bose –

Einstein từ tính. Trong một ngƣng tụ, các hạt mất đi tính chất cá lẻ của chúng

và đồng bộ hóa thành trạng thái của chúng. “Những thí nghiệm với Erbium

cho phép chúng tôi thu đƣợc kiến thức sâu sắc mới về những quá trình tƣơng

tác phức tạp của những hệ tƣơng quan mạnh và đặc biệt chúng mang lại

những điểm xuất phát mới để nghiên cứu từ tính lƣợng tử với những nguyên

tử lạnh”, Ferancesca Ferlaino nói.

Cesium, Strontium và Erbium là ba nguyên tố hóa học mà các nhà Vật lý

ở Innsbruck đã cho ngƣng tụ thành công trong vài năm trở lại đây. Một đột

phá quan trọng đã đƣợc thực hiện bởi Rudolf Grimm và nhóm nghiên cứu của

ông hồi năm 2002 khi họ thu đƣợc sự ngƣng tụ của Sesium, dẫn tới vô số

những kết quả khoa học trong những năm sau đó. Một ngƣời nhận tài trợ

START khác, Florian Schreck, một thành viên thuộc nhóm nghiên cứu của

Rudolf Grimm, là ngƣời đầu tiên hiện thực hóa một ngƣng tụ của Strontium

hồi năm 2009. Và nay Francesca Ferlaino lập tiếp kì công này với nguyên tố

Erbium.

Cho đến nay, trên khắp thế giới có tổng cộng 13 nguyên tố đã đƣợc làm

cho ngƣng tụ. Mƣời trong số những ngƣng tụ này đã đƣợc tạo ra bởi mƣời

nhóm nghiên cứu quốc tế khác nhau. Vào năm 2001, Eric Cornell, Wolfgang

Ketterle và Carl Wieman đã giành giải Nobel Vật lý cho việc tạo ra ngƣng tụ

Bose – Einstein đầu tiên. Ngƣng tụ mới của Erbium, lần đầu tiên đƣợc tạo ra

19

ở Innsbruck, là một mẫu tuyệt vời để bắt chƣớc những hiệu ứng phát sinh từ

sự tƣơng tác tầm xa. Loại tƣơng tác này là cơ sở của cơ chế động lực học

phức tạp có trong tự nhiên, ví dụ nhƣ xảy ra trong các xoáy địa Vật lý, trong

các chất lỏng sắt từ hay trong protein khi gấp nếp.

1.4.2. Loại ánh sáng mới tạo đột phá về vật lý

Các nhà khoa học Đức đã tạo ra bƣớc đột phá trong lĩnh vực vật lý khi

cho ra đời một loại ánh sáng mới bằng cách làm lạnh các phân tử photon sang

trạng thái đốm màu.

Cũng giống nhƣ các chất rắn, lỏng và khí, khám phá mới thể hiện một

trạng thái của vật chất. Với tên gọi “trạng thái ngƣng tụ Bose – Einstein”, nó

từng đƣợc tạo ra vào năm 1995 thông qua các nguyên tử siêu lạnh của một

chất khí, nhƣng các nhà khoa học từng nghĩ không thể tạo ra nó bằng các hạt

photon (quang tử) – những đơn vị cơ bản của ánh sáng.

Hình 1.2: Một "siêu photton" được tạo ra khi các hạt photon bị làm lạnh tới

một trạng thái vật chất được gọi tên là "trạng thái ngưng tụ Bose- Einstein"

(Ảnh: LiveScience)

20

Tuy nhiên, bốn nhà Vật lý Jan Klars, Julian Schmitt, Frank Vewinger và

Martin Weitz thuộc Đại học Bonn ở Đức mới đây thông báo đã hoàn thành

“nhiệm vụ bất khả thi” trên. Họ đặt tên cho các hạt mới là “các siêu photon”.

Các hạt trong một trạng thái ngƣng tụ Bose – Einstein truyền thống đƣợc

làm lạnh tới độ không tuyệt đối, cho tới khi chúng hòa vào nhau và trở nên

không thể phân biệt đƣợc, tạo thành một hạt khổng lồ. Các chuyên gia từng

cho rằng, các photon sẽ không thể đạt đƣợc trạng thái này vì việc vừa làm

lạnh ánh sáng vừa ngƣng tụ nó cùng lúc dƣờng nhƣ là bất khả thi. Do photon

là các hạt không có khối lƣợng nên chúng đơn giản có thể bị hấp thụ vào môi

trƣờng xung quanh và biến mất – điều thƣờng xảy ra khi chúng bị làm lạnh.

Theo trang LiveScience, bốn nhà Vật lý Đức cuối cùng đã tìm đƣợc cách

làm lạnh các hạt photon mà không làm giảm số lƣợng của chúng. Để nhốt giữ

các photon, những nhà nghiên cứu này đã sáng chế ra một thùng chứa làm

bằng những tấm gƣơng đặt vô cùng sát nhau và chỉ cách nhau khoảng một

phần triệu của một mét (1 micrô). Giữa các gƣơng, nhóm nghiên cứu đặt các

phân tử “thuốc nhuộm” (về cơ bản chỉ có một lƣợng nhỏ chất nhuộm màu).

Khi các photon va chạm với những phân tử này, chúng bị hấp thu và sau đó

đƣợc tái phát.

Các tấm gƣơng đã “tóm” các photon bằng cách giữ cho chúng nhảy tiến –

lùi trong một trạng thái bị giới hạn. Trong quá trình đó, các hạt quang tử trao

đổi nhiệt lƣợng mỗi khi chúng va chạm với một phân tử thuốc nhuộm. Và

cuối cùng, chúng bị làm lạnh tới nhiệt độ phòng.

Mặc dù mức nhiệt độ phòng không thể đạt độ không tuyệt đối nhƣng nó

đã đủ lạnh để các photon kết lại thành một trạng thái ngƣng tụ Bose -

Einstein.

21

Trong bài viết mới đây trên tạp chí Nature, nhà Vật lý James Anglin thuộc

trƣờng Đại học Kỹ thuật Kaiserslautern (Đức) đánh giá thử nghiệm trên là

“một thành tựu mang tính bước ngoặt”. Các tác giả của nghiên cứu này cho

biết thêm rằng, công trình của họ có thể giúp mang tới những ứng dụng trong

việc chế tạo các loại laser mới, với khả năng sinh ra ánh sáng có bƣớc sóng vô

cùng ngắn trong các dải tia X hoặc tia cực tím.

1.4.3. Kỹ thuật lưu trữ và khôi phục ánh sáng

Các nhà vật lý Mỹ giờ đây đã có thể ghi một xung ánh sáng đồng bộ vào

một tập hợp các nguyên tử siêu lạnh - và sau đó khôi phục lại nguyên dạng

xung sáng đó từ một tập hợp các nguyên tử thứ hai ở cách đó một khoảng

cách nào đó.

Thí nghiệm đã chứng tỏ rằng các hạt vĩ mô là khó có thể phân biệt một

cách rạch ròi nhƣ cơ học lƣợng tử đã nói mặc dù chúng có thể tách biệt về

mặt vật lý. Thí nghiệm đƣợc tiến hành bằng cách sử dụng các nguyên tử

ngƣng tụ Bose Einstein đƣợc làm lạnh tới nhiệt độ mà tất cả chúng ở cùng

một trạng thái lƣợng tử (Theo bài báo đăng trên tạp chí Nature)

Để bắt ánh sáng "nhảy" từ chỗ này sang chỗ khác, Lene Hau và các đồng

nghiệp ở Đại học Harvard đã khai thác một kỹ thuật đƣợc họ phát triển từ

năm 2001 để giữ các xung ánh sáng trong trạng thái ngƣng tụ Bose-Einstein,

có thể làm cho ánh sáng laser đi chậm đến mức gần nhƣ đứng lại. Kỹ thuật

này bao gồm việc chiếu một xung từ một đầu phát laser vào các nguyên tử Na

ở trạng thái BEC, làm cảm ứng đến việc phân bố các dao động nhỏ của điện

tích trong nguyên tử.

Nhà vật lý Lene Vestergaard Hau sử dụng những tia laser và các đám mây

cực nhỏ để che nguyên tử siêu lạnh làm cho ánh sáng đi chậm đến mức gần

22

nhƣ đứng lại. Thông thƣờng các lƣỡng cực sẽ phát xạ và nhanh chóng bị phân

rã, nhƣng khi chiếu một chùm laser có điều khiển vào các nguyên tử, chúng sẽ

chuyển các dao động trong điện tử thành các dao động của spin mà dao động

này ổn định hơn. Vì thế, khi mà xung laser này tắt đi, thông tin của đầu phát

laser sẽ đƣợc ghi lại trên dao động của lƣỡng cực spin của nguyên tử. Đảo tia

laser điều khiển để giải phóng ánh sáng, cho phép các nguyên tử bức xạ lại

kết hợp (ví dụ nhƣ đồng pha với xung dò ban đầu).

Điểm khác biệt trong kỹ thuật mới là xung đƣợc làm chậm để tái hiện lại

tại vị trí BEC cách đó khoảng 1,6 mm. "Thủ đoạn đánh lừa" ở đây là hàm

sóng của lƣỡng cực spin thực ra là một sự chồng chập của các nguyên tử

trong trạng thái cơ bản và trong trạng thái kích thích spin. Nhờ có nguyên lý

bảo toàn xung lƣợng mà các nguyên tử ở trạng thái kích thích spin sẽ di

chuyển khỏi BCE ban đầu khi nguyên tử hấp thụ photon từ xung laser, trong

khi nguyên tử ở trạng thái cơ bản thì đứng yên tại vị trí đó.

Nội dung thông tin của xung đầu dò đã đƣợc "in dấu" trên dao động quay

tròn các lƣỡng cực của nguyên tử BEC đầu tiên (trên). Trong thí nghiệm mới

này xung cản trở đƣợc làm để xuất hiện BEC thứ 2 cách xa khoảng 160 µm

(dưới).

Hình 1.3

23

Một điểm sáng tạo là nhóm ở Harvard đã quyết định đợi cho đến khi

nguyên tử kích thích spin đi đến vị trí ngƣng tụ thứ hai trƣớc khi tác dụng lại

các laser điều khiển. Và họ nhận ra rằng tập hợp các nguyên tử tách biệt một

cách vật lý này sau đó có thể phát xạ lại ánh sáng ban đầu. Xung ánh sáng

đƣợc khôi phục này lan truyền một cách chậm rãi khỏi vị trí BEC thứ hai

trƣớc khi đạt vận tốc 300000 km/s nhƣ vốn có của ánh sáng.

Vì hai vị trí BEC đƣợc tạo ra hoàn toàn độc lập, nên ta có thể hy vọng sự

gửi đi các bó sóng từ vị trí đầu tiên đến một vị trí xa lạ BEC thứ hai. Thực tế

không hẳn là hàm sóng ở trạng thái cơ bản có một thành phần trên cả hai vị trí

BEC trong cùng một thời điểm để có thể tổ hợp với thành phần bị kích thích

spin khi nó đến vị trí thứ hai.

Thí nghiệm là một minh chứng hùng hồn của việc không phân biệt lƣợng

tử. "Bằng cách thao tác cho vật chất sao chép lại nguyên bản ánh sáng ban

đầu, chúng ta có thể sử dụng trong việc xử lý thông tin quang" - Hau phát

biểu. Bà phát biểu trên Physics Web rằng thí nghiệm này có thể sẽ đƣa đến kỹ

thuật xử lý thông tin quang trong viễn thông quang và mạng thông tin lƣợng

tử. Một ứng dụng khác có thể là cảm biến quay siêu nhạy hoặc detetor trọng

trƣờng.

Ngoài vài ứng dụng đã kể trên thì còn rất nhiều ứng dụng khác nữa và khả

năng tiềm tàng của BEC còn rất lớn và đang tiếp tục đƣợc khám phá.

1.4.4. Các nhà Vật lý khẳng định sự tồn tại của trạng thái ngưng tụ

polartion

Các nhà Vật lý Mỹ nói rằng họ chứng kiến một sự kết hợp độc đáo của

một trạng thái ngƣng tụ Bose – Einstein trong một hệ các giả hạt đƣợc làm

lạnh đƣợc gọi là polarition. Mặc dù những khẳng định tƣơng tự đã từng đƣợc

24

công bố trƣớc đó, nhƣng các nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực này vẫn hoài

nghi rằng sự kết hợp này là một hiệu ứng của chùm laser đƣợc dùng để tạo ra

các polariton, có nghĩa là hệ không chắc chắn là ngƣng tụ. Thí nghiệm mới

này đã hoàn toàn loại bỏ những nghi ngờ bằng cách tích lũy polartion từ các

chùm.

Lần đầu tiên đƣợc tạo ra vào năm 1995 từ hơi nguyên tử Rubidi, trạng thái

ngƣng tụ Bose – Einstein (BEC) là một hệ mà trong đó một số lƣợng lớn các

hạt boson (các hạt có spin nguyên) chồng chập trong một trạng thái cơ bản

giống nhau. Điều này cho phép các boson biểu hiện các thuộc tính cổ điển

ngẫu nhiên của chúng và dịch chuyển nhƣ một trạng thái kết hợp, và rất có ý

nghĩa cho các nghiên cứu về hiệu ứng lƣợng tử ví dụ nhƣ siêu chảy trong một

hệ vĩ mô. Điều trở ngại ở đây là sự thay đổi trạng thái thƣờng chỉ xảy ra ở

nhiệt độ rất thấp, gần không độ tuyệt đối.

Tuy nhiên, các polariton – các boson bao gồm một cặp điện tử - lỗ trống

và một photon lại nhẹ hơn hàng ngàn lần so với nguyên tử rubidi, do đó có thể

tạo ra trạng thái BEC ở tại nhiệt độ cao hơn nhiều. Khẳng định đầu tiên về sự

ngƣng tụ này đƣợc công bố vào năm 2006 khi mà Jacek Kasprzak (Đại học

Tổng hợp Joseph Fourier. Grenoble, Pháp) cùng với các đồng nghiệp Thụy

Sĩ và Anh sử dụng một chùm laser tăng một cách đều đặn mật độ của các

polariton trong một vi cầu chất bán dẫn đƣợc giữ ở nhiệt độ khá cao là 19K.

Họ quan sát thấy ở trên một mật độ tới hạn, các polarition bắt đầu biểu

hiện thuộc tính kết hợp của trạng thái BEC. Một số nhà nghiên cứu khác trong

lĩnh vực này lại nghi ngờ rằng các polariton dù ở trạng thái BEC thật, nhƣng

bởi vì thuộc tính này chỉ có thể quan sát thấy trong một vùng đƣợc kích thích

bởi chùm laser mà vốn tự nó đã kết hợp đƣợc rồi.

25

Và để giải quyết rắc rối này, nhóm của David Snoke ở Đại học Tổng hợp

Pittsburgh và các cộng sự ở Phòng thí nghiệm Bell (Mỹ) tạo ra một hệ tƣơng

tự mà trong đó các polartion đƣợc tạo ra bởi các tia laser sau đó di chuyển

khỏi vùng kích thích của laser. Điều này đƣợc thực hiện nhờ một ghim nhỏ

chiều ngang 50 micrô, để tạo ra một ứng suất bất đồng nhất trên vi cầu, có

nghĩa là tạo ra nhƣ một bẫy để tích lũy các polartion. Và ở hệ này, trạng thái

BEC vẫn chỉ đạt đƣợc ở nhiệt độ thấp tới 4,2 K.

Hình 1.4: Sơ đồ bố trí của hệ bẫy các polariton (Science 316, 1007).

Mặc dù ở nhiệt độ này thấp hơn nhiều so với nhiệt độ 19 K mà nhóm của

Kasprzak đã công bố, nhƣng Snoke đã nói trên Physics Web rằng sau khi xuất

bản công trình này, nhóm đã tạo ra hiện tƣợng này ở nhiệt độ cao tới 32 K:

“Có hàng trăm nguyên nhân để hi vọng chúng tôi có thể đạt tới nhiệt độ cao

hơn, cao hơn nữa…dù không thể giả thiết có thể đạt tới nhiệt độ phòng nhưng

trên 100K không phải là không thể đạt được trong khả năng của chúng tôi”.

Hơn nữa, các vi cầu (hay vi hốc – microcavity) đƣợc tạo ra bởi vật liệu

bán dẫn phổ thông GaAs trong hệ bẫy tƣơng tự từng đƣợc dùng trong các khí

nguyên tử mà có thể dễ dàng chế tạo cho các nhóm nghiên cứu khác.

26

Hình 1.5: Phân bố xung lượng của các polariton (Science 316, 1007).

Tuy nhiên, cũng vẫn còn một số nghi ngờ là liệu có phải hệ của nhóm

Snoke là trạng thái BEC trong các xu hƣớng truyền thống hay không vì các

polariton có thời gian sống khá ngắn đến nỗi các hệ chỉ có thể đạt đƣợc trạng

thái chuẩn cân bằng. “Một số người muốn hạn chế việc sử dụng khái niệm

BEC cho một hệ ở trạng thái cân bằng thực sự” – Snoke nói – “Mặt khác, lại

có một số người khác muốn tổng quát hóa cùng trong một loại hệ hỗn hợp

bao gồm cả laser. Thực ra đó là một câu hỏi mang tính chất thuật ngữ thì

đúng hơn”.

1.4.5. Chất siêu dẫn mới

Mới đây, các nhà khoa học thuộc Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia

cùng phối hợp với trƣờng đại học Colorado (Mỹ) đã thành công trong việc tạo

ra một loại chất mới. Loại vật chất này là một dạng cô đặc của các hạt cơ bản:

electron, proton và neutron.

Đó còn là dạng vật chất thứ sáu đƣợc con ngƣời khám phá sau những

dạng: chất khí, chất rắn, chất lỏng, khí plasma và Bose – Einstein cô đặc đã

đƣợc tạo ra từ năm 1995. Deborah Jin (đại học Colorado) cho biết, loại vật

27

chất mà các đồng nghiệp của bà vừa tạo ra là đột phá khoa học trong việc

cung cấp một kiểu mới cho hoạt động của cơ học lƣợng tử.

Loại vật chất mới này có khả năng tạo ra một mối liên kết giữa hai lĩnh

vực hoạt động khoa học là chất siêu dẫn và Bose – Einstein, tạo cơ sở phát

triển những ứng dụng thiết thực khác. Hiện nay, theo ƣớc tính có khoảng 10%

lƣợng điện ta sản xuất ra bị tiêu hao trên đƣờng chuyển tải, làm nóng đƣờng

dây. Nếu ứng dụng vật liệu chất siêu dẫn vào làm dây dẫn điện thì quá trình

chuyển tải điện không còn bị hao hụt bởi điện trở nữa. Ngoài ra, chất siêu dẫn

còn cho phép sáng chế ra những loại xe lửa bay trên đệm từ trƣờng dựa trên

cơ sở nguồn năng lƣợng hiện đang đƣợc sử dụng. Do đƣợc giải phóng khỏi

ma sát, đoàn tàu sẽ lƣớt đi theo đƣờng từ trƣờng ở tốc độ cao hơn.

Jin cùng với hai đồng nghiệp Eric Cornell và Carl Wieman đã đoạt giải

Nobel Vật lý năm 2001 cho phát minh ra vật chất Bose – Einstein cô đặc.

Loại vật chất này đƣợc tạo ra từ tập hợp của hàng nghìn phần tử cực lạnh tạo

thành trạng thái lƣợng tử đơn, tƣơng tự một siêu nguyên tử. Còn loại vật chất

mới mà nhóm nghiên cứu của bà vừa tạo ra khác với Bose – Einstein. Nó

đƣợc tạo thành từ những khối hạt vật chất là proton, electron và neutron trong

môi trƣờng chân không đƣợc làm lạnh xuống gần tới độ không tuyệt đối. Tại

nhiệt độ đó, các phần tử vật chất ngừng hoạt động. Sau đó, từ trƣờng và tia

laser điều khiển để những nguyên tử kết đôi lại với nhau. Loại nguyên tử mới

này có sức hút mạnh hơn những nguyên tử thông thƣờng, đem đến cho thế

giới nhiều ứng dụng mới thiết thực cho cuộc sống hàng ngày của con ngƣời.

1.4.6. Lần đầu tiên quan sát thấy hiệu ứng Hall ở một ngưng tụ Bose -

Einstein

28

Các nhà nghiên cứu ở Viện Tiêu Chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ vừa

lần đầu tiên quan sát thấy hiệu ứng Hall ở một chất khí gồm những nguyên tử

cực lạnh. Hiệu ứng Hall là một tƣơng tác quan trọng của từ trƣờng và dòng

điện thƣờng xảy ra với kim loại và chất bán dẫn. Các biến tấu của hiệu ứng

Hall đã đƣợc sử dụng trong kĩ thuật và trong Vật lý với các ứng dụng đa dạng

từ những hệ thống tự đánh lửa tự động cho đến những phép đo cơ bản của

điện học. Khám phá mới có thể giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về cơ sở

Vật lý của các hiện tƣợng lƣợng tử ví dụ nhƣ sự siêu chảy và hiệu ứng Hall

lƣợng tử.

Đƣợc Edwin Hall phát hiện ra vào năm 1879, hiệu ứng Hall dễ hình dung

nhất ở một chất dẫn điện hình chữ nhật nhƣ một tấm đồng khi có một dòng

điện chạy dọc theo chiều dài của nó. Một từ trƣờng đặt vuông góc với dòng

điện (vuông góc với tấm đồng) làm lệch đƣờng đi của các hạt mang điện

trong dòng điện (electron chẳng hạn) bằng cách gây cảm ứng một lực theo

chiều thứ ba vuông góc với cả từ trƣờng và dòng điện. Lực này đẩy các hạt

mang điện về một phía của tấm kim loại và gây ra một điện thế, hay “hiệu

điện thế Hall”. Hiệu điện thế Hall có thể dùng để đo những tính chất tiềm ẩn

bên trong các hệ thống điện, ví dụ nhƣ nồng độ hạt mang điện và dấu điện

tích của chúng.

“Các hệ nguyên tử lạnh là một nền tảng quan trọng để nghiên cứu nền Vật

lý phức tạp vì chúng gần nhƣ không có tạp chất gây cản trở, các nguyên tử

chuyển động chậm hơn nhiều so với các electron trong chất rắn, và các hệ

cũng đơn giản hơn nhiều”, phát biểu của nhà nghiên cứu NIST Lindsay

LeBlanc. “Thủ thuật là tạo dựng những điều kiện sẽ khiến các nguyên tử hành

xử theo kiểu thích hợp”.

29

Việc đo hiệu ứng Hall ở một ngƣng tụ Bose – Einstein xây dựng dựa trên

công trình NIST trƣớc đây tạo ra điện trƣờng và từ trƣờng nhân tạo. Trƣớc

tiên, nhóm nghiên cứu sử dụng laser buộc năng lƣợng của các nguyên tử với

xung lƣợng của chúng, đƣa hai trạng thái nội vào một liên hệ gọi là sự chồng

chất. Việc này làm cho các nguyên tử trung hòa điện tác dụng nhƣ thể chúng

là những hạt tích điện. Với đám mây gồm khoảng 20.000 nguyên tử tập trung

thành một quả cầu loãng, sau đó các nhà nghiên cứu cho lực bắt giữ biến thiên

tuần hoàn – đẩy các nguyên tử trong đám mây lại với nhau và rồi hút chúng ra

xa – để mô phỏng chuyển động của các hạt mang điện trong một dòng xoay

chiều. Đáp lại, các nguyên tử bắt đầu chuyển động theo kiểu giống hệt về mặt

toán học với cách các hạt tích điện chịu hiệu ứng Hall sẽ chuyển động, tức là

vuông góc với cả chiều của dòng “điện” và từ trƣờng nhân tạo.

Theo LeBlanc, việc đo hiệu ứng Hall đó mang lại một công cụ nữa dành

cho nghiên cứu cơ sở Vật lý của sự siêu chảy, một điều kiện lƣợng tử nhiệt độ

thấp trong đó các chất lỏng chảy mà không có ma sát, cũng nhƣ cái gọi là hiệu

ứng Hall lƣợng tử, trong đó tỉ số của hiệu điện thế Hall và dòng điện chạy qua

chất liệu bị lƣợng tử hóa, cho phép xác định các hằng số cơ bản.

30

CHƢƠNG 2.

TRẠNG THÁI CƠ BẢN CỦA NGƢNG TỤ BOSE-EINSTEIN HAI

THÀNH PHẦN PHÂN TÁCH YẾU

2.1. Phƣơng trình Gross-Pitaevskii

2.1.1. Phương trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian

Xét hệ ngƣng tụ Bose – Einstein hai thành phần, hàm tác dụng có dạng

(2.1)

với mật độ hàm Lagrangian trong phƣơng trình Gross-Pitaevskii là

(2.2)

trong đó hàm Hamilton có dạng

(2.3)

ở đây, hạt , là hàm sóng ở trạng thái cơ bản; mj là khối lƣợng

hạt; là các hằng số tƣơng tác dƣơng, chúng đƣợc xác định qua độ dài

tán xạ sóng theo công thức

(2.4)

Bằng cách cực tiểu hóa hàm tác dụng theo

(2.5)

31

ta thu đƣợc phƣơng trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian

(2.6)

(2.7)

với là thế năng tƣơng tác ngoài.

2.1.2 Phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào thời gian

Để tìm phƣơng trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào thời gian ta

giả sử sự tự phân tách diễn ra dọc theo trục Oz và gọi ngƣng tụ bên phải mặt

phân cách là “1” ( ) và ngƣng tụ bên trái mặt phân cách là “2” (z < 0)

(2.8)

với là hàm sóng ở trạng thái cơ bản, là thế hóa.

Thay (2.8) vào (2.6) và (2.7), thực hiện phép lấy đạo hàm theo thời gian ta

thu đƣợc

(2.9)

(2.10)

Phƣơng trình (2.9) và (2.10) đƣợc gọi là phƣơng trình Gross-Pitaevskii

không phụ thuộc vào thời gian.

32

Nếu thì (2.9) và (2.10) trở thành

(2.11)

(2.12)

Nhƣ vậy thế tƣơng tác trong lý thuyết Gross-Pitaevskii có dạng

(2.13)

Sử dụng chiều dài tƣơng quan

(2.14)

và mật độ khối của hạt thứ là và đƣa vào các đại lƣợng không

thứ nguyên

(2.15)

thì ta có

33

Do đó

Thay biểu thức của vào biểu thức trên ta đƣợc:

(2.16)

Ta có:

(2.17)

Thay (2.16) và (2.17) vào (2.11) ta đƣợc:

(2.18)

Ta có:

(2.19)

Thay biểu thức của vào biểu thức trên ta đƣợc:

(2.20)

Ta có:

34

(2.21)

Thay (2.20) và (2.21) vào (2.12) ta đƣợc

(2.22)

Lƣu ý rằng ở đây ta đang xét hệ trong trạng thái cân bằng pha nên áp suất

của hai thành phần phải bằng nhau, tức là

trong đó

2.2. Gần đúng parabol kép (Double parabola approximation - DPA)

Để hiểu về phép gần đúng parabol kép ta đi xét ngƣng tụ Bose – Einstein

một thành phần. Thế tƣơng tác trong phƣơng trình Gross-Pitaevskii theo

(2.12) có dạng

(2.22)

Bằng cách đƣa vào các đại lƣợng không thứ nguyên nhƣ ở (2.15), thế

tƣơng tác (2.22) có thể viết dƣới dạng

(2.23)

Ở gần mặt phân cách tham số trật tự giảm dần từ 1 nên ta đặt

(2.24)

với là số thực và nhỏ.

35

Thay (2.24) vào (2.23) ta đƣợc

Khai triển VGP giữ đến gần đúng bậc hai ta đƣợc

(2.25)

trong đó VDPA là thế gần đúng trong parabol kép.

Ta có đồ thị của hai thế VGP và VDPA nhƣ sau

Đƣờng màu xanh là đồ thị của thế VGP , đƣờng màu đỏ là đồ thị của thế

VDPA. Ta thấy VGP có hai cực tiểu nhƣ hình vẽ và khi thay vào phƣơng trình

Gross-Pitaevskii thì ta không giải trực tiếp đƣợc phƣơng trình. Do đó ta thay

bằng thế VDPA là hai parabol ghép với nhau và đƣợc gọi là parabol kép. Khi

thay thế VDPA vào phƣơng trình Gross-Pitaevskii ta có thể giải đƣợc phƣơng

trình.

36

2.3. Trạng thái cơ bản trong gần đúng parabol kép

Với sự có mặt của hai tƣờng cứng tại và

Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng DPA để tìm trạng thái cơ bản của hệ.

Giả sử rằng mặt phân cách của hệ nằm tại vị trí điều kiện biên cho

các thành phần có dạng sau

Với

(2.26)

Với

(2.27)

Ta khai triển tham số trật tự quanh giá trị đƣợc chuẩn hóa theo mật độ

khối tức là

với khi và khi . Cần chú ý rằng và

là các số thực, nhỏ và ta đã bỏ qua thừa số pha trong các khai triển này.

• Ở miền ( là vị trí biên) ta đặt

(2.28)

Thay vào (2.18) và (2.22) và chú ý chỉ giữ lại bậc 1 của và ta đƣợc hệ

phƣơng trình

37

(2.29)

Thay (2.28) vào (2.29) và đặt , ta đƣợc phƣơng trình

Gross-Pitaevskii trong DPA

(2.30)

• Ở miền ta đặt

(2.31)

Thay vào (2.18) và (2.22) và chú ý chỉ giữ lại bậc 1 của và ta đƣợc hệ

phƣơng trình

(2.32)

Do đó

(2.33)

Trong miền , nghiệm của phƣơng trình (2.30) có dạng

(2.34)

Trong miền , nghiệm của phƣơng trình (2.33) có dạng

38

(2.35)

với A1, A2,B1,B2 là các hằng số.

Trong DPA, các tác giả đã chứng minh đƣợc rằng các tham số trật tự và

đạo hàm bậc nhất của chúng phải liên tục tại mặt phân cách

(2.36)

Thay (2.34) và (2.35) vào (2.36) ta tìm đƣợc

(2.37)

với

(2.38)

với

39

(2.39)

với

(2.40)

với

40

Dựa vào hàm sóng đã tìm đƣợc, chúng ta có thể biểu diễn hàm sóng trên

hình 2.1

Hình 2.1: Biểu diễn sự phụ thuộc của tham số trật tự theo z tại

Đường nét liền và đường nét đứt tương ứng với thành phần thứ 1 và thứ 2.

41

CHƢƠNG 3.

SỨC CĂNG MẶT NGOÀI CỦA NGƢNG TỤ BOSE-EINSTEIN HAI

THÀNH PHẦN BỊ GIỚI HẠN BỞI HAI TƢỜNG CỨNG TRONG GẦN

ĐÚNG PARABOL KÉP

3.1. Khái niệm về sức căng mặt ngoài

Trƣớc tiên ta xét khái niệm sức căng mặt ngoài của chất lỏng.

Ta tƣởng tƣợng tách riêng đƣợc một phần tử A nào đó trong khối chất lỏng

và nghiên cứu tác dụng của tất cả các phần tử khác lên nó. Ta hãy vẽ một hình

cầu bán kính r có tâm là tâm phân tử A. Ta chỉ cần nghiên cứu tất cả các phân

tử có tâm nằm trong hình cầu bán kính r lên phân tử A. Khoảng cách r gọi là

bán kính tác dụng phân tử .

Phân tử A nằm trong lòng khối chất lỏng nên lực hút giữa các phân

tử trong hình cầu tác dụng của phân tử A lên phân tử A hƣớng theo

mọi phía và tính trung bình thì chúng cân bằng nhau (hình 3.1), do đó

lực tƣơng tác tổng hợp của các phân tử chất lỏng lên phân tử A bằng 0.

42

Đối với phân tử nằm gần mặt thoáng thì lại khác. Ta hãy xét phân tử B

(hình 3.1) nằm cách mặt thoáng một khoảng nhỏ hơn r. Một phần của hình

cầu bán kính r nằm ngoài khối chất lỏng.

Giả sử phần trên của khối chất lỏng là thể khí ( ví dụ hơi của chất lỏng

đó). Vì số phân tử ở pha hơi nằm trong hình cầu tác dụng của phân tử B là ít

nên tác dụng của chúng lên B là rất nhỏ ta không cần chú ý tới. Ta chỉ cần chú

ý tới tác dụng của các phân tử thuộc khối chất lỏng nằm trong hình cầu. Rõ

ràng là các lực hỗ trợ tác dụng lên B theo mọi hƣớng không thể cân bằng

nhau và phân tử B chịu tác dụng của một hợp lực hƣớng vào trong khối

lỏng . Độ lớn của lực này càng tăng lên khi phân tử B càng gần mặt giới hạn

(mặt thoáng).

Tuy nhiên cần chú ý rằng tuy có lực tác dụng lên nhƣng phân tử B

không chuyển động vào trong lòng chất lỏng mà vẫn thực hiện dao động nhiệt

xung quanh vị trí cân bằng đó. Đó là vì khi phân tử B dƣới tác dụng của lực

tiến theo hƣớng đi vào trong lòng chất lỏng để lại gần các phân tử khác

hơn thì sẽ xuất hiện lực đẩy chống lại lực . Đối với các phân tử khác nằm

trong lớp mặt ngoài có chiều dày cũng chịu tác dụng của những lực

hƣớng vào trong khối chất lỏng tƣơng tự nhƣ phân tử B. Hình ảnh chuyển

động nhiệt của các phân tử nằm ở lớp mặt ngoài cũng nhƣ đối với các phân tử

ở trong lòng chất lỏng nghĩa là dao động hỗn loạn chung quanh các vị trí cân

bằng một thời gian nào đó và sau đó do sự tƣơng tác với các phân tử chung

quanh thỉnh thoảng lại thay đổi vị trí cân bằng. Nói cách khác nếu bỏ qua dao

động nhiệt thì tuy chịu tác dụng của lực nhƣng phân tử nằm ở lớp ngoài

vẫn đƣợc coi nhƣ nằm tại vị trí cân bằng.

43

Ta biết, hợp lực vuông góc với mặt thoáng chất lỏng không dịch

chuyển phân tử B theo phƣơng vuông góc cũng nhƣ phƣơng nằm ngang đối

với mặt thoáng. Bây giờ, chúng ta chú ý đến các thành phần theo phƣơng nằm

ngang (tức theo phƣơng tiếp tuyến với mặt thoáng) của lực tƣơng tác của

phân tử chất lỏng lên phân tử B. Dĩ nhiên các thành phần này của lực theo hai

chiều ngƣợc nhau phải có độ lớn bằng nhau = (hình 3.1) vì vậy chúng

cân bằng nhau. Khác với trƣờng hợp của lực đã nhận xét ở trên, độ lớn của

lực hoặc sẽ càng giảm khi phân tử B càng đến gần mặt giới hạn (mặt

thoáng).

Nếu giả sử vì một lý do nào đó một phía của phân tử B không có chất lỏng

nữa thì dƣới tác dụng của lực thành phần theo phƣơng tiếp tuyến với mặt

thoáng ( hoặc ) phân tử B sẽ chuyển động ngang. Ta tƣởng tƣợng các

phân tử nằm trong lớp mặt ngoài tạo thành một đoạn cong nguyên tố thì

tổng hợp tất cả các lực thành phần lên phân tử này theo phƣơng tiếp tuyến với

mặt phân cách và ở về một phía xác định của đoạn cong đƣợc gọi là lực

căng mặt ngoài kí hiệu là . Vì đủ nhỏ nên có thể coi lực căng mặt ngoài

vuông góc với .

Vậy rõ ràng dƣới tác dụng của lực căng mặt ngoài , lớp mặt ngoài luôn

luôn muốn co về diện tích nhỏ nhất. Tính chất này làm cho lớp mặt ngoài của

chất lỏng gần giống nhƣ một màng căng (chẳng hạn màng cao su), vì vậy hiện

tƣợng mà ta đang xét đƣợc gọi là hiện tƣợng căng mặt ngoài.

Ta cần chú ý sự khác nhau căn bản giữa lớp mặt ngoài chất lỏng với màng

cao su. Lớp mặt ngoài khối chất lỏng tăng diện tích là do có những phân tử đi

từ trong lòng khối chất lỏng ra mặt ngoài và do đó bề dày của nó không đổi

44

, còn đối với màng cao su thì sự tăng diện tích là nhờ có sự giảm bề

dày của màng.

Việc di chuyển phân tử trong lòng chất lỏng ra lớp mặt ngoài đòi hỏi phải

tiêu thụ một công để thắng lực cản nói trên. Trong trƣờng hợp khối lỏng

không trao đổi năng lƣợng với ngoại vật thì công này đƣợc thực hiện do sự

giảm động năng của phân tử đó mà thế năng phân tử sẽ tăng lên, tƣơng tự nhƣ

trƣờng hợp công đƣợc thực hiện khi một vật đƣợc chuyển động trong trọng

trƣờng từ dƣới lên trên ( động năng của vật giảm, thế năng của vật tăng).

Ngƣợc lại khi phân tử đi từ lớp mặt ngoài vào trong lòng chất lỏng, nó sẽ thực

hiện một công do sự giảm thế năng của phân tử. Vậy mỗi phân tử ở lớp mặt

ngoài khác với phân tử ở trong lòng ở trong lòng khối lỏng là một thế năng

phụ.

Tổng thế năng phụ của các phân tử ở lớp mặt ngoài đƣợc gọi là năng

lƣợng tự do. Năng lƣợng tự do chính là một phần nội năng của khối lỏng.

Khi có nhiều phân tử di chuyển từ trong lòng chất lỏng ra lớp mặt ngoài

(tức diện tích mặt ngoài khối lỏng tăng ) thì năng lƣợng tự do tăng.

Sự tăng năng lƣợng này hoặc do sự giảm động năng của các phân tử hoặc

do công của ngoại vật thực hiện lên chất lỏng hoặc do cả hai nguyên nhân vừa

nêu. Ngƣợc lại khi chất lỏng giảm diện tích mặt ngoài, năng lƣợng tự do giảm

đi làm cho chất lỏng hoặc sẽ nóng lên hoặc sẽ sinh công cho ngoại vật hoặc sẽ

đồng thời xảy ra cả hai hiện tƣợng vừa kể.

Và ngƣời ta định nghĩa:

“ Độ tăng năng lƣợng tự do mặt ngoài trên một đơn vị diện tích là sức

căng mặt ngoài”

45

(3.1)

Trong đó: là năng lƣợng tự do mặt ngoài, là diện tích mặt phân

cách

3.2. Suất căng mặt ngoài của ngƣng tụ Bose-Einstenin hai thành phần bị

giới hạn bởi hai tƣờng cứng

Chúng ta xét hệ BEC trong trƣờng hợp số hạt của hệ xác định

(3.2)

Năng lƣợng trên bề mặt ngƣng tụ đƣợc thiết lập bởi P. Ao và S.T. Chiu

(3.3)

Từ đây xác định đƣợc sức căng mặt phân cách giữa hai ngƣng tụ dƣới

dạng không thứ nguyên

(3.4)

Thay phƣơng trình (2.34) và (2.35) vào (3.4) ta đƣợc

(3.5)

với

46

(3.5)

với

47

Hình 3.2 và 3.3 biểu diễn sức căng tại mặt phân cách giữa 2 thành phần phụ

thuộc vào lần lƣợt và

Hình 3.2: Sự phụ thuộc của sức căng tại mặt phân cách vào giá trị 1/ K tại

Từ hình vẽ 3.2 chúng tôi thấy:

- Sức căng tại mặt phân cách phụ thuộc rất mạnh vào K.

- Trong miền , thay đổi K tức là thay đổi hằng số tƣơng tác giữa hai

thành phần với nhau, khi tƣơng tác này càng mạnh (1/K càng nhỏ) thì sức

căng tại mặt phân cách càng lớn.

48

- Khi hai thành phần tƣơng tác yếu, sức căng tại mặt phân cách

giảm dần.

- Sức căng mặt phân cách khác 0 tại K =1.

Hình 3.3: Sự phụ thuộc của sức căng tại mặt phân cách vào giá trị h tại

Từ hình vẽ 3.3 chúng tôi thấy:

- Khi h nhỏ tức khoảng cách giữa hai tƣờng cứng gần nhau, sức căng tại

mặt phân cách phụ thuộc vào h rất mạnh.

- Khi h lớn tức khoảng cách giữa hai tƣờng cứng xa nhau, sức căng tại

mặt phân cách phụ thuộc vào h rất yếu.

49

KẾT LUẬN

Khóa luận “ Sức căng tại mặt phân cách của ngƣng tụ BOSE - EINSTEIN

hai thành phần bị giới hạn bởi hai tƣờng cứng với điều kiện biên Robin” hoàn

thành đã thu đƣợc các kết quả sau:

- Tổng quan về ngƣng tụ Bose – Einstein: xây dựng thống kê Bose –

Einstein cho hệ hạt đồng nhất, từ đó đƣa ra ngƣng tụ Bose – Einstein đối với

khí boson lý tƣởng.

- Phƣơng trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian và không phụ thuộc

thời gian.

- Trạng thái cơ bản của ngƣng tụ Bose-Einstein hai thành phần phân tách

yếu trong gần đúng parabol kép với điều kiện biên Robin.

- Sức căng tại mặt phân cách của ngƣng tụ Bose – Einstein hai thành phần

trong giới hạn bởi 2 tƣờng cứng với điều kiện bên Robin.

50

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoang Van Quyet, Phan Thi Oanh Location of interface boseeinstein

condensate mixtures in semi-infinite space under robin boundary

condition, Journal of Science (HPU2), to be published (2017).

2. Nguyen Van Thu, Tran Huu Phat, Pham The Song, J. Low Temp.

Phys. 186, 127 (2017).

3. C.J. Pethick, H. Smith, Bose–Einstein Condensation in Dilute Gases,

Cambridge University Press, 2008.

51