KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:26)(cid:0)(cid:27)(cid:28)(cid:25)(cid:29)(cid:0)(cid:30)(cid:28)(cid:31)(cid:0)(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:16)(cid:28)(cid:24) (cid:21)(cid:0)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN

TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

NGUYỄN VĂN NI

Hậu Giang, tháng 5 năm 2014

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:26)(cid:0)(cid:27)(cid:28)(cid:25)(cid:29)(cid:0)(cid:30)(cid:28)(cid:31)(cid:0)(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:16)(cid:28)(cid:24) (cid:21)(cid:0)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH:VĂN HỌC

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN

TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

Lê Văn Phương Nguyễn Văn Ni

Hậu Giang, tháng 5 năm 2014

MỤC LỤC

LỜI CẢM TẠ. …………………………………………..…………….........i

LỜI CAM ĐOAN. ……………………………….………….………….....ii

MỞ ĐẦU ……………………………………………….……..……..…......1

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………….……………..……..1

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ……………………………………………….…..……2

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU …….……………………………….…..……4

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU………………………………………….….…..5

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………….…………....6

CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ NAM CAO………………...……….….……….7

1.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NAM CAO………………………….………....7

1.1.1.Con người………………………………………………………….…….7

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác…………………………………………………...….9

1.1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám 1945……………………………………..9

1.2. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC

VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT………………………………….…….12

1.1.2.2. Sau cách mạng tháng Tám 1945……………………..…...………….10

1.2.1. Quan điểm sáng tác…………………………………………………....12

1.3. NHỮNG ĐỀ TÀI CHÍNH……………………………………….….…..14

1.2.2. Phong cách nghệ thuật……………………………………………..…..13

1.3.1. Người nông dân…………………………………………………….….14

1.4. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

VỀ CON NGƯỜI CỦA NAM CAO………………………………….….….18

1.3.2. Người trí thức nghèo…………………………..…………………….…16

CHƯƠNG 2………………………………………………………..………21

BIỂU HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN

QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945…………..…………….21

2.1. NHỮNG KHỔ CỰC VÀ BẤT CÔNG MÀ NGƯỜI

NÔNG DÂN PHẢI GÁNH CHỊU………………………………..……..…..21

2.1.1. Cuộc sống khổ cực, bị bóc lột tàn nhẫn…………………………...…...21

2.1.2 Khát khao cuộc sống hạnh phúc nhưng bị vùi dập……………………..28

2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN

QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NAM CAO………………….…….…....30

2.2.1. Người nông dân với những phẩm chất tốt đẹp…………………….....30

2.3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN

BIỂU HIỆN QUA HÀNH ĐỘNG VÀ NGÔN NGỮ...………………….….35

2.2.2. Những nhược điểm của người nông dân………………………….……33

2.3.1. Thông qua hành động, cử chỉ, điệu bộ……………………………...….35

2.3.2. Thông qua ngôn ngữ đối thoại……………………………………..…..36

2.3.3. Thông qua ngôn ngữ độc thoại………………………………………...38

CHƯƠNG 3……………………………………………………………...….40

NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT

TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945……………….……….…...40

3.1. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT,

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT……………………………………..….….40

3.1.1 Thời gian nghệ thuật………………………………………………..…40

3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

HÌNH TƯỢNG NHÂN VÂT…………………………………..……….......48

3.1.2. Không gian nghệ thuật……………………………………………......45

3.2.1. Về ngoại hình……………………………………………….…….…....48

3.3. GIỌNG ĐIỆU……………………………………………….….……….54

3.2.2. Về nội tâm………………………………………………….……….…50

3.3.1. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ……………………………….……..…54

3.3.2. Giọng điệu trân trọng, trìu mến……………………………..……..…57

3.3.3. Giọng điệu xót xa, đau đớn………………………………….…………58

3.3.4. Giọng điệu lạnh lùng, chua chát…………………………….….…..…60

KẾT LUẬN……………………………………………………….…..........62

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….…..….....64

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN………………………………….…....65

LỜI CẢM TẠ

Nhân nhịp hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên tôi xin gửi lời

cảm ơn đến Ba, Mẹ và những người thân trong gia đình đã làm chổ dựa tinh thần

vững chắc cho tôi. Và lời cảm ơn đến các thầy cô ở Trường Đại học Võ Trường

Toản nơi tôi hoc tập, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học

tập và thực hiện đề tài, cùng các thầy cô thỉnh giảng đã giảng dạy tôi trong suốt

khóa học.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Lê Văn Phương, người

đã hướng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất.

Trân trọng cảm ơn!

Sinh viên thực hiện.

i

Nguyễn Văn Ni

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận này là do chính bản thân tôi thực hiện,

nghiên cứu cũng như tổng hợp và phân tích. Đề tài không trùng với bất cứ đề tài

nào đã có trước đây.

Sinh viên thực hiện

ii

Nguyễn Văn Ni

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Nam Cao là nhà văn hiện thực sâu sắc. Người đã kế tục trào lưu văn học hiện

thực phê phán và mang lại cho dòng văn học này một sức sống mới, Với những

giá trị, thành tựu to lớn về nhiều mặt Nam Cao là một tác giả bậc thầy về truyện

ngắn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn trong lịch sử văn học dân tộc.

Nam Cao là một nhà văn có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học. Ở cả

hai gia đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám, nhà văn đều có những

cống hiến đặc biệt có ý nghĩa. ở giai đoạn 1940- 1945, trào lưu văn học hiện thực

phê phán rơi vào khủng hoảng. Nam Cao đã xuất hiện và bằng những sáng tác của

mình, ông đã “phục hưng” và đem lại cho dòng văn học này một đỉnh cao mới.

Sau cách mạng tháng Tám, khi các nhà văn chưa kịp chuyển biến về tư tưởng để

bắt kịp với thực tiễn, Nam Cao đã nhanh chóng chuyển mình và có những sáng tác

xuất sắc, có ý nghĩa “mở đường” cho nền văn nghệ kháng chiến như: Đôi mắt…

Vì vậy trong chương trình văn học ở nhà trường phổ thông, Nam Cao là một

tác giả quan trong, có nhiều tác phẩm được đưa vào chương trình phổ thong giảng

dạy. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, tác phẩm của ông đều được chọn giảng, trước

cách mạng có Chí Phèo, đời thừa sau cách mạng có Đôi mắt…Sáng tác của Nam

Cao có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, có nhiều

đóng góp về phương châm quan điểm sáng tác. Đặc biệt là tính chất hiện đại là

một đặc điểm bao trùm lên sáng tác của nhà văn.

Do đó, tác phẩm của Nam Cao là một đề tài nghiên cứu phong phú và “hứa

hẹn nhiều khả năng hoán vị” (Phong Lê).

Nghiên cứu về tác phẩm của Nam Cao có thể đứng ở nhiều góc độ, ở mỗi

góc độ khác nhau sẽ có những cách nhìn khác nhau. Chúng tôi nhận thấy việc tiếp

cận tác phẩm của Nam Cao từ góc độ cái nhìn từ thế giới nhân vật người nông dân

trong truyện ngắn của Nam Cao, là một hướng có khả năng thâm nhập sâu vào thế

giới nghệ thuật của nhà văn. Khám phá ra những nét độc đáo của ông so với các

nhà văn hiện thực phê phán cùng thời trên phương diện chủ nghĩa hiện thực.

Nam Cao viết nhiều nhưng tập chung chủ yếu ở hai mảng đề tài là “cuộc

sống người nông dân” và “cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo” trong xã

hội trước cách mạng tháng tám. Ở mảng đề tài nào thì Nam Cao cũng đạt được

1

những thành công lớn trong sáng tác của mình.

Trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng thánh Tám, giới phê bình cho

rằng: ở đề tài viết về người nông dân, là đề tài thành công và đặc sắc nhất trong sự

nghiệp sáng tác của Nam Cao. Trong những tác phẩm viết về người nông dân,

Nam Cao đã thể hiện một tính nhân văn cao cả với một bút pháp hiện thực sâu

sắc.

Điều chúng tôi tập trung nghiên cứu trong khóa luận này là “Hình tượng

người dân trong truyện ngắn của Nam Cao”. Chúng tôi mong muốn sẽ khám phá

sâu hơn thế giới nhân vật, những con người nông dân Việt Nam trong xã hội thực

dân nữa phong kiến. Và đồng thời qua đó sẽ khám phá sau hơn thế giới nghệ thuật

của nhà văn, góp phần khẳng định những đóng góp độc đáo của ông, cũng như vị

trí của ông trong nền văn học nước nhà. Đó là tất cả những gì thôi thúc người viết

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

chọn đề tài.

Nghiên cứu về Nam Cao có thể kể từ 1941 với lời giới thiệu của Lê Văn

Trương, nhưng chỉ thực sự bắt đầu từ sau năm 1945. Nhiều công trình nghiên cứu

công phu, có tính khoa học cao đã được giới thiệu, trong đó có thể kể đến bài viết

của Nguyễn Đình Thi (Nam Cao-về tác giả và tác phẩm, 1956), Nguyên Hồng (Đọc

những truyện ngắn của Nam Cao, 1960), chuyên luận “Nam Cao-nhà văn hiện thực

xuất sắc nhất” của Hà Minh Đức (NXB văn hóa, Hà Nội, 1961). Với công trình

nghiên cứu này Hà Minh Đức đã trở thành một nhà nghiên cứu có đóng góp quan

trọng trong việc khẳng định những thành tựu nghệ thuật của Nam Cao. Trong thời

gian này còn phải kể đến nhiều bài nghiên cứu về Nam Cao như Huệ Chi-phong Lê

với “con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao”(tạp chí nghiên cứu văn

học, số 1-1961).

Trong những năm 90, Hội thỏa khoa học nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao

(1951-1991) do viện văn học phối hợp với hội nhà văn Việt Nam, hội văn học Hà

Nam Ninh và trường đại học sư phạm Hà Nội I tổ chức vào ngày 29/11/1991 đã trở

thành một dịp thuận lợi để các nhà nghiên cứu về Nam Cao bày tỏ quan điểm mình

tâm đắc. “Nghỉ tiếp về Nam Cao”(NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1992) chính là tập hợp

những bài viết tham gia hội thảo. Đáng chú ý ở phương diện chủ đề là một số bài:

2

“Nam Cao và khát vọng về cuộc sống lương thiện xứng đáng” của Nguyễn Văn

Hạnh, “Thử sống trong văn Nam Cao” của Nguyễn Lương Ngọc, “Bi kịch tự ý

thức- nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao” của Đinh Trí Dũng…

Những năm tiếp theo, vấn đề chủ đề trong tác phẩm của Nam Cao tiếp tục được

khám phá, nhận định như: “gánh nặng mặc cảm trong đời sống và đời viết của Nam

Cao” của Văn Giá (1993); “Những nhân vật, những cuộc đời và đường đi tìm nhân

cách” (1995) của Vũ Dương Quỹ.

Vấn đề về “hình tượng người nông dân” trong sáng tác của Nam Cao cũng đã

được đề cập nhiều. Có thể nói các tác giả khi đề cập tới Nam Cao không thể không

nói đến thế giới nhân vật của ông, bởi đây là một đặc điểm nổi bật trong sáng tác

của Nam Cao, góp phần khẳng định những cống hiến của nhà văn trên lĩnh vực chủ

nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo.

Tuy nhiên, do những mục đích nghiên cứu khac nhau, đối tượng khám phá và

hướng tiếp cận không giống nhau, nên hầu hết các tác giả chỉ nhìn nhận một số vấn

đề cụ thể, chưa nhìn thấy. Hay chưa khám phá, phương thức hình tượng nhân vật

trong mảng đề tài nông thôn một cách kỷ lưỡng.

Xã hội Việt Nam 1930-1945 là xã hội thực dân nửa phong kiến. Người nông

dân lúc bấy giờ phải sống trong bầu không khí ngột ngạt và bế tắc, họ phải chịu

cuộc sống “một cổ ba tròng”. Phản ánh vấn đề này đã có rất nhiều tác giả, nhà văn

nổi tiếng như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân và đặc

biệt là Nam Cao. Ở mỗi nhà văn lại có phong cách nghệ thuật khác nhau. Cũng khai

thác ở hai mảng đề tài trên, đề tài nông dân và đề tài tiểu tư sản. Ở sáng tác của

Nam Cao bức tranh hiện thực không chỉ nghiêng về bình diện phản ánh, quan sát

mà còn đi sâu vào bản chất những cái vặt vãnh của đời sống hàng ngày. Trong sáng

tác của Nam Cao, những điều tưởng như không đâu vào đâu lại tác động mạnh mẽ

đến nhân cách con người “như tảng đá cứ đè trĩu lên lòng người”.

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều có chung một nhân xét: Nam Cao có sở

trường trong việc miêu tả tâm trạng quá trình diễn biến tâm lí phức tạp của nhân

vật, làm nổi bật bi kịch đời thường, bi kịch nhân cách, tinh thần của con người và

quan trọng hơn là vươn lên trên cái khung đề tài là vấn đề kiếp người, thân phận

con người vấn đề con người bị tha hóa, bị biến chất về đạo đức và băng hoại về

phẩm chất. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã nhận xét: “nhìn theo đề tài thì trong

3

tác phẩm của Nam Cao có sự phân chia giữa tác phẩm viết về người nông dân và

tác phẩm viết về người trí thức tiểu tư sản, nhưng trong chiều sâu của vấn đề thì chỉ

là một”[4,tr.56].

Trong công trình “văn hóa nghệ thuật 1900-1945”, Hà Minh Đức khi viết về

Nam Cao đã đề cập đến vấn đề nhân đạo của nhà văn đối với người nông dân nghèo

và nói đến sự phản ánh về sự bần cùng của người nông dân. Nhà nghiên cứu đã

phân tích về vấn đề con người và cuộc sống của thế giới nhân vật nông thôn dưới xã

hội cũ. Nhưng do tính chất là một giáo trình cho nên vấn đề cũng chưa được khai

thác như một đối tượng nghiên cứu độc lập.

Trên đây là những công trình nghiên cứu, những nhận định, những đánh giá

chung về Nam Cao và sáng tác của ông.

Tóm lại, điểm qua lịch sử nghiên cứu về Nam Cao, chúng tôi thấy rằng, các

công trình, các bài viết đã có những luận điểm quan trọng, khái quát về hình tượng

người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao. Đặc biệt trong một số công trình

đã có những khám phá độc đáo, có sự phân tích sâu sắc và thuyết phục ở một số

khía cạnh, đó là cơ sở để chúng tôi tiến tới nghiên cứu đề tài này.

Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau, vấn đề hình tượng người nông dân trong

sáng tác của Nam Cao chưa được nghiên cứu với tư cách là đối tương có hệ thống,

đặc biệt chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về thế giới nhân vật. đề tài về người nông

dân của Nam Cao, cũng như chưa có sự khẳng định về những đóng góp to lớn của

Nam Cao khi viết về người nông dân trong xã hội cũ. Đó là những điều chúng tôi

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

muốn thực hiện trong khóa luận này.

Trong khóa luận này người viết muốn phần nào giúp mọi người thấy được sự

ngột ngạt và bế tắc, những mối đe dọa trong đời sống mà người nông dân phải chịu

hơn bao giờ hết, họ phải chịu ba tầng áp bức bóc lột. Địa chủ. Tư sản mại bản và

thực dân pháp. Cuộc sống của người nông dân khổ cực trăm bề, họ phải sống trong

tình cảnh đói nghèo, vất vả bần cùng về vật chất lẫn tinh thần.

Những tác phẩm là nỗi niềm trăn trở của Nam Cao về tương lai của dân tộc,

về cuộc sống của con người, đồng thời đó cũng là ý thức về trách nhiệm, về lương

tâm của người cầm bút. Thấy được sự khổ cực, chật vật và bế tắc qua “Hình tượng

4

người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”

tức là thấy được cái nhìn sắc sảo của Nam Cao đối với những vấn đề trong xã hội

cũng như tấm lòng đồng cảm thương xót đối với người lao động nghèo.

Thông qua khóa luận, người viết muốn phần nào giúp mọi người có một góc

nhìn sâu sắc hơn về “người nông dân”. Đồng thời giúp chúng ta hình dung một cách rõ

nét cuộc sống cơ cực, đói khổ, lầm than của nhân dân và hiểu thêm về hiện thực xã hội

Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Ngoài ra, nghiên cứu đề tài này còn giúp người viết có điều kiện tiếp xúc

nhiều hơn với những tác phẩm của Nam Cao, cũng như là hiểu sâu sắc hơn về cuộc

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

đời và sự nghiệp sáng tác của ông.

Do tính chất là một khóa luận cuối khóa cũng như điều kiện thời gian và khả

năng hạn chế của bản thân, người viết xin được giới hạn phạm vi đề tài nghiên cứu

tập trung vào “Hình tượng người nông dân” được phản ảnh trong tác phẩm của

Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Do thời gian làm khóa luận có hạn mà số lượng tác phẩm của Nam Cao trước

cách mạng cũng khá nhiều nên người viết chỉ chọn lọc ra một số tác phẩm tiêu biểu

của Nam Cao để thuận tiện cho việc phân tích lí giải vấn đề. Cụ thể là những tác

phẩm sau:

1. Nửa đêm

2. Người hàng xóm

3. Nghèo

4. Điếu văn

5. Trẻ con không được ăn thịt chó

6 Lão Hạc

7. Tư cách mõ

8. Chí Phèo

9. Dì Hảo

10. Làm tổ

11. Một bữa no

12. Ở hiền

5

13. Một đám cưới

15. Lang Rận

Bên cạnh đó, người viết còn chọn một số tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn cùng

thời khác như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân, để

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

phân tích, so sánh làm sáng tỏ vấn đề được nêu.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết không xem xét từng tác phẩm

của Nam Cao ở dạng đơn lẻ, tách biệt mà xem chúng là những chỉnh thể trong một

chỉnh thể lớn hơn là thế giới nghệ thuật Nam Cao. Người viết đã sử dụng những

phương pháp sau để hoàn thành khóa luận:

Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu.

Phương pháp thống kê và xử lí tài liệu.

Phương pháp phân tích, lí giải.

6

Phương pháp đối chiếu, so sánh.

CHƯƠNG 1

TÁC GIẢ NAM CAO

1.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NAM CAO

1.1.1. Cuộc đời.

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh ngày 29/10/1917 tại làng Đại Hoàng,

phủ Lý Nhân (Nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Nam Cao sinh

trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống khá chật vật, trong các anh em, chỉ có

mình Nam Cao được đi học. Đói nghèo, bệnh tật đeo đuổi và giày vò Nam Cao

ngay từ những năm còn nhỏ. Năm 1934, Nam Cao thi trượt Thành Chung. Ngày

2/10/1935 Nam Cao lập gia đình với bà Trần Thị Sen, sinh năm 1917. Cuối năm

1935, Nam Cao theo một người cậu làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ

cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều mơ ước và dự định

lớn lao. Những tưởng xa miền quê sẽ mở ra một chân trời mới lạ, nhưng rốt cuộc,

bệnh tật lại trả Nam Cao trở về quê. Ở Sài Gòn về, Nam Cao ôn lại vốn học cũ và

thi đậu bậc Thành Chung. Nam Cao định xin đi làm công chức, nhưng vì bệnh tật

nên không được chấp nhận. Một người trong họ mở trường tư ở Hà Nội, cần một

giáo viên có bằng trung học, Nam Cao được mời lên dạy học. Cuộc sống của một

thầy giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của người trí

thức nghèo, trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông

Dương, trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia

sư, có khi thất nghiệp phải về quê “ăn bám” vợ.

Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm văn hóa cứu quốc bí mật cùng với một số

nhà văn như: Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi… Khi

cơ sở văn hóa cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam

Cao trở về quê tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.

Thời kì Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý

Nhân, và được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó ít lâu, Nam Cao được điều lên Hà Nội

và công tác ở Hội Văn hóa cứu Quốc. Có thời kì, Nam Cao làm thư kí tòa soạn tạp

7

chí Tiên Phong, cơ quan của Hội.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân Nam tiến vào vùng

Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng chiến chống thực

dân Pháp, Nam Cao vừa làm biên tập cho các báo cứu quốc Việt Bắc, cứu quốc

Trung Ương, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông tin tuyên truyền. Thời

gian này, Nam Cao được vinh dự gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương (1947).

Tháng 11/1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên Khu Ba, Nam

Cao bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình).

Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói (ông tự

giễu mình là có “cái mặt không chơi được”), nhưng đời sống nội tâm vô cùng

phong phú, luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt,

hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông tự cho là tầm

thường của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời của Tô Hoài) ấy luôn

nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen,

khát khao vươn tới “tâm hồn trong sạch và mơ ước tới cảnh sống, những con người

thật đẹp”. Giá trị to lớn của sáng tác Nam Cao, nhất là những tác phẩm viết về

người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm mà

quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ông.

Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó

sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh

miệt xã hội cũ.Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi

là người (Đời thừa). Đó là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con đường

nghệ thuật “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân văn

sâu sắc.

Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật vì lí tưởng nhân đạo và hy sinh anh

dũng vì sự nghiệp giải phong dân tộc của Nam Cao mãi mãi là một tấm gương cao

đẹp của một nhà văn chân chính. Năm 1996, Nam Cao được nhà nước tặng giải

8

thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật– đợt I năm 1996.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác

Nam Cao hy sinh giữa lúc ngòi bút đang ở giai đoạn trưởng thành và chín mùi

để chuyển hướng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán sang chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa. Sự ra đi của Nam Cao không chỉ để lại khoảng trống cho nền văn học

dân tộc mà còn mất đi một nhân tài của tổ quốc.

Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học Việt Nam

giai đoạn 1930-1945. Chỉ với mười lăm năm cầm bút (1936 – 1951) nhà văn liệt sĩ

Nam Cao đã để lại một sự nghiệp văn chương tuy không thật đồ sộ về khối lượng,

chỉ gồm hơn 60 truyện ngắn và hai tập truyên dài là Sống mòn(1944).và Chuyện

người hàng xóm. Nhưng Nam Cao đã gởi vào đó những giá trị hiện thực lớn lao trải

dài qua hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám 1945.

1.1.2.1 Trước cách mạng tháng Tám-1945.

Trước cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao bước vào sự nghiệp văn chương

năm 1936, trong giai đoạn này Nam Cao luôn có sự đấu tranh giữa những quan

điểm và khuynh hướng sáng tác của bản thân.

Ở giai đoạn này Nam Cao có những sáng tác như: Cảnh cuối cùng (1936), Hai

cái xác(1936), Nghèo(1937), Chí Phèo(1941), Trẻ con không biết đói (1942),

Những truyện không muốn viết(1942), Đôi móng giò(1942), Lão Hạc(1943), Trăng

sáng(1942), Dì Hảo(1944), Bài học quét nhà (1943), Đời thừa (1943), Đón khách

(1943), Ở hiền (1943), Đòn chồng (1942), Điếu văn (1943), Mua nhà (1943), Một

bữa no (1943), Một đám cưới (1944), Truyện người hàng xóm (1944), Nửa đêm

(1944), Lang Rận (1944), Làm tổ (1943), Tư cách mõ (1943),…Đã thể hiện phần

nào phong cách của nhà văn Nam Cao.

Cuộc sống con người nói chung và tầng lớp thấp bé như người nông dân nói

riêng đã được nhà văn Nam Cao cảm thông bằng chính tình cảm của người luôn gắn

bó máu thịt với những người cùng khổ, lam lũ của làng quê và cả những người trí

thức nghèo là đồng nghiệp quanh ông. Truyện của ông luôn thể hiện sự quan tâm,

băn khoăn, đau xót trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc

9

sống đói nghèo, cơm áo ghì sát đất đang đẩy tới, đe dọa con người.

Tác phẩm Trăng sáng(1942), nhà văn cũng đã thể hiện được cái nhìn chua chát

của xã hội lúc bấy giờ bằng những việc vốn rất bình thường, nhỏ nhặt nhưng ý

nghĩa tố cáo lại rất sâu sắc. Qua nhân vật Điền, hiện thân của tác giả, một văn sĩ

nghèo với nhiều suy nghĩ về cuộc đời của mình trước bốn bề những nỗi lo trong

cuộc sống hiện tại “giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ

ngoài đầu xóm và cả tiếng chửi bới của một người hàng xóm ban đêm mất

gà”.[15,tr.191].

Với Đời thừa (1943), nhà văn đã thể hiện nhân cách cao đẹp của người cầm

bút trước một xã hội rối ren, gần như tha hóa vẫn giữ được lương tâm của người

nghệ sĩ trong sự nghiệp văn chương, để đưa ra những quan điểm chân chính của

mình: “Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những

tình cảm rất nông, diễn ra một vài ý nghĩa quá thông thường. Thế nghĩa là hắn là

một kẻ vô ích. Một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo

tay, làm một vài khuôn mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết

đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo ra những gì chưa

có. Hắn nghĩ thế và buồn lắm. Còn gì buồn hơn mình lại chán chính

mình”[15,tr.192].

Trên Tiểu thuyết thứ 7 năm 1944, Nam Cao cho ra đời truyện ngắn Lang Rận,

Một đám cưới đã phản ánh những cuộc đời khổ cực, đầy bi thảm trước cuộc sống xã

hội mà những tầng lớp thấp bé luôn bị vùi dập, bị bóc lột về mọi mặt, và cũng qua ý

nghĩa của những tác phẩm này Nam Cao đã thể hiện giá trị tố cáo của những tác

phẩm mang tính chất hiện thực của mình. Cũng cùng thời điểm này tiểu thuyết Sống

mòn ra đời cũng nói lên sự khổ cực của gánh nặng cơm áo mà tầng lớp trí thức

nghèo đang phải chịu.

Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trong giai đoạn này được nhà văn Phong Lê

nhận định: “một chủ nghĩa hiện thực, một bút pháp hiện thực Nam Cao-đó là nét in

đậm và nổi lên trên những trang viết của Nam Cao không lặp lại Nguyễn Công

Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài…Và đưa Nam Cao lên hàng đầu dòng văn học Việt

10

Nam đang đi chặng cuối-trước khi đi vào bản lề cách mạng”[13,tr.111].

1.1.2.2. Sau cách mạng tháng Tám-1945.

Bước sang giai đoạn sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà văn Nam Cao là một

trong những nhà văn có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và nghệ thuât.

Ông đã dùng ngòi bút của mình để phục vụ cách mạng, để thành một nhà văn

đồng thời là một chiến sĩ cách mạng. Ở giai đoạn này Nam Cao có những sáng tác

tiêu biểu như: Đường vô Nam(1946), Từ ngược về xuôi(1948), Hội nghị nói

thẳng(1950), Nỗi truân chuyên của khách má hồng(1946), Đôi mắt (1948), Nhật ký

ở rừng (1948), Những bàn tay đẹp ấy (1948), Trên những con đường Việt Bắc

(1948), Bốn cây số một căn cứ địch(1950), …đều thể hiện được niềm vui niềm hào

hứng với tinh thần của người chiến sĩ cách mạng, và cũng từ đó mà ông cũng tạo

được chuyển biến trong sự nghiệp văn chương từ nội dung tư tưởng đến phong cách

của nhà văn Nam Cao.

Với Đường vô Nam in trên báo Tiền Phong 1946 là một trong những tác phẩm

thể hiện sự chuyển biến trong tư tưởng của nhà văn trong giai đoạn này. Nhà văn

Nam Cao quan niệm “Sống đã rồi hãy viết” vì đối với nhà văn trong thời điểm đất

nước đang gặp nhiều khó khăn thì cần góp công sức của mình vào sự nghiệp giải

phóng dân tộc. Nhưng “Sống rồi hãy viết” với Nam Cao không có nghĩa là hy sinh

nghệ thuật cho cách mạng mà càng gắn bó với cách mạng thì ông càng tha thiết ao

ước phải đáp ứng yêu cần của đời sống trong thời điểm này, một tác phẩm chuyển

biến của người trí thức như ông, hoặc sự đổi đời của người nông dân làng quê ông.

Trong những chuyển biết về tư tưởng đó, Nam Cao đã chuyển từ vị trí nhà văn

hiện thực sang một vị trí nhà văn cách mạng, luôn đồng cam cộng khổ với nhân dân

và cũng từ những ngày tháng này đã giúp Nam Cao khơi nhanh cảm xúc của mình,

đã giúp cho ông dù hoàn cảnh bận rộn vẫn luôn luôn có sáng tác đáp ứng yêu cần

của phong trào.

Tác phẩm Đôi mắt (1947), Nam Cao một lần nữa làm nổi bật lên khả năng và

xu hướng nghệ thuật của ông. Nhà văn Nam Cao không chỉ nói lên sự thức tỉnh của

những người trí thức, những thanh niên học thức, mà còn thấy được cả sự đóng góp

của những người nông dân nghèo để đến với cách mạng, góp thêm công sức của

11

mình vào công cuộc giải phóng dân tộc.

“Người nhà quê thì dẫu sao cũng là bí mật của chúng ta. Tôi gần gủi họ rất

nhiều. Tôi gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ,

nhịn nhục một cách đáng thương(…)Nhưng đến hồi tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã

ngữa người. Té ra người nông dân nước mình có thể làm cách mạng, mà làm cách

mạng hăng hái lắm. Tôi đã đi theo họ đi đánh Phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận

Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát tiếng

quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong hăng hái

lắm…”[16,tr.252].

Năm 1948 đến 1949, Nam Cao cho ra đời tác phẩm Bốn cây số một căn cứ

địch.

Năm 1950, Nam Cao viết tiểu thuyết Trận đầu.

Năm 1951, nhà văn Nam Cao in tập truyện kí Chuyện biên giới và Đóng góp.

Đến tháng 9 năm 1951, trên đường đi công tác ông bị phục kích và hy sinh. Sự

ra đi của nhà văn Nam Cao khi tuổi đời còn quá trẻ, khi đang ở đỉnh cao của sự

nghiệp văn chương là sự mất mát lớn đối với nền văn học hiện thực lúc bấy giờ nói

1.2. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT.

riêng và nên văn chương của dân tộc nói chung.

1.2.1. Quan điểm sáng tác.

Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề sống và viết, rất có

ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, nhắc đến Nam Cao là nhắc

đến chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945, đấy mới thực sự

tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.

Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương

thời. Dần dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của

người lao động; chính vì vậy, Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ

thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương

thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam

Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn

12

nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng.

Đời thừa (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn,

phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì

lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công

bằng. Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu.

Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn

chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm,

có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những

là bất lương mà còn là đê tiện.

Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật

cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm

có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm

"sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính

để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn".

1.2.2. Phong cách nghệ thuật.

Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc

đáo. Ông đặc biệt quan tâm tới đời sống tinh thần con người, luôn có hứng thú

khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí

thức. Ông quan niệm “sống tức là cảm giác và tư tưởng. sống cũng là hành động

nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành

động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. cảm giác càng

mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi giàu càng sâu sắc thì sự sống càng

cao”[Sống mòn]. Như vậy, Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý

đến hoạt động bên trong của con người, coi đó là những nguyên nhân của hành

động bên ngoài.

Với một quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào

nội tâm, đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Ông là nhà văn có biệt tài về

diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối

tượng trực tiếp của ngòi bút nam Cao. Ông tỏ ra đặc biệt sắc sảo trong việc phân

tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện tượng

lưỡng tính nữa say nữa tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác,

13

giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật,…

Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại,

độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. Mặt khác, cũng do yêu cầu miêu tả tâm

lí, mạch tự sự trong truyện của ông thường đảo lộn không gian và thời gian, tạo nên

kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt vừa nhất quán, chặt chẽ. Ngòi bút

Nam Cao cũng thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh mà nhà văn gọi là những

truyện không muốn viết. từ những việc quen thuộc thậm chí bình thường trong đời

sống hằng ngày, tác phẩm Nam Cao đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to

lớn, thể hiện tính triết lí sâu sắc về con người, về cuộc sống nghệ thuật.

Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát, dửng dưng

lạnh lung mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,...

1.3. NHỮNG ĐỀ TÀI CHÍNH.

Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945,

Nam Cao nổi lên như một một nhà văn tiêu biểu và độc đáo. Là “người thư ký trung

thành của thời đại”, với một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo, Nam Cao đã đặt ra

trước người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch

đau đớn, vật vã. Nam Cao viết nhiều, những sáng tác của ông có thể quy về hai đề

tài chủ yếu: “người nông dân” và “người trí thức nghèo”. “Tổng hợp những sáng

tác của Nam Cao về đề người trí thức nghèo và người nông dân, trước mắt người

đọc hiện lên khung cảnh đen tối nhất của xã hội Việt Nam thời kì trước Cách mạng

tháng Tám. Đời sống của nông dân ở nông thôn cũng như của các tầng lớp trung

gian ở thành thị đều khổ cực về mọi mặt. Đằng sau lũy tre xanh, không phải là

những mái rạ vàng nên thơ, những cuộc đời êm ả, bình dị, mà là những kiếp sống

đắng cay, cơ cực đang chết dần, chết mòn, chết một cách thảm thê, đau đớn (vì

đói)… Ở thành thị, bên kia khoảng ánh sáng phù hoa, giả dối của một số người rất

nhỏ, là cả một biển người đói rách, nheo nhóc, tù hãm. Hình như tất cả mục đích

của cuộc đời chỉ dồn vào những miếng cơm manh áo”[3,tr.66-77].

1.3.1. Người nông dân.

Khi viết về người nông dân, Nam Cao đã lấy hiện thực về làng Đại Hoàng

của mình làm bối cảnh để sáng tác. Phần lớn những truyện ngắn viết về đề tài người

nông dân của Nam Cao ra đời vào những năm 1940 – 1945. Cái dấu ấn của một thời

14

kì đen tối để lại khá sâu đậm trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao: vẫn là những

chủ đề quen thuộc như nhiều nhà văn hiện thực khác như: đời sống khó khăn, thóc

cao gạo kém, con người phải vật lộn để kiếm sống. Nhưng trong tác phẩm của Nam

Cao, cái đói như một sức mạnh vô hình níu chặt lấy số phận của các nhân vật từ

“Nghèo” đến “Lão Hạc”, “Quái dị”… Chúng ta đều bắt gặp một hoàn cảnh chung:

nông thôn xơ xác, tiêu điều. “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa

những khu vườn rộng nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân

gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng, dĩ chỉ đến cây khoai, cây ráy cũng

không lên được. Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ bụng ỏng mắt toét ngoài

đường sẵn lắm.” (Quái dị).

Xuyên suốt trong những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao là

hình ảnh những con người vật vã, giằng co với miếng ăn hàng ngày. Đó là những

quá trình vật lộn với cái nghèo, cái đói. Cái nghèo, cái đói luôn đeo đẳng đã làm cho

những người nông dân khốn khổ phải tìm mọi cách để vượt qua. Và cái chết là

phương thuốc hữu hiệu nhất để cắt rời họ với đói nghèo. Đó là cái chết đau đớn, xót

xa của bà Cái Đĩ trong Một bữa no, anh Đĩ Chuột trong Nghèo, Lão Hạc trong Lão

hạc… “Số phận các nhân vật của Nam Cao trước sau đều kết thúc một cách hết sức

bi thảm. Cái chết vật vã, dữ dội của Lão Hạc, cái chết ai oán đau thương của bà cái

Đĩ, cứ dội lên như những tiếng nấc, những tiếng thở dài não nuột. Trong những

ngày còn sống, cuộc đời đã dành cho họ biết bao cay đắng, lúc qua đời họ lại phải

nhận một cái chết thê thảm” [3,tr.45-46]. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng chung

quy lại là cảnh nghèo đói và chết đói của họ mang một ý nghĩa tố cáo xã hội sâu

sắc. Cái đói làm thui chột nhân cách của con người, làm mất đi những giá trị truyền

thống, những tình cảm thiêng liêng. Vì miếng ăn mà người cha luôn nhìn vào cái

bụng căng tròn của con mình và khẳng định rằng: “Trẻ con không biết đói” trong

Trẻ con không biết đói. Vì miếng ăn mà người cha đã tìm cách làm thịt con chó và

cùng bạn bè ăn nhậu no say trong khi vợ con mình đang đói khát trong Trẻ con

không được ăn thịt chó.

Cuộc sống nghèo đói làm con người bị dồn vào cửa tử, ngõ cùng. Họ đã cố

gắng chóng chọi lại với cái đói bằng mọi cách nhưng cuối cùng họ vẫn bị tha hóa về

diện mạo và nhân phẩm, đạo đức. Họ đã bị chế độ xã hội cũ, sự nham hiểm của bọn

thống trị đẩy vào cuộc sống bế tắc. Cu Lộ trong Tư cách mỏ và Chí Phèo trong

15

truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là đại diện tiêu biểu cho lớp người đó. Sự tha

hóa biến chất đó là do sự ghẻ lạnh, lòng đố kị của con người. Viết về sự tha hóa của

người nông dân, Nam Cao nuốn phê phán, tố cáo xã hội bất công, tàn nhẫn, độc ác

đã biến họ thành những kẻ tham lam, đê tiện và cự tuyệt quyền làm người của họ.

Những kiếp người cùng khổ trong tác phẩm của Nam Cao được ông viết bằng máu

và nước mắt của mình. Với sự thông cảm, trân trọng và xót xa trước cảnh ngộ của

người nông dân, cũng như nhìn rõ bộ mặt của chế độ cũ mà những trang viết về

người nông dân của Nam Cao luôn có giá trị đối với thời gian.

1.3.2. Người trí thức nghèo.

Sinh ra ở nông thôn nhưng Nam Cao sống nhiều với tầng lớp trí thức tiểu tư

sản thành thị. Ông am hiểu cuộc sống cùng cực của người nông dân, nhưng càng

thấm thía sâu sắc cuộc sống của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Bởi bản thân ông đã

từng là giáo khổ trường tư, là nhà văn nghèo bất đắc dĩ “phải bán dần sự sống cho

mình khỏi chết đói”.

Do sống trong hoàn cảnh đó nên Nam Cao hiểu được cuộc sống khổ cực, lận

đận của những người trí thức tiểu tư sản. Họ bị chèn ép bởi thực dân, địa chủ, tư sản

mại bản. Đặc biệt trong cuộc chiến tranh thế giới lần hai, cuộc sống của họ rất bấp

bênh, khổ cực. Họ luôn bị coi thường, khinh rẻ và bị chà đạp. Đi sâu vào thế giới trí

thức tiểu tư sản, Nam Cao miêu tả cuộc sống nghèo khổ, bị thất nghiệp, bệnh tật,

đói khát… luôn vây quanh họ.

Những nhân vật trí thức nghèo của Nam Cao đều ôm ấp những ước mơ, hoài

bão, những dự định lớn lao đẹp đẽ: “Họ ao ước trở thành những nhà văn có tên

tuổi”, “Họ ao ước trở thành những nhà giáo tận tụy với công việc và với hy sinh”.

Thế nhưng, họ không thực hiện được, và những ước mơ mà họ đeo đuổi đã bị lụi

tàn trong đói cơm rách áo.

“Cuộc đời cơ cực đang giơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ”

(Xuân Diệu).

Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao cũng dũng cảm vạch ra được

những mặt thấp kém của họ. Không né tránh như Thạch Lam, không cực đoan,

16

phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa như Nhất Linh, Khái Hưng,

ngòi bút của Nam Cao luôn tỉnh táo, đúng mực. Ông muốn xé toan lớp vỏ hào

nhoáng bên ngoài của tầng lớp trí thức tiểu tư sản, để tác giả có thể đi sâu vào một

thực tế bên trong. Đó là cuộc sống ngột ngạt, chật vật, điêu đứng tầm thường bởi

miếng cơm và manh áo. Với vẻ bề ngoài, những nhân vật của Nam Cao họ sống,

hành động, dằn vặt lo âu, quằn quại trong bế tắc và tuyệt vọng. “Truyện Nam Cao

đã ghi lại chân thực cái hình ảnh bi hài của cuộc sống nghèo khổ, tủi cực của người

trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ, vốn vừa bi vừa hài; đồng thời, đã phản

ánh được cuộc sống oi bức bế tắc của xã hội đang đứng trước vực thẳm đói rét

chiến tranh, đã đe dọa cuộc sống vốn bấp bênh của tầng lớp tiểu tư sản”. (Nguyễn

Hoàng Khung – Nam Cao trong lịch sử văn học Việt Nam tập V (1930 – 1945)

Phần II – Nxb Giáo dục, 1993, tr 40).

Khi lí tưởng của họ không thực hiện được thì những con người trí thức tiểu

tư sản càng rơi dần vào bi kịch chết mòn. Họ cùng có chung hoàn cảnh, họ luôn

luôn ở trong tâm trạng ngao ngán, tuyệt vọng và những nhân vật của ông thì không

mấy có niềm vui. Những khuôn mặt nhợt nhạt, gầy gò vì đói, những nếp nhăn hằn

sâu và những đôi mắt mệt mỏi, chán chường vì lo lắng, những thái độ thô lỗ, cục

cằn trái với tâm tính của những người “có học”… Tất cả hiện lên sinh động trước

mắt người đọc. Tiếc từng đồng tiền mua thuốc cho con, tàn nhẫn với vợ, tập “quên

điều độ” với sự nghèo đói và chết dần chết mòn trong cảnh đói nghèo – đó không

chỉ là số phận riêng của từng con người mà còn là thân phận chung của cả một tầng

lớp người đang bế tắc, tuyệt vọng.

Người trí thức của Nam Cao luôn trải qua sự đấu tranh, giằng co giữa thiện

và ác, giữa ước mơ và hiện thực. Mặc dù có lúc họ rơi vào bi kịch, tuyệt vọng chán

chường nhưng họ kông hoàn toàn thụ động và cam chịu. Họ vẫn cố gắng chống

chọi với những trở ngại để mà sống, để tồn tại. Họ không bó tay chịu chết mặc dù

thực tế rất phủ phàn. Họ phải “chung lưng đấu vật với nhau, làm thế nào cho được

sống (…), được ngước mắt lên, được hít thở tự do cùng với tất cả mọi người Sống

mòn”. Con người tri thức tiểu tư sản không chỉ bị Nam Cao phơi trần tất cả những

gì xấu xa với một thái độ hoài nghi, tuyệt vọng. Mà Nam Cao đã mang vào trong tác

phẩm của mình những hình ảnh của chính mình với niềm rung động sâu sắc của

những con người biết xót đau, biết tự trào, biết yêu thương triều mến. Đó là những

17

cảnh thực của người tiểu tư sản trí thức nghèo.

1.4. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI CỦA NAM CAO.

Dòng văn học hiện thực giai đoạn (1930-1945) là dòng văn học hiện đại, do

vậy con người trong văn học được nhìn nhận từ gốc độ văn học hiện đại và văn học

đã có sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Con người giờ đây được nhìn

nhận từ gốc độ xã hội. Nam Cao là nhà văn trong dòng văn học hiện thực phê phán

hiện đại. Con người trong tác phẩm của Nam Cao cũng thuộc phạm trù văn học hiện

đại, nơi cá tính sáng tạo nhà văn đóng vai trò chủ đạo trong việc khắc họa con

người, nơi con người cá nhân, số phận cá nhân được chú trọng miêu tả. Nam Cao

phản ánh con người lao động và con người trí thức như các nhà văn hiện thực khác.

Nhưng qua các tác phẩm của mình, Nam Cao đã có một cách nhìn mới mẻ, có chiều

sâu và rất nhân bản về con người và ông cũng nhìn con người từ nhiều gốc độ khác

nhau.

Trong quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm của Nam Cao, trước

hết là những con người tha hóa và con người có ý thức. Cũng như Vũ Trọng Phụng

thì Nam Cao nhận thấy quy luật tha hóa khá phổ biến lúc bấy giờ. Do đó trong tác

phẩm của Nam Cao có hàng loạt nhân vật tha hóa, Đó là những nhân vật bắt đầu tha

hóa như: Cu Lộ trong truyện Tư cách mỏ hay Hộ trong truyện Đời thừa, Trạch Văn

Đoành trong truyện Đôi món giò. Còn dẫm sâu vào con đường tha hóa như: “Chí

Phèo” trong truyện Chí phèo hay Trương Rự trong truyện Nữa đêm.

Bên cạnh con người tha hóa thì theo quan niệm của Nam Cao, con người luôn

có ý thức, trong những trang truyện Nam Cao phản ánh quá trình tha hóa, nhưng

Nam Cao vẫn tin vào phần ý thức và lương tâm của con người. Do vậy khác với Vũ

Trọng Phụng chỉ phản ánh quá trình tha hóa, còn Nam Cao thì trong quá trình tha

hóa có sự hồi sinh, từ chổ tha hóa nhân vật có lòng khát khao lương thiện. Ở người

nông dân, Nam Cao tin vào ý thức lương tâm của họ, kể cả khi họ bị đẩy vào con

đường tha hóa như Chí Phèo.

Con người trong tác phẩm Nam Cao dù ở phương diện nào, là trí thức hay

nông dân đều là con người có ý thức cuộc sống như: Lão Hạc, Thứ, Hộ. Họ khát

khao có một tri thức để đổi thay cuộc đời hay che trở cho những số phận éo le trong

18

xã hội. Con người có vốn tri thức nên họ đã nhận ra được hiện thực thối tha, họ

không chấp nhận xã hội ấy. Hộ, Thứ là những nhân vật hóa thân từ cuộc đời Nam

Cao. Đây cũng chính là cái mới của Nam Cao.

Con người tự nhục mạ, xúc phạm về nhân phẩm và con người nhân tính, con

người luôn khát khao hướng đến sự cao đẹp của phẩm chất và lương tâm. Một nhà

biện chứng người Nga. Bunkin khi đề cập đến chủ nghĩa nhân đạo, ông đã nhấn

mạnh hai phương diện “nhân đạo” là đồi hỏi đấu tranh là mong muốn cho con

người được thỏa mãn nhu cầu lành mạnh ở trên cuộc sống trần thế và “nhân đạo”

là phát huy cao độ những năng lực vốn có.

Trong tác phẩm của mình Nam Cao đã đề cập cả hai phương diện này. Sự đòi

hỏi rất cao như thế, nên ông rất đao đớn trước tình trạng con người bị lăng nhục, bị

xúc phạm nhân phẩm và đó là: bà Lão trong Một bữa no hay những thầy cô giáo

trong tiểu thuyết Sống mòn. Tất cả cũng vì đói nghèo mà những con người đó đã

đánh mất phẩm chất của mình.

Từ những điểm trên Nam Cao đã đặt ra vấn đề con người phải biết đấu tranh

để thực hiện nhân cách, Nam Cao đã đề cao nhân tính, đề cao phần “Người” trong

“con người”. Chí Phèo vừa là con người đầy bi kịch, nhưng đó cũng là con người có

nhân tính, có ý thức. Vốn là thanh niên trai cháng, khi Chí bị bà Ba gọi lên bóp chân

phục vụ, Chí không lấy làm hảnh diện mà cảm thấy nhục nhã, uất ức; hoặc khi Chí

lương thiện được gọi về từ bát cháo hành ấp tình người của thị Nở, một tình thương

thật sự của sự đồng cảm giữa hai con người cùng khổ. Chí khát khao được trở lại

mình làm người lương thiện biết bao, và Chí đã nhận ra những âm thanh của cuộc

sống thường ngày.Chí còn ước ao có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn làm

thuê, vợ dệt vải, có vốn thì nuôi vài ba con lợn …. Vậy thử hởi nếu một con người

không có một tri thức nhất định, hay con người đó không còn ý thức thì làm sau có

sự thay đổi và ước mơ như vậy.

Đến với Lão Hạc trong truyện Lão Hạc thì Nam Cao đã đề cập đến nhân cách

con người rất rõ nét ở hình tượng Lão Hạc, là một bần nông nghèo đói nhưng vốn

có lòng tự trọng lại là người thủy chung, có tâm hồn cao thượng, một phẩm chất

trong sáng và một tâm hồn ngây thẳng, trong sạch và đau đớn. Như chi tiết Lão Hạc

nói tới chuyện bán chó. Lão bán chó không phải vì không nở làm thịt. Hay lão làm

19

ra vẻ kẻ gian để xin Binh Tư bả chó nhưng là để tự vẫn, lão chọn cái chết để giử số

tiền cho con để sau này cưới vợ, trước lúc chết lão còn dành dụm một số tiền lo ma

chay để khỏi phiền đến hàng xóm. Rồi lão chết một cách dữ dội mà người ngoài

không ai hiểu gì. Nam Cao đã khắc họa một con người nội tâm sâu sắc, cao thượng

bên trong một con người bề ngoài có vẻ tầm thường.

Qua hai hình tượng Chí Phèo và Lão Hạc, Nam Cao đã phát hiên ra rằng, dù

xã hội có mục nát, con người có nghèo đói bần cùng, bị tha hóa, thậm chí bị đẩy vào

dưới lớp đáy bùn nhơ của cuộc sống, nhưng nhân tính con người luôn nguyên

vẹn.Có thể nói đây là phần nhân tính cao đẹp của những nhân vật của Nam Cao

như: Lão Hạc, Chí Phèo, Điền, Hộ, Thứ. Đó là những nhân cách sáng ngời, đó là

những phẩm chất tôt đẹp của con người dù là nông dân hay trí thức. Dù xã hội có

mục nát, có đầy đọa, chà đạp hay thậm chí cướp đi quyền làm người, quyền sống

của họ thì ở trong sâu thẩm tâm hồn họ, cái bản chất tốt đẹp mang tính chất truyền

thống của văn hóa bản sắc dân tộc vẫn mãi trường tồn và bất diệt. Phải chăng đó

chính là chất “Vàng Ròng” của con người trong truyên ngắn Nam Cao, mà không dễ

bắt gặp.

Quan niệm con người với khát khao cống hiến, phát triển tài năng cũng là một

đặc điểm nổi bật của quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao. Không chỉ

đau đớn trước tình trạng vì đời sống miếng cơm, manh áo làm cho người bị thui

chụi đi tài năng, không được thỏa mãn khát khao sáng tạo của mình như Hộ trong

Đời Thừa, Điền trong Trăng sáng hoặc Thứ trong Sống mòn. Họ là những người trí

thức có những khát khao, hoài bão trong sự nghiệp văn chương và đời sống. Nhưng

20

họ lại phải chịu bi kịch sống như cuộc sống thừa hoặc đang chết dần chết mòn đi.

CHƯƠNG 2

BIỂU HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN

QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.

2.1. NHỮNG KHỔ CỰC VÀ BẤT CÔNG MÀ NGƯỜI NÔNG DÂN PHẢI

GÁNH CHỊU.

2.1.1. Cuộc sống khổ cực, bị bóc lột tàn nhẫn.

Hình tượng người nông dân và cuộc sống của họ là đề tài trung tâm và cũng là

nguồn cảm hứng chủ đạo trong dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn(1930-

1945). Viết về đề tài này trong nền văn học Việt Nam đã có nhiều cây đại thụ văn

xuôi như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và đặc biệt là nam

Cao một cây bút văn xuôi nổi tiếng trong dòng văn học hiện thực lúc bấy giờ.

Mỗi nhà văn đều có một thế giới nhân vật riêng của mình. Qua đó, ta hiểu

được những quan điểm hay cách nhìn đời, nhìn người, cách phản ánh hiện thực

cuộc sống trên nhiều bình diện khác nhau. Nam Cao một nhà văn hiện thực, một

cây bút sắc sảo trong dòng văn học hiện thực lúc bấy giờ. Truyện của Nam Cao tập

trung miêu tả ở hai mảng đề tài chính: “Người nông dân và người trí thức tiểu tư

sản nghèo”. Nhưng đó đều là những tác phẩm xuất sắc. Ở đề tài người nông dân,

Nam Cao đã đi sâu phân tích tính cách con người nông thôn Việt Nam trước cách

mạng tháng tám năm 1945.

Lúc Nam Cao bước vào con đường văn học, cũng là lúc xã hội Việt Nam đầy

biến động, chao đảo, ngột ngạt và bế tắc nhất, các giai cấp trong xã hội bị phân hóa

dữ dội.

Đời sống của người nông dân bị đe dọa hơn bao giờ hết. Họ phải chịu ba tầng

lớp áp bức bóc lột: địa chủ, tư sản mại bản và thực dân Pháp. Cuộc sống của người

nông dân khổ cực trăm bề, họ sống trong tình cảnh đói nghèo, vất vả bần cùng về

vật chất lẫn tinh thần. Viết về người nông dân trong thời kỳ cùng quẫn, bế tắc này,

Nam Cao không dừng lại ở hiện tượng bề mặt, ông cố gắng đi sâu vào bản chất của

sự vật và bài tỏ thái độ đồng cảm và xót thương với những số phận lao khổ. Nam

Cao không nhìn người nghèo với con mắt khinh bỉ, giễu cợt nhưng cũng không thi

vị hóa, lý tưởng hóa về họ. Với tấm lòng nhân đạo yêu thương và hiểu biết sâu sắc

về con người, với vốn sống thôn quê phong phú đã giúp Nam Cao nhìn cuộc sống 21

của người nông dân một cách sinh động. Từ một vùng quê của mình, Nam Cao đã

khái quát lên cả một thực trạng trong thời kỳ đen tối của xã hội Việt Nam trước

cách mạng tháng tám 1945. Nam Cao đã tạo ra một không khí nông thôn rất đặc

biệt của riêng ông.

Người nông dân trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, phải sống trong bầu

không khí ngột ngạt của sưu cao thuế nặng. Còn người nông dân trong những

truyện ngắn của Nam Cao lại sống trong cảnh làng quê xơ xác nghèo. Đó là những

mái nhà tranh xơ xác, tiêu điều, rải rác ở những vùng đất rộng và cằn cỗi. Đường

làng vắng vẻ, thỉnh thoảng người ta bắt gặp những người đàn bà đi mò cua bắt ốc,

một vài đứa trẻ trần truồng bẩn thỉu, da vàng, bụng ỏng, ruồi bu đầy người và cứ

đứng thơ thẩn ở các ngỏ xóm.

Chợ búa tiêu điều xơ xác. Họ phải sống trong một không gian làng quê hoang

vắng đến mức người ta có thể ngơ ngác trong ngôi đình hoang, hay mỗi đêm đến

người ta lại nghe văng vẳng những tiếng khóc tỉ tê, của người đàn bà đang giữa đêm

thức dậy hờ chồng, hờ con rất thảm thiết (Nửa đêm).

Các nhân vật nói nhỏ với nhau, giọng đều đều, buồn bã như tiếng cầu kinh.

Một bà mẹ ốm dai nói chuyện với những đứa con, hay một bà già đang tỉ tê bên đứa

trẻ mồ côi. Trong cuộc sống của làng quê hoang vắng ấy người dân lại phải thường

xuyên nghe thấy những tiếng ầm ĩ, náo động của tiếng mõ thúc thuế, tiếng náo động

kinh hãi của những thằn cùng đinh liều lĩnh, tiếng quát tháo, chửi bới của bọn

cường hào.

Trong không gian của làng quê hoang vắng nghèo nàn ấy, số phận của người

nông dân hết sức bi thảm, bất hạnh, gõ cửa từng nhà. Nghèo đói đã làm tan nát

những gia đình, người thì phải bỏ làng quê đi tha phương cầu thực, kẻ phiêu bạt quê

người hay ra thành thị tìm đến trú ngụ trong những căn nhà ẩm thấp tối tăm. Như

mẹ con Hiền trong truyện Người hàng xóm. Kẻ quẫn chí bỏ làng đi làm đồn điền

cao su, người thì phải gởi con nhỏ để vào rừng kiếm sống, phải bán con gái chưa đủ

lớn để bớt miệng ăn trong gia đình. Chưa bao giờ người nông dân lại bị đặt trong

hoàng cảnh như thế. “Dần” trong truyện “Một đám cưới”, một cô gái lớn lên trong

cảnh nghèo khó. Mười hai tuổi Dần phải đi ở. Mẹ mất khi mới mười lăm tuổi, Dần

phải quán xuyến mọi công việc nhà giúp bố.“Nhưng ông trời hình như không muốn

22

bố con Dần ngóc đầu lên được, cuộc sống ngày càng khó thêm, gạo kém thóc cao,

ngô khoai cũng không chuốc được mà ăn”. Cái đói cái nghèo buộc phải tính, bố

Dần phải gởi hai anh em nhỏ, còn Dần thì “mầy thì tao cho người ta cưới”, đấm

cưới diễn ra âm thầm và lặng lẽ, “đêm tối đến đám cưới mới ra đi. Vỏn vẹn chỉ có

sáu người, cả nhà trai với gái”. Bộ đồ cưới của Dần là một bộ đồ cũ kỹ, rách và đã

có nhiều chổ vá thật to. “Dần không chịu mặc cái áo dài mà mẹ chồng đưa cho,

thành thử chính bà khoát cái áo ấy trên vai, Dần mặc cái áo ngày thường vẫn mặc.

nghĩa là một cái quần cồng cộc xẩng và đắp những miếng vá to, một cái áo cánh

bạc màu và vá nhiều chổ lắm, một bên rách quá đã xé toạc gần đến nách”

[3,tr.112].

Cái nghèo cái đói như bám chặt cuộc sống của người nông dân, họ có chạy

đến cùng trời cũng không thoát khỏi cái nghèo đói. Biết bao số phận chết vì đói, vì

ốm đau không có tiền mua thuốc. Anh Đĩ chuột trong truyện Nghèo phải thắt cổ tự

tử để bớt đi gánh nặng cho vợ con, cái chết thật thảm thương “Cái bộ xương da bọc

giãy dụa như một con gà bị bẫy. sau cùng nó chỉ giật từng cái sợi dây thừng lủng

lẳng”[3,tr.10]. hay Phúc trong Điếu văn thì “ốm đau nằm chết dần chết mòm trên

giường”, hai đứa con anh “ẻo lẻ như một cái lá úa và buồn như một tiếng thở dài

ngồi ủ rũ nhìn anh bằng đôi mắt dại đi vì quá đói: Anh chết sau khi đã vắt kiệt sức

lực để nuôi vợ, nuôi con”. Cái đói, cái nghèo, miếng cơm manh áo đã làm người

cha đánh mất lương tâm trước nhưng đứa con thơ, như nhân vật “Hắn” trong truyện

Trẻ con không được ăn thịt chó. Hắn và mấy người bạn cứ thế mà đánh chén, mà

dành nhau, hả hê với những chén rượu và thịt chó, trong lúc đó có biết đâu những

đứa con thơ thì “Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hủ hỉ kêu: Đói! Bu ơi! Đói…”

Ruốt cuộc đáp lại lời kêu than ấy là sự thương tâm đau xót xảy ra. “Người mẹ xịu

ngay mặt xuống, trong mâm chỉ còn bát không-thằng cu khóc òa lên. Người mẹ đỏ

mũi lên và mếu xệch đi rưng rưng khóc, cái Gái, Cu Nhớn, cu Nhỏ cũng khóc

theo”[3,tr.127].

Số phận của người nông dân trong nhiều tuyện ngắn của Nam Cao được đặt ở

những thử thách khốc liệt của cảnh nghèo mà không ít nhân vật đã bị xô đẩy đến cái

chết đau đớn. Mỗi người mỗi hoàn cảnh nhưng chung quy lại là cảnh nghèo. Cái

chết của họ mang ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc. Điểm đáng quý của Nam

23

Cao là cái nhìn nhân hậu, đầy cảm thông với người nông dân, các nhân vật của ông

dù bị vùi dập, đày đọa, chà đạp nhưng vân giữ được nhân cách, phẩm chất của

mình…

Trong truyện ngắn Lão hạc, Nam Cao đã thể hiện sinh động tính cách nhân vật

qua nhận thức của ông giáo hàng xóm. Ban đầu là tình cảm yêu thương quý trọng

của ông giáo đối với bạn láng giềng. “Lão Hạc ơi bây giờ thì tôi hiểu tại sau lão

không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn mỗi mình nó làm khuây. Vợ lão

chết rồi, con lão thì đi biền biệt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một

mình thì ai mà chả buồn”[2,tr.88]. Vì thương người con trai phẫn chí bỏ làng đi do

nghèo không có tiền cưới vợ, vì nghèo đói, lão chấp nhận cuộc sống cô đơn, đói

khổ đến cùng cực, lão cố nhịn ăn nhịn mặc, làm thuê, làm mướn, dành tiền đợi con

về cưới vợ, có nhà có đất sinh sống. Lão nuôi con chó, kỷ vật của con trai lão để lại,

tôn xưng nó là cậu vàng với tất cả nỗi đắm say, khát khao cuộc sống cùng con cháu,

được làm cha làm ông như mọi người bình thường khác. Nhưng cái nghèo đói đã

buộc lão phải bán “Cậu vàng” của lão, tự hủy hoại niềm vui nho nhỏ, khát khao

chính đáng đó. Lão bán “Cậu vàng” dẫu biết rằng do đói nghèo làm việc cực chẳng

đã, nhưng lão vẫn day dứt “bảy mươi tuổi đầu chưa hề nói dối ai bao giờ nay phải

lừa dối một con chó”. Tự giết niềm vui của mình nhưng lại vì danh dự làm người

đối diện với con vật, một loài vật xưa nay được coi là có nghĩa nhất. Lão Hạc phải

trải qua một bi kịch nhân tính cao cả. Cuộc đời buồn tủi, mòn mỏi trong đói nghèo,

đến cả con chó mà lão quý như con, như cháu mà lão cũng không nuôi nổi. Thật

chua xót biết bao khi Lão thốt lên: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó

để nó làm kiếp người, mai ra có sung sướng hơn một chút…kiếp người như kiếp tôi

chẳng hạn”[2,tr.92].

Không muốn ăn tiêu hao dần vào đồng tiền giành dụm cho con, Lão buộc phải

kết liễu đời mình bằng cái chết thật thảm khốc. “Lão tru tréo bọt mép xùi ra, khắp

người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên” [2,tr.96]. Lão chết, một mặt lão

thấm thía cái kiếp sống vô nghĩa, kiếp sống thừa của đời mình. Lão sống là sẽ ăn

lẹm vào tiền của con. Trước lúc Lão chết, lão còn lo trước để khỏi phiền đến bà con

lối xóm.

Như vậy, Lão Hạc đã chọn trung thành với tính cách của mình. Lão đã xóa

mình ra khỏi mảnh vườn để nó được tồn tại. Lão xóa mình khỏi cuộc sống của đứa

24

con để cho niềm hi vọng gắn bó với cội nguồn. Lão xóa mình ra khỏi trần thế phiền

muộn để giữ gìn lẽ sống của chính lão. Lão Hạc là nhân vật tập chung nhiều phẩm

chất tốt đẹp đến bất ngờ. Lão Hạc là người lương thiện với ngòi bút tài hoa của

Nam Cao. Ta thấy rõ một ông lão nông dân quay quắt trong sự ràng buộc nghiệt ngã

của đói nghèo và cô quạnh, thế mà tâm hồn của lão chưa hề bị cắt vụn, thế mà thể

xác của lão chưa bao giờ là bản năng. Ngược lại trong những tính toán chi li tội

nghiệp của lão là một sự vật vã tinh thần dữ dội, vật vã cho đến chết. Nhưng cuối

cùng lão vẫn là người tự do, tự do trong sự lựa chọn bi đát của mình. Đó là điều bí

mật sau cùng mà Nam Cao tìm thấy ở người nông dân. Nhìn con người từ nhiều

phương diện đã tạo cho Nam Cao những cái mới mẻ trong quan niệm về con người

của ông, đồng thời cũng là sự khẳng định lập trường vì con người hay những bước

đi kiên định, không chệch hướng sa vào chủ nghĩa tự nhiên như một số người đã

nhận xét.

Viết về người nông dân, Nam Cao không chỉ tập chung miêu tả về cái đói

nghèo đã làm cho họ đói khổ rách rưới mà ông còn phản ánh cái nghèo cái đói,

miếng cơm manh áo đã đẩy biết bao nhân vật sống trong tình trạng bị lăng nhục, bị

xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa. Những nhân

vật tha hóa chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong sáng tác của ông. Miêu tả con người

trong quá trình tha hóa trở thành hướng chủ đạo của tác phẩm: Chí phèo, Tư cách

mỏ, Nửa đêm.

Trong Tư cách mõ, anh cu Lộ một con người “hiền như đất, không cờ bạc, không

rượu chè. Anh chỉ chăm chăm chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con” [3,tr.245].

Vậy mà sau một thời gian làm mõ, cu Lộ đã thay đổi, đã biến thành thằng mỏ

chính tông. Vì nghèo túng, lại bị mọi người xúm vào thuyết phục, bùi tai, Lộ nhận

làm mõ. Nhưng khi thấy Lộ làm mõ “ngon ăn quá” mọi người sinh ra ngấm ngầm

ghen tỵ với hắn, và hòa với nhau để làm nhục hắn. Trước sự hằn hột, nhục mạ của

những người xung quanh Lộ đâm ra hối hận bực tức, nhưng “Sự việc đã trót rồi biết

làm sao nữa” nhưng khi bị khinh bỉ, bị mọi người làm nhục, có khi Lộ cũng thấy

xấu hổ với vợ con, định trả vườn không làm nữa, nhưng lại tiếc. Cứ thế mỗi lần bị

xúc phạm, Lộ lại uất ức, lại thở dài, thở ngắn nhưng rồi lại tặc lưỡi. Càng bị xúc

phạm thì hắn càng không biết nhục. Từ đó Lộ càng tiến dần từng bước trượt dốc

25

trên con đường tha hóa, từ chỗ “hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn còn lại xin thêm xôi, thêm

thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì hắn tự xông vào chỗ làm cỗ mà xúc

lấy”. [3,tr.250].

Nhưng chính trong cách đê tiện, tham lam ấy là tác giả kết luận “Hỡi ôi làm nhục

người ta một cách rất diệu thì để khiến người ta đê tiện” …[3,tr.251].

Đó là triết lý không chỉ rút ra từ cuộc đời, từ con người cụ thể mà đó còn là

nghĩa nhân văn cao cả, là một quan niệm nhân sinh rộng rãi. Chính hoàn cảnh sẽ

trực tiếp chi phối và có khả năng lý giải về sự thay đổi và phát triển của nhân cách

nhân vật.

Điển hình cho nhân vật tha hóa là nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng

tên của Nam Cao. Phải nói rằng, khác với các nhà văn hiện thực khác, nam Cao đã

diễn tả được sức mạnh lạ thường quá trình tha hóa của một số quần chúng trong

hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bóc lột của xã hội cũ. Nhân vật của Nam Cao thường

trải qua chuyển biến. Nếu như trong Tư cách mõ Nam Cao viết “Người ta tưởng

như ông trời đã cố ý sinh ra hắn như để mà làm mõ; Hắn có cái cốt cách của một

thằng mõ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ, và là mõ ngay từ ngày mới

sinh…Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và mới chỉ cách

độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh Cu Lộ. Anh Cu Lộ hiền như đất”[3,tr.245].

Thì Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên lại chỉ biết chửi rủa, kêu làng, ăn vạ,

cướp bóc, đâm chém. Nhưng có một thời hắn hiền như đất. Lý Kiến phải lấy làm

“tội nghiệp” thấy hắn vừa bóp đùi cho bà Ba, vừa run run. Chí Phèo phá phách hủy

hoại xung quanh và tự hủy hoại mình với nhưng hành động không tự giác như bị sai

khiến bởi một thế lực vô hình. Từ một anh canh điền khẻo mạnh hiền lành, nhút

nhát và chăm chỉ làm ăn, cuộc đời cứ bình lặng trôi đi thì Chí chắc cũng sẽ có một

cuộc sống như bao người khác, nghèo túng nhưng yên phận. khởi đầu là bà Ba và

sau đó là Bá Kiến đã khép lại cuộc đời lương thiện của Chí Phèo. Một cơn ghen

bóng gió của Bá Kiến đã đưa Chí Phèo vào con đường tù tội. Sau bảy tám năm đi tù

về, Chí Phèo trở nên khác hẳn, biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài: “Hắn về làng lần này

trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá. Cái

đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt

thì gườm gườm trông gốm chết. Hắn mặc cái quần nai đen với cái áo tây vàng. Cái

ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Cả

26

hai cánh tay cũng thế. Trông ghốm chết”[3,tr.12].

Như vậy bằng cách làm nổi bật sự thay đổi dữ dội của tính cách Chí Phèo

trước và sau khi đi tù về, Nam Cao đã tố cáo sự hủy hoại ghê ghốm về phẩm chất,

nhân cách của con người do chế độ nhà tù thực dân gây nên. Từ một con người

lương thiện, nhẫn nhục, Chí đã trở thành một tên côn đồ hung dữ, một tay anh chị

lúc nào cũng gây gổ chửi bới “Giở toàn những giọng uống máu người không tanh”.

Tất cả những hành động đó biểu hiện phản ứng gay gắt của một con người đã đi đến

cùng đường liều lĩnh.

Miêu tả quá trình tha hóa của Chí Phèo do hoàn cảnh xã hội tạo nên, nhưng

mặc khác bằng đôi mắt sắc sảo và đầy tình nhân ái Nam Cao vẫn phát hiện trong

tâm hồn cằn cỗi đó những nét đẹp của sự lương thiện còn sót lại. Cái sắc sảo của

nhà văn luôn tìm tòi, quan sát đã giúp Nam Cao nhìn nhận ra vấn đề, phát hiện ra

những con người nông dân bị biến chất. Lòng nhân ái cảm thông của một tâm hồn

nhân đạo đã gởi lại trên những trang viết của ông niềm tin về nhân phẩm của người

nông dân. Ta thấy rằng trong tận sâu thẫm tâm hồn của Chí Phèo, vẫn còn những

mầm sống tốt đẹp mà phũ phàng của xã hội chưa đủ sức làm thui rụi hết. Cuộc gặp

gỡ với thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã làm thức dậy những tình

cảm, những khao khát xưa kia của Chí. Chí muốn làm người lương thiện, Chí muốn

hòa nhập vào cuộc của xã hội xung quanh biết bao.

Trong nỗi niềm khát khao ấy, Thị Nở đến với Chí Phèo như một tia chớp đánh thức

những lương tri và tình cảm trong sáng của người nông dân. Nhưng rồi tia chớp ấy

vụt tắt, và cuộc đời Chí lại chìm vào đêm tối mênh mông không lối thoát. Ước mơ

muốn làm người lương thiện trong xã hội thực dân nửa phong kiến không mở

đường cho Chí Phèo quay trở lại với cuộc sống bình thường. Ngay khi Chí khao

khát nhất, tỉnh táo nhất thì ước mơ của Chí hiện ra và nhanh chóng vụt tắt như chiếc

cầu vồng thoáng hiện sau cơn mưa. Chí Phèo đã giết chết Bá Kiến và tự kết liễu đời

mình một cách bi đát. Hành động đó tất yếu phải xảy ra, hợp với logic của sự phát

triển tính cách, tâm lý nhân vật Chí phèo. Tự hủy hoại đời mình để giải quyết sự bế

tắt của đời mình, cái chết thê thảm của Chí Phèo là cả một sự phê phán gay gắt đối

với chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con

người. Họ xuất thân là nông dân cùng khổ, chưa gặp cách mạng, chưa tìm thấy lối

thoát cuộc đời, ngày càng bị dồn vào con đường lưu manh tội lỗi. Nam Cao bị ám

27

ảnh bởi cái cảnh tượng cuộc sống vô lý, những con người bị tha hóa bị biến chất.

Mỗi cuộc đời, mỗi nhân vật có một quá trình tha hóa biến chất, do hoàn cảnh xã hội

tác động đưa đẩy. Vậy tại sao những nhân vật của Nam Cao lại trở thành con người

tha hóa, biến chất như vậy? Chính cái đói, cái nghèo, cực nhục, sự hà hiếp, vùi dập

đã khiến con người nói năng suy nghĩ, hành động trái với bản chất sâu kín của

mình. Đây cũng là điều mà Nam Cao tố cáo, phê phán chế độ xã hội đương thời đã

cướp đoạt nhân phẩm và quyền làm người lương thiện của người nông dân. Bên

cạnh đó tác giả cũng thể hiện lòng cảm thông đầy chất nhân văn cao cả. Trong toàn

bộ sáng tác của mình, Nam Cao đều nói lên sự cần thiết phải thay đổi xã hội cũ, cái

xã hội đã gây ra bao cảnh thương tâm, bao điều ngang trái. Nhân dân lao khổ dù

hiện ra dưới màu sắc sáng sủa hay u ám thì ý nghĩa của những truyện ngắn của Nam

Cao vẫn là một: “phải cứu lấy cuộc sống, phải bảo vệ con người…”

2.1.2 Khát khao cuộc sống hạnh phúc nhưng bị vùi dập.

Đã là người bao giờ cũng có ước mơ có một cuộc sống gia đình và có một tình

yêu hạnh phúc để rồi có những lúc được sưởi ấm lòng mình. Đó là chổ dựa tinh

thần, chốn bình yên cho tâm hồn sau những ngày làm việc mệt mỏi. Người nông

dân trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ phải chịu bao nhiêu là khổ cực: sự bắt bớ đi

lính, đi phu, sự chia lìa tình yêu và cái đói nghèo, lễ giáo phong kiến luôn luôn ràng

buộc hành hạ họ. Nam Cao đã nắm bắt được hiện thực cuộc sống này để miêu tả nó.

Trong truyện ngắn Chí phèo, Chí Phèo trong cuộc sống của mình đã từng mơ ước

“có một gia đình chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vài con lợn

nuôi để làm vốn liếng. Khá hơn thì mua dăm ba sào ruộng làm”[3,tr.38].

Đó là một mơ ước chính đáng. Sau khi đi tù về Chí đã trở thành con quỷ dữ.

Cuộc gặp gỡ thị Nở, bằng tình yêu chân thành của thị, của bát cháo hành ấm nặng

tình người đã làm thức dậy trong con người Chí những mơ ước để trở thành người

lương thiện, làm sống dậy trong con người tội nghiệp này khát khao làm người. Lâu

lắm rồi hắn mới nghe được tiếng chim ríu rít, tiếng chân người đi chợ về “nhưng

hôm nay hắn mới nghe thấy”. Lần đầu tiên trong đời, hơn bốn mươi tuổi Chí mới

cảm nhận được cái cô đơn, cái buồn và sự chờ đợi. Chí khát khao làm người lương

thiện “Y muốn làm người lương thiện biết bao”. Nhưng khát khao đó không thực

hiện được, bởi từ lâu mọi người đã coi hắn là một con vật, một kẻ bỏ đi. Người ta

không cho rằng một kẻ như Chí Phèo lại có ước mơ làm người “lương thiện”. Khát

28

khao chính đáng ấy đã bị phủ nhận một cách phũ phàng. Chí rơi vào bi kịch vô cùng

đau xót, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Uất ức đến cực điểm Chí chỉ còn biết

vùng dậy bằng hành động là đâm chết kẻ thù và tự kết liễu đời mình. “Chí chết thật

đau đớn và dãy giụa trên một vũng máu”, cái chết mang tính chất bi kịch. Cái chết

đó đã tạo nên sự đồng cảm sâu sắc của người đọc vì đó là cái chết để khẳng định sự

sống, khẳng định bản chất lương thiện của con người.

Trong truyện ngắn Dì hảo, Dì Hảo mong có một ông chồng, dù đó là chồng hờ

(nếu có thể nói như vậy), mà đúng vậy “Người ấy không yêu Dì…Thật mà! Người

ấy chẳng yêu Dì đâu mà lại còn khinh Dì nữa là khác”[3,tr.55].

Niềm ước mơ có một tấm chồng và một gia đình hạnh phúc, Dì Hảo đã chấp nhận

cực nhọc, khổ sở, chạy ngược, chạy xuôi ngoài cái chợ nghèo của làng quê để kiếm

“mỗi ngày hai hào. Dì ăn có năm xu, còn một hào rưỡi hắn dùng để uống rượu”.

Nhưng trong tâm hồn Dì Hảo vẫn cảm thấy hạnh phúc và dì sung sướng lắm.

Nhưng cuộc đời thật trớ chiu, dường như ông trời và cái xã hội trong thời đại thực

dân nửa phong kiến cái đói, cái nghèo cứ đùa giỡn trước những hạnh phúc, ước mơ

của người dân lương thiện. Cái ước ao hạnh phúc, cái khao khát một tổ ấm gia đình

nó hiện ra thật mỏng manh mà chóng phai tàn, nó cứ bị vùi dập bởi một thế lực vô

hình trong cái làng quê nghèo nàn xơ xác ấy. nếu trong Một đám cưới “nhưng ông

trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên được. Cuộc sống mỗi ngày

một khó thêm. Gạo kém thóc cao, ngô, khoai cũng khó chóc được mà ăn”[3,tr.101].

Thì ở đây, Dì Hảo trong nhưng ngày hạnh phúc ngắn ngủi ấy, cái họa lại đến với

Dì. Sự bất công của ông trời bắt Dì sinh một đứa con. Nhưng rồi “Đứa con chết, mà

Dì thì bị liệt. Mỗi ngày là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái

lỗi của người vợ vô phúc ấy”.[4,tr.55].

Từ đây, Dì Hảo lại càng lâm vào cảnh nghèo đói và bị sự xỉ vả lăng nhục của người

chồng vũ phu. Hàng đêm Dì đau đáu trong sự ràn rụa nước mắt. “Chao ôi! Dì Hảo

khóc, Dì nức lên, khóc như người ta khổ, Dì thổ ra nước mắt”[3,tr.56].

Nhân vật Đức trong truyện ngắn Nửa đêm cũng có khát khao chính đáng và

mãnh liệt biết bao nhiêu về hạnh phúc và tổ ấm của gia đình. “Có hôm nó lẩn thẩn

ngồi bàn với bà những cách làm giàu. Hắn sẽ cố dành dụm để có tiền thuê lấy một

vài mẫu ruộng; thiếu gì người có ruộng muốn cho làm thuê? Chỉ cốt có một con bò;

29

hắn sẽ làm ruộng nhà và nhận giữ ruộng cho người ta nữa. Mấy chốc mà lên ngay.

Trời cho mạnh khỏe ta bỏ một vài con lợn; bà cụ bây giờ già yếu rồi, vườn ruộng

không làm được thì quanh quẩn ở nhà cố mà chăm lấy”[3,tr.437].

Nhận được tình yêu, một sự cảm thông của Nhi, một con người xấu xí nhưng

biết nhìn nhận Đức như một con người Đức một người đờ đẫn bỗng trở nên khác

hẳn. Đức nhanh nhẹn hẳn lên, hay tủm tỉm cười, hay trò chuyện, biết lo xa tính toán

và mưu cầu hạnh phúc của gia đình.

Nhưng tình yêu và khát khao của Đức và Nhi, hai kẻ khốn cùng tủi nhục ấy bị

vùi dập phũ phàng bởi sự tàn nhẫn của ông Cửu Hòa, bởi thành kiến, định kiếm độc

ác của những kẻ “ngứa mồm”. Những quân “dông dài” đã khiến họ phải chịu biết

bao sự đày đọa và tủi nhục. tình yêu bị ly tán, khát khao hạnh phúc bị tan vỡ. Nhi

thì mất tích, Đức thì trở thành một tên lưu manh trong làng, phá phách nhà cửa gây

biết bao sự đau khổ, tủi nhục cho một bà lão gần như trong cả cuộc đời còm cõi chỉ

biết làm lụng nuôi con nuôi cháu.

Trong truyện ngắn Làm tổ, Thai trở thành kẻ nghiện rượu, say mê cờ bạc, bán

mảnh vườn, trở thành kẻ làm thuê cuốc mướn. Không vợ không con nhưng tận

trong tâm hồn gã trai cờ bạc này vẫn khát khao “Thai nghĩ đến vợ, đến những đứa

con nhỏ, đến những buổi tối của mùa rét mướt, cái ổ rơm nóng ấm, mẻ ngô rang

thơm ngọt, tiếng trẻ con cười giòn”. Trong con người này cũng mong muốn có một

chốn đi về như con chim có tổ. “Cái khó bây giờ là làm sao có nhà”[3,tr.324].

Vậy mà gia đình Thai phải rơi vào bi kịch của cái khó khăn giữa một bên là gia

2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN QUA MỘT SỐ

SÁNG TÁC CỦA NAM CAO.

đình, vợ chồng và một bên là nhà để ở.

2.2.1. Người nông dân với những phẩm chất tốt đẹp.

Khi xây dựng hình tượng người nông dân, Nam Cao không chỉ quan sát biểu

hiện ở bên ngoài, không miêu tả ở thái độ bên trên nhìn xuống, lạnh lùng, hời hợt

mà ông còn nhìn thấy được những con người nông dân chân chất, những bản tính

hiền lành, cần cù…vốn là bản chất tốt đẹp của người nông dân.

Qua hình tượng Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Trong

cuộc sống của lão có những lúc cái đói, cái nghèo rình rập bên cạnh, nhưng Lão

Hạc vẫn giữ được bản chất lương thiện. Dù cái đói, rét đến mấy lão vẫn không trộm

30

cắp. Thà chết lão cũng không bán đi một sào ruộng của tổ tiên để lại cho con, vẫn

hy vọng ngày con trở về, vẫn chu tất với bà con láng giềng ngay cả khi bước vào cõi

chết.

Có những nhân vật bị biến thành lưu manh, mất cả hình lẫn nhân tính như Chí

phèo trong tác phẩm Chí phèo, hay Cu lộ trong truyện Tư cách mỏ, hoặc Trương rự

trong truyện Nửa đêm… Nhưng qua ngòi bút của Nam Cao, chúng ta vẫn thấy bản

chất tốt đẹp của những người nông dân đó. Bởi trước khi các nhân vật rơi vào con

đường lưu manh thì họ đều là những anh nông dân hiền lành chăm chỉ. “Tham công

hơn tham sống”. Như Đức trong truyện Nửa đêm. Đặc biệt là Chí Phèo, một điển

hình của sự lưu manh hóa cực độ. Trước khi rơi vào tù tội thì y vốn là người “hiền

như cục đất”. Anh có lòng tự trọng, có ước mơ hạnh phúc “một thời hắn ước có một

gia đình…ba xào ruộng” và giữa hai cơn say Chí vẫn đón nghe tiếng chim ríu rít,

cái nhịp sống của làng quê: tiếng người đi chợ, tiếng gõ mái chèo, để rồi: “Chao ôi!

Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Đáng trân trọng

hơn nữa là vài phút trước khi chết Chí khát khao được làm người lương thiện.

Có những cuộc đời cơ cực, lầm than. Cuộc sống của họ lúc bấy giờ là thân

mình cũng chưa nuôi nổi thân mình, vậy mà có những người vẫn mở tấm lòng nhân

đạo “lấy lá lành đùm lá rách” để đón nhận những sinh linh bé nhỏ mồ côi, không

cha, không mẹ hay những đứa con, đứa cháu bất hạnh. Họ gạt cái đói, cái nghèo

sang một bên để sẵn sàng làm một việc tốt lành, đức độ, ví như : Bà Quản Thích

trong truyện Nửa đêm. “Bà là người nhân đức mà vùng này đều quen biết” bà đã

nhận nuôi con bé không có lai lịch. Đây là con của kẻ khốn cùng, đi lang thang từ

làng này sang làng khác để xin gạo thừa cơm nguội của những nhà phúc đức, không

lấy gì nuôi con được, nó đem đến sân nhà tôi rồi bỏ đi. Bà chưa có trẻ con trong

nhà, hãy nhận lấy nó mà nuôi như là con đẻ trong nhà vậy [3,tr.420]. Và bà đã nhận

lấy với tất cả tấm lòng trìu mến, thương yêu. “bà nhận lấy như là một điều tốt lành,

bà nâng niu nó chẳng khác gì con đẻ của bà”. Bà yêu thương nó, và nó lớn rất

nhanh. Rồi tới “Đức” sản phẩm của “ông thiên lôi đâm lòi bụng vợ” và người đàn

bà bỏ Đức theo trai. Một lần nữa bà Quản Thích lại nới rộng vòng tay ấm áp tình

người, bà giữ tất cả niềm tin yêu vào cho đứa cháu của mình. Vậy mà cái nghèo, cái

đói, sự vùi dập, sự dèm pha đầy thành kiến của ông bà Cửu Hòa và những người

xung quanh đã cướp đi tình yêu, khát khao tổ ấm gia đình của Đức, đã biến Đức

31

thành kẻ lưu manh, giết người ở nơi đất khách quê người. Với trái tim nhân đạo và

cái nhìn sắc sảo, Nam Cao đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con

người trong con người, miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong

thế giới nội tâm của nhân vật. Do vậy, ông đã phát hiện ra ở trong sâu thẩm tâm hồn

của kẻ lưu manh giết người vẫn có những giây phút là một con người. Con người đó

có nhân tính. Đúng vậy! Đức đã sa vào con đương lưu manh nhưng Đức vẫn có

những khoảnh khắc nhớ đến người bà và nhớ đến công ơn của bà. Hắn bảo: “Con

về thì về nhưng trong lòng vẫn ái náy là bà đã chết rồi. Thế mà vẫn được trông thấy

bà, con thật mừng quá”[3,tr. 447].

Nhân vật Bà Lão trong truyện Một bữa no suốt một đời, “hết xương, hết thịt vì

con vì cháu”. Một “Bà Lão đầu đã bạc, sức đã kiệt, bà đưa bát cơm mà tay run

run”. Nhưng bà vẫn đi làm thuê, cuốc mướn, nuôi vú em, bất chấp mọi việc làm

trên đời dẫu kiếm ra miếng cơm, manh áo bằng bàn tay lao động của mình.

Dường như trong toàn bộ truyện ngắn của Nam Cao, các nhân vật nông dân

của ông trước khi lâm vào sự tha hóa, lưu manh, tù tội hay sự nhẫn nhục bần cực thì

họ đều là những người nông dân hiền lành, chăm chỉ. Nhân vật Nhu trong truyện

ngắn Ở hiền, Dì Hảo trong truyện ngắn Dì Hảo, đặc biệt anh Phúc trong Điếu văn là

người trân chất cần cù. “anh thúc dậy trước gà và có lẽ ngủ còn sau bọn tuần

sương. Biết mình chậm chạp vụng về. Lại yếu ớt quá không thể xốc vác như người

ta, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm suốt ngày, không một phút nào dám nghĩ

ngơi. Anh làm cả ngày lẫn đêm” [3,tr.169,170] và anh đã chết sau khi vắt hết sức,

hết lực làm nuôi vợ, nuôi con.

Nam Cao đã tố cáo tội ác, vạch rõ bộ mặt xấu xa của bọn thống trị trong xã hội

cũ. Đồng thời cũng nói lên rằng bản chất tốt đẹp của người nông dân không gì có

thể đè bẹp được. Chí Phèo giữa hai cơn say vẫn đón nghe âm vang của cuộc sống:

Tiếng chim ríu rít, tiếng mái chèo đập nước, tiếng chân người vang vội trong bình

minh, và trước lúc chết Chí muốn làm người lương thiện. Qua bao nhiêu gây gỗ, cải

vả, vợ chồng vẫn yêu thương, nhường nhịn, hy sinh cho nhau. Lão Hạc thương con,

thương loài vật, sống nhân hậu, chết thủy chung, tiết tháo. Giữa những con người bị

hất hủi, giữa người khó với kẻ khó, có sự an ửi nhau. “Lão cười và ho sòng sọc. Tôi

nắm cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo: Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái

này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai

32

lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút

thuốc lào… thế là sướng. Vâng! Ông giáo dạy phải, đối với chúng mình thế là sung

sướng”[3,tr.92]. Nghèo khó cùng quẫn đã khiến họ phải nhẫn nhục, hay cuốn

cuồng lên lo lấy thân mình. Nhưng ở những con người bình thường, dù họ có cuộc

sống mòn mỏi, khổ cực, bị hà hiếp, bị vùi dập thì họ vẫn là những con người có bản

chất hiền lành chăm chỉ. Họ luôn mang trong tâm hồn mình nét đẹp của lòng nhân

đạo truyền thống: “Lá lành đùm lá rách” và “Thương người như thể thương thân”.

2.2.2. Những nhược điểm của người nông dân .

Khi xây dựng nhân vật người nông dân, Nam Cao không chỉ nhìn thấy những

vẻ đẹp, những mặt tích cực trong con người họ, mà ông còn có cái nhìn khách quan

như họ vốn có trong cuộc đời. Ông đã xây dựng nên những con người có hai mặt

của nó. Nam Cao đã không lý tưởng hóa những nhân vật của mình, ông nhìn rõ và

thấu hiểu những cái xấu, những hạn chế của họ. Đa số họ, những người nông dân

trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám đều mắc phải như: tâm

lý sợ kẻ có quyền lực, tâm lý thờ ơ lãnh đạm đối với mọi người xung quanh hay tâm

lý cam chịu để u mê đờ đẫn như Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên. Hoặc nỗi sợ

hãy và khuôn phép của những người trong gia đình bà Phó Thụ, hay anh Phúc trong

truyện Điếu văn. Ta bắt gặp sự nhịn nhục đến đờ đẫm u mê của nhân vật Đức trong

truyện Nửa đêm, ở Bà Lão trong truyện ngắn Một bữa no, hay Dì Hảo trong truyện

ngắn Dì hảo. Sự thờ ơ lãnh đạm và sự miệt thị, nhạo báng đầy thành kiến của những

người xung quanh đối với Nhi và Đức trong truyện ngắn Nửa đêm.

Trong bức tranh hiện thực về người nông dân mà Nam Cao miêu tả, biết bao

gia đình tan nát vì nạn cờ bạc như: Thôi đi về, Làm tổ, Mua nhà, Từ ngày mẹ chết,

hay thành những kẻ giết người không nương tay như Trương Rự trong truyện Nửa

đêm. Người nông dân trong xã hội cũ có những hạn chế như vậy. Chung quy lại thì

tất cả những điều đó cũng chính là sản phẩm của hoàn cảnh của cái xã hội mục nát

đương thời tạo ra. Cũng có thể nói trong cái xã hội ngột ngạt, bế tắc ấy, người nông

dân phải chịu cảnh “Một cổ ba tròng”. Phía trên là sự đàn áp của chủ nghĩa thực

dân, kèm theo đó là sự bóc lột, hà hiếp của bọn quan lại phong kiến, địa chủ, cường

hào. Cùng với cuộc sống nghèo nàn, đói khát đã khiến cho con người nói năng, suy

nghỉ, hành động trái với bản chất sâu kín bên trong con người họ. Vợ chồng vốn

yêu thương nhau, lo lắng cho nhau, nhưng vẫn cứ hay bắt bẻ nhau, gây gổ, đay

33

nghiến, dằn vặt nhau, la mắng đánh đập con cái, làm tan nát gia đình…Sau đó lại

làm lành, ăn năn, hối hận…Để rồi lại tiếp tục đầu độc cuộc sống của nhau. Đó là

một trong những nội dung mà Nam Cao đề cập đến trong những tác phẩm của mình.

Khi nói về người nông dân, những con người đáng giận, đáng thương đã hiện ra

trong những tác phẩm của Nam Cao với một sức phản ánh to lớn. Nam Cao đã vạch

trần được cái vô lý, cái bi kịch hàng ngày của cuộc sống cũ với nỗi uất ức, căm giận

của kẻ không chịu khuất phục. Đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã thấm đậm trên

những trang viết của Nam Cao.

Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà

văn của những con người khốn khổ tủi nhục và bị xem là tầng lớp thấp hèn nhất

trong xã hội thực dân phong kiến. Nhưng lại là tầng lớp chiếm phần đông đảo nhất

trong xã hội. Trái tim nhân đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu hoàn cảnh

thiếu nhân tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những người dưới đáy xã hội,

Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông của một nhà văn, của một tư tưởng nhân đạo lớn.

Thế giới, con người, mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa những con người được

nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà văn trong những cách đánh giá,

nhận xét xuất phát từ lọi ích và yêu cầu của chính những con người khốn khổ nhất,

những con người không có quyền lợi, bị xã hội áp bức chà đạp xuống tận bùn đen.

Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan cho những con người thấp cổ bé

họng, bị xã hội xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Bằng trái tim yêu

thương, Nam Cao tin rằng trong tâm hồn của những người không được làm người,

những con người bề ngoài trông như con vật thì vẫn còn nhân tính, vẫn còn có

những khát khao nhân bản như Chí Phèo hay Lang Rận. Đằng sau những con người

có thân hình dị dạng như: Thị Nở, Nhi, Chí Phèo, Lang Rận, Mụ Lợn, vẫn còn một

con người, một nhân tính người thật sự, họ cũng mong muốn có cuộc sống hạnh

phúc đời thường như bao người khác.

Với bút pháp hiện thực sâu sắc và tấm lòng nhân văn cao cả, Nam Cao đã khắc

họa nên những nhân vật “Người nông dân” với những đặc điểm cuộc sống và bản

chất chân chất vốn có của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ông xót xa

cho những cuộc đời cơ cực lầm than, đầy bế tắc của người nông dân dưới xã hội cũ.

Song viết về người nông dân, Nam Cao vẫn còn có những nhược điểm của mình.

Đó là trong cách nhìn. Ông chỉ mới dừng lại ở những kiếp sống quẩn quanh, quằn

34

quại, khổ nhục đã đành là phổ biến của người nông dân. Do vậy, hầu như những

người nông dân trước cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của ông là những

người đói nghèo, nhẫn nhục đến u mê, đờ đẫn. Dẫu rằng họ cũng là những con

người hiền lành, chăm chỉ. Nhưng môi trường và hoàn cảnh cuộc sống đã đẩy Hộ

vào sự bần cùng, tha hóa biến chất, làm họ lâm vào những bi kịch của cuộc sống.

Họ có những phản kháng quyết liệt, họ không chịu khuất phục trước sự hà hiếp vùi

dập của xã hội cũ, nhưng đó chỉ là những hành động mang tính chất manh động,

liều lĩnh của những kẻ cùng đường, bần cùng chứ đó chưa phải là hành động của ý

thức tự giác trong đấu tranh giai cấp.

Trước cách mạng tháng Tám-1945, ta thấy Nam Cao mới chỉ dừng lại ở lòng

nhân đạo, đau xót cảm thông với người nông dân. Nam Cao chưa thấy được sức

mạnh của người nông dân trong xã hội ấy có thể lật đổ được giai cấp thống trị.

Nếu cách mạnh tháng tám thành công như một luồng ánh sáng đem lại sự hồi sinh

cho giới nghệ sĩ lúc bấy giờ nói chung, thì Nam Cao đến với ánh sáng cách mạng là

2.3 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN NỔI BẬT QUA HÀNH ĐỘNG

VÀ NGÔN NGỮ.

một bước ngoặc lớn trong cuộc đời cầm bút của ông.

2.3.1. Thông qua hành động, cử chỉ, điệu bộ.

Trong những tác phẩm của Nam Cao, tính cách của nhân vật không chỉ thể

hiện qua ngoại hình mà còn được thể hiện bằng những hành động, cử chỉ, điệu bộ

của nhân vật. Chính từ những hành động, cử chỉ, điệu bộ của nhân vật đã góp phần

làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và các tình tiết cũng trở nên sinh động, cụ thể

hơn.

Đến với tác phẩm Trẻ con không được ăn thịt chó, người cha đã bộc lộ tính

cách xấu xa, ti tiện thông qua hành động tham ăn thịt chó với những đứa con đang

đói khát của mình. Người cha đó chỉ biết thỏa mãn cơn thèm rượu, thịt của mình

chứ không thèm để ý gì đến những đứa con: “Hắn dang hai chân, khuynh hai cái

tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó về mùa nắng. Trông hắn như muốn khiên

một cái cối đá chứ không phải để bưng một cái mâm bang gỗ”[3,tr.146], để rồi

những đứa con cũng thể hiện hành động chỉ sự đói khát thật chua chát và thật đáng

thương làm sao: “Chúng thở dài. Chúng nuốt nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt

ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để kheo cái bụng. Bụng đứa nào cũng

35

gần dính lưng”[3,tr.148].

Còn với tác phẩm Chí phèo, Nam Cao cũng để cho nhân vật bộc lộ tính cách

thông qua những hành động thay đổi theo từng hoàn cảnh của bản thân hắn trong xã

hội lúc bấy giờ. Khi bị bà ba dâm đãng, vợ của Bá Kiến chiêu đùa thì Chí đã cảm

thấy rất nhục nhã. Nhưng thời gian trôi đi, sau nhiều năm tù tội Chí Phèo đã hoàn

toàn thay đổi, đã tha hóa thật sự và chẳng còn biết rụt rè, e sợ: “Hắn xách một cái

vỏ chai đến trước cổng nhà Bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi”[15,tr.19], rồi Chí

nằm vạ bằng hành động “ lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào cào

mặt”[15,tr.20]. Từ những hành động của Chí Phèo đã để mọi người nhìn rõ tính

cách hung đồ, ngang ngược của Chí, của con người đã rơi vào con đường lưu manh

hóa.

Với tác phẩm Tư cách mõ, anh cu Lộ đã có những hành động, cử chỉ, điệu bộ

thể hiện con người tốt lành nhưng cũng từ hành động mà thấy sự đổi thay của tính

cách con người. ban đầu từ một anh nông dân lương thiện, hiền lành “Anh cu Lộ

hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm để

nuôi vợ, nuôi con”. Rồi từ sự thay đổi cách nhìn của mọi người, cử chỉ khinh miệt

của mọi người đã đưa anh cu Lộ trở thành một thằng mõ thực thụ: “Sau cái bữa

đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai cũng quen quen, không ngượng

nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen lắm”[3,tr.353].

Nam Cao đã thể hiện một cách chân thật hình ảnh người nông dân bị đàn áp

đến bế tắc trong xã hội lúc bấy giờ. Cái xã hội vì nghèo đói mà con người trở nên

biến đổi tính cách, sống ích kỉ, nhỏ nhen và cũng chính từ cách đối sử mất tình

người đã càng làm cho con người không còn đường thoát, phải thay đổi tính cách để

phù hợp với hoàn cảnh.

Nam Cao cũng thể hiện sự thương cảm, lo lắng trước những cách ứng xử của

những tính cách trong xã hội bằng cái nhìn nhân đạo đầy tình thương với con người:

“Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có thể ảnh hưởng đến nhân cách của

người khác nhiều lắm, nhiều người không biết gì về tự trọng, chỉ vì không đươc ai

trọng cả; làm nhục người là một cách rất điệu để khiến người sinh đê

tiện…”[3,tr.354].

2.3.2. Thông qua ngôn ngữ đối thoại.

Với cuộc sống chốn làng quê, Nam Cao đã phác họa nên những hoạt động

36

hàng ngày của người nông dân gắn liền với những mối quan hệ xung quanh. Từ

những mối quan hệ và tính cách riêng của những người nông dân mà hiện lên trong

xã hội những ngôn ngữ giao tiếp khác nhau. Họ có thể rất chân thật, khiêm tốn, lịch

sự với nhau trong tình cảm xóm giềng, ngược lại thì họ cũng rất chua chát. Cáu gắt

và đôi khi còn có những lời lẽ ngang tang, hống hách…và tất cả ngôn ngữ họ sử

dụng hầu như không chỉ do họ quyết định mà còn do hoàn cảnh buộc họ phải nói

những lời đôi khi họ không muốn.

Trong cuộc sống của con người, ngôn ngữ đối thoại là thứ không thể thiếu, nó

là phương tiện để con người trao đổi thông tin, tìm hiểu nhau. Nhà văn Nam Cao

cũng đã vận dụng ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm của mình để làm rõ thêm tính

cách, cũng như sự việc đang diễn ra giữa các nhân vật trong truyện, góp phần làm

cho câu truyện thêm hấp dẫn và dễ hiểu hơn.

Với bá Kiến trong tác phẩm Chí phèo, một tên địa chủ cáo già đã bao lần làm

cho Chí Phèo phải lung lay trước những lời sảo trá của hắn, hắn làm cho mối thù

của Chí dùng dằng bao phen không trả được: “Khổ qua! Giá tôi có ở nhà thì có đâu

đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu với

nhau là đủ”[15,tr.22]. Câu nói ngọt ngào của Bá Kiến càng tô đậm thêm bản chất

nham hiểm, thâm độc của lão già chuyên ức hiếp, bóc lột dân lành. Hắn đã biết tính

của Chí Phèo nên không lớn tiếng mà chỉ dỗ ngọt, làm hòa với Chí: “Chỉ tại thằng

Lý Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ cơ

đấy”[15,tr.22].

Đến với Nhu trong Ở hiền, bản tính cam chịu, ôn hòa, hiền hậu được thể hiện

qua từng câu nói với những người thân trong gia đình: “Thôi chị lạy em. Em chịu

khó làm đi kẻo về mẹ chửi; chị làm xong phần chị, chị làm giúp phần em một

nửa”[3,tr.360].

Còn trong tác phẩm Lão hạc, qua lời đối thoại với ông giáo về việc bán chó đã

thể hiện tính cách lương thiện, hiền hậu của người nông dân: “Khốn nạn…ông giáo

ơi!...Nó có biết gì đâu! Nó nghe tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng”.[15,tr.59].

Còn tên Trương Rự, mỗi lời đối thoại của hắn đều thể hiện sự hung hăng

ngang tàng của tính cách ngang ngược của hắn: “Mặc kệ! tôi thích thì cứ mua; mua

không được thì bắt trộm; bắt trộm không xong thì đánh cướp”[3,tr459]. Để rồi khi

37

có được người vợ xinh đẹp, hiền lành thì hắn đối xử tệ bạc bằng những lời lẽ chua

chát: “Cái đầu cá này thì có bố mày họa có xơi được thì xơi chứ tao thì tao phí

mồm”[3,tr.461].

Với Một đám cưới, người cha đã nói với Dần một cách thiểu não, bi đát trước cảnh

đang quá túng khổ của gia đình: “Thì chỉ đến chết là cùng, chứ gì? Còn hơn ngồi

nhà mà chết đói. Thế mày bảo: không liều thân đi thế, thì còn xoay xấp gì để kiếm

ra tiền nữa, nào?”[3,tr.126].

“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Ấy mà trong những hoàn cảnh khắc nghiệt con người nào có quyền lựa chọn

thứ gì, họ phải từ bỏ mọi thứ để xoay theo cái vòng luẩn quẩn của số kiếp, để rồi

quên đi những cách đối đãi tốt đẹp giữa con người với nhau. Từ những lời đối thoại

của các nhân vật trong những sáng tác của Nam Cao, ta thấy được hoàn cảnh sống

lúc này vô cùng ngột ngạt. Họ chỉ dùng những lời mắn chửi, xỉa xói nhau, hoặc

những lời than thở, kêu van và nếu có tử tế, ngọt ngào thì đó là những lời giả dối,

lừa lọc nhằm vào mục đích nào đó. Và cũng từ đây, Nam Cao cho ta thấy các mối

quan hệ trong làng quê bây giờ ít có sự chân tình, sự yêu thương lẫn nhau, mà vì cái

đói con người dần tha hóa đi tính cách con người, mất đi phần nào của cái đẹp của

làng quê thân thiết, an làng.

2.3.3. Thông qua ngôn ngữ độc thoại.

Không chỉ khắc họa tính cách qua ngôn ngữ đối thoại mà vói nhà văn Nam

Cao, sự độc thoại nội tâm cũng rất quan trọng trong việc thể hiện tính cách của nhân

vật. Trong thế giới nội tâm của nhân vật luôn tồn tại nhiều suy nghĩ, cảm xúc, trạng

thái hình thành nên tính cách độc đáo ở mỗi nhân vật.

Trong tác phẩm Chí phèo, lời độc thoại nội tâm của Bá Kiến làm ta hiểu hơn

bản chất của bọn thống trị: “đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ đi

là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng đã trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính

ương ngạnh học được từ phương xa” hay “một người khôn chỉ bóp đến nửa chừng.

Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó biết

ơn”[15,tr.28]. Rồi lại ngấm ngầm mong muốn lọi dụng Chí Phèo để trả thù phe đối

đầu là Đồ Tảo: “Nếu nó trị được Đồ Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị Đồ Tảo trị thì cũng

38

chẳng thiệt gì, đằng nào thì cũng có lợi cho cụ cả”[15,tr.32].

Dù rất ngang tàng nhưng đối đầu với Bá Kiến, Chí Phèo cũng có chút ngại

ngùng và nhút nhát: “Hắn làm cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ

hàng thân thích; anh em không có; đến bố mẹ cũng không…”[15,tr.22], và cũng có

chút tự đắc về hành động của mình: “Ờ, thế mà hắn dám độc lực chọi nhau với lí

trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên tri làng Vũ Đại; chánh hội đồng kì hào, huyện hào,

Bắc kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện”[15,tr.23].Rồi với sự

mời mọc của Bá Kiến, Chí Phèo lại suy nghĩ mà lo sợ: “Biết đâu cái lão cáo già này

nó chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ờ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi

mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng

lên, rồi cột cổ hắn vào, cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cắp thì

sao?”[15,tr.32].

Nhu trong Ở hiền thì chỉ biết than thở một mình, buồn tủi chỉ biết khóc cho

mình nghe chứ không dám thổ lộ một lời. Suốt cuộc đời Nhu chỉ dành cho gia đình,

chỉ biết nhường nhịn và nhường nhịn người trong gia đình mà thôi, với những con

người hiền lành hiếm hoi trong xã hội thì đức tính đó lại khiến họ phải khổ suốt đời:

“Tại sao trên đời này lại có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao những kẻ hay nhịn,

hay nhường thì thường thường lại chẳng được ai nhịn, nhường mình; còn những kẻ

thành công thì hầu hết lại là người rất tham lam, chẳng biết nhường nhịn ai, nhiều

khi lại xảo trá lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn…”[3,tr359].

Còn bà lão tám mươi tuổi trong Nửa đêm, lại bất lực trước đứa cháu của mình,

lời nói của bà giờ đây vô dụng, bà chỉ còn biết kiềm nén nỗi buồn tủi riêng mình, để

trong lòng đau khổ mà không thể tâm sự với ai, với bà lão lời nói lúc này hình như

vô nghĩa: “Bà tủi thân lắm, nhưng đành phải chịu, biết nói sao! Bà cố dấu nước

mắt cứ chực rơm rớm ra mi nữa. Từ đấy, bà mặc hắn với nỗi buồn của hắn. Bà chỉ

biết cúi gò cái lưng tám mươi tuổi của bà trên mảnh vườn để tìm cái sống cho hai

người”[3,tr.486].

Qua những nhân vật mà Nam Cao đã miêu tả càng chứng mình ngòi bút sắc

sảo, tinh tế của nhà văn khi phác họa về hình tượng người nông dân Việt Nam trước

cách mạng tháng Tám 1945. Nhà văn đã tạo ra những nhân vật hết sức tiêu biểu,

sinh động từ tính cách, hoạt động bên ngoài, đến chiều sâu tâm lý của từng nhân

39

vật.

CHƯƠNG 3

NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT

TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.

3.1. THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT.

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nên văn học hiện thực phê phán

giai đoạn 1930-1945. Nam Cao đã cho ra đời nhiều tác phẩm thành công không chỉ

ở đề tài, mà còn ở nghệ thuật điêu luyện mà nhà văn đã sữ dụng trong mỗi tác

phẩm. Với đề tài về người nông dân, Nam Cao đã vận dụng một cách chính xác,

uyển chuyển những thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm, để góp phần làm tăng thêm

giá trị của từng tác phẩm cụ thể. Nam Cao đã đi sâu vào không gian chốn làng quê

với những nơi “bùn lầy nước đọng”, với những mái nhà tranh rách nát của những

người nông dân nghèo. Ngoài ra, Nam Cao còn chú ý đến những biến đổi của thời

gian xoay quanh cuộc sống thường nhật, gần gũi, quen thuộc hàng ngày. Đi sâu vào

đời sống của con người làng quê, Nam Cao đã rất thành công trong việc khắc họa

tâm ký nhân vật với những diễm biến tâm lý phức tạp khác nhau. Cùng với những

yếu tố trên thì chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm của Nam Cao cũng là nét độc đáo,

tái hiện một cách cụ thể diễn biến của mỗi tác phẩm cũng như phác họa một cách

đầy đủ cuộc sống của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến vô

cùng gói gen.

3.1.1. Thời gian nghệ thuật.

Thời gian nghệ thuật: “Là thời gian nội tại của nghệ thuật. Cũng như không

gian nghệ thuật, miêu tả, trần thuật trong truyện bao giờ cũng xuất phát từ điểm

nhìn nhất định trong thời gian. Khác với thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật

có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt đến tương lai xa xôi, có thể dồn

nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái thời gian chốc

lát đến vô tận. Nó được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn

của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa

khác,…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm”.[9,tr.82].

Trong sáng tác của Nam Cao, các nhân vật của ông sống như thường lệ, trong

hoàn cảnh cụ thể cùng với thời gian của hiện thực đời sống. Một trong những nét 40

đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra một kiểu

thời gian hiện thực hàng ngày. Trong cái thời gian hàng ngày của cuộc sống hiện

tại, cuộc sống dưới ách thống trị của phong kiến, nhân vật của Nam Cao như bị

giam hãm, tù túng, luẩn quẩn trong những lo âu thường nhật từ miếng cơm, manh

áo đến đồng tiền, bát gạo…Các nhân vật đau buồn của Nam Cao bị hành hạ, bị giày

vò, bị ám ảnh bởi cái đói, “lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào

cho không chết đói”. Cả thế giới nhân vật của Nam Cao luôn “bị cơm áo ghì sát

đất”, bị xuôi theo cái vòng luẩn quẩn của thời gian hàng ngày mòn mỏi. Thời gian

trong tác phẩm luôn gắn liền với đời sống của nhân vật. Thời gian của Nam Cao là

thứ thời gian mệt mỏi, nhẫn nại của nhân vật trước những nhu cầu của cuộc sống

con người. Họ sống trong thời gian mù tịt bị cái đói nghèo vây bủa, phải cố gắn để

duy trì cuộc sống để tồn tại một cách thảm thương. Thời gian hàng ngày của Nam

Cao được thể hiện qua từng hoạt động trong từng buổi của nhân vật như sáng, trưa,

chiều, tối…Trong tác phẩm Một bữa no bà Cái Đĩ đã có những buổi sáng thật đáng

thương, buổi sáng hàng ngày để bà hạ mình đi tìm miếng ăn “Mỗi sáng, bà ra chợ

xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho

như vậy? Lòng thương người cũng có hạng” [15,tr.162]. Hay chị Cu trong Con

mèo, đã chửi xối xả khi chồng chị làm hư hại những vật dụng trong nhà “Từ sáng

đến giờ, tao ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một hào, mà mày phá

tao một lúc một cái niêu, bốn năm cái bát…”[15,tr.119]. Đến Một đám cưới, Dần đi

ở mướn nơi nhà địa chủ thì bữa là khoảng thời gian được chia ra rõ rệt để tính công,

tính tiền “sáng, mỗi người một lùm lùm; trưa, ba lượt thật đầy; tối, củ khoai, củ ráy,

bụng trẻ con như vậy thì có lẽ cũng không phải đói”[15,tr.112]. Còn với Chí Phèo

buổi trong ngày với hắn chẳng có gì là chật vật mà ngược lại, rất nhàn, rất khoải

mái, một cảnh tượng khá hiếm hoi trong cảnh tượng đời sống bây giờ “Hắn về hôm

trước, hôm sau đã thấy hắn uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến

chiều”[15,tr.19]. Còn với người vợ của Bịch thì ngày gày đi làm thuê, phải buôn

bán vất vả để lo cho gia đình: “Vợ đi làm có thuê, mỗi ngày được hai hào; mỗi

tháng cũng làm được mươi ngày. Những ngày không có ai thuê, chị mua buôn đọt

lá, mấy cái hoa chuối, hoặc bó mía cẳng gà đem mãi sang chợ phương-Yên

bán…cũng có ngày lỗ tiền đò”(Mua danh)[15,tr.334]. Và cả những người đàn ông

41

như bố Dần cũng tính toán cho mỗi ngày của gai đình: “Trước kia, mỗi người làm

một ngày một hào rưởi thì đã đủ cho cả nhà ăn; bây giờ mỗi ngày được ba hào, tiền

gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng một góc ngày xưa, thành thử một

người ăn cũng hết”(Một đám cưới)[15,tr.125]. Còn với ông lão tội nghiệp như Lão

Hạc, lo cho bản thân đã khó, thế mà gánh vát thêm phần ăn của con chó: “một lão

một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo dắt”[16,tr.58]. Ở

làng quê, cảnh tượng thiên tai, mưa bão là thường xuyên xảy ra và nó buộc người

nông dân phải xót xa khi nhìn những của cải của mình chăm chút từng ngày, từng

tháng mất đi:“Mấy buồng chuối tiêu kia tháng sau bán thật vừa”(Làm

tổ)[16,tr.182]. Trong cảnh nghèo khổ đó, anh Cu Lộ đã dửng dưng trước cách kiếm

ăn bằng nghề mõ của mình: “tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày không

được bát cơm dãi nhỏ ra hết còn làm bộ”(Tư cách mõ)[16,tr.351]. Bố của Dần thì

lo cho cuộc sống những đứa con trong thời gian tới: “ Bây giờ mà còn thế, đến

tháng hai, tháng ba này còn khổ đến đâu? Bố con mình có thân thì phải liệu

đi”.(Một đám cưới)[16,tr.125].

Cái ăn, cái mặc với người nông dân nghèo theo thời gian trong tác phẩm của

Nam Cao dường như đã phải trải qua nó rất cực nhọc. Thời gian ấy kéo dài từ qua

khứ đến hiện tại và có thể đến tương lai. Bà mẹ của Ngạn đã tính toán về cái đói:

“Bà thì ngày xưa cơm ngô cũng chẳng có mà ăn đâu”(Nhìn người ta sung

sướng)[16,tr410]. Và họ phải lo lắng cho tương lai: “Qua giêng, con chắc mười

ngày nghĩ, chưa chắc có một ngày có việc”(Một đám cưới)[16,tr.126].

Thời gian trong tác phẩm của Nam Cao như đang đông đặc lại. Nó tù đọng,

đóng kín, xoay theo cái vĩ đạo tưởng chừng như không thay đổi. Nam Cao đã sáng

tạo trong từng tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày luẩn quẩn

với những lo âu về sinh kế, mòi mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên cuộc sống “sống

mòi” đang đi đến bế tắc, ngột ngạt điểm hình trong xã hội lúc bấy giờ.

Bên cạnh thời gian của thực tiễn hàng ngày, thì trong nhiều tác phẩm của Nam

Cao còn sử dụng phạm trù hồi tưởng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như

đã biết, hồi tưởng xuất hiện trong tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc nguyên

tắc liên tưởng. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ,

không có ý ngở như vô tình, thâm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới

hồi tưởng của nhân vật. Nó không tồn tại một cách độc lập mà trong mối quan hệ

42

thường xuyên, chặt chẽ với hệ thống thời gian nghệ thuật. Hồi tưởng không đơn

giản đẩy lùi ra những phạm vi thời gian của sự trần thuật, trái lại nó tạo ra khả năng

đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có thể nhìn thấy được viễn cảnh của tương lai.

Với những sáng tác của Nam Cao, những kỉ niệm cũ hiện lên thông qua sự hồi

tưởng của nhân vật, nó có thể trong sáng, ấm áp nhưng bao giờ cũng gợi lên nỗi u

buồn. Đó là nỗi buồn của đứa cháu: “Một buổi chiều có sương bay” khi Dì Hảo đi

lấy chồng (Dì hảo). Đó là nỗi niềm mơ ước đã bị vùi dập trong quá khứ của Chí

Phèo: “Hình như đã có một thời gian hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ,

chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng,

khá giả thì mua dăm ba xào ruộng làm”(Chí phèo) [15,tr.43]. Với nhân vật Điền

thì quá khứ thật đẹp trong sự hồi tưởng mong lung của hiện tại: “Đã có một thời,

Điền chăm chỉ đọc sách, viết văn. Điền náo nức muốn trở thành một văn nghệ sĩ.

Điền nghiện sẽ cam chịu tất cả những thiếu thốn, đọa đày mà văn nhân nước mình

phải chịu”(Trăng sáng)[15,tr.86]. Còn Hộ trong Đời thừa đã luôn hồi tưởng về ước

mơ thành nhà văn chân chính: “Cả đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng

quyển ấy sẽ ăn giải nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên toàn cầu”[16,tr.101].

Đối với họ, những cảnh vật của ngày hôm nay như khơi gợi những kỉ niệm của

ngày hôm qua và những kỉ niệm củ hiện về chỉ làm tăng nỗi buồn chán, khổ đau

trước mắt. Thời gian như là người bạn đường đau khổ của kiếp con người. Với tư

cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc tính không đảo ngược của thời

gian, nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp khác nhau của ông đều nhìn thấy thời

gian trôi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian một cách xúc động, với

niềm nối tiếc, với tình cảm cay đắng của sự mất mát không gì bù đắp nỗi.

Tiếp theo thời gian hồi tưởng trong sáng tác của Nam Cao, thời gian tâm trạng

cũng được thể hiện trong những sáng tác của ông. Đối với cô bé Ninh, thời gian ba

năm là quá nặng nề, là dài dằn vặc vì nó mang theo một nỗi mất mát không gì bù

đắp được: “Bu chết đã ngót ba năm, Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ.

Ninh cứ tưởng bu đã chết từ lâu lắm”(Từ ngày mẹ mất)[19,tr.172]. Sự đối chiếu so

sánh giữa những cảm giác của cô gái trong quá khứ và hiện tại làm tăng thêm nỗi

đau thương, mất mát của con người, với Ninh thì càng cay đắng nghiệt ngã hơn.

Trong tác phẩm Tư cách mõ mọi người nhớ đến bản tính tốt đẹp trong quá khứ đã

43

mất đi: “Anh cu Lộ hiền như đất, cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm

chăm, chúi chúi để làm nuôi vợ, nuôi con”[19,tr.346] và hiện tại thì “Bây giờ thì

hắn đã mõ hơn những thằng mõ chính tông” [19,tr.354].

Ở mỗi tác phẩm Nam Cao dường như kéo căng hoặc rút ngắn thời gian hành

động miêu tả. Bữa thịt chó của người cha (có khác gì một con vật) trong Trẻ con

không được ăn thịt chó càng dềnh dàng bao nhiêu thì sự chờ đợi, cơn đói cồn cào

của lũ trẻ tội nghiệp càng bị kéo căng ra bấy nhiêu. Thời gian ở đây bị kéo dài ra

nhấn mạnh thêm cái dư vị cay đắng của tình huống. “Chúng thở dài. Chúng thừ mặt

ra. Chúng nằm ẹp xuống đât và lật áo lên để kheo cái bụng. Bụng đứa nào cũng

gần dính lưng”[19,tr148]. Còn trong Một bữa no là thời điểm ăn chực của bà lão

tám mươi, tại nhà bà phó Thụ. Qua tình cảnh của bà lão, ta lại cảm thấy sự tủi nhục

và trớ triu của bà lão khốn khổ, với bà lão bữa ăn chực sao thời gian nhanh thế, thời

gian như dồn dập, ráo riết rược đuổi: “Cái Đĩ lụt cụt chạy xuống nhà dưới. Một lát

sau, tiếng đĩa đã bắt đầu lạch cạch”. Rồi thì “tiếng khung cữi đã ngưng. Mấy cô dệt

cửi đều là con gái hoặc con gái nuôi bà phó Thụ, đang tới tấp, cô xới cơm, cô bỏ

rau, cô sẻ mắm, chung quanh cái mâm gỗ đặt ngay trên mặt đất” [18,tr.167]. Còn

thời gian bà Cái Đĩ ăn cơm trong mắt bà phó Thụ thì chậm chạp làm sau: “Bà lão

lại rên tiếng nữa để mở đầu câu nói” rồi khi bà phó Thụ trông bà lão so đũa: “trông

bà so đũa mà ngứa mắt! Bà phó muốn giật xoét lấy, làm cho thật nhanh cho đỡ bực.

Nhưng bà nhịn được. Bà chỉ chép miệng và lừ lừ đôi mắt, tỏ ý khó chịu” bà phó gắt

gỗng “ừ, bà cứ ăn nốt vậy”(Một bữa no)[18,tr.169].

Trong tác phẩm của Nam Cao còn tồn tại thời gian hủy diệt, được thể hiện ở

nhân vật Chí Phèo. Với thời gian, Chí Phèo từ một người hiền lành, chất phát trở

thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại sau những năm tháng tù tội. Chí Phèo bị thời

gian hủy hoại cả nhân tính lẫn về ngoại hình: “Bây giờ thì hắn đã thành người

không tuổi rồi. Ba mươi tám tuổi hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn

mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn là mặt người; nó là

mặt con vật lạ, nhìn mặt con vật có bao giờ biết tuổi?”(Chí phèo)[15,tr.33].

Chí Phèo đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp thị Nở, tình cảm tự

nhiên và tội nghiệp của người đàn bà xấu xí đã góp phần đánh thức ý thức về nhân

phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn

già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! có lí nào như thế được? hắn đã già rồi

44

hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu”(Chí phèo)[15,tr.43].

Ngoài ra, trong một số tác phẩm nhà văn còn miêu tả viễn cảnh của tương lai.

Với Dì Hảo là tương lai mù mịt nghèo đói và bệnh tật. Tương lai của Nhu trong Ở

hiền là cả đời phải chịu đựng và cam chịu: “Hỡi ôi! Nhu đã vâng theo cái bản tính

của Nhu rất hiền lành. Nhu trở về nhà với người chồng với người vợ hai và sống

như một con vú trong nhà chúng, trong cái cơ nghiệp chính tay Nhu đã dung tiền

của mẹ mình để tạo ra…”[15,tr.369]. Hay tương lai của Chí Phèo, một tương lai

quá đỗi u ám: “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và đau

ốm, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”(Chí phèo)[15,tr.44-45].

Bên cạnh đó, Nam Cao còn sử dụng thời gian đồng hiện. Trong cái vòng đồng

hiện đó, Nam Cao đã cho quá khứ hội tụ trong hiện tại và hiện tại như gợi lại những

hình ảnh của quá khứ. Hiện tại và quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên sự cộng

hưởng về cảm xúc và ấn tương cho người đọc. Ở đoạn kết của tác phẩm Chí phèo,

khi nghe Chí Phèo chết thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra

cái lò gạch cũ bỏ hoang, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở đây, hiện tại và tương

lai như hòa nhập làm một.

Là một nhà văn của làng cảnh Việt Nam, sáng tác của Nam Cao luôn gắn liền

với những hình ảnh của làng quê cùng tồn tại với thời gian, năm tháng.

Thời gian mà Nam Cao nói đến là thời gian trong những buổi chiều mùa đông

lạnh lẽo, mưa bão hay thiên tai trong cuộc sống. Nam Cao luôn chú ý đến thời gian

hiện tại, một thời gian hiện tại không bị chìm đi trong quá khứ, cũng không bị mờ đi

vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì nó mang

theo cả chiều dài cùng chiều sâu thăm thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai. Biết

dừng ở thời điểm hiện tại của sự kiện, khám phá tính chất phong phú, đa dạng của

nó, đều gắn liền với sở trường, bút pháp của Nam Cao đã khám phá thế giới bên

trong tâm hồn của nhân vật và lối kết truyện theo quan điểm của nhân vật.

3.1.2. Không gian nghệ thuật.

Không gian nghệ thuật: “Là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể

hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng

xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định(…).

Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ không gian nên mang tính chủ quan.

Ngoài không gian vật thể có không gian tâm tưởng. Do vậy, nó có tính độc lập

45

tương đối, không quy định vào không gian địa lí”.[9,tr.93].

Nam Cao là nhà văn đã rất thành công trong việc phối hợp giữa thời gian và

không gian để phác họa nên một bức tranh làng quê Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

Ông đã khai thác hai yếu tố không gian và thời gian trong quá trình khám phá

những tính cách, những tình huống trong cuộc đời nhân vật. Không gian nghệ thuật

trong sáng tác của Nam Cao được thể hiện trước hết ở vùng quê nông thôn, những

căn nhà nơi thôn xóm, những con đường làng…Trong những mối liên hệ của thời

gian và không gian của làng quê, ngôi nhà, con đường hóa ra là cơ bản và quan

trọng nhất. Tất cả những mối quan hệ còn lại là thứ yếu trong thế giới nghệ thuật

của Nam Cao.

Hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của Nam Cao là làng Vũ Đại

và cũng chính là làng Đại Hoàng, quê hương của nhà văn, cái làng quê xơ xác với

“Những mái nhà xác xơ trong tiều tụy như những cái nón rách trên gáy những

người ăn mày ngồi sang sát với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh”[1,tr.235]. Không giống

với làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô

Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao có vẻ hoang vắng, u ám của làng

quê nghèo đói: “Một cái làng quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt

của mùa hè, xao xác vào những ngày cuối thu, tả tơi vào những màu mưa bão,

quạnh vắng vào những đêm trăng”[1,tr.235]. Không gian ở đây rất yên tỉnh, đến

nỗi người ta có thể nghe thấy “Tiếng thở ra u ám” của những “giậu tre rậm như

rừng”[1,tr.235]. Thậm chí có thể nghe thấy “Tiếng kêu rầm rĩ của những thở gỗ

trong cái kèo cái cột” hình như “Chúng tê mỏi và vươn mình hay sốt ruột mà rên

lên”(Nữa đêm)[1,tr235]. cái không gian vắng lặng ấy đôi khi cũng bị khuấy lên bởi

những tiếng thở, tiếng khóc, tiếng chửi trời, chửi đất, sau đó cả làng quê lại chìm đi

trong cái đói khát, ốm đau và tủi nhục.

Không gian ở làng Vũ Đại, chính là không gian u tối của xã hội dưới sự cai trị

của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Trong cái làng với đầy dẫy bọn quan lại cấu kết,

phe phái như “đàn cá tranh mồi”. Không chỉ tàn bạo với người dân mà giữa chúng

cũng tồn tại mối quan hệ đối kháng, triệt tiêu lẫn nhau. Trong xã hội lúc này, giữa

người với người ít có mới quan hệ yêu thương nhau mà chỉ là những thủ đoạn và

mưu mô.

Phong Lê đã nhận xét về xã hội nông thôn trong những sáng tác của Nam Cao:

46

“đang có sự rạng vỡ để đi đến sự bất thường của quá trình băng hoại”[13,tr.291].

Không gian chủ yếu cảu Nam Cao sử dụng trong tác phẩm là không gian riêng

tư, cá nhân, không gian sinh tồn của làng quê cổ hử. Trong cái không gian tù hảm bị

vây bọc bởi những lũy tre xanh, biết bao nhân vật của Nam Cao bị cầm tù, bị đầy ải,

nếu không cam phận sống thiệt thòi, tủi nhục như kẻ tôi đòi như Nhu trong Ở Hiền,

thì sống âm thầm như người phụ nữ trong tác phẩm Dì hảo, nếu không bị chết vì

bệnh tật như Phúc trong Điếu văn, chết khốn khổ vật vã như Lão Hạc, Chí phèo…

Với tác phẩm của Nam Cao, không gian cá nhân luôn bị dồn nén đến mức ngột

ngạt, buồn tủi của nhân vật rồi dẫn đến nhiều suy tưởng trong không gian ấy. Dưới

cảnh sống nghèo nàn trong mái nhà tranh, nhân vật miên man trong những lo toan,

suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm chua chát. Bà cái Đĩ “nằm ẹp thành

nước mắt” (Một bữa no). Nhân vật Phúc trong Điếu văn thì “như một cái xác trong

mả lạnh, chua chát nghĩ rằng: “mình không ăn nhầm gì với cảnh đùa vui của

người”, hay cái không gian nơi Chí Phèo đang sống: “có tiếng cười nói của những

con người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy

hôm nào cũng có. Nhưng hôn nay hắn mới nghe thấy… chao ôi là buồn!”(Chí

phèo)[15, tr.43]. Để từ không gian bên ngoài đó Nam Cao đi vào không gian tâm lý

con người: “tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời

hắn”(Chí phèo) [15,tr.43]. Từ không gian đang sống hiện tại mà Nam Cao đã dẫn

ta đi đến không gian trong tâm lý con người, tạo cho con người những suy nghĩ, độc

thọai, độc thoại nội tâm ở các nhân vật.

Qua những yếu tố không gian và thời gian trong những sáng tác của Nam Cao,

ta thấy rằng nhà văn đã sử dụng một cách điêu luyện và phối hợp tinh tế để đưa vào

tác phẩm, để tạo được bước tranh đầy đủ, sinh động và rõ nét vê làng quê Việt Nam

trước cách mạng tháng tám 1945. Ở sáng tác của Nam Cao, hai yếu tố này luôn bổ

sung, tác động lẫn nhau để tăng thêm sự phong phú, phức tạp của đời sống nhân vật.

Như trong tác phẩm Chí phèo, cái không gian luẫn quẫn, vây bủa cuộc đời con

người ngay từ đầu truyện và đến kết truyện. mở đầu cuộc đời của Chí Phèo là không

gian của cái lò gạch củ: “một anh đi thả ống lươn đã thấy hắn trần truồng và xám

ngắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch bỏ không, anh ta nhặt hắn và

đêm cho một người đàn bà góa mù”(Chí phèo)[15, tr.18]. Rồi đến cuối tác phẩm đó

47

lại hiện lên qua suy tưởng trong đầu của thị Nở: “thị nhìn nhanh xuống bụng trong

đầu thoáng hiện ra một cái lò gạch củ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua

lại…”(Chí phèo)[15, tr.52].

Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố nghệ thuật

không gian và thời gian để mở ra nhiều hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân

vật. Nhân vật cảu Nam Cao có thể từ hiện tại quay về quá khứ hoặc đi đến tương

lai, thậm chí có thể xáo trộn cả không gian và thời gian. Điều đó làm cho tác phẩm

của Nam Cao mới thoạt nhìn bề ngoài tưởng như rất phóng túng, tùy tiện nhưng thật

ra lại rất chặt chẽ, hợp lý bởi sự kết hợp rất nhịp nhàng và chuẩn xác của nhà văn

3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT.

Nam Cao.

3.2.1. Về ngoại hình.

Ngoại hình nhân vật thể hiện bi kịch của họ ở hầu hết trong sáng tác của Nam

Cao, nhưng tiêu biểu vẫn là những nhân vật như Chí Phèo, Lang Rận, Mụ Lợn, Thị

Nở…Ngoại hình cũng như tính cách của họ đều không bình thường, có phần quái

dị, ghốm riết nhưng lại rất sống động, chân thật. Đó là những con người thật trong

xã hội lúc bấy giờ, mà ít nhà văn đưa họ vào trong sáng tác của mình. Nam Cao đã

cho ta thấy cuộc sống nghèo khổ, đói khát, bất công và sự tù đày đã làm họ biến

dạng, xấu xa và tha hóa đến như vậy.

Chẳng hạn, một Chí Phèo được xây dựng theo cách đặc biệt biểu thi tính cách

lưu manh hóa “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Cái

đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen lại rất cơng cơng, hai mắt

gờm gờm trông ghốm chết! hắn mặc cái quần nai đen và cái áo tây vàng. Cái ngực

phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai

cánh tay cũng thế. Hắn về hôm trước , hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt

chó suốt từ trưa đến chiều.[17,tr.33]. Hay một đoạn khác “Bây giờ thì hắn đã thành

người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn

mươi? Cái mặt hắn trông không trẻ cũng không già: nó không còn là mặt người; nó

là mặt của con vật lạ, nhìn mặt một con vật thì có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn

vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió dằn dọc vằn ngang, không theo thứ tự, biết

bao nhiêu là sẹo. Vết mảnh chai của nhiều lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần hắn

nhớ làm sao nổi? Những việc ấy chính là cuộc đời hắn”.[17,tr.46]. Với bộ dạng

48

này, lúc đầu không ai nhận ra Chí Phèo ngay cả những người sống cùng làng với

hắn. Cùng với sự thay đổi hình dạng là sự thay đổi nhân tính. Từ một anh canh điền

hiền lành, khẻo mạnh, chăm chỉ thành một tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Chính cái chế độ nhà tù thực dân đã hủy hoại cả hình dạng lẫn nhân cách con người.

Nam Cao miêu tả ngoại hình của mỗi nhân vật không lặp lại mà mỗi dáng vẻ

đó đều bộc lộ một tính cách rất riêng. Chẳng hạn nhân vật Lang Rận: “Anh chàng

có cái mặt trông dư dằng thật. Mặt gì mà nặng trình trịch như mặt người phù, da

mặt như da con rắn bùng, lại lắm tắm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn,

lại gò lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề. Môi rất mỏng cong lên, bịp gần kín

hai cái lỗ mũi con con, khiến anh ta thở khò khè. Mà cũng chưa tệ bằng lúc anh ta

cười. Bởi lúc anh ta cười thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại kín thêm, hai mí

gần như dín tịt lại với nhau, môi càng lớn lên thêm, mà tiếng cười toàn bằng hơi

thở, thoát ra khìn khịt”. những chi tiết thể hiện hình tượng của nhân vật có vẻ

cường điệu, phóng đại, gây cười. Họ lại được miêu tả, đánh giá qua bình luận của

tác giả và những nhân vật xung quanh. Nên ngôn ngữ không có tính chủ quan hay

giả tạo. Đặc biệt nhân vật có ngoại hình như chạm, như khắc. Qua cái ngoại hình

đó, người đọc không chỉ hình dung, nhìn thấy, nghe thấy mà còn ngửi thấy, tưởng

tượng ra những người có hình dạng không giống ai, sống bẩn thỉu như xúc vật, từ

cái ăn, cái mặc đến đời sống dị dạng như trâu bò có nhiều kí sinh trùng ở trên

người. Tác giả không để nhân vật chết trong sự xa lánh, khinh bỉ của mọi người mà

luôn cảm thông, chia sẻ trước thái độ biết tự trọng và đau đớn của nhân vật. “Y

thẹn, Y buồn, Y giận đời, Y giận trời, Y giận thân, giận tím ruột, tím gan, Y nghĩ đến

cái nhục sáng hôm sau”[17,tr.28].

Với Lão Hạc, khuôn mặt ổng hiện lên tất cả nỗi khốn khổ của người cha già,

cô độc , bệnh tật và nhớ con. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như

miếu và đôi mắt ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão và òa lên khóc. Bây giờ

thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho Lão

Hạc… Mặt lão đột nhiên co dúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước

mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng mổm mẻm của lão như con

nít. Lão hu hu khóc. [17,tr.252]. Nam Cao miêu tả Lão Hạc với những nét chấm

phá rất xúc động, vẻ tiều tụy của người già, bệnh tật, đói khổ, nhớ con và ân hận về

việc lừa con chó. Vẽ bề ngoài ấy không phải là sinh ra đã có mà chính cái cuộc sống

49

nghèo đói của xã hội cũ tạo nên. Lão Hạc đang rơi vào bi kịch, bi kịch của nghèo

đói, ông không giám ăn, không giám xài, để dành tiền cho con trai cưới vợ. Việc

miêu tả ngoại hình Lão Hạc như vậy Nam Cao để cho người đọc hình dung được

cái nỗi khổ của lão như thế nào để thấy được cái bi kịch đau lòng ấy.

Nam Cao đã xây dựng hàng loạt nhân vật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong

lòng người đọc. Các nhân vật rất phong phú, sinh động. Đặc biệt, tác giả cho xuất

hiện các nhân vật xấu xí, bẩn thỉu, dị dạng, tha hóa…Có chăng, ông muốn nói đến

tính chất khốc liệt, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn đen

tối nhất. Sự nghèo đói, bệnh tật, bất công đã dồn ép, xô đẩy con người đến ngõ cụt

của cuộc đời. nó làm biến dạng đi cả thể xác lẫn tâm hồn của những con người hiền

lành, lương thiện. biết họ thành con vật đội lốt người, đần độn, ngớ ngẩn, tàn bạo,

điên loạn. Nếu họ không có những phút giây tỉnh tâm thì họ sẽ chết vùi trong thảm

cảnh của cuộc đời mình. Nhưng tiếc rằng khi họ nhận ra thảm cảnh của cuộc đời

mình cũng là lúc bi kịch kết thúc.

3.2.2. Về nội tâm.

Khi miêu tả nhân vật, Nam Cao không chỉ chú trọng về ngoại hình mà còn rất

chú trọng miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của nhân vật. Với thủ pháp độc thoại

nội tâm, nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ và tâm trạng của mình. Dù là những người

nông dân nghèo như: Chí Phèo, thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành…Hay người

trí thức nghèo như: Thứ, Điền, Hộ, hay bọn cường hào ác bá như Bá Kiến đều có

thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, nhiều mâu thuẫn, đấu tranh tư tưởng mà lại

thống nhất.

Với Chí Phèo sau khi đi tù về, cả ngày hắn chỉ biết say khướt, chửi bới, dọa

nạt, rạch mặt ăn vạ… “Những cơn say của hắn tràn cơn say này sang cơn say khác,

thành một cơn dài, mênh mông, hắn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn

còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say

để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẻ hắn chưa bao giờ tỉnh

táo để nhớ rằng có hắn ở trên đời”[17,tr.46]. Một Chí Phèo tha hóa như thế, không

ai nghĩ rằng hắn có tâm trạng, vì ngay cả sự tồn tại của hắn, hắn còn không nhận ra.

Thế mà, khi được thị Nở chăm sóc, lo lắng yêu thương, hắn bắt đầu động lòng, nghĩ

ngợi và nhận thức về nỗi cô độc của mình. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn

cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài

50

bốn mươi tuổi đầu. Dẫu sao, đó không phải tuổi mà con người ta bắt đầu sửa soạn.

Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời…Muốn cá phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn

mạnh nửa. Mà có lúc hắn ngẫm nghĩ mà lo, xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật,

dọa nạt thì sao? Đã đành hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có

một lúc mà người ta không còn liều được nữa. Bấy giờ thì mới nguy! Trời ơi! Hắn

thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”[17,tr.55]. Sau khi

tỉnh rượu, Chí Phèo tỉnh ngộ và hi vọng. Chí ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay

ấm nóng đầy tình thương của thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thật sự thức tỉnh tâm

hồn. Hắn “rất ngạc nhiên”, “mắt hắn hình như ươn ước”, bởi vì “đây là lần đầu

tiên hắn được người ta cho cái gì”. Hắn nhận ra “Trời ơi, cháo mới thơm làm sao”.

Hương vị của bát cháo hành hay hương vị của tình yêu trân thật và cảm động, hạnh

phúc giản dị và thấm thía, lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng đã đánh thức nhân tính

bị vùi dập bấy lâu.

“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!

Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng

của những con người lương thiện. Chúng sẽ làm thành một cặp xứng đôi. Chúng

nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời của thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí:

“Được quay lại xã hội con người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống một con

quỷ dữ”.

Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô không

cho thị Nở “Đâm đầu đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo

nghĩ ngợi một lát rồi “ngẩn người”. Hắn “sửng sốt”. Hắn lôi rượu ra uống. “Nhưng

càng uống càng thấy tỉnh ra! Chao ôi! Buồn”. Hắn cứ thoảng thấy hơi cháo hành,

hơi của tình yêu, hạnh phúc sắp tuộc khởi bàn tay níu kéo của hắn và “ôm mặt khóc

rưng rức”. Đây chính là đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong Chí Phèo.

Quằn quạy trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo lại xách dao đi. Nhưng hắn

không rẻ vào nhà thị Nở như đã dự định ban đầu (đến đâm chết con đĩ Nở và con

mụ già kia) mà thẳng đến nhà Bá Kiến. Trong cơn say rượu, nhưng đầu óc lại vô

cùng tỉnh táo, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi hình người và hồn

người của hắn. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Cái chết là

lối thoát duy nhất của con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy. Chí

Phèo chết, nhưng dường như hiện tượng chí Phèo, hiện tượng hàng vạn người nông

51

dân lương thiện bị xã hội đẩy còn con đường tha hóa và khi ý thức nhân phẩm trở

về thì bị xã hội lạnh lung cự tuyệt vẫn chưa chấm dứt. Chi tiết thị Nở nhìn nhanh

xuống bụng, đầu thoáng hiện ra cái lo gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa ít người qua lại

đã nói với ta điều đó.

Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo rất logic. Con người ta chỉ mạnh vì liều và

khi con người không còn dám liều mà nghĩ đến sự tồn tại những ngày còn lại của

cuộc đời. Ở đời cũng vậy, khi người ta không còn đủ sức làm ác thì họ mới nghĩ đến

điều thiện và cái hậu của cuộc sống. Đời sống nội tâm của nhân vật trong sáng tác

của Nam Cao luôn có giá trị tư tưởng sống nhất định. Họ chỉ nhận thức ý nghĩa

cuộc sống khi có sự tác động của ngoại cảnh. Chẳng hạn như một sự cố, một tai

nạn, một cơn bệnh nặng…Làm họ giác ngộ, suy ngẫm về bản thân cùng những việc

đã làm. Cái nội tâm tha hóa có dịp được nhìn lại nhưng không phải tất cả mà chỉ ở

những nhân vật có khả năng tái sinh, còn lại thì họ chết trong sự tha hóa mà không

có dịp nhận ra.

Lão Hạc quý con vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỷ vật. Vợ lão mất đi, tất

cả những yêu thương lão dồn cả cho con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ

tiền cưới vợ, con lão bỏ đi. Con vàng lúc này có khác gì cậu con trai qúy tử của lão.

Lão chăm chút nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu vàng lớn nhanh

và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm dai dẳng khiến lão tiêu

hết cả chỗ tiền giành dụm. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như người

ta bán đi một con vật nào đó trong nhà. Nhưng với Lão Hạc, chuyện bán đi con chó

mà lão hết lòng yêu quý là một điều rất to tát.

Hôm bán chó xong lão sang nhà ông giáo báo tin. Lão “cố làm ra vẻ nhưng

trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Lão đau xót thật. nỗi đau

của lão khiến ông giáo còn cảm thấy “không xót xa năm quyển sách trước kia nữa”.

Ông giáo chẳng biết nói sao, hỏi cho có câu chuyện “thế nó cho bắt à?” Không ngờ

nó gợi đúng nỗi đau đang chờ trực dâng lên và cứ thế là “mặt lão đột nhiên co rúm

lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra…Lão mếu như con nít.

Lão hu hu khóc”. Bộ dạng Lão Hạc trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt

khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy

mình có lỗi với chú chó vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dổi vì bị ai đó dọa nạt

và quát mắng. Ông giáo bùi ngùi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất

52

là để xỉ vả mình. Lão nói “Khốn nạn…Ông giáo ạ!...Nó có biết gì đâu, nghe tôi gọi

thì nó chạy ngay về”. Một câu chửi thề, một câu tự trách, con chó được lão coi như

một đứa con mà chẳng khác gì một lão già chuyên lừa lọc. lão tưởng tượng trong

ánh mắt của con vàng lúc đó, bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề

“A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Lời tự

vấn chứng tỏ Lão Hạc dằn vặt lắm.

Thế rồi Lão Hạc cũng nguôi dần nhờ sự động viên của ông giáo. Thôi thì đằng

nào việc cũng thế rồi. Lão chua chát bảo “Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp

cho nó làm kiếp người, mai ra sung sướng hơn một chút…Kiếp người như kiếp tôi

chẳng hạn”.

Câu nói của Lão Hạc chua chát biết bao. Chẳng gì cái kiếp người của lão đá

sung sướng hơn kiếp chó. Cuộc đời lão cũng nhục nhã đủ điều. Con vàng đã yên

phận nó. Còn lão, lão vẫn phải sống “kiếp người” mà nào có ra gì. Và rồi nay, cái

chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của con vàng.

Tình thương của Lão Hạc đối với cậu vàng không đơn giản là thứ tình thương

giành cho con vật. Cậu vàng là kỷ niệm, cũng là nơi duy nhất để Lão Hạc hang ngày

tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với nó, lão có cảm giác như đang được gần rui với

cậu con trai yêu quý của lão. Chính điều này khiến người ta dễ hiểu được tại sao

Lão Hạc lại dằn vặt và đau đớn khi bán đi cậu vàng. Đoạn truyện tuy ngắn nhưng đã

gợi ra những phẩm chất vô cùng tốt đẹp của người nông dân, một con người luôn

sống vị tha và yêu thương hết mực.

Còn trong tác phẩm Một bữa no, bà Cái Đĩ từng than thở “Chao ôi! Nếu người

ta không phải ăn thì đời đơn giản biết bao? Thức ăn không bao giờ chạy vào mồm.

Có làm thì mới có ăn”. Cũng vì cái đói, miếng ăn để tiếp tục tồn tại mà bà đã đến

nhà bà phó Thụ để xin ăn. Khi mọi người đã buông đũa ngừng ăn thì bà đoán rằng

“bà đoán rằng họ khoánh ăn”. No dồn, đói gấp, người đói ăn mãi vớ được một bữa,

tất cả bằng nào cũng chưa thấm tháp. Những người no mãi, người ta có cần ăn nhiều

lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no, đã ăn rình thì cũng là ăn”. Đó là trong suy

nghĩ của một bà lão đói khát, đánh mất lòng tự trọng của một con người, nhân cách

của một bà lão lớn tuổi. Để có được miếng ăn họ có thể đánh đổi tất cả. khiến cho

con người rơi vào bi kịch không lối thoát. Hay chính xã hội ấy đã đẩy con người

53

vào bước đường cùng.

Việc miêu tả nội tâm nhân vật trong những sáng tác của Nam Cao hầu hết

được thể hiện trên cơ sở độc thoại nội tâm. Nhân vật tự đối thoại với chính mình

trong những lúc cô đơn, trống vắng, đau khổ, thất vọng cùng những cuộc đấu tranh

tư tưởng gay gắt để nghiền ngẫm về lẻ sống, nhìn lại bản thân, trở về với chính

mình và nhận ra rằng mình đang rơi vào bi kịch ấy, để cho họ nhận thức rằng chỉ có

cái chết mới thoát khỏi tấm bi kịch ấy. Thông qua thế giới nội tâm, nhân vật bộc lộ

đầy đủ nhất cả diện mạo và tính cách. Đặc biệt là bản chất tha hóa của nhân vật

được biểu thị qua tâm trạng của nhân vật. từ đó, có thể nhận định rằng: “Nam Cao

3.3. GIỌNG ĐIỆU.

là bậc thầy miêu tả nội tâm nhân vật dù dung lượng truyện có giới hạn”.

3.3.1. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ.

Khi nhắc đến giọng điệu trong sáng tác của Nam Cao thì người đọc thường

nhắc đến giọng lạnh lung của ông. Tuy nhiên, nếu trong tác phẩm của ông chỉ có

giọng điệu ấy thôi thì liệu Nam Cao có được vị trí trên văn đàn và trong lòng đọc

giả như ngày nay không. Có thể nói bên ngoài cái vẻ lạnh lung là một trái tim ấm

nóng của một nhà văn yêu thương con người đến tột độ. Điều này đã được thể hiện

qua một loạt tác phẩm như: Chí phèo, Lão hạc, Dì hảo, Nửa đêm, Một bữa no, Điếu

văn (đề tài về người nông dân). Hoặc những tác phẩm viết về người trí thức tiểu tư

sản như: Giăng sáng, Nước mắt, Đời thừa, Đôi mắt,…

Mở đầu tác phẩm Chí phèo là hình ảnh hắn vừa đi vừa chửi “Hắn vừa đi vừa

chửi. bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì?

Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đòi. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả

nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, ai cũng chửi:

“Chắt nó trừ mình ra!”. (…) Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời

mới biết! Hắn không biết và cả làng Vũ Đại cũng không biết,…”[18,tr.21].

Nếu không có cái nhìn thấu đáo thì làm sao tác giả cảm thông được sự cô đơn

trơ trọi của Chí Phèo sau 7-8 năm ở tù về. Có thể nói khi viết những dòng văn ấy,

nhà văn đã nhỏ những giọt nước mắt đau đớn cho khát vọng muốn giao tiếp với mọi

người của Chí Phèo. Nhưng cả làng Vũ Đại đã quay lưng lại với Chí. Chính sự quay

lưng ấy đã khiến cho cuộc đời của Chí đi vào con đường tăm tối và bế tắc. Nhưng

rồi một nguồn sống đến với Chí Phèo, đấy là thị Nở một người phụ nữ cũng bất

54

hạnh không kém gì Chí Phèo.

Chí Phèo và thị Nở đến với nhau một cách rất tự nhiên và yêu thương nhau

như một cặp vợ chồng thật sự. họ đã có năm ngày sống hạnh phúc bên nhau. Chính

tình thương và sự chăm sóc của thị Nở đã sưởi ấm tâm hồn cô đơn của Chí, đánh

thức ước mơ, khát vọng một thời của Chí bằng một giọng điệu rất cảm thông và

chia sẻ “Hình như có một thời hắn đã ước mơ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc

mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. khá hơn thì

mua dăm ba sào ruộng làm”[18,tr.44]. Đó là ước mơ rất đổi bình dị và đáng trân

trọng của một anh thanh niên hiền lành và chất phát như Chí.

Tác giả đã để cho nhân vật thị Nở nói lên thái độ cũng như suy nghĩ về Chí

Phèo với một giọng điệu cảm thông, chân thành “Ôi sao hắn hiền, ai dám bảo đó là

cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt và đâm chém. Người?” (…)Bây giờ

nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!

Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác

không thể được”[18,tr.46]. Đoạn văn trên có sự cảm thông của nhân vật thị Nở và

của chính tác giả khi nói lên ước mơ của Chí là muốn làm người lương thiện.

Cũng như nhân vật Chí Phèo, nhân vật Đức trong truyện Nửa đêm cũng bị

hoàn cảnh xã hội tác động trở nên biến chất và tha hóa. Cái xã hội dường như hất

hủi và xa lánh Đức, chỉ vì Đức là con của thằng Thiên Lôi. Đúng với câu dân gian

thường nói “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Đức sinh ra và lớn lên chưa làm

hại một ai bao giờ, nhưng lúc nào cũng nhận được sự rẻ lạnh của những người xung

quanh. Cuộc sống khốn khổ của Chí Phèo thì có thị Nở để sưởi ấm còn cuộc sống

của Đức cũng còn mai có được Nhi đồng cảm và chia sẻ “Anh Đức này! Sao anh

hiền quá nhỉ?[19,tr.413] hay “Anh Đức ạ! Tôi mà lấy anh cũng vì mếm cái tính anh

hiền; chứ người khác mà như bố mẹ anh thì các vàng tôi cũng chịu”[20,tr.419].

Nhân vật Nhi đã nhìn thật sâu, thật kỹ vào tâm tính của Đức, nói lên tất cả tình cảm

trân thành của lòng mình gành cho Đức. Để từ đó Nhi đồng cảm với số phận của

Đức bằng ý định muốn lấy Đức làm chồng, nhưng chính xã hội thực dân nửa phong

kiến đã giết chết những dự định tốt đẹp ấy. Chính vì thế, từ một người hiền lành như

Đức, đã biến thành một tên lưu manh theo cơ chế bóc lột của bộ máy cai trị của bọn

thực dân.

Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao khi viết về hình tượng

55

người nông dân cố lấy cái chết của mình để chiến thắng hoàn cảnh. Cái chết của

Lão Hạc không phải là cái chết cùng đường của người nông dân mà là cái chết của

tình thương con.

Truyện ngắn Lão Hạc, tác giả đã nhập vai vào nhân vật xưng tôi là một ông

giáo trí thức nghèo kể về cuộc đời khốn khổ của Lão Hạc. Tác giả đã kể lại câu

truyện của Lão Hạc bằng một giọng văn cảm thông và chia sẻ, những đoạn văn dạt

dào ngôn ngữ trữ tình ngoại đề “Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao lão

không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ

lão chết rồi. Con lão đi biền biệt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một

mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ

buồn một chút.”[15,tr.111]. Câu văn trên đã thể hiện tất cả niềm thương tiếc, có

chút ân hận của ông giáo mà đầy ấp tình thương, thái độ trân trọng trước nỗi lòng

của Lão Hạc. Tại sao ông giáo lại ân hận? Bởi vì trước đó ông giáo đã hiểu sai về

một con người có nhân cách đáng quay như Lão Hạc. Lão tha chết chứ không ăn

lẹm vào tiền mảnh vườn của thằng con đang đi làm ở phương xa. Câu chuyện tâm

sự với ông giáo cũng là tất cả sự cảm thông mà tác giả dành cho nhân vật của mình.

Bởi nếu không có sự cảm thông và chia sẽ thì làm sao ông giáo hiểu được lý do Lão

Hạc giữ lại cậu vàng. Vì từ khi con của lão đi làm biền biệt phương xa thì cậu vàng

đã trở thành một thành viên trong gia đình của lão chia sẽ buồn vui. Bán cậu vàng là

một việc làm vô cùng đau khổ và quẫn bách nhất cuộc đời lão.

Cái chết của Lão Hạc là cái chết của nhân vật tính toán trước cơn bạo đói

nghèo của đời mình. Trước khi chết Lão Hạc đã đem gởi mảnh vườn và số tiền

dành dụm còn lại cho ông giáo bằng sự tin cẩn, một chút niềm tin vào cuộc đời. Câu

nói của Lão Hạc đáp lại lời của ông giáo bằng một khẳng khái mà đau buốt “Được

ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy…Thế nào rồi cũng xong”. “Thế nào rồi cũng xong” của

Lão Hạc là quyết định ăn bả chó để chết, nhường lại những gì tốt đẹp nhất cho

thằng con của lão. Thế nhưng trước cái chết tội nghiệp của Lão Hạc, ông giáo đã

hiểu nhằm lão theo gót Binh Tư mà buồn thương cho một nhân cách đáng quý như

lão Hạc “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu ta không cố hiểu họ, thì

ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc và bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…”[15,tr116]. Câu nói của

ông giáo là sự tiếc thương của tác giả về nỗi lòng của nhân vật của mình. Nếu sống

56

mà thiếu đi tình yêu thương, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau thì đời sẽ mất đi ý nghĩa

tốt đẹp của nó. Mọi người quanh ta không ai là xấu cả mà ta phải biết nhìn kỹ vào

nỗi lòng của họ thì ta mới cảm nhận được những tình cảm đáng quý của họ.

Ở các truyện ngắn viết về đề tài người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao, lúc

nào ông cũng dành những tình cảm trân thành nhất để sẻ chia những nổi khốn khổ

của họ trong cuộc sống. Người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao là những nhân vật

đáng kính về ước mơ, hoài bảo tốt đẹp cho tương lai. Đứng trước thực tại nghiệt ngã

và khó khăn của cuộc sống, người trí thức của Nam Cao luôn có một thái độ cảm

thong và sẻ chia với những người có số phận như mình.

Mỗi trang truyện của Nam Cao, nhà văn luôn dành những dòng văn hay nhất

để cùng chia sẻ, cảm thông với nổi đau của những người suốt đời bị áp bức bóc lột.

Chính những dòng văn cảm thông và chia sẻ của tác giả đã giúp người đọc có cái

nhìn đồng cảm, nhân hậu và vị tha hơn về người nông dân.

3.3.2. Giọng điệu trân trọng, trìu mến.

Tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, phải qua cả một quá trình nhận

thức, tìm tòi và sáng tạo thì đứa con tinh thần của tác giả mới có một hình hài và ý

nghĩa nguyên vẹn. Là cha đẻ ra những nhân vật trong những sáng tác của mình.

Chắc hẳn rằng, nhà văn đã dành cho nhân vật của mình tình cảm nhiều đến nhường

nào để viết nên thành công những truyện ngắn xuất sắc đến thế. Tình cảm yêu mếm

của nhà văn nhiều lúc được bộc lộ một cách trực tiếp, như một tiếng hát trữ tình dạt

dào tình cảm.

Nam Cao là nhà văn không khóc cho chính bản thân mình nhưng ông dễ dàng

khóc thương cho số phận đau khổ của những nhân vật của mình. Trong truyện ngắn

Nghèo, nhà văn đã diễn tả hết sức chân thực về cảnh sống nghèo khổ của gia đình

anh Đĩ Chuột. Anh Đĩ Chuột đã không cần lòng được khi nhìn vợ con phải khổ sở

lo lắng thuốc than cho mình nên anh đã quyết định treo cổ tự tử nhường những gì

tốt đẹp lại cho những đứa con thơ dại của mình “Anh Đĩ Chuột rít hai hàm răng lại.

Hai chân giận dữ đạp phất cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái

bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng

cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng”. Người nông dân khi rơi vào bị kịch không

lối thoát thì thường tìm đến cái chết để giải quyết bị kịch. Với giọng kể trân trọng

xưng là anh Đĩ Chuột đã phần nào nói lên tình cảm trân trọng nhân vật của Nam

57

Cao. Cái chết của anh Đĩ Chuột là cái chết đáng được ngợi ca. Tuy bề ngoài tác giả

diễn tả cái chết đó có phần lạnh lung nhưng bên trong tất có một tình cảm trân thành

và quý trọng thiết tha đến tận cùng thì nhà văn mới có một cách diễn tả tinh tế và rõ

nét đến như vậy. Như một thước phim quay chậm về cái ý định treo cổ tự vẫn của

anh và thước phim ấy như đứng lại ở những dòng văn Nam Cao diễn tả cái chết thật

thê lương “Như một con gà bị bẫy” của anh bằng một giọng văn ngẹn ngào.

Trong truyện ngắn Điếu văn, nhân vật kể truyện xưng tôi “có ý đóng khung

xúc sắc tình cảm tôi”, nhưng đến một lúc nào đó, tình cảm tràn đầy trên ngọn bút

thì nhà văn không thể nào kềm nén hoặc che đậy tình cảm của mình đối với bạn

mình bằng những lời văn ngọt ngào, đầm thấm “Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy nghĩ

cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của chúng tôi. Chúng tôi, những

kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã thất vọng và vẫn hy vọng mãi và phải hy

vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa

hơn. Một rạng đông đã bảo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên trên nắm mồ anh và

bên trên đầu hai đứa con coi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay

chúng cùng đi với một cuộc đời đẹp hơn”.

3.3.3. Giọng điệu xót xa, đau đớn.

Người nông dân và người tiểu tư sản trí thức là hai chế độ bị thực dân phong

kiến bóc lột nặng nề. Người nông dân nghèo khổ bị bóc lột về ruộng đất và sức lao

động rẻ mạc cho bọn cường hào. Còn trí thức tiểu tư sản thì bị bóc lột xu cao thế

nặng và nạn thất nghiệp đè nặng lên đôi vai của những người nghèo khổ. Các nhân

vật trong truyện ngắn của Nam Cao nhận thức rỏ được cách sống nghèo khổ của

mình bằng giọng văn xót xa và đau đớn.

Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, là hình ảnh trung thực về đức

tính hiền hậu sống vị tha và biết lo nghĩ cho người khác một cách chu đáo. Nhận

thức được cảnh nghèo túng của mình, lão luôn tìm cách đấu tranh lại cái đói của

mình, bằng cách ăn củ khoai, bắp đấp đổi qua ngày để mong chờ thằng con đi làm ở

phương xa trở về. cái đói thật sự đã de dọa đến mạng sống, không còn cách nào

khác lão quyết định bán cậu Vàng, nhưng khi lão bán cậu Vàng xong lão đau đớn

xót xa kể lại cho ông Giáo nghe nhầm tìm sự đồng cảm và giải bày tâm trạng của

mình.

Cậu Vàng đi rồi ông giáo ạ.

58

Cụ bán rồi (…)

Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép nước mắt

chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng mốm mém của lão mếu như

con nít. Lão hu hu khóc…

“Khốn nạn…Ông giáo ạ! Nó có biết gì đâu! Nó nghe tôi gọi vội chạy ngay về,

vẫy đuôi mừng (…). Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó

nó không ngờ tôi nỡ tâm bán nó” [15,tr. 113,114].

Khi lúc đầu nói chuyện với ông giáo về việc bán chó, Lão Hạc tỏ thái độ dững

dưng “cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ” nhưng càng về sau tâm trạng của lão càng

đau khổ với một giọng điệu xót xa, đau đớn trước cái chết của cậu vàng mà tác giả

miêu tả rất thần ở một nét mặt đau khổ của lão: mặt co rúm, đầu nghẹo về một bên,

miêng mốm mém lão khóc hu hu như một đáu con nít. Cũng vì cái nghèo đói gạo

cao, thóc kém mà Lão Hạc mới quyết định bán cậu vàng.

Lão Hạc luôn trách mình lợi dụng lòng tin cẩn của cậu vàng mà trót lừa để bán

nó. Nhưng biết phải làm sau, ai rơi vào hoàn cảnh quẩn bách như lão cũng hành

động như thế thôi. Lão Hạc đã có cách so sánh đầy tủi nhục về kiếp sống của con

người bằng giọng văn xót xa và đau đớn đã diễn tả nổi khổ trăm đắng nghìn cay của

người nông dân trong xã hội thực dân “ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ

thì ta hóa kiếp cho nó để làm kiếp người may ra nó sung sướng hơn một chút…

Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...” [15, tr.113,114].

Hoàn cảnh sống nghèo khổ của người nông dân nghèo được tác giả nói rõ qua

tác phẩm Từ ngày mẹ chết là truyện ngắn viết về cuộc sống nghèo khổ của gia đình

bé Ninh. Từ ngày mẹ Ninh chết thì hai chị em phải sống khổ cực, Thiếu hơi ấm của

tình thương. Câu nói của mẹ Ninh lúc sắp chết đã phần nào diễn tả nỗi thiếu thốn,

đau đớn khi đàn con thiếu sự chăm sóc từ bàn tay của người mẹ “Mẹ mà chết thì

các con ăn mày mất. Đàn ông chả mấy người biết thương con cái. Cha chết thì ăn

cơm với cá, mẹ chết thì lót lá dọc dường. Mẹ mà chết đi thì… Con ơi” [16,tr. 225].

Đúng thật trên thế giới này không có kỳ quan nào vĩ đại bằng tình yêu thương của

người mẹ dành cho những đứa con của mình. Mẹ mất, hai chị em Ninh phải sống

những ngày khổ sở nhất. Trong tâm khảm của Ninh lúc nào cũng nhớ về hình bóng

của mẹ mình. Nhìn hoàn cảnh sống hiện tại mà Ninh nhớ đến khoảng thời gian gia

59

đình mình sum vầy hạnh phúc bên nhau với nỗi xót xa đau đớn đến quặn lòng.

Sống trong cảnh nghèo túng nhân vật tôi trong tác phẩm Mua nhà đã cảm nhận

được tất cả sự khổ của con người lao động nghèo lúc này “Ở cảnh nghèo chúng ta

lúc này, hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu

phải tôi muốn thế? Nhưng biết làm sau được? Ai đời bảo cứ khắc khe vậy? Giá

người ta có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!”...[16,tr.176]. Từ cái

nghèo của gia đình mình và mọi người xung quanh, tác giả đã có cái nhìn khái quát

và toàn diện về hạnh phúc của người nông dân nghèo lúc này “Chỉ là một tấm chăn

qúa hẹp” người này ấm thì người kia lạnh bằng một giọng điệu xót xa và đau đớn.

Xót xa và đau đớn khi cuộc sống đau khổ ngày một càng đè nặng lên đôi vai

vốn đã nặng trĩu nỗi lo toan bộn bề cuộc sống của những nhân vật của Nam Cao.

Bằng ý chí bằng nghị lực phi thường luôn khát khao vươn lên sống có ích, đó là kim

chỉ nam dẫn đường cho các nhân vật của Nam Cao tìm đến một bến bờ tốt đẹp.

3.3.4. Giọng điệu lạnh lùng, chua chát.

Giọng điệu trong văn Nam Cao là sự phức điệu đa thanh tiếng nói của tác giả,

của các nhân vật đối thoại nội tâm. Ngôn ngữ của tác giả và ngôn ngữ nhân vật hòa

quyện và nhau nhiều lúc ta khó phân biệt đâu là lời của tác giả đâu là lời của nhân

vật. Nam Cao không chỉ có chất giọng cảm thông, trìu mến, xót xa mà còn có một

giọng điệu lạnh lung, chua chát để làm rõ bi kịch khốn khổ của người lao động

nghèo lúc bấy giờ.

Truyện ngắn Chí phèo được xem là truyện ngắn xuất sắc của dòng văn học

hiện thực phê phán. Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh người nông dân bần

cùng bị tha hóa, không chỉ qua bề nỗi của sự việc bên ngoài mà ông còn đi sâu vào

khám phá thế giới tình cảm bên trong của nhân vật này.

Mở đầu tác phẩm Nam Cao gọi ngay tên nhân vật bằng đại từ xưng hô ngôi

thứ ba số ít là “hắn” bằng một giọng điệu lạnh lùng và chua chát “Hắn vừa đi vừa

chửi. bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì?

Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả

nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, ai cũng chửi:

“Chắt nó trừ mình ra!”. (…) Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời

mới biết! Hắn không biết và cả làng Vũ Đại cũng không biết,…”[18,tr.21]. Trong

đoạn văn trên không chỉ một lần tác giả gọi tên nhân vật của mình là “hắn” mà cách

60

gọi này được lập đi lặp lại một cách liên tục. Chính cái gọi lạnh lùng như thế và

cách kể về lai lịch của Chí Phèo cũng thể hiện rõ một thái độ lạnh lung “đứa nào đã

đẻ ra Chí Phèo”. Nhưng cả làng Vũ Đại không ai biết đứa nào đẻ ra Chí.

Khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo và thị Nở, Nam Cao đã có cách miêu tả khá

lạnh lùng và chua chát nhằm để khắc họa hai hình tượng nhân vật thật xứng đôi về

vẻ bề ngoài. Ngoại hình của Chí Phèo qua cách miêu tả của Nam Cao hiện lên cái

vẻ hung tợn và xấu xí “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là

ai. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen lại rất cơn cơn, hai

mắt gờm gờm trông gốm chết! hắn mặc cái quần nai đen và cái áo tây vàng. Cái

ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả

hai cánh tay cũng thế” [17,tr.33]. Ngoại hình của thị Nở cũng được nhà văn nói

đến bằng một giọng điệu kể lạnh lùng, thêm một chút mỉa mai trong đó “Cái mặt

của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể

tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má hóp lại mới thật là tai hại, nếu hai

má phình ra thì mặt thị hao hao con lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng,

trên cổ người (…) Đã thế còn ăn trầu, hai môi dày lại bồi thêm một lần nữa, cũng

mai quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách” [17.tr.39]. Từ đó

61

cho ta thấy được vẻ bề ngoài của họ nói lên được bi kịch của cuộc đời họ.

KẾT LUẬN

Nam Cao không chỉ là một nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê

phán việt Nam giai đoạn (1930-1945), mà còn là một trong những nhà văn tiêu biểu

nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Chỉ hơn một thập kỷ gắn bó với sự nghiệp

văn chương (Từ 1936 đến 1951), Nam Cao đã để lại một khối lượng sáng tác có

phần hạn chế về số lượng, nhưng giá trị của những tác phẩm ấy là vô cùng to lớn về

mặt nghệ thuật. Độ dài thời gian càng xa, sự nghiệp văn học Nam Cao càng được

khẳng định. Tác phẩm của ông qua sự tiếp nhận của nhiều thế hệ đọc giả được phát

hiện thêm nhiều tiềm tàng năng lượng, ẩn chứa lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo nên niềm

say mê đồng cảm của hàng triệu trái tim. Văn nghiệp Nam Cao đã làm phong phú

thêm những giá trị tinh thần trong đời sống con người, đánh dấu và khẳng định

bước tiến của văn học dân tộc trên hành trình hiện đại hóa.

Nam Cao là một trong nhiều nhà văn có ý thức về nghiệp văn chương, về sứ

mệnh thiêng liêng của người cầm bút. Chính điều đó đã giúp ông có một cái nhìn

sắc sảo đối với những vấn đề của xã hội và tấm lòng thương cảm đối với người lao

động. Nam Cao đã để lại cho nền văn học Việt Nam một di sản quý giá, các tác

phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: “Người trí thức tiểu tư sản và người

nông dân”. Dù viết về đề tài nào thì mối quan tâm lớn nhất của Nam Cao vẫn là

nhân phẩm và đời sống tinh thần của con người.

Ở đề tài người nông dân, Nam Cao bày tỏ sự cảm thông và chia sẽ trước cuộc

sống tối tăm, thê thảm, nhất là tầng lớp người nông dân Việt Nam tước cách mạng

tháng Tám 1945, qua những truyện ngắn tiêu biểu như: Chí Phèo, Tư cách mõ, Trẻ

con không được ăn thịt chó, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm,

Một bữa no, Mua nhà, Chuyện người hàng xóm, Từ ngày mẹ chết...

Viết về cuộc sống khổ cực của người nông dân, Nam Cao đã cho ta thấy thực

trạng cuộc sống của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là

những số phận cố cùng, khổ cực, hẩm hiu. Họ là những người luôn bị áp bức, ức

hiếp nhiều nhất bởi xu cao thế nặng. Họ càng hiền lành thì càng bị chà đạp phủ

phàng. Nam Cao đứng về phía người nông dân để bênh vực họ, bênh vực quyền

sống và nhân phẩm của nững con người bất hạnh bị xã hội đẩy vào tình cảnh đường

cùng nhục nhã. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đớn cùng cực về tình trang con người

62

bị xói mòn về nhân cách, bị hủy hoại về tính người và lên tiếng kêu gọi xã hội hãy

giải thoát họ ra khỏi môi trường phi nhân tính. Và bằng cái nhìn nhân hậu cảm

thông đối với người nông dân, Nam Cao thấy rõ dù cho họ bị đầy đọa chà đạp đến

đâu, nhưng họ vẫn giữ được nhân cách, phẩm chất của mình. Đây chính là điểm

sáng tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao.

Nam Cao luôn đứng về phía con người bị áp bức để viết lên những trang văn

thể hiện sự bênh vực và thương yêu đối với con người. Từ một góc độ khác, những

sáng tác hiện thực của Nam Cao đã đạt đến trình độ thứ hiện thực tâm lý. Nam Cao

có giọng văn lạnh lùng, nhưng tỉnh táo. Với thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

điêu luyện và tinh xảo. Có thể gọi ông là bậc thầy về ngôn ngữ với những trang viết

vừa mềm mại, uyển chuyển, lại vừa giản dị, dân giả Nam Cao là nhà văn có biệt tài

trong việc khám phá và thể hiện tâm lý nhân vật.

Một tác phẩm nghệ thuật ra đời người ta chờ đợi nó nói lên điều gì mới mẻ?

Một lối sống, một cách nhìn, một lối cảm xúc, một hướng vươn tới. Truyện ngắn

Nam Cao đã đáp ứng đầy đủ những ý nghĩ đó và nó đã dành được sự ưu ái của đọc

giả. Vì thế những sáng tác của Nam Cao luôn mới mẻ và ở nó luôn có một sức sống

tiềm tàn mà mãnh liệt để nó tồn tại bền vững lâu dài.

Toàn bộ những tác phẩm của Nam Cao là bức tranh xã hội ngột ngạt trước

cách mạng tháng Tám 1945, với những con người khác nhau. Đọc tác phẩm Nam

Cao, ta cảm nhận rằng dường như có một nỗi đau “đứt ruột” của một nghệ sỹ có

tấm lòng nhân văn cao cả. Và nỗi đau đó như đậm đặc trong từng câu, từng chữ trên

những trang viết của Nam Cao. Bằng những thủ pháp nghệ thuật, Nam Cao đã gieo

vào lòng người đọc những nỗi niềm quặn thắt trước tình trạng cuộc sống của con

người lao động lương thiện “Chăm bẩm cần cù” bị vùi dập đến tận đáy bùn nhơ của

xã hội. Đằng sau bức tranh đen bạc đến khó thở ấy, Nam Cao vẫn phát hiện “Những

mảnh vỡ của tâm hồn” trong con người họ. Hay nói cách khác, nhà văn vẫn tạo nên

cho người đọc sự vững tin ở nhân tính và lương tâm con người. Đó là cội nguồn sâu

xa của sức sống trong những tác phẩm của Nam Cao “Một tác phẩm thực sự có giá

trị khi nó ca tụng lòng thương người, tình bác ái, sự công bằng, nó làm cho con

người gần nhau hơn”. Những tác phẩm của ông rất có giá trị về tình yêu thương,

đầy tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời cũng như đối với con người. Nam Cao

63

xứng đáng với lòng ngưỡng mộ, yêu quý của nhiều thế hệ đọc giả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1998), Nam Cao con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

2. Vũ Khắc Chương (2000), Truyện ngắn Nam Cao, Nxb, Hà Nội.

3. Hà Minh Đức (1997), Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

4. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao một đời người một đời văn, Nxb Giáo dục,

TP. Hồ Chí Minh.

8. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nam Cao – Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí

Minh.

9. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp trong tác phẩm của Ngô Tất Tố - Vũ Trọng

Phụng – Nam Cao, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

10. Đỗ Đức Hiếu (Chủ biên) (2004), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu

Tri – Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.

11. Trần Văn Hiếu, Ba phong cách trào phúng văn học Việt Nam thời kì 1900 –

1945, Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng Phụng – Nam Cao, Nxb Đại học Quốc gia.

12. Trần Ngọc Hưởng(2000), Luận đề về Nam Cao, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí

Minh.

13. Phong Lê (2003), Nam Cao người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực,

Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội

14. Vũ Nguyên (2007), Tác giả trong nhà trường – Nam Cao, Nxb Văn học, Hà

Nội.

15. Trần Đăng Suyền – Nguyễn Anh Vũ (2008), Nam Cao và những truyện ngắn

chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Trần Đăng Suyền, Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ

nghĩa lớn, tập chí văn học số 6, năm 1998.

17. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Bích Thu (sưu tầm và tuyển chọn), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo

dục, năm 1998.

64

19. Nguyễn Anh Vũ (2007), Truyện ngắn Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội.

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

…………………..………………………………………………………

……………………………………………………………………………

65

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

66