KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:26)(cid:0)(cid:27)(cid:28)(cid:25)(cid:29)(cid:0)(cid:30)(cid:28)(cid:31)(cid:0)(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:16)(cid:28)(cid:24) (cid:21)(cid:0)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
NGUYỄN VĂN NI
Hậu Giang, tháng 5 năm 2014
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:26)(cid:0)(cid:27)(cid:28)(cid:25)(cid:29)(cid:0)(cid:30)(cid:28)(cid:31)(cid:0)(cid:16)(cid:17)(cid:18)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22)(cid:0)(cid:16)(cid:28)(cid:24) (cid:21)(cid:0)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH:VĂN HỌC
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Lê Văn Phương Nguyễn Văn Ni
Hậu Giang, tháng 5 năm 2014
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ. …………………………………………..…………….........i
LỜI CAM ĐOAN. ……………………………….………….………….....ii
MỞ ĐẦU ……………………………………………….……..……..…......1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………….……………..……..1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ……………………………………………….…..……2
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU …….……………………………….…..……4
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU………………………………………….….…..5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………….…………....6
CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ NAM CAO………………...……….….……….7
1.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NAM CAO………………………….………....7
1.1.1.Con người………………………………………………………….…….7
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác…………………………………………………...….9
1.1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám 1945……………………………………..9
1.2. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC
VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT………………………………….…….12
1.1.2.2. Sau cách mạng tháng Tám 1945……………………..…...………….10
1.2.1. Quan điểm sáng tác…………………………………………………....12
1.3. NHỮNG ĐỀ TÀI CHÍNH……………………………………….….…..14
1.2.2. Phong cách nghệ thuật……………………………………………..…..13
1.3.1. Người nông dân…………………………………………………….….14
1.4. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VỀ CON NGƯỜI CỦA NAM CAO………………………………….….….18
1.3.2. Người trí thức nghèo…………………………..…………………….…16
CHƯƠNG 2………………………………………………………..………21
BIỂU HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945…………..…………….21
2.1. NHỮNG KHỔ CỰC VÀ BẤT CÔNG MÀ NGƯỜI
NÔNG DÂN PHẢI GÁNH CHỊU………………………………..……..…..21
2.1.1. Cuộc sống khổ cực, bị bóc lột tàn nhẫn…………………………...…...21
2.1.2 Khát khao cuộc sống hạnh phúc nhưng bị vùi dập……………………..28
2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NAM CAO………………….…….…....30
2.2.1. Người nông dân với những phẩm chất tốt đẹp…………………….....30
2.3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN
BIỂU HIỆN QUA HÀNH ĐỘNG VÀ NGÔN NGỮ...………………….….35
2.2.2. Những nhược điểm của người nông dân………………………….……33
2.3.1. Thông qua hành động, cử chỉ, điệu bộ……………………………...….35
2.3.2. Thông qua ngôn ngữ đối thoại……………………………………..…..36
2.3.3. Thông qua ngôn ngữ độc thoại………………………………………...38
CHƯƠNG 3……………………………………………………………...….40
NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945……………….……….…...40
3.1. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT,
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT……………………………………..….….40
3.1.1 Thời gian nghệ thuật………………………………………………..…40
3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
HÌNH TƯỢNG NHÂN VÂT…………………………………..……….......48
3.1.2. Không gian nghệ thuật……………………………………………......45
3.2.1. Về ngoại hình……………………………………………….…….…....48
3.3. GIỌNG ĐIỆU……………………………………………….….……….54
3.2.2. Về nội tâm………………………………………………….……….…50
3.3.1. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ……………………………….……..…54
3.3.2. Giọng điệu trân trọng, trìu mến……………………………..……..…57
3.3.3. Giọng điệu xót xa, đau đớn………………………………….…………58
3.3.4. Giọng điệu lạnh lùng, chua chát…………………………….….…..…60
KẾT LUẬN……………………………………………………….…..........62
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….…..….....64
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN………………………………….…....65
LỜI CẢM TẠ
Nhân nhịp hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên tôi xin gửi lời
cảm ơn đến Ba, Mẹ và những người thân trong gia đình đã làm chổ dựa tinh thần
vững chắc cho tôi. Và lời cảm ơn đến các thầy cô ở Trường Đại học Võ Trường
Toản nơi tôi hoc tập, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập và thực hiện đề tài, cùng các thầy cô thỉnh giảng đã giảng dạy tôi trong suốt
khóa học.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Lê Văn Phương, người
đã hướng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất.
Trân trọng cảm ơn!
Sinh viên thực hiện.
i
Nguyễn Văn Ni
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận này là do chính bản thân tôi thực hiện,
nghiên cứu cũng như tổng hợp và phân tích. Đề tài không trùng với bất cứ đề tài
nào đã có trước đây.
Sinh viên thực hiện
ii
Nguyễn Văn Ni
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nam Cao là nhà văn hiện thực sâu sắc. Người đã kế tục trào lưu văn học hiện
thực phê phán và mang lại cho dòng văn học này một sức sống mới, Với những
giá trị, thành tựu to lớn về nhiều mặt Nam Cao là một tác giả bậc thầy về truyện
ngắn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn trong lịch sử văn học dân tộc.
Nam Cao là một nhà văn có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học. Ở cả
hai gia đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám, nhà văn đều có những
cống hiến đặc biệt có ý nghĩa. ở giai đoạn 1940- 1945, trào lưu văn học hiện thực
phê phán rơi vào khủng hoảng. Nam Cao đã xuất hiện và bằng những sáng tác của
mình, ông đã “phục hưng” và đem lại cho dòng văn học này một đỉnh cao mới.
Sau cách mạng tháng Tám, khi các nhà văn chưa kịp chuyển biến về tư tưởng để
bắt kịp với thực tiễn, Nam Cao đã nhanh chóng chuyển mình và có những sáng tác
xuất sắc, có ý nghĩa “mở đường” cho nền văn nghệ kháng chiến như: Đôi mắt…
Vì vậy trong chương trình văn học ở nhà trường phổ thông, Nam Cao là một
tác giả quan trong, có nhiều tác phẩm được đưa vào chương trình phổ thong giảng
dạy. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, tác phẩm của ông đều được chọn giảng, trước
cách mạng có Chí Phèo, đời thừa sau cách mạng có Đôi mắt…Sáng tác của Nam
Cao có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, có nhiều
đóng góp về phương châm quan điểm sáng tác. Đặc biệt là tính chất hiện đại là
một đặc điểm bao trùm lên sáng tác của nhà văn.
Do đó, tác phẩm của Nam Cao là một đề tài nghiên cứu phong phú và “hứa
hẹn nhiều khả năng hoán vị” (Phong Lê).
Nghiên cứu về tác phẩm của Nam Cao có thể đứng ở nhiều góc độ, ở mỗi
góc độ khác nhau sẽ có những cách nhìn khác nhau. Chúng tôi nhận thấy việc tiếp
cận tác phẩm của Nam Cao từ góc độ cái nhìn từ thế giới nhân vật người nông dân
trong truyện ngắn của Nam Cao, là một hướng có khả năng thâm nhập sâu vào thế
giới nghệ thuật của nhà văn. Khám phá ra những nét độc đáo của ông so với các
nhà văn hiện thực phê phán cùng thời trên phương diện chủ nghĩa hiện thực.
Nam Cao viết nhiều nhưng tập chung chủ yếu ở hai mảng đề tài là “cuộc
sống người nông dân” và “cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo” trong xã
hội trước cách mạng tháng tám. Ở mảng đề tài nào thì Nam Cao cũng đạt được
1
những thành công lớn trong sáng tác của mình.
Trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng thánh Tám, giới phê bình cho
rằng: ở đề tài viết về người nông dân, là đề tài thành công và đặc sắc nhất trong sự
nghiệp sáng tác của Nam Cao. Trong những tác phẩm viết về người nông dân,
Nam Cao đã thể hiện một tính nhân văn cao cả với một bút pháp hiện thực sâu
sắc.
Điều chúng tôi tập trung nghiên cứu trong khóa luận này là “Hình tượng
người dân trong truyện ngắn của Nam Cao”. Chúng tôi mong muốn sẽ khám phá
sâu hơn thế giới nhân vật, những con người nông dân Việt Nam trong xã hội thực
dân nữa phong kiến. Và đồng thời qua đó sẽ khám phá sau hơn thế giới nghệ thuật
của nhà văn, góp phần khẳng định những đóng góp độc đáo của ông, cũng như vị
trí của ông trong nền văn học nước nhà. Đó là tất cả những gì thôi thúc người viết
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
chọn đề tài.
Nghiên cứu về Nam Cao có thể kể từ 1941 với lời giới thiệu của Lê Văn
Trương, nhưng chỉ thực sự bắt đầu từ sau năm 1945. Nhiều công trình nghiên cứu
công phu, có tính khoa học cao đã được giới thiệu, trong đó có thể kể đến bài viết
của Nguyễn Đình Thi (Nam Cao-về tác giả và tác phẩm, 1956), Nguyên Hồng (Đọc
những truyện ngắn của Nam Cao, 1960), chuyên luận “Nam Cao-nhà văn hiện thực
xuất sắc nhất” của Hà Minh Đức (NXB văn hóa, Hà Nội, 1961). Với công trình
nghiên cứu này Hà Minh Đức đã trở thành một nhà nghiên cứu có đóng góp quan
trọng trong việc khẳng định những thành tựu nghệ thuật của Nam Cao. Trong thời
gian này còn phải kể đến nhiều bài nghiên cứu về Nam Cao như Huệ Chi-phong Lê
với “con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao”(tạp chí nghiên cứu văn
học, số 1-1961).
Trong những năm 90, Hội thỏa khoa học nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao
(1951-1991) do viện văn học phối hợp với hội nhà văn Việt Nam, hội văn học Hà
Nam Ninh và trường đại học sư phạm Hà Nội I tổ chức vào ngày 29/11/1991 đã trở
thành một dịp thuận lợi để các nhà nghiên cứu về Nam Cao bày tỏ quan điểm mình
tâm đắc. “Nghỉ tiếp về Nam Cao”(NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1992) chính là tập hợp
những bài viết tham gia hội thảo. Đáng chú ý ở phương diện chủ đề là một số bài:
2
“Nam Cao và khát vọng về cuộc sống lương thiện xứng đáng” của Nguyễn Văn
Hạnh, “Thử sống trong văn Nam Cao” của Nguyễn Lương Ngọc, “Bi kịch tự ý
thức- nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao” của Đinh Trí Dũng…
Những năm tiếp theo, vấn đề chủ đề trong tác phẩm của Nam Cao tiếp tục được
khám phá, nhận định như: “gánh nặng mặc cảm trong đời sống và đời viết của Nam
Cao” của Văn Giá (1993); “Những nhân vật, những cuộc đời và đường đi tìm nhân
cách” (1995) của Vũ Dương Quỹ.
Vấn đề về “hình tượng người nông dân” trong sáng tác của Nam Cao cũng đã
được đề cập nhiều. Có thể nói các tác giả khi đề cập tới Nam Cao không thể không
nói đến thế giới nhân vật của ông, bởi đây là một đặc điểm nổi bật trong sáng tác
của Nam Cao, góp phần khẳng định những cống hiến của nhà văn trên lĩnh vực chủ
nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo.
Tuy nhiên, do những mục đích nghiên cứu khac nhau, đối tượng khám phá và
hướng tiếp cận không giống nhau, nên hầu hết các tác giả chỉ nhìn nhận một số vấn
đề cụ thể, chưa nhìn thấy. Hay chưa khám phá, phương thức hình tượng nhân vật
trong mảng đề tài nông thôn một cách kỷ lưỡng.
Xã hội Việt Nam 1930-1945 là xã hội thực dân nửa phong kiến. Người nông
dân lúc bấy giờ phải sống trong bầu không khí ngột ngạt và bế tắc, họ phải chịu
cuộc sống “một cổ ba tròng”. Phản ánh vấn đề này đã có rất nhiều tác giả, nhà văn
nổi tiếng như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân và đặc
biệt là Nam Cao. Ở mỗi nhà văn lại có phong cách nghệ thuật khác nhau. Cũng khai
thác ở hai mảng đề tài trên, đề tài nông dân và đề tài tiểu tư sản. Ở sáng tác của
Nam Cao bức tranh hiện thực không chỉ nghiêng về bình diện phản ánh, quan sát
mà còn đi sâu vào bản chất những cái vặt vãnh của đời sống hàng ngày. Trong sáng
tác của Nam Cao, những điều tưởng như không đâu vào đâu lại tác động mạnh mẽ
đến nhân cách con người “như tảng đá cứ đè trĩu lên lòng người”.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều có chung một nhân xét: Nam Cao có sở
trường trong việc miêu tả tâm trạng quá trình diễn biến tâm lí phức tạp của nhân
vật, làm nổi bật bi kịch đời thường, bi kịch nhân cách, tinh thần của con người và
quan trọng hơn là vươn lên trên cái khung đề tài là vấn đề kiếp người, thân phận
con người vấn đề con người bị tha hóa, bị biến chất về đạo đức và băng hoại về
phẩm chất. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã nhận xét: “nhìn theo đề tài thì trong
3
tác phẩm của Nam Cao có sự phân chia giữa tác phẩm viết về người nông dân và
tác phẩm viết về người trí thức tiểu tư sản, nhưng trong chiều sâu của vấn đề thì chỉ
là một”[4,tr.56].
Trong công trình “văn hóa nghệ thuật 1900-1945”, Hà Minh Đức khi viết về
Nam Cao đã đề cập đến vấn đề nhân đạo của nhà văn đối với người nông dân nghèo
và nói đến sự phản ánh về sự bần cùng của người nông dân. Nhà nghiên cứu đã
phân tích về vấn đề con người và cuộc sống của thế giới nhân vật nông thôn dưới xã
hội cũ. Nhưng do tính chất là một giáo trình cho nên vấn đề cũng chưa được khai
thác như một đối tượng nghiên cứu độc lập.
Trên đây là những công trình nghiên cứu, những nhận định, những đánh giá
chung về Nam Cao và sáng tác của ông.
Tóm lại, điểm qua lịch sử nghiên cứu về Nam Cao, chúng tôi thấy rằng, các
công trình, các bài viết đã có những luận điểm quan trọng, khái quát về hình tượng
người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao. Đặc biệt trong một số công trình
đã có những khám phá độc đáo, có sự phân tích sâu sắc và thuyết phục ở một số
khía cạnh, đó là cơ sở để chúng tôi tiến tới nghiên cứu đề tài này.
Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau, vấn đề hình tượng người nông dân trong
sáng tác của Nam Cao chưa được nghiên cứu với tư cách là đối tương có hệ thống,
đặc biệt chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về thế giới nhân vật. đề tài về người nông
dân của Nam Cao, cũng như chưa có sự khẳng định về những đóng góp to lớn của
Nam Cao khi viết về người nông dân trong xã hội cũ. Đó là những điều chúng tôi
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
muốn thực hiện trong khóa luận này.
Trong khóa luận này người viết muốn phần nào giúp mọi người thấy được sự
ngột ngạt và bế tắc, những mối đe dọa trong đời sống mà người nông dân phải chịu
hơn bao giờ hết, họ phải chịu ba tầng áp bức bóc lột. Địa chủ. Tư sản mại bản và
thực dân pháp. Cuộc sống của người nông dân khổ cực trăm bề, họ phải sống trong
tình cảnh đói nghèo, vất vả bần cùng về vật chất lẫn tinh thần.
Những tác phẩm là nỗi niềm trăn trở của Nam Cao về tương lai của dân tộc,
về cuộc sống của con người, đồng thời đó cũng là ý thức về trách nhiệm, về lương
tâm của người cầm bút. Thấy được sự khổ cực, chật vật và bế tắc qua “Hình tượng
4
người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”
tức là thấy được cái nhìn sắc sảo của Nam Cao đối với những vấn đề trong xã hội
cũng như tấm lòng đồng cảm thương xót đối với người lao động nghèo.
Thông qua khóa luận, người viết muốn phần nào giúp mọi người có một góc
nhìn sâu sắc hơn về “người nông dân”. Đồng thời giúp chúng ta hình dung một cách rõ
nét cuộc sống cơ cực, đói khổ, lầm than của nhân dân và hiểu thêm về hiện thực xã hội
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Ngoài ra, nghiên cứu đề tài này còn giúp người viết có điều kiện tiếp xúc
nhiều hơn với những tác phẩm của Nam Cao, cũng như là hiểu sâu sắc hơn về cuộc
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
đời và sự nghiệp sáng tác của ông.
Do tính chất là một khóa luận cuối khóa cũng như điều kiện thời gian và khả
năng hạn chế của bản thân, người viết xin được giới hạn phạm vi đề tài nghiên cứu
tập trung vào “Hình tượng người nông dân” được phản ảnh trong tác phẩm của
Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Do thời gian làm khóa luận có hạn mà số lượng tác phẩm của Nam Cao trước
cách mạng cũng khá nhiều nên người viết chỉ chọn lọc ra một số tác phẩm tiêu biểu
của Nam Cao để thuận tiện cho việc phân tích lí giải vấn đề. Cụ thể là những tác
phẩm sau:
1. Nửa đêm
2. Người hàng xóm
3. Nghèo
4. Điếu văn
5. Trẻ con không được ăn thịt chó
6 Lão Hạc
7. Tư cách mõ
8. Chí Phèo
9. Dì Hảo
10. Làm tổ
11. Một bữa no
12. Ở hiền
5
13. Một đám cưới
15. Lang Rận
Bên cạnh đó, người viết còn chọn một số tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn cùng
thời khác như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân, để
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
phân tích, so sánh làm sáng tỏ vấn đề được nêu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết không xem xét từng tác phẩm
của Nam Cao ở dạng đơn lẻ, tách biệt mà xem chúng là những chỉnh thể trong một
chỉnh thể lớn hơn là thế giới nghệ thuật Nam Cao. Người viết đã sử dụng những
phương pháp sau để hoàn thành khóa luận:
Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu.
Phương pháp thống kê và xử lí tài liệu.
Phương pháp phân tích, lí giải.
6
Phương pháp đối chiếu, so sánh.
CHƯƠNG 1
TÁC GIẢ NAM CAO
1.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NAM CAO
1.1.1. Cuộc đời.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh ngày 29/10/1917 tại làng Đại Hoàng,
phủ Lý Nhân (Nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Nam Cao sinh
trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống khá chật vật, trong các anh em, chỉ có
mình Nam Cao được đi học. Đói nghèo, bệnh tật đeo đuổi và giày vò Nam Cao
ngay từ những năm còn nhỏ. Năm 1934, Nam Cao thi trượt Thành Chung. Ngày
2/10/1935 Nam Cao lập gia đình với bà Trần Thị Sen, sinh năm 1917. Cuối năm
1935, Nam Cao theo một người cậu làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ
cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều mơ ước và dự định
lớn lao. Những tưởng xa miền quê sẽ mở ra một chân trời mới lạ, nhưng rốt cuộc,
bệnh tật lại trả Nam Cao trở về quê. Ở Sài Gòn về, Nam Cao ôn lại vốn học cũ và
thi đậu bậc Thành Chung. Nam Cao định xin đi làm công chức, nhưng vì bệnh tật
nên không được chấp nhận. Một người trong họ mở trường tư ở Hà Nội, cần một
giáo viên có bằng trung học, Nam Cao được mời lên dạy học. Cuộc sống của một
thầy giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của người trí
thức nghèo, trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông
Dương, trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia
sư, có khi thất nghiệp phải về quê “ăn bám” vợ.
Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm văn hóa cứu quốc bí mật cùng với một số
nhà văn như: Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi… Khi
cơ sở văn hóa cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam
Cao trở về quê tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.
Thời kì Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý
Nhân, và được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó ít lâu, Nam Cao được điều lên Hà Nội
và công tác ở Hội Văn hóa cứu Quốc. Có thời kì, Nam Cao làm thư kí tòa soạn tạp
7
chí Tiên Phong, cơ quan của Hội.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân Nam tiến vào vùng
Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng chiến chống thực
dân Pháp, Nam Cao vừa làm biên tập cho các báo cứu quốc Việt Bắc, cứu quốc
Trung Ương, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông tin tuyên truyền. Thời
gian này, Nam Cao được vinh dự gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương (1947).
Tháng 11/1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên Khu Ba, Nam
Cao bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình).
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói (ông tự
giễu mình là có “cái mặt không chơi được”), nhưng đời sống nội tâm vô cùng
phong phú, luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt,
hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông tự cho là tầm
thường của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời của Tô Hoài) ấy luôn
nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen,
khát khao vươn tới “tâm hồn trong sạch và mơ ước tới cảnh sống, những con người
thật đẹp”. Giá trị to lớn của sáng tác Nam Cao, nhất là những tác phẩm viết về
người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm mà
quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ông.
Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó
sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh
miệt xã hội cũ.Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi
là người (Đời thừa). Đó là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con đường
nghệ thuật “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân văn
sâu sắc.
Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật vì lí tưởng nhân đạo và hy sinh anh
dũng vì sự nghiệp giải phong dân tộc của Nam Cao mãi mãi là một tấm gương cao
đẹp của một nhà văn chân chính. Năm 1996, Nam Cao được nhà nước tặng giải
8
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật– đợt I năm 1996.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao hy sinh giữa lúc ngòi bút đang ở giai đoạn trưởng thành và chín mùi
để chuyển hướng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán sang chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa. Sự ra đi của Nam Cao không chỉ để lại khoảng trống cho nền văn học
dân tộc mà còn mất đi một nhân tài của tổ quốc.
Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học Việt Nam
giai đoạn 1930-1945. Chỉ với mười lăm năm cầm bút (1936 – 1951) nhà văn liệt sĩ
Nam Cao đã để lại một sự nghiệp văn chương tuy không thật đồ sộ về khối lượng,
chỉ gồm hơn 60 truyện ngắn và hai tập truyên dài là Sống mòn(1944).và Chuyện
người hàng xóm. Nhưng Nam Cao đã gởi vào đó những giá trị hiện thực lớn lao trải
dài qua hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám 1945.
1.1.2.1 Trước cách mạng tháng Tám-1945.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao bước vào sự nghiệp văn chương
năm 1936, trong giai đoạn này Nam Cao luôn có sự đấu tranh giữa những quan
điểm và khuynh hướng sáng tác của bản thân.
Ở giai đoạn này Nam Cao có những sáng tác như: Cảnh cuối cùng (1936), Hai
cái xác(1936), Nghèo(1937), Chí Phèo(1941), Trẻ con không biết đói (1942),
Những truyện không muốn viết(1942), Đôi móng giò(1942), Lão Hạc(1943), Trăng
sáng(1942), Dì Hảo(1944), Bài học quét nhà (1943), Đời thừa (1943), Đón khách
(1943), Ở hiền (1943), Đòn chồng (1942), Điếu văn (1943), Mua nhà (1943), Một
bữa no (1943), Một đám cưới (1944), Truyện người hàng xóm (1944), Nửa đêm
(1944), Lang Rận (1944), Làm tổ (1943), Tư cách mõ (1943),…Đã thể hiện phần
nào phong cách của nhà văn Nam Cao.
Cuộc sống con người nói chung và tầng lớp thấp bé như người nông dân nói
riêng đã được nhà văn Nam Cao cảm thông bằng chính tình cảm của người luôn gắn
bó máu thịt với những người cùng khổ, lam lũ của làng quê và cả những người trí
thức nghèo là đồng nghiệp quanh ông. Truyện của ông luôn thể hiện sự quan tâm,
băn khoăn, đau xót trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc
9
sống đói nghèo, cơm áo ghì sát đất đang đẩy tới, đe dọa con người.
Tác phẩm Trăng sáng(1942), nhà văn cũng đã thể hiện được cái nhìn chua chát
của xã hội lúc bấy giờ bằng những việc vốn rất bình thường, nhỏ nhặt nhưng ý
nghĩa tố cáo lại rất sâu sắc. Qua nhân vật Điền, hiện thân của tác giả, một văn sĩ
nghèo với nhiều suy nghĩ về cuộc đời của mình trước bốn bề những nỗi lo trong
cuộc sống hiện tại “giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ
ngoài đầu xóm và cả tiếng chửi bới của một người hàng xóm ban đêm mất
gà”.[15,tr.191].
Với Đời thừa (1943), nhà văn đã thể hiện nhân cách cao đẹp của người cầm
bút trước một xã hội rối ren, gần như tha hóa vẫn giữ được lương tâm của người
nghệ sĩ trong sự nghiệp văn chương, để đưa ra những quan điểm chân chính của
mình: “Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những
tình cảm rất nông, diễn ra một vài ý nghĩa quá thông thường. Thế nghĩa là hắn là
một kẻ vô ích. Một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo
tay, làm một vài khuôn mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo ra những gì chưa
có. Hắn nghĩ thế và buồn lắm. Còn gì buồn hơn mình lại chán chính
mình”[15,tr.192].
Trên Tiểu thuyết thứ 7 năm 1944, Nam Cao cho ra đời truyện ngắn Lang Rận,
Một đám cưới đã phản ánh những cuộc đời khổ cực, đầy bi thảm trước cuộc sống xã
hội mà những tầng lớp thấp bé luôn bị vùi dập, bị bóc lột về mọi mặt, và cũng qua ý
nghĩa của những tác phẩm này Nam Cao đã thể hiện giá trị tố cáo của những tác
phẩm mang tính chất hiện thực của mình. Cũng cùng thời điểm này tiểu thuyết Sống
mòn ra đời cũng nói lên sự khổ cực của gánh nặng cơm áo mà tầng lớp trí thức
nghèo đang phải chịu.
Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trong giai đoạn này được nhà văn Phong Lê
nhận định: “một chủ nghĩa hiện thực, một bút pháp hiện thực Nam Cao-đó là nét in
đậm và nổi lên trên những trang viết của Nam Cao không lặp lại Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài…Và đưa Nam Cao lên hàng đầu dòng văn học Việt
10
Nam đang đi chặng cuối-trước khi đi vào bản lề cách mạng”[13,tr.111].
1.1.2.2. Sau cách mạng tháng Tám-1945.
Bước sang giai đoạn sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà văn Nam Cao là một
trong những nhà văn có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và nghệ thuât.
Ông đã dùng ngòi bút của mình để phục vụ cách mạng, để thành một nhà văn
đồng thời là một chiến sĩ cách mạng. Ở giai đoạn này Nam Cao có những sáng tác
tiêu biểu như: Đường vô Nam(1946), Từ ngược về xuôi(1948), Hội nghị nói
thẳng(1950), Nỗi truân chuyên của khách má hồng(1946), Đôi mắt (1948), Nhật ký
ở rừng (1948), Những bàn tay đẹp ấy (1948), Trên những con đường Việt Bắc
(1948), Bốn cây số một căn cứ địch(1950), …đều thể hiện được niềm vui niềm hào
hứng với tinh thần của người chiến sĩ cách mạng, và cũng từ đó mà ông cũng tạo
được chuyển biến trong sự nghiệp văn chương từ nội dung tư tưởng đến phong cách
của nhà văn Nam Cao.
Với Đường vô Nam in trên báo Tiền Phong 1946 là một trong những tác phẩm
thể hiện sự chuyển biến trong tư tưởng của nhà văn trong giai đoạn này. Nhà văn
Nam Cao quan niệm “Sống đã rồi hãy viết” vì đối với nhà văn trong thời điểm đất
nước đang gặp nhiều khó khăn thì cần góp công sức của mình vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Nhưng “Sống rồi hãy viết” với Nam Cao không có nghĩa là hy sinh
nghệ thuật cho cách mạng mà càng gắn bó với cách mạng thì ông càng tha thiết ao
ước phải đáp ứng yêu cần của đời sống trong thời điểm này, một tác phẩm chuyển
biến của người trí thức như ông, hoặc sự đổi đời của người nông dân làng quê ông.
Trong những chuyển biết về tư tưởng đó, Nam Cao đã chuyển từ vị trí nhà văn
hiện thực sang một vị trí nhà văn cách mạng, luôn đồng cam cộng khổ với nhân dân
và cũng từ những ngày tháng này đã giúp Nam Cao khơi nhanh cảm xúc của mình,
đã giúp cho ông dù hoàn cảnh bận rộn vẫn luôn luôn có sáng tác đáp ứng yêu cần
của phong trào.
Tác phẩm Đôi mắt (1947), Nam Cao một lần nữa làm nổi bật lên khả năng và
xu hướng nghệ thuật của ông. Nhà văn Nam Cao không chỉ nói lên sự thức tỉnh của
những người trí thức, những thanh niên học thức, mà còn thấy được cả sự đóng góp
của những người nông dân nghèo để đến với cách mạng, góp thêm công sức của
11
mình vào công cuộc giải phóng dân tộc.
“Người nhà quê thì dẫu sao cũng là bí mật của chúng ta. Tôi gần gủi họ rất
nhiều. Tôi gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ,
nhịn nhục một cách đáng thương(…)Nhưng đến hồi tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã
ngữa người. Té ra người nông dân nước mình có thể làm cách mạng, mà làm cách
mạng hăng hái lắm. Tôi đã đi theo họ đi đánh Phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận
Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát tiếng
quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong hăng hái
lắm…”[16,tr.252].
Năm 1948 đến 1949, Nam Cao cho ra đời tác phẩm Bốn cây số một căn cứ
địch.
Năm 1950, Nam Cao viết tiểu thuyết Trận đầu.
Năm 1951, nhà văn Nam Cao in tập truyện kí Chuyện biên giới và Đóng góp.
Đến tháng 9 năm 1951, trên đường đi công tác ông bị phục kích và hy sinh. Sự
ra đi của nhà văn Nam Cao khi tuổi đời còn quá trẻ, khi đang ở đỉnh cao của sự
nghiệp văn chương là sự mất mát lớn đối với nền văn học hiện thực lúc bấy giờ nói
1.2. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT.
riêng và nên văn chương của dân tộc nói chung.
1.2.1. Quan điểm sáng tác.
Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề sống và viết, rất có
ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, nhắc đến Nam Cao là nhắc
đến chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945, đấy mới thực sự
tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.
Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương
thời. Dần dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của
người lao động; chính vì vậy, Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ
thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương
thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam
Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn
12
nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng.
Đời thừa (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn,
phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì
lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công
bằng. Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu.
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm,
có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những
là bất lương mà còn là đê tiện.
Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật
cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm
có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm
"sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính
để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn".
1.2.2. Phong cách nghệ thuật.
Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc
đáo. Ông đặc biệt quan tâm tới đời sống tinh thần con người, luôn có hứng thú
khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí
thức. Ông quan niệm “sống tức là cảm giác và tư tưởng. sống cũng là hành động
nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành
động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. cảm giác càng
mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi giàu càng sâu sắc thì sự sống càng
cao”[Sống mòn]. Như vậy, Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý
đến hoạt động bên trong của con người, coi đó là những nguyên nhân của hành
động bên ngoài.
Với một quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào
nội tâm, đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Ông là nhà văn có biệt tài về
diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối
tượng trực tiếp của ngòi bút nam Cao. Ông tỏ ra đặc biệt sắc sảo trong việc phân
tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện tượng
lưỡng tính nữa say nữa tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác,
13
giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật,…
Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại,
độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. Mặt khác, cũng do yêu cầu miêu tả tâm
lí, mạch tự sự trong truyện của ông thường đảo lộn không gian và thời gian, tạo nên
kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt vừa nhất quán, chặt chẽ. Ngòi bút
Nam Cao cũng thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh mà nhà văn gọi là những
truyện không muốn viết. từ những việc quen thuộc thậm chí bình thường trong đời
sống hằng ngày, tác phẩm Nam Cao đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to
lớn, thể hiện tính triết lí sâu sắc về con người, về cuộc sống nghệ thuật.
Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát, dửng dưng
lạnh lung mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,...
1.3. NHỮNG ĐỀ TÀI CHÍNH.
Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945,
Nam Cao nổi lên như một một nhà văn tiêu biểu và độc đáo. Là “người thư ký trung
thành của thời đại”, với một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo, Nam Cao đã đặt ra
trước người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch
đau đớn, vật vã. Nam Cao viết nhiều, những sáng tác của ông có thể quy về hai đề
tài chủ yếu: “người nông dân” và “người trí thức nghèo”. “Tổng hợp những sáng
tác của Nam Cao về đề người trí thức nghèo và người nông dân, trước mắt người
đọc hiện lên khung cảnh đen tối nhất của xã hội Việt Nam thời kì trước Cách mạng
tháng Tám. Đời sống của nông dân ở nông thôn cũng như của các tầng lớp trung
gian ở thành thị đều khổ cực về mọi mặt. Đằng sau lũy tre xanh, không phải là
những mái rạ vàng nên thơ, những cuộc đời êm ả, bình dị, mà là những kiếp sống
đắng cay, cơ cực đang chết dần, chết mòn, chết một cách thảm thê, đau đớn (vì
đói)… Ở thành thị, bên kia khoảng ánh sáng phù hoa, giả dối của một số người rất
nhỏ, là cả một biển người đói rách, nheo nhóc, tù hãm. Hình như tất cả mục đích
của cuộc đời chỉ dồn vào những miếng cơm manh áo”[3,tr.66-77].
1.3.1. Người nông dân.
Khi viết về người nông dân, Nam Cao đã lấy hiện thực về làng Đại Hoàng
của mình làm bối cảnh để sáng tác. Phần lớn những truyện ngắn viết về đề tài người
nông dân của Nam Cao ra đời vào những năm 1940 – 1945. Cái dấu ấn của một thời
14
kì đen tối để lại khá sâu đậm trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao: vẫn là những
chủ đề quen thuộc như nhiều nhà văn hiện thực khác như: đời sống khó khăn, thóc
cao gạo kém, con người phải vật lộn để kiếm sống. Nhưng trong tác phẩm của Nam
Cao, cái đói như một sức mạnh vô hình níu chặt lấy số phận của các nhân vật từ
“Nghèo” đến “Lão Hạc”, “Quái dị”… Chúng ta đều bắt gặp một hoàn cảnh chung:
nông thôn xơ xác, tiêu điều. “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa
những khu vườn rộng nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân
gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng, dĩ chỉ đến cây khoai, cây ráy cũng
không lên được. Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ bụng ỏng mắt toét ngoài
đường sẵn lắm.” (Quái dị).
Xuyên suốt trong những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao là
hình ảnh những con người vật vã, giằng co với miếng ăn hàng ngày. Đó là những
quá trình vật lộn với cái nghèo, cái đói. Cái nghèo, cái đói luôn đeo đẳng đã làm cho
những người nông dân khốn khổ phải tìm mọi cách để vượt qua. Và cái chết là
phương thuốc hữu hiệu nhất để cắt rời họ với đói nghèo. Đó là cái chết đau đớn, xót
xa của bà Cái Đĩ trong Một bữa no, anh Đĩ Chuột trong Nghèo, Lão Hạc trong Lão
hạc… “Số phận các nhân vật của Nam Cao trước sau đều kết thúc một cách hết sức
bi thảm. Cái chết vật vã, dữ dội của Lão Hạc, cái chết ai oán đau thương của bà cái
Đĩ, cứ dội lên như những tiếng nấc, những tiếng thở dài não nuột. Trong những
ngày còn sống, cuộc đời đã dành cho họ biết bao cay đắng, lúc qua đời họ lại phải
nhận một cái chết thê thảm” [3,tr.45-46]. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng chung
quy lại là cảnh nghèo đói và chết đói của họ mang một ý nghĩa tố cáo xã hội sâu
sắc. Cái đói làm thui chột nhân cách của con người, làm mất đi những giá trị truyền
thống, những tình cảm thiêng liêng. Vì miếng ăn mà người cha luôn nhìn vào cái
bụng căng tròn của con mình và khẳng định rằng: “Trẻ con không biết đói” trong
Trẻ con không biết đói. Vì miếng ăn mà người cha đã tìm cách làm thịt con chó và
cùng bạn bè ăn nhậu no say trong khi vợ con mình đang đói khát trong Trẻ con
không được ăn thịt chó.
Cuộc sống nghèo đói làm con người bị dồn vào cửa tử, ngõ cùng. Họ đã cố
gắng chóng chọi lại với cái đói bằng mọi cách nhưng cuối cùng họ vẫn bị tha hóa về
diện mạo và nhân phẩm, đạo đức. Họ đã bị chế độ xã hội cũ, sự nham hiểm của bọn
thống trị đẩy vào cuộc sống bế tắc. Cu Lộ trong Tư cách mỏ và Chí Phèo trong
15
truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là đại diện tiêu biểu cho lớp người đó. Sự tha
hóa biến chất đó là do sự ghẻ lạnh, lòng đố kị của con người. Viết về sự tha hóa của
người nông dân, Nam Cao nuốn phê phán, tố cáo xã hội bất công, tàn nhẫn, độc ác
đã biến họ thành những kẻ tham lam, đê tiện và cự tuyệt quyền làm người của họ.
Những kiếp người cùng khổ trong tác phẩm của Nam Cao được ông viết bằng máu
và nước mắt của mình. Với sự thông cảm, trân trọng và xót xa trước cảnh ngộ của
người nông dân, cũng như nhìn rõ bộ mặt của chế độ cũ mà những trang viết về
người nông dân của Nam Cao luôn có giá trị đối với thời gian.
1.3.2. Người trí thức nghèo.
Sinh ra ở nông thôn nhưng Nam Cao sống nhiều với tầng lớp trí thức tiểu tư
sản thành thị. Ông am hiểu cuộc sống cùng cực của người nông dân, nhưng càng
thấm thía sâu sắc cuộc sống của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Bởi bản thân ông đã
từng là giáo khổ trường tư, là nhà văn nghèo bất đắc dĩ “phải bán dần sự sống cho
mình khỏi chết đói”.
Do sống trong hoàn cảnh đó nên Nam Cao hiểu được cuộc sống khổ cực, lận
đận của những người trí thức tiểu tư sản. Họ bị chèn ép bởi thực dân, địa chủ, tư sản
mại bản. Đặc biệt trong cuộc chiến tranh thế giới lần hai, cuộc sống của họ rất bấp
bênh, khổ cực. Họ luôn bị coi thường, khinh rẻ và bị chà đạp. Đi sâu vào thế giới trí
thức tiểu tư sản, Nam Cao miêu tả cuộc sống nghèo khổ, bị thất nghiệp, bệnh tật,
đói khát… luôn vây quanh họ.
Những nhân vật trí thức nghèo của Nam Cao đều ôm ấp những ước mơ, hoài
bão, những dự định lớn lao đẹp đẽ: “Họ ao ước trở thành những nhà văn có tên
tuổi”, “Họ ao ước trở thành những nhà giáo tận tụy với công việc và với hy sinh”.
Thế nhưng, họ không thực hiện được, và những ước mơ mà họ đeo đuổi đã bị lụi
tàn trong đói cơm rách áo.
“Cuộc đời cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”
(Xuân Diệu).
Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao cũng dũng cảm vạch ra được
những mặt thấp kém của họ. Không né tránh như Thạch Lam, không cực đoan,
16
phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa như Nhất Linh, Khái Hưng,
ngòi bút của Nam Cao luôn tỉnh táo, đúng mực. Ông muốn xé toan lớp vỏ hào
nhoáng bên ngoài của tầng lớp trí thức tiểu tư sản, để tác giả có thể đi sâu vào một
thực tế bên trong. Đó là cuộc sống ngột ngạt, chật vật, điêu đứng tầm thường bởi
miếng cơm và manh áo. Với vẻ bề ngoài, những nhân vật của Nam Cao họ sống,
hành động, dằn vặt lo âu, quằn quại trong bế tắc và tuyệt vọng. “Truyện Nam Cao
đã ghi lại chân thực cái hình ảnh bi hài của cuộc sống nghèo khổ, tủi cực của người
trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ, vốn vừa bi vừa hài; đồng thời, đã phản
ánh được cuộc sống oi bức bế tắc của xã hội đang đứng trước vực thẳm đói rét
chiến tranh, đã đe dọa cuộc sống vốn bấp bênh của tầng lớp tiểu tư sản”. (Nguyễn
Hoàng Khung – Nam Cao trong lịch sử văn học Việt Nam tập V (1930 – 1945)
Phần II – Nxb Giáo dục, 1993, tr 40).
Khi lí tưởng của họ không thực hiện được thì những con người trí thức tiểu
tư sản càng rơi dần vào bi kịch chết mòn. Họ cùng có chung hoàn cảnh, họ luôn
luôn ở trong tâm trạng ngao ngán, tuyệt vọng và những nhân vật của ông thì không
mấy có niềm vui. Những khuôn mặt nhợt nhạt, gầy gò vì đói, những nếp nhăn hằn
sâu và những đôi mắt mệt mỏi, chán chường vì lo lắng, những thái độ thô lỗ, cục
cằn trái với tâm tính của những người “có học”… Tất cả hiện lên sinh động trước
mắt người đọc. Tiếc từng đồng tiền mua thuốc cho con, tàn nhẫn với vợ, tập “quên
điều độ” với sự nghèo đói và chết dần chết mòn trong cảnh đói nghèo – đó không
chỉ là số phận riêng của từng con người mà còn là thân phận chung của cả một tầng
lớp người đang bế tắc, tuyệt vọng.
Người trí thức của Nam Cao luôn trải qua sự đấu tranh, giằng co giữa thiện
và ác, giữa ước mơ và hiện thực. Mặc dù có lúc họ rơi vào bi kịch, tuyệt vọng chán
chường nhưng họ kông hoàn toàn thụ động và cam chịu. Họ vẫn cố gắng chống
chọi với những trở ngại để mà sống, để tồn tại. Họ không bó tay chịu chết mặc dù
thực tế rất phủ phàn. Họ phải “chung lưng đấu vật với nhau, làm thế nào cho được
sống (…), được ngước mắt lên, được hít thở tự do cùng với tất cả mọi người Sống
mòn”. Con người tri thức tiểu tư sản không chỉ bị Nam Cao phơi trần tất cả những
gì xấu xa với một thái độ hoài nghi, tuyệt vọng. Mà Nam Cao đã mang vào trong tác
phẩm của mình những hình ảnh của chính mình với niềm rung động sâu sắc của
những con người biết xót đau, biết tự trào, biết yêu thương triều mến. Đó là những
17
cảnh thực của người tiểu tư sản trí thức nghèo.
1.4. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI CỦA NAM CAO.
Dòng văn học hiện thực giai đoạn (1930-1945) là dòng văn học hiện đại, do
vậy con người trong văn học được nhìn nhận từ gốc độ văn học hiện đại và văn học
đã có sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Con người giờ đây được nhìn
nhận từ gốc độ xã hội. Nam Cao là nhà văn trong dòng văn học hiện thực phê phán
hiện đại. Con người trong tác phẩm của Nam Cao cũng thuộc phạm trù văn học hiện
đại, nơi cá tính sáng tạo nhà văn đóng vai trò chủ đạo trong việc khắc họa con
người, nơi con người cá nhân, số phận cá nhân được chú trọng miêu tả. Nam Cao
phản ánh con người lao động và con người trí thức như các nhà văn hiện thực khác.
Nhưng qua các tác phẩm của mình, Nam Cao đã có một cách nhìn mới mẻ, có chiều
sâu và rất nhân bản về con người và ông cũng nhìn con người từ nhiều gốc độ khác
nhau.
Trong quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm của Nam Cao, trước
hết là những con người tha hóa và con người có ý thức. Cũng như Vũ Trọng Phụng
thì Nam Cao nhận thấy quy luật tha hóa khá phổ biến lúc bấy giờ. Do đó trong tác
phẩm của Nam Cao có hàng loạt nhân vật tha hóa, Đó là những nhân vật bắt đầu tha
hóa như: Cu Lộ trong truyện Tư cách mỏ hay Hộ trong truyện Đời thừa, Trạch Văn
Đoành trong truyện Đôi món giò. Còn dẫm sâu vào con đường tha hóa như: “Chí
Phèo” trong truyện Chí phèo hay Trương Rự trong truyện Nữa đêm.
Bên cạnh con người tha hóa thì theo quan niệm của Nam Cao, con người luôn
có ý thức, trong những trang truyện Nam Cao phản ánh quá trình tha hóa, nhưng
Nam Cao vẫn tin vào phần ý thức và lương tâm của con người. Do vậy khác với Vũ
Trọng Phụng chỉ phản ánh quá trình tha hóa, còn Nam Cao thì trong quá trình tha
hóa có sự hồi sinh, từ chổ tha hóa nhân vật có lòng khát khao lương thiện. Ở người
nông dân, Nam Cao tin vào ý thức lương tâm của họ, kể cả khi họ bị đẩy vào con
đường tha hóa như Chí Phèo.
Con người trong tác phẩm Nam Cao dù ở phương diện nào, là trí thức hay
nông dân đều là con người có ý thức cuộc sống như: Lão Hạc, Thứ, Hộ. Họ khát
khao có một tri thức để đổi thay cuộc đời hay che trở cho những số phận éo le trong
18
xã hội. Con người có vốn tri thức nên họ đã nhận ra được hiện thực thối tha, họ
không chấp nhận xã hội ấy. Hộ, Thứ là những nhân vật hóa thân từ cuộc đời Nam
Cao. Đây cũng chính là cái mới của Nam Cao.
Con người tự nhục mạ, xúc phạm về nhân phẩm và con người nhân tính, con
người luôn khát khao hướng đến sự cao đẹp của phẩm chất và lương tâm. Một nhà
biện chứng người Nga. Bunkin khi đề cập đến chủ nghĩa nhân đạo, ông đã nhấn
mạnh hai phương diện “nhân đạo” là đồi hỏi đấu tranh là mong muốn cho con
người được thỏa mãn nhu cầu lành mạnh ở trên cuộc sống trần thế và “nhân đạo”
là phát huy cao độ những năng lực vốn có.
Trong tác phẩm của mình Nam Cao đã đề cập cả hai phương diện này. Sự đòi
hỏi rất cao như thế, nên ông rất đao đớn trước tình trạng con người bị lăng nhục, bị
xúc phạm nhân phẩm và đó là: bà Lão trong Một bữa no hay những thầy cô giáo
trong tiểu thuyết Sống mòn. Tất cả cũng vì đói nghèo mà những con người đó đã
đánh mất phẩm chất của mình.
Từ những điểm trên Nam Cao đã đặt ra vấn đề con người phải biết đấu tranh
để thực hiện nhân cách, Nam Cao đã đề cao nhân tính, đề cao phần “Người” trong
“con người”. Chí Phèo vừa là con người đầy bi kịch, nhưng đó cũng là con người có
nhân tính, có ý thức. Vốn là thanh niên trai cháng, khi Chí bị bà Ba gọi lên bóp chân
phục vụ, Chí không lấy làm hảnh diện mà cảm thấy nhục nhã, uất ức; hoặc khi Chí
lương thiện được gọi về từ bát cháo hành ấp tình người của thị Nở, một tình thương
thật sự của sự đồng cảm giữa hai con người cùng khổ. Chí khát khao được trở lại
mình làm người lương thiện biết bao, và Chí đã nhận ra những âm thanh của cuộc
sống thường ngày.Chí còn ước ao có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn làm
thuê, vợ dệt vải, có vốn thì nuôi vài ba con lợn …. Vậy thử hởi nếu một con người
không có một tri thức nhất định, hay con người đó không còn ý thức thì làm sau có
sự thay đổi và ước mơ như vậy.
Đến với Lão Hạc trong truyện Lão Hạc thì Nam Cao đã đề cập đến nhân cách
con người rất rõ nét ở hình tượng Lão Hạc, là một bần nông nghèo đói nhưng vốn
có lòng tự trọng lại là người thủy chung, có tâm hồn cao thượng, một phẩm chất
trong sáng và một tâm hồn ngây thẳng, trong sạch và đau đớn. Như chi tiết Lão Hạc
nói tới chuyện bán chó. Lão bán chó không phải vì không nở làm thịt. Hay lão làm
19
ra vẻ kẻ gian để xin Binh Tư bả chó nhưng là để tự vẫn, lão chọn cái chết để giử số
tiền cho con để sau này cưới vợ, trước lúc chết lão còn dành dụm một số tiền lo ma
chay để khỏi phiền đến hàng xóm. Rồi lão chết một cách dữ dội mà người ngoài
không ai hiểu gì. Nam Cao đã khắc họa một con người nội tâm sâu sắc, cao thượng
bên trong một con người bề ngoài có vẻ tầm thường.
Qua hai hình tượng Chí Phèo và Lão Hạc, Nam Cao đã phát hiên ra rằng, dù
xã hội có mục nát, con người có nghèo đói bần cùng, bị tha hóa, thậm chí bị đẩy vào
dưới lớp đáy bùn nhơ của cuộc sống, nhưng nhân tính con người luôn nguyên
vẹn.Có thể nói đây là phần nhân tính cao đẹp của những nhân vật của Nam Cao
như: Lão Hạc, Chí Phèo, Điền, Hộ, Thứ. Đó là những nhân cách sáng ngời, đó là
những phẩm chất tôt đẹp của con người dù là nông dân hay trí thức. Dù xã hội có
mục nát, có đầy đọa, chà đạp hay thậm chí cướp đi quyền làm người, quyền sống
của họ thì ở trong sâu thẩm tâm hồn họ, cái bản chất tốt đẹp mang tính chất truyền
thống của văn hóa bản sắc dân tộc vẫn mãi trường tồn và bất diệt. Phải chăng đó
chính là chất “Vàng Ròng” của con người trong truyên ngắn Nam Cao, mà không dễ
bắt gặp.
Quan niệm con người với khát khao cống hiến, phát triển tài năng cũng là một
đặc điểm nổi bật của quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao. Không chỉ
đau đớn trước tình trạng vì đời sống miếng cơm, manh áo làm cho người bị thui
chụi đi tài năng, không được thỏa mãn khát khao sáng tạo của mình như Hộ trong
Đời Thừa, Điền trong Trăng sáng hoặc Thứ trong Sống mòn. Họ là những người trí
thức có những khát khao, hoài bão trong sự nghiệp văn chương và đời sống. Nhưng
20
họ lại phải chịu bi kịch sống như cuộc sống thừa hoặc đang chết dần chết mòn đi.
CHƯƠNG 2
BIỂU HIỆN CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.
2.1. NHỮNG KHỔ CỰC VÀ BẤT CÔNG MÀ NGƯỜI NÔNG DÂN PHẢI
GÁNH CHỊU.
2.1.1. Cuộc sống khổ cực, bị bóc lột tàn nhẫn.
Hình tượng người nông dân và cuộc sống của họ là đề tài trung tâm và cũng là
nguồn cảm hứng chủ đạo trong dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn(1930-
1945). Viết về đề tài này trong nền văn học Việt Nam đã có nhiều cây đại thụ văn
xuôi như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và đặc biệt là nam
Cao một cây bút văn xuôi nổi tiếng trong dòng văn học hiện thực lúc bấy giờ.
Mỗi nhà văn đều có một thế giới nhân vật riêng của mình. Qua đó, ta hiểu
được những quan điểm hay cách nhìn đời, nhìn người, cách phản ánh hiện thực
cuộc sống trên nhiều bình diện khác nhau. Nam Cao một nhà văn hiện thực, một
cây bút sắc sảo trong dòng văn học hiện thực lúc bấy giờ. Truyện của Nam Cao tập
trung miêu tả ở hai mảng đề tài chính: “Người nông dân và người trí thức tiểu tư
sản nghèo”. Nhưng đó đều là những tác phẩm xuất sắc. Ở đề tài người nông dân,
Nam Cao đã đi sâu phân tích tính cách con người nông thôn Việt Nam trước cách
mạng tháng tám năm 1945.
Lúc Nam Cao bước vào con đường văn học, cũng là lúc xã hội Việt Nam đầy
biến động, chao đảo, ngột ngạt và bế tắc nhất, các giai cấp trong xã hội bị phân hóa
dữ dội.
Đời sống của người nông dân bị đe dọa hơn bao giờ hết. Họ phải chịu ba tầng
lớp áp bức bóc lột: địa chủ, tư sản mại bản và thực dân Pháp. Cuộc sống của người
nông dân khổ cực trăm bề, họ sống trong tình cảnh đói nghèo, vất vả bần cùng về
vật chất lẫn tinh thần. Viết về người nông dân trong thời kỳ cùng quẫn, bế tắc này,
Nam Cao không dừng lại ở hiện tượng bề mặt, ông cố gắng đi sâu vào bản chất của
sự vật và bài tỏ thái độ đồng cảm và xót thương với những số phận lao khổ. Nam
Cao không nhìn người nghèo với con mắt khinh bỉ, giễu cợt nhưng cũng không thi
vị hóa, lý tưởng hóa về họ. Với tấm lòng nhân đạo yêu thương và hiểu biết sâu sắc
về con người, với vốn sống thôn quê phong phú đã giúp Nam Cao nhìn cuộc sống 21
của người nông dân một cách sinh động. Từ một vùng quê của mình, Nam Cao đã
khái quát lên cả một thực trạng trong thời kỳ đen tối của xã hội Việt Nam trước
cách mạng tháng tám 1945. Nam Cao đã tạo ra một không khí nông thôn rất đặc
biệt của riêng ông.
Người nông dân trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, phải sống trong bầu
không khí ngột ngạt của sưu cao thuế nặng. Còn người nông dân trong những
truyện ngắn của Nam Cao lại sống trong cảnh làng quê xơ xác nghèo. Đó là những
mái nhà tranh xơ xác, tiêu điều, rải rác ở những vùng đất rộng và cằn cỗi. Đường
làng vắng vẻ, thỉnh thoảng người ta bắt gặp những người đàn bà đi mò cua bắt ốc,
một vài đứa trẻ trần truồng bẩn thỉu, da vàng, bụng ỏng, ruồi bu đầy người và cứ
đứng thơ thẩn ở các ngỏ xóm.
Chợ búa tiêu điều xơ xác. Họ phải sống trong một không gian làng quê hoang
vắng đến mức người ta có thể ngơ ngác trong ngôi đình hoang, hay mỗi đêm đến
người ta lại nghe văng vẳng những tiếng khóc tỉ tê, của người đàn bà đang giữa đêm
thức dậy hờ chồng, hờ con rất thảm thiết (Nửa đêm).
Các nhân vật nói nhỏ với nhau, giọng đều đều, buồn bã như tiếng cầu kinh.
Một bà mẹ ốm dai nói chuyện với những đứa con, hay một bà già đang tỉ tê bên đứa
trẻ mồ côi. Trong cuộc sống của làng quê hoang vắng ấy người dân lại phải thường
xuyên nghe thấy những tiếng ầm ĩ, náo động của tiếng mõ thúc thuế, tiếng náo động
kinh hãi của những thằn cùng đinh liều lĩnh, tiếng quát tháo, chửi bới của bọn
cường hào.
Trong không gian của làng quê hoang vắng nghèo nàn ấy, số phận của người
nông dân hết sức bi thảm, bất hạnh, gõ cửa từng nhà. Nghèo đói đã làm tan nát
những gia đình, người thì phải bỏ làng quê đi tha phương cầu thực, kẻ phiêu bạt quê
người hay ra thành thị tìm đến trú ngụ trong những căn nhà ẩm thấp tối tăm. Như
mẹ con Hiền trong truyện Người hàng xóm. Kẻ quẫn chí bỏ làng đi làm đồn điền
cao su, người thì phải gởi con nhỏ để vào rừng kiếm sống, phải bán con gái chưa đủ
lớn để bớt miệng ăn trong gia đình. Chưa bao giờ người nông dân lại bị đặt trong
hoàng cảnh như thế. “Dần” trong truyện “Một đám cưới”, một cô gái lớn lên trong
cảnh nghèo khó. Mười hai tuổi Dần phải đi ở. Mẹ mất khi mới mười lăm tuổi, Dần
phải quán xuyến mọi công việc nhà giúp bố.“Nhưng ông trời hình như không muốn
22
bố con Dần ngóc đầu lên được, cuộc sống ngày càng khó thêm, gạo kém thóc cao,
ngô khoai cũng không chuốc được mà ăn”. Cái đói cái nghèo buộc phải tính, bố
Dần phải gởi hai anh em nhỏ, còn Dần thì “mầy thì tao cho người ta cưới”, đấm
cưới diễn ra âm thầm và lặng lẽ, “đêm tối đến đám cưới mới ra đi. Vỏn vẹn chỉ có
sáu người, cả nhà trai với gái”. Bộ đồ cưới của Dần là một bộ đồ cũ kỹ, rách và đã
có nhiều chổ vá thật to. “Dần không chịu mặc cái áo dài mà mẹ chồng đưa cho,
thành thử chính bà khoát cái áo ấy trên vai, Dần mặc cái áo ngày thường vẫn mặc.
nghĩa là một cái quần cồng cộc xẩng và đắp những miếng vá to, một cái áo cánh
bạc màu và vá nhiều chổ lắm, một bên rách quá đã xé toạc gần đến nách”
[3,tr.112].
Cái nghèo cái đói như bám chặt cuộc sống của người nông dân, họ có chạy
đến cùng trời cũng không thoát khỏi cái nghèo đói. Biết bao số phận chết vì đói, vì
ốm đau không có tiền mua thuốc. Anh Đĩ chuột trong truyện Nghèo phải thắt cổ tự
tử để bớt đi gánh nặng cho vợ con, cái chết thật thảm thương “Cái bộ xương da bọc
giãy dụa như một con gà bị bẫy. sau cùng nó chỉ giật từng cái sợi dây thừng lủng
lẳng”[3,tr.10]. hay Phúc trong Điếu văn thì “ốm đau nằm chết dần chết mòm trên
giường”, hai đứa con anh “ẻo lẻ như một cái lá úa và buồn như một tiếng thở dài
ngồi ủ rũ nhìn anh bằng đôi mắt dại đi vì quá đói: Anh chết sau khi đã vắt kiệt sức
lực để nuôi vợ, nuôi con”. Cái đói, cái nghèo, miếng cơm manh áo đã làm người
cha đánh mất lương tâm trước nhưng đứa con thơ, như nhân vật “Hắn” trong truyện
Trẻ con không được ăn thịt chó. Hắn và mấy người bạn cứ thế mà đánh chén, mà
dành nhau, hả hê với những chén rượu và thịt chó, trong lúc đó có biết đâu những
đứa con thơ thì “Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hủ hỉ kêu: Đói! Bu ơi! Đói…”
Ruốt cuộc đáp lại lời kêu than ấy là sự thương tâm đau xót xảy ra. “Người mẹ xịu
ngay mặt xuống, trong mâm chỉ còn bát không-thằng cu khóc òa lên. Người mẹ đỏ
mũi lên và mếu xệch đi rưng rưng khóc, cái Gái, Cu Nhớn, cu Nhỏ cũng khóc
theo”[3,tr.127].
Số phận của người nông dân trong nhiều tuyện ngắn của Nam Cao được đặt ở
những thử thách khốc liệt của cảnh nghèo mà không ít nhân vật đã bị xô đẩy đến cái
chết đau đớn. Mỗi người mỗi hoàn cảnh nhưng chung quy lại là cảnh nghèo. Cái
chết của họ mang ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc. Điểm đáng quý của Nam
23
Cao là cái nhìn nhân hậu, đầy cảm thông với người nông dân, các nhân vật của ông
dù bị vùi dập, đày đọa, chà đạp nhưng vân giữ được nhân cách, phẩm chất của
mình…
Trong truyện ngắn Lão hạc, Nam Cao đã thể hiện sinh động tính cách nhân vật
qua nhận thức của ông giáo hàng xóm. Ban đầu là tình cảm yêu thương quý trọng
của ông giáo đối với bạn láng giềng. “Lão Hạc ơi bây giờ thì tôi hiểu tại sau lão
không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn mỗi mình nó làm khuây. Vợ lão
chết rồi, con lão thì đi biền biệt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một
mình thì ai mà chả buồn”[2,tr.88]. Vì thương người con trai phẫn chí bỏ làng đi do
nghèo không có tiền cưới vợ, vì nghèo đói, lão chấp nhận cuộc sống cô đơn, đói
khổ đến cùng cực, lão cố nhịn ăn nhịn mặc, làm thuê, làm mướn, dành tiền đợi con
về cưới vợ, có nhà có đất sinh sống. Lão nuôi con chó, kỷ vật của con trai lão để lại,
tôn xưng nó là cậu vàng với tất cả nỗi đắm say, khát khao cuộc sống cùng con cháu,
được làm cha làm ông như mọi người bình thường khác. Nhưng cái nghèo đói đã
buộc lão phải bán “Cậu vàng” của lão, tự hủy hoại niềm vui nho nhỏ, khát khao
chính đáng đó. Lão bán “Cậu vàng” dẫu biết rằng do đói nghèo làm việc cực chẳng
đã, nhưng lão vẫn day dứt “bảy mươi tuổi đầu chưa hề nói dối ai bao giờ nay phải
lừa dối một con chó”. Tự giết niềm vui của mình nhưng lại vì danh dự làm người
đối diện với con vật, một loài vật xưa nay được coi là có nghĩa nhất. Lão Hạc phải
trải qua một bi kịch nhân tính cao cả. Cuộc đời buồn tủi, mòn mỏi trong đói nghèo,
đến cả con chó mà lão quý như con, như cháu mà lão cũng không nuôi nổi. Thật
chua xót biết bao khi Lão thốt lên: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó
để nó làm kiếp người, mai ra có sung sướng hơn một chút…kiếp người như kiếp tôi
chẳng hạn”[2,tr.92].
Không muốn ăn tiêu hao dần vào đồng tiền giành dụm cho con, Lão buộc phải
kết liễu đời mình bằng cái chết thật thảm khốc. “Lão tru tréo bọt mép xùi ra, khắp
người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên” [2,tr.96]. Lão chết, một mặt lão
thấm thía cái kiếp sống vô nghĩa, kiếp sống thừa của đời mình. Lão sống là sẽ ăn
lẹm vào tiền của con. Trước lúc Lão chết, lão còn lo trước để khỏi phiền đến bà con
lối xóm.
Như vậy, Lão Hạc đã chọn trung thành với tính cách của mình. Lão đã xóa
mình ra khỏi mảnh vườn để nó được tồn tại. Lão xóa mình khỏi cuộc sống của đứa
24
con để cho niềm hi vọng gắn bó với cội nguồn. Lão xóa mình ra khỏi trần thế phiền
muộn để giữ gìn lẽ sống của chính lão. Lão Hạc là nhân vật tập chung nhiều phẩm
chất tốt đẹp đến bất ngờ. Lão Hạc là người lương thiện với ngòi bút tài hoa của
Nam Cao. Ta thấy rõ một ông lão nông dân quay quắt trong sự ràng buộc nghiệt ngã
của đói nghèo và cô quạnh, thế mà tâm hồn của lão chưa hề bị cắt vụn, thế mà thể
xác của lão chưa bao giờ là bản năng. Ngược lại trong những tính toán chi li tội
nghiệp của lão là một sự vật vã tinh thần dữ dội, vật vã cho đến chết. Nhưng cuối
cùng lão vẫn là người tự do, tự do trong sự lựa chọn bi đát của mình. Đó là điều bí
mật sau cùng mà Nam Cao tìm thấy ở người nông dân. Nhìn con người từ nhiều
phương diện đã tạo cho Nam Cao những cái mới mẻ trong quan niệm về con người
của ông, đồng thời cũng là sự khẳng định lập trường vì con người hay những bước
đi kiên định, không chệch hướng sa vào chủ nghĩa tự nhiên như một số người đã
nhận xét.
Viết về người nông dân, Nam Cao không chỉ tập chung miêu tả về cái đói
nghèo đã làm cho họ đói khổ rách rưới mà ông còn phản ánh cái nghèo cái đói,
miếng cơm manh áo đã đẩy biết bao nhân vật sống trong tình trạng bị lăng nhục, bị
xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa. Những nhân
vật tha hóa chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong sáng tác của ông. Miêu tả con người
trong quá trình tha hóa trở thành hướng chủ đạo của tác phẩm: Chí phèo, Tư cách
mỏ, Nửa đêm.
Trong Tư cách mõ, anh cu Lộ một con người “hiền như đất, không cờ bạc, không
rượu chè. Anh chỉ chăm chăm chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con” [3,tr.245].
Vậy mà sau một thời gian làm mõ, cu Lộ đã thay đổi, đã biến thành thằng mỏ
chính tông. Vì nghèo túng, lại bị mọi người xúm vào thuyết phục, bùi tai, Lộ nhận
làm mõ. Nhưng khi thấy Lộ làm mõ “ngon ăn quá” mọi người sinh ra ngấm ngầm
ghen tỵ với hắn, và hòa với nhau để làm nhục hắn. Trước sự hằn hột, nhục mạ của
những người xung quanh Lộ đâm ra hối hận bực tức, nhưng “Sự việc đã trót rồi biết
làm sao nữa” nhưng khi bị khinh bỉ, bị mọi người làm nhục, có khi Lộ cũng thấy
xấu hổ với vợ con, định trả vườn không làm nữa, nhưng lại tiếc. Cứ thế mỗi lần bị
xúc phạm, Lộ lại uất ức, lại thở dài, thở ngắn nhưng rồi lại tặc lưỡi. Càng bị xúc
phạm thì hắn càng không biết nhục. Từ đó Lộ càng tiến dần từng bước trượt dốc
25
trên con đường tha hóa, từ chỗ “hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn còn lại xin thêm xôi, thêm
thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì hắn tự xông vào chỗ làm cỗ mà xúc
lấy”. [3,tr.250].
Nhưng chính trong cách đê tiện, tham lam ấy là tác giả kết luận “Hỡi ôi làm nhục
người ta một cách rất diệu thì để khiến người ta đê tiện” …[3,tr.251].
Đó là triết lý không chỉ rút ra từ cuộc đời, từ con người cụ thể mà đó còn là
nghĩa nhân văn cao cả, là một quan niệm nhân sinh rộng rãi. Chính hoàn cảnh sẽ
trực tiếp chi phối và có khả năng lý giải về sự thay đổi và phát triển của nhân cách
nhân vật.
Điển hình cho nhân vật tha hóa là nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng
tên của Nam Cao. Phải nói rằng, khác với các nhà văn hiện thực khác, nam Cao đã
diễn tả được sức mạnh lạ thường quá trình tha hóa của một số quần chúng trong
hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bóc lột của xã hội cũ. Nhân vật của Nam Cao thường
trải qua chuyển biến. Nếu như trong Tư cách mõ Nam Cao viết “Người ta tưởng
như ông trời đã cố ý sinh ra hắn như để mà làm mõ; Hắn có cái cốt cách của một
thằng mõ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ, và là mõ ngay từ ngày mới
sinh…Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và mới chỉ cách
độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh Cu Lộ. Anh Cu Lộ hiền như đất”[3,tr.245].
Thì Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên lại chỉ biết chửi rủa, kêu làng, ăn vạ,
cướp bóc, đâm chém. Nhưng có một thời hắn hiền như đất. Lý Kiến phải lấy làm
“tội nghiệp” thấy hắn vừa bóp đùi cho bà Ba, vừa run run. Chí Phèo phá phách hủy
hoại xung quanh và tự hủy hoại mình với nhưng hành động không tự giác như bị sai
khiến bởi một thế lực vô hình. Từ một anh canh điền khẻo mạnh hiền lành, nhút
nhát và chăm chỉ làm ăn, cuộc đời cứ bình lặng trôi đi thì Chí chắc cũng sẽ có một
cuộc sống như bao người khác, nghèo túng nhưng yên phận. khởi đầu là bà Ba và
sau đó là Bá Kiến đã khép lại cuộc đời lương thiện của Chí Phèo. Một cơn ghen
bóng gió của Bá Kiến đã đưa Chí Phèo vào con đường tù tội. Sau bảy tám năm đi tù
về, Chí Phèo trở nên khác hẳn, biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài: “Hắn về làng lần này
trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá. Cái
đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt
thì gườm gườm trông gốm chết. Hắn mặc cái quần nai đen với cái áo tây vàng. Cái
ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Cả
26
hai cánh tay cũng thế. Trông ghốm chết”[3,tr.12].
Như vậy bằng cách làm nổi bật sự thay đổi dữ dội của tính cách Chí Phèo
trước và sau khi đi tù về, Nam Cao đã tố cáo sự hủy hoại ghê ghốm về phẩm chất,
nhân cách của con người do chế độ nhà tù thực dân gây nên. Từ một con người
lương thiện, nhẫn nhục, Chí đã trở thành một tên côn đồ hung dữ, một tay anh chị
lúc nào cũng gây gổ chửi bới “Giở toàn những giọng uống máu người không tanh”.
Tất cả những hành động đó biểu hiện phản ứng gay gắt của một con người đã đi đến
cùng đường liều lĩnh.
Miêu tả quá trình tha hóa của Chí Phèo do hoàn cảnh xã hội tạo nên, nhưng
mặc khác bằng đôi mắt sắc sảo và đầy tình nhân ái Nam Cao vẫn phát hiện trong
tâm hồn cằn cỗi đó những nét đẹp của sự lương thiện còn sót lại. Cái sắc sảo của
nhà văn luôn tìm tòi, quan sát đã giúp Nam Cao nhìn nhận ra vấn đề, phát hiện ra
những con người nông dân bị biến chất. Lòng nhân ái cảm thông của một tâm hồn
nhân đạo đã gởi lại trên những trang viết của ông niềm tin về nhân phẩm của người
nông dân. Ta thấy rằng trong tận sâu thẫm tâm hồn của Chí Phèo, vẫn còn những
mầm sống tốt đẹp mà phũ phàng của xã hội chưa đủ sức làm thui rụi hết. Cuộc gặp
gỡ với thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã làm thức dậy những tình
cảm, những khao khát xưa kia của Chí. Chí muốn làm người lương thiện, Chí muốn
hòa nhập vào cuộc của xã hội xung quanh biết bao.
Trong nỗi niềm khát khao ấy, Thị Nở đến với Chí Phèo như một tia chớp đánh thức
những lương tri và tình cảm trong sáng của người nông dân. Nhưng rồi tia chớp ấy
vụt tắt, và cuộc đời Chí lại chìm vào đêm tối mênh mông không lối thoát. Ước mơ
muốn làm người lương thiện trong xã hội thực dân nửa phong kiến không mở
đường cho Chí Phèo quay trở lại với cuộc sống bình thường. Ngay khi Chí khao
khát nhất, tỉnh táo nhất thì ước mơ của Chí hiện ra và nhanh chóng vụt tắt như chiếc
cầu vồng thoáng hiện sau cơn mưa. Chí Phèo đã giết chết Bá Kiến và tự kết liễu đời
mình một cách bi đát. Hành động đó tất yếu phải xảy ra, hợp với logic của sự phát
triển tính cách, tâm lý nhân vật Chí phèo. Tự hủy hoại đời mình để giải quyết sự bế
tắt của đời mình, cái chết thê thảm của Chí Phèo là cả một sự phê phán gay gắt đối
với chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con
người. Họ xuất thân là nông dân cùng khổ, chưa gặp cách mạng, chưa tìm thấy lối
thoát cuộc đời, ngày càng bị dồn vào con đường lưu manh tội lỗi. Nam Cao bị ám
27
ảnh bởi cái cảnh tượng cuộc sống vô lý, những con người bị tha hóa bị biến chất.
Mỗi cuộc đời, mỗi nhân vật có một quá trình tha hóa biến chất, do hoàn cảnh xã hội
tác động đưa đẩy. Vậy tại sao những nhân vật của Nam Cao lại trở thành con người
tha hóa, biến chất như vậy? Chính cái đói, cái nghèo, cực nhục, sự hà hiếp, vùi dập
đã khiến con người nói năng suy nghĩ, hành động trái với bản chất sâu kín của
mình. Đây cũng là điều mà Nam Cao tố cáo, phê phán chế độ xã hội đương thời đã
cướp đoạt nhân phẩm và quyền làm người lương thiện của người nông dân. Bên
cạnh đó tác giả cũng thể hiện lòng cảm thông đầy chất nhân văn cao cả. Trong toàn
bộ sáng tác của mình, Nam Cao đều nói lên sự cần thiết phải thay đổi xã hội cũ, cái
xã hội đã gây ra bao cảnh thương tâm, bao điều ngang trái. Nhân dân lao khổ dù
hiện ra dưới màu sắc sáng sủa hay u ám thì ý nghĩa của những truyện ngắn của Nam
Cao vẫn là một: “phải cứu lấy cuộc sống, phải bảo vệ con người…”
2.1.2 Khát khao cuộc sống hạnh phúc nhưng bị vùi dập.
Đã là người bao giờ cũng có ước mơ có một cuộc sống gia đình và có một tình
yêu hạnh phúc để rồi có những lúc được sưởi ấm lòng mình. Đó là chổ dựa tinh
thần, chốn bình yên cho tâm hồn sau những ngày làm việc mệt mỏi. Người nông
dân trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ phải chịu bao nhiêu là khổ cực: sự bắt bớ đi
lính, đi phu, sự chia lìa tình yêu và cái đói nghèo, lễ giáo phong kiến luôn luôn ràng
buộc hành hạ họ. Nam Cao đã nắm bắt được hiện thực cuộc sống này để miêu tả nó.
Trong truyện ngắn Chí phèo, Chí Phèo trong cuộc sống của mình đã từng mơ ước
“có một gia đình chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vài con lợn
nuôi để làm vốn liếng. Khá hơn thì mua dăm ba sào ruộng làm”[3,tr.38].
Đó là một mơ ước chính đáng. Sau khi đi tù về Chí đã trở thành con quỷ dữ.
Cuộc gặp gỡ thị Nở, bằng tình yêu chân thành của thị, của bát cháo hành ấm nặng
tình người đã làm thức dậy trong con người Chí những mơ ước để trở thành người
lương thiện, làm sống dậy trong con người tội nghiệp này khát khao làm người. Lâu
lắm rồi hắn mới nghe được tiếng chim ríu rít, tiếng chân người đi chợ về “nhưng
hôm nay hắn mới nghe thấy”. Lần đầu tiên trong đời, hơn bốn mươi tuổi Chí mới
cảm nhận được cái cô đơn, cái buồn và sự chờ đợi. Chí khát khao làm người lương
thiện “Y muốn làm người lương thiện biết bao”. Nhưng khát khao đó không thực
hiện được, bởi từ lâu mọi người đã coi hắn là một con vật, một kẻ bỏ đi. Người ta
không cho rằng một kẻ như Chí Phèo lại có ước mơ làm người “lương thiện”. Khát
28
khao chính đáng ấy đã bị phủ nhận một cách phũ phàng. Chí rơi vào bi kịch vô cùng
đau xót, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Uất ức đến cực điểm Chí chỉ còn biết
vùng dậy bằng hành động là đâm chết kẻ thù và tự kết liễu đời mình. “Chí chết thật
đau đớn và dãy giụa trên một vũng máu”, cái chết mang tính chất bi kịch. Cái chết
đó đã tạo nên sự đồng cảm sâu sắc của người đọc vì đó là cái chết để khẳng định sự
sống, khẳng định bản chất lương thiện của con người.
Trong truyện ngắn Dì hảo, Dì Hảo mong có một ông chồng, dù đó là chồng hờ
(nếu có thể nói như vậy), mà đúng vậy “Người ấy không yêu Dì…Thật mà! Người
ấy chẳng yêu Dì đâu mà lại còn khinh Dì nữa là khác”[3,tr.55].
Niềm ước mơ có một tấm chồng và một gia đình hạnh phúc, Dì Hảo đã chấp nhận
cực nhọc, khổ sở, chạy ngược, chạy xuôi ngoài cái chợ nghèo của làng quê để kiếm
“mỗi ngày hai hào. Dì ăn có năm xu, còn một hào rưỡi hắn dùng để uống rượu”.
Nhưng trong tâm hồn Dì Hảo vẫn cảm thấy hạnh phúc và dì sung sướng lắm.
Nhưng cuộc đời thật trớ chiu, dường như ông trời và cái xã hội trong thời đại thực
dân nửa phong kiến cái đói, cái nghèo cứ đùa giỡn trước những hạnh phúc, ước mơ
của người dân lương thiện. Cái ước ao hạnh phúc, cái khao khát một tổ ấm gia đình
nó hiện ra thật mỏng manh mà chóng phai tàn, nó cứ bị vùi dập bởi một thế lực vô
hình trong cái làng quê nghèo nàn xơ xác ấy. nếu trong Một đám cưới “nhưng ông
trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên được. Cuộc sống mỗi ngày
một khó thêm. Gạo kém thóc cao, ngô, khoai cũng khó chóc được mà ăn”[3,tr.101].
Thì ở đây, Dì Hảo trong nhưng ngày hạnh phúc ngắn ngủi ấy, cái họa lại đến với
Dì. Sự bất công của ông trời bắt Dì sinh một đứa con. Nhưng rồi “Đứa con chết, mà
Dì thì bị liệt. Mỗi ngày là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái
lỗi của người vợ vô phúc ấy”.[4,tr.55].
Từ đây, Dì Hảo lại càng lâm vào cảnh nghèo đói và bị sự xỉ vả lăng nhục của người
chồng vũ phu. Hàng đêm Dì đau đáu trong sự ràn rụa nước mắt. “Chao ôi! Dì Hảo
khóc, Dì nức lên, khóc như người ta khổ, Dì thổ ra nước mắt”[3,tr.56].
Nhân vật Đức trong truyện ngắn Nửa đêm cũng có khát khao chính đáng và
mãnh liệt biết bao nhiêu về hạnh phúc và tổ ấm của gia đình. “Có hôm nó lẩn thẩn
ngồi bàn với bà những cách làm giàu. Hắn sẽ cố dành dụm để có tiền thuê lấy một
vài mẫu ruộng; thiếu gì người có ruộng muốn cho làm thuê? Chỉ cốt có một con bò;
29
hắn sẽ làm ruộng nhà và nhận giữ ruộng cho người ta nữa. Mấy chốc mà lên ngay.
Trời cho mạnh khỏe ta bỏ một vài con lợn; bà cụ bây giờ già yếu rồi, vườn ruộng
không làm được thì quanh quẩn ở nhà cố mà chăm lấy”[3,tr.437].
Nhận được tình yêu, một sự cảm thông của Nhi, một con người xấu xí nhưng
biết nhìn nhận Đức như một con người Đức một người đờ đẫn bỗng trở nên khác
hẳn. Đức nhanh nhẹn hẳn lên, hay tủm tỉm cười, hay trò chuyện, biết lo xa tính toán
và mưu cầu hạnh phúc của gia đình.
Nhưng tình yêu và khát khao của Đức và Nhi, hai kẻ khốn cùng tủi nhục ấy bị
vùi dập phũ phàng bởi sự tàn nhẫn của ông Cửu Hòa, bởi thành kiến, định kiếm độc
ác của những kẻ “ngứa mồm”. Những quân “dông dài” đã khiến họ phải chịu biết
bao sự đày đọa và tủi nhục. tình yêu bị ly tán, khát khao hạnh phúc bị tan vỡ. Nhi
thì mất tích, Đức thì trở thành một tên lưu manh trong làng, phá phách nhà cửa gây
biết bao sự đau khổ, tủi nhục cho một bà lão gần như trong cả cuộc đời còm cõi chỉ
biết làm lụng nuôi con nuôi cháu.
Trong truyện ngắn Làm tổ, Thai trở thành kẻ nghiện rượu, say mê cờ bạc, bán
mảnh vườn, trở thành kẻ làm thuê cuốc mướn. Không vợ không con nhưng tận
trong tâm hồn gã trai cờ bạc này vẫn khát khao “Thai nghĩ đến vợ, đến những đứa
con nhỏ, đến những buổi tối của mùa rét mướt, cái ổ rơm nóng ấm, mẻ ngô rang
thơm ngọt, tiếng trẻ con cười giòn”. Trong con người này cũng mong muốn có một
chốn đi về như con chim có tổ. “Cái khó bây giờ là làm sao có nhà”[3,tr.324].
Vậy mà gia đình Thai phải rơi vào bi kịch của cái khó khăn giữa một bên là gia
2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN QUA MỘT SỐ
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO.
đình, vợ chồng và một bên là nhà để ở.
2.2.1. Người nông dân với những phẩm chất tốt đẹp.
Khi xây dựng hình tượng người nông dân, Nam Cao không chỉ quan sát biểu
hiện ở bên ngoài, không miêu tả ở thái độ bên trên nhìn xuống, lạnh lùng, hời hợt
mà ông còn nhìn thấy được những con người nông dân chân chất, những bản tính
hiền lành, cần cù…vốn là bản chất tốt đẹp của người nông dân.
Qua hình tượng Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Trong
cuộc sống của lão có những lúc cái đói, cái nghèo rình rập bên cạnh, nhưng Lão
Hạc vẫn giữ được bản chất lương thiện. Dù cái đói, rét đến mấy lão vẫn không trộm
30
cắp. Thà chết lão cũng không bán đi một sào ruộng của tổ tiên để lại cho con, vẫn
hy vọng ngày con trở về, vẫn chu tất với bà con láng giềng ngay cả khi bước vào cõi
chết.
Có những nhân vật bị biến thành lưu manh, mất cả hình lẫn nhân tính như Chí
phèo trong tác phẩm Chí phèo, hay Cu lộ trong truyện Tư cách mỏ, hoặc Trương rự
trong truyện Nửa đêm… Nhưng qua ngòi bút của Nam Cao, chúng ta vẫn thấy bản
chất tốt đẹp của những người nông dân đó. Bởi trước khi các nhân vật rơi vào con
đường lưu manh thì họ đều là những anh nông dân hiền lành chăm chỉ. “Tham công
hơn tham sống”. Như Đức trong truyện Nửa đêm. Đặc biệt là Chí Phèo, một điển
hình của sự lưu manh hóa cực độ. Trước khi rơi vào tù tội thì y vốn là người “hiền
như cục đất”. Anh có lòng tự trọng, có ước mơ hạnh phúc “một thời hắn ước có một
gia đình…ba xào ruộng” và giữa hai cơn say Chí vẫn đón nghe tiếng chim ríu rít,
cái nhịp sống của làng quê: tiếng người đi chợ, tiếng gõ mái chèo, để rồi: “Chao ôi!
Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Đáng trân trọng
hơn nữa là vài phút trước khi chết Chí khát khao được làm người lương thiện.
Có những cuộc đời cơ cực, lầm than. Cuộc sống của họ lúc bấy giờ là thân
mình cũng chưa nuôi nổi thân mình, vậy mà có những người vẫn mở tấm lòng nhân
đạo “lấy lá lành đùm lá rách” để đón nhận những sinh linh bé nhỏ mồ côi, không
cha, không mẹ hay những đứa con, đứa cháu bất hạnh. Họ gạt cái đói, cái nghèo
sang một bên để sẵn sàng làm một việc tốt lành, đức độ, ví như : Bà Quản Thích
trong truyện Nửa đêm. “Bà là người nhân đức mà vùng này đều quen biết” bà đã
nhận nuôi con bé không có lai lịch. Đây là con của kẻ khốn cùng, đi lang thang từ
làng này sang làng khác để xin gạo thừa cơm nguội của những nhà phúc đức, không
lấy gì nuôi con được, nó đem đến sân nhà tôi rồi bỏ đi. Bà chưa có trẻ con trong
nhà, hãy nhận lấy nó mà nuôi như là con đẻ trong nhà vậy [3,tr.420]. Và bà đã nhận
lấy với tất cả tấm lòng trìu mến, thương yêu. “bà nhận lấy như là một điều tốt lành,
bà nâng niu nó chẳng khác gì con đẻ của bà”. Bà yêu thương nó, và nó lớn rất
nhanh. Rồi tới “Đức” sản phẩm của “ông thiên lôi đâm lòi bụng vợ” và người đàn
bà bỏ Đức theo trai. Một lần nữa bà Quản Thích lại nới rộng vòng tay ấm áp tình
người, bà giữ tất cả niềm tin yêu vào cho đứa cháu của mình. Vậy mà cái nghèo, cái
đói, sự vùi dập, sự dèm pha đầy thành kiến của ông bà Cửu Hòa và những người
xung quanh đã cướp đi tình yêu, khát khao tổ ấm gia đình của Đức, đã biến Đức
31
thành kẻ lưu manh, giết người ở nơi đất khách quê người. Với trái tim nhân đạo và
cái nhìn sắc sảo, Nam Cao đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con
người trong con người, miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong
thế giới nội tâm của nhân vật. Do vậy, ông đã phát hiện ra ở trong sâu thẩm tâm hồn
của kẻ lưu manh giết người vẫn có những giây phút là một con người. Con người đó
có nhân tính. Đúng vậy! Đức đã sa vào con đương lưu manh nhưng Đức vẫn có
những khoảnh khắc nhớ đến người bà và nhớ đến công ơn của bà. Hắn bảo: “Con
về thì về nhưng trong lòng vẫn ái náy là bà đã chết rồi. Thế mà vẫn được trông thấy
bà, con thật mừng quá”[3,tr. 447].
Nhân vật Bà Lão trong truyện Một bữa no suốt một đời, “hết xương, hết thịt vì
con vì cháu”. Một “Bà Lão đầu đã bạc, sức đã kiệt, bà đưa bát cơm mà tay run
run”. Nhưng bà vẫn đi làm thuê, cuốc mướn, nuôi vú em, bất chấp mọi việc làm
trên đời dẫu kiếm ra miếng cơm, manh áo bằng bàn tay lao động của mình.
Dường như trong toàn bộ truyện ngắn của Nam Cao, các nhân vật nông dân
của ông trước khi lâm vào sự tha hóa, lưu manh, tù tội hay sự nhẫn nhục bần cực thì
họ đều là những người nông dân hiền lành, chăm chỉ. Nhân vật Nhu trong truyện
ngắn Ở hiền, Dì Hảo trong truyện ngắn Dì Hảo, đặc biệt anh Phúc trong Điếu văn là
người trân chất cần cù. “anh thúc dậy trước gà và có lẽ ngủ còn sau bọn tuần
sương. Biết mình chậm chạp vụng về. Lại yếu ớt quá không thể xốc vác như người
ta, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm suốt ngày, không một phút nào dám nghĩ
ngơi. Anh làm cả ngày lẫn đêm” [3,tr.169,170] và anh đã chết sau khi vắt hết sức,
hết lực làm nuôi vợ, nuôi con.
Nam Cao đã tố cáo tội ác, vạch rõ bộ mặt xấu xa của bọn thống trị trong xã hội
cũ. Đồng thời cũng nói lên rằng bản chất tốt đẹp của người nông dân không gì có
thể đè bẹp được. Chí Phèo giữa hai cơn say vẫn đón nghe âm vang của cuộc sống:
Tiếng chim ríu rít, tiếng mái chèo đập nước, tiếng chân người vang vội trong bình
minh, và trước lúc chết Chí muốn làm người lương thiện. Qua bao nhiêu gây gỗ, cải
vả, vợ chồng vẫn yêu thương, nhường nhịn, hy sinh cho nhau. Lão Hạc thương con,
thương loài vật, sống nhân hậu, chết thủy chung, tiết tháo. Giữa những con người bị
hất hủi, giữa người khó với kẻ khó, có sự an ửi nhau. “Lão cười và ho sòng sọc. Tôi
nắm cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo: Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái
này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai
32
lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút
thuốc lào… thế là sướng. Vâng! Ông giáo dạy phải, đối với chúng mình thế là sung
sướng”[3,tr.92]. Nghèo khó cùng quẫn đã khiến họ phải nhẫn nhục, hay cuốn
cuồng lên lo lấy thân mình. Nhưng ở những con người bình thường, dù họ có cuộc
sống mòn mỏi, khổ cực, bị hà hiếp, bị vùi dập thì họ vẫn là những con người có bản
chất hiền lành chăm chỉ. Họ luôn mang trong tâm hồn mình nét đẹp của lòng nhân
đạo truyền thống: “Lá lành đùm lá rách” và “Thương người như thể thương thân”.
2.2.2. Những nhược điểm của người nông dân .
Khi xây dựng nhân vật người nông dân, Nam Cao không chỉ nhìn thấy những
vẻ đẹp, những mặt tích cực trong con người họ, mà ông còn có cái nhìn khách quan
như họ vốn có trong cuộc đời. Ông đã xây dựng nên những con người có hai mặt
của nó. Nam Cao đã không lý tưởng hóa những nhân vật của mình, ông nhìn rõ và
thấu hiểu những cái xấu, những hạn chế của họ. Đa số họ, những người nông dân
trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám đều mắc phải như: tâm
lý sợ kẻ có quyền lực, tâm lý thờ ơ lãnh đạm đối với mọi người xung quanh hay tâm
lý cam chịu để u mê đờ đẫn như Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên. Hoặc nỗi sợ
hãy và khuôn phép của những người trong gia đình bà Phó Thụ, hay anh Phúc trong
truyện Điếu văn. Ta bắt gặp sự nhịn nhục đến đờ đẫm u mê của nhân vật Đức trong
truyện Nửa đêm, ở Bà Lão trong truyện ngắn Một bữa no, hay Dì Hảo trong truyện
ngắn Dì hảo. Sự thờ ơ lãnh đạm và sự miệt thị, nhạo báng đầy thành kiến của những
người xung quanh đối với Nhi và Đức trong truyện ngắn Nửa đêm.
Trong bức tranh hiện thực về người nông dân mà Nam Cao miêu tả, biết bao
gia đình tan nát vì nạn cờ bạc như: Thôi đi về, Làm tổ, Mua nhà, Từ ngày mẹ chết,
hay thành những kẻ giết người không nương tay như Trương Rự trong truyện Nửa
đêm. Người nông dân trong xã hội cũ có những hạn chế như vậy. Chung quy lại thì
tất cả những điều đó cũng chính là sản phẩm của hoàn cảnh của cái xã hội mục nát
đương thời tạo ra. Cũng có thể nói trong cái xã hội ngột ngạt, bế tắc ấy, người nông
dân phải chịu cảnh “Một cổ ba tròng”. Phía trên là sự đàn áp của chủ nghĩa thực
dân, kèm theo đó là sự bóc lột, hà hiếp của bọn quan lại phong kiến, địa chủ, cường
hào. Cùng với cuộc sống nghèo nàn, đói khát đã khiến cho con người nói năng, suy
nghỉ, hành động trái với bản chất sâu kín bên trong con người họ. Vợ chồng vốn
yêu thương nhau, lo lắng cho nhau, nhưng vẫn cứ hay bắt bẻ nhau, gây gổ, đay
33
nghiến, dằn vặt nhau, la mắng đánh đập con cái, làm tan nát gia đình…Sau đó lại
làm lành, ăn năn, hối hận…Để rồi lại tiếp tục đầu độc cuộc sống của nhau. Đó là
một trong những nội dung mà Nam Cao đề cập đến trong những tác phẩm của mình.
Khi nói về người nông dân, những con người đáng giận, đáng thương đã hiện ra
trong những tác phẩm của Nam Cao với một sức phản ánh to lớn. Nam Cao đã vạch
trần được cái vô lý, cái bi kịch hàng ngày của cuộc sống cũ với nỗi uất ức, căm giận
của kẻ không chịu khuất phục. Đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã thấm đậm trên
những trang viết của Nam Cao.
Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà
văn của những con người khốn khổ tủi nhục và bị xem là tầng lớp thấp hèn nhất
trong xã hội thực dân phong kiến. Nhưng lại là tầng lớp chiếm phần đông đảo nhất
trong xã hội. Trái tim nhân đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu hoàn cảnh
thiếu nhân tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những người dưới đáy xã hội,
Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông của một nhà văn, của một tư tưởng nhân đạo lớn.
Thế giới, con người, mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa những con người được
nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà văn trong những cách đánh giá,
nhận xét xuất phát từ lọi ích và yêu cầu của chính những con người khốn khổ nhất,
những con người không có quyền lợi, bị xã hội áp bức chà đạp xuống tận bùn đen.
Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan cho những con người thấp cổ bé
họng, bị xã hội xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Bằng trái tim yêu
thương, Nam Cao tin rằng trong tâm hồn của những người không được làm người,
những con người bề ngoài trông như con vật thì vẫn còn nhân tính, vẫn còn có
những khát khao nhân bản như Chí Phèo hay Lang Rận. Đằng sau những con người
có thân hình dị dạng như: Thị Nở, Nhi, Chí Phèo, Lang Rận, Mụ Lợn, vẫn còn một
con người, một nhân tính người thật sự, họ cũng mong muốn có cuộc sống hạnh
phúc đời thường như bao người khác.
Với bút pháp hiện thực sâu sắc và tấm lòng nhân văn cao cả, Nam Cao đã khắc
họa nên những nhân vật “Người nông dân” với những đặc điểm cuộc sống và bản
chất chân chất vốn có của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ông xót xa
cho những cuộc đời cơ cực lầm than, đầy bế tắc của người nông dân dưới xã hội cũ.
Song viết về người nông dân, Nam Cao vẫn còn có những nhược điểm của mình.
Đó là trong cách nhìn. Ông chỉ mới dừng lại ở những kiếp sống quẩn quanh, quằn
34
quại, khổ nhục đã đành là phổ biến của người nông dân. Do vậy, hầu như những
người nông dân trước cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của ông là những
người đói nghèo, nhẫn nhục đến u mê, đờ đẫn. Dẫu rằng họ cũng là những con
người hiền lành, chăm chỉ. Nhưng môi trường và hoàn cảnh cuộc sống đã đẩy Hộ
vào sự bần cùng, tha hóa biến chất, làm họ lâm vào những bi kịch của cuộc sống.
Họ có những phản kháng quyết liệt, họ không chịu khuất phục trước sự hà hiếp vùi
dập của xã hội cũ, nhưng đó chỉ là những hành động mang tính chất manh động,
liều lĩnh của những kẻ cùng đường, bần cùng chứ đó chưa phải là hành động của ý
thức tự giác trong đấu tranh giai cấp.
Trước cách mạng tháng Tám-1945, ta thấy Nam Cao mới chỉ dừng lại ở lòng
nhân đạo, đau xót cảm thông với người nông dân. Nam Cao chưa thấy được sức
mạnh của người nông dân trong xã hội ấy có thể lật đổ được giai cấp thống trị.
Nếu cách mạnh tháng tám thành công như một luồng ánh sáng đem lại sự hồi sinh
cho giới nghệ sĩ lúc bấy giờ nói chung, thì Nam Cao đến với ánh sáng cách mạng là
2.3 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN NỔI BẬT QUA HÀNH ĐỘNG
VÀ NGÔN NGỮ.
một bước ngoặc lớn trong cuộc đời cầm bút của ông.
2.3.1. Thông qua hành động, cử chỉ, điệu bộ.
Trong những tác phẩm của Nam Cao, tính cách của nhân vật không chỉ thể
hiện qua ngoại hình mà còn được thể hiện bằng những hành động, cử chỉ, điệu bộ
của nhân vật. Chính từ những hành động, cử chỉ, điệu bộ của nhân vật đã góp phần
làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và các tình tiết cũng trở nên sinh động, cụ thể
hơn.
Đến với tác phẩm Trẻ con không được ăn thịt chó, người cha đã bộc lộ tính
cách xấu xa, ti tiện thông qua hành động tham ăn thịt chó với những đứa con đang
đói khát của mình. Người cha đó chỉ biết thỏa mãn cơn thèm rượu, thịt của mình
chứ không thèm để ý gì đến những đứa con: “Hắn dang hai chân, khuynh hai cái
tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó về mùa nắng. Trông hắn như muốn khiên
một cái cối đá chứ không phải để bưng một cái mâm bang gỗ”[3,tr.146], để rồi
những đứa con cũng thể hiện hành động chỉ sự đói khát thật chua chát và thật đáng
thương làm sao: “Chúng thở dài. Chúng nuốt nước bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt
ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để kheo cái bụng. Bụng đứa nào cũng
35
gần dính lưng”[3,tr.148].
Còn với tác phẩm Chí phèo, Nam Cao cũng để cho nhân vật bộc lộ tính cách
thông qua những hành động thay đổi theo từng hoàn cảnh của bản thân hắn trong xã
hội lúc bấy giờ. Khi bị bà ba dâm đãng, vợ của Bá Kiến chiêu đùa thì Chí đã cảm
thấy rất nhục nhã. Nhưng thời gian trôi đi, sau nhiều năm tù tội Chí Phèo đã hoàn
toàn thay đổi, đã tha hóa thật sự và chẳng còn biết rụt rè, e sợ: “Hắn xách một cái
vỏ chai đến trước cổng nhà Bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi”[15,tr.19], rồi Chí
nằm vạ bằng hành động “ lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào cào
mặt”[15,tr.20]. Từ những hành động của Chí Phèo đã để mọi người nhìn rõ tính
cách hung đồ, ngang ngược của Chí, của con người đã rơi vào con đường lưu manh
hóa.
Với tác phẩm Tư cách mõ, anh cu Lộ đã có những hành động, cử chỉ, điệu bộ
thể hiện con người tốt lành nhưng cũng từ hành động mà thấy sự đổi thay của tính
cách con người. ban đầu từ một anh nông dân lương thiện, hiền lành “Anh cu Lộ
hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm để
nuôi vợ, nuôi con”. Rồi từ sự thay đổi cách nhìn của mọi người, cử chỉ khinh miệt
của mọi người đã đưa anh cu Lộ trở thành một thằng mõ thực thụ: “Sau cái bữa
đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai cũng quen quen, không ngượng
nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen lắm”[3,tr.353].
Nam Cao đã thể hiện một cách chân thật hình ảnh người nông dân bị đàn áp
đến bế tắc trong xã hội lúc bấy giờ. Cái xã hội vì nghèo đói mà con người trở nên
biến đổi tính cách, sống ích kỉ, nhỏ nhen và cũng chính từ cách đối sử mất tình
người đã càng làm cho con người không còn đường thoát, phải thay đổi tính cách để
phù hợp với hoàn cảnh.
Nam Cao cũng thể hiện sự thương cảm, lo lắng trước những cách ứng xử của
những tính cách trong xã hội bằng cái nhìn nhân đạo đầy tình thương với con người:
“Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có thể ảnh hưởng đến nhân cách của
người khác nhiều lắm, nhiều người không biết gì về tự trọng, chỉ vì không đươc ai
trọng cả; làm nhục người là một cách rất điệu để khiến người sinh đê
tiện…”[3,tr.354].
2.3.2. Thông qua ngôn ngữ đối thoại.
Với cuộc sống chốn làng quê, Nam Cao đã phác họa nên những hoạt động
36
hàng ngày của người nông dân gắn liền với những mối quan hệ xung quanh. Từ
những mối quan hệ và tính cách riêng của những người nông dân mà hiện lên trong
xã hội những ngôn ngữ giao tiếp khác nhau. Họ có thể rất chân thật, khiêm tốn, lịch
sự với nhau trong tình cảm xóm giềng, ngược lại thì họ cũng rất chua chát. Cáu gắt
và đôi khi còn có những lời lẽ ngang tang, hống hách…và tất cả ngôn ngữ họ sử
dụng hầu như không chỉ do họ quyết định mà còn do hoàn cảnh buộc họ phải nói
những lời đôi khi họ không muốn.
Trong cuộc sống của con người, ngôn ngữ đối thoại là thứ không thể thiếu, nó
là phương tiện để con người trao đổi thông tin, tìm hiểu nhau. Nhà văn Nam Cao
cũng đã vận dụng ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm của mình để làm rõ thêm tính
cách, cũng như sự việc đang diễn ra giữa các nhân vật trong truyện, góp phần làm
cho câu truyện thêm hấp dẫn và dễ hiểu hơn.
Với bá Kiến trong tác phẩm Chí phèo, một tên địa chủ cáo già đã bao lần làm
cho Chí Phèo phải lung lay trước những lời sảo trá của hắn, hắn làm cho mối thù
của Chí dùng dằng bao phen không trả được: “Khổ qua! Giá tôi có ở nhà thì có đâu
đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu với
nhau là đủ”[15,tr.22]. Câu nói ngọt ngào của Bá Kiến càng tô đậm thêm bản chất
nham hiểm, thâm độc của lão già chuyên ức hiếp, bóc lột dân lành. Hắn đã biết tính
của Chí Phèo nên không lớn tiếng mà chỉ dỗ ngọt, làm hòa với Chí: “Chỉ tại thằng
Lý Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ cơ
đấy”[15,tr.22].
Đến với Nhu trong Ở hiền, bản tính cam chịu, ôn hòa, hiền hậu được thể hiện
qua từng câu nói với những người thân trong gia đình: “Thôi chị lạy em. Em chịu
khó làm đi kẻo về mẹ chửi; chị làm xong phần chị, chị làm giúp phần em một
nửa”[3,tr.360].
Còn trong tác phẩm Lão hạc, qua lời đối thoại với ông giáo về việc bán chó đã
thể hiện tính cách lương thiện, hiền hậu của người nông dân: “Khốn nạn…ông giáo
ơi!...Nó có biết gì đâu! Nó nghe tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng”.[15,tr.59].
Còn tên Trương Rự, mỗi lời đối thoại của hắn đều thể hiện sự hung hăng
ngang tàng của tính cách ngang ngược của hắn: “Mặc kệ! tôi thích thì cứ mua; mua
không được thì bắt trộm; bắt trộm không xong thì đánh cướp”[3,tr459]. Để rồi khi
37
có được người vợ xinh đẹp, hiền lành thì hắn đối xử tệ bạc bằng những lời lẽ chua
chát: “Cái đầu cá này thì có bố mày họa có xơi được thì xơi chứ tao thì tao phí
mồm”[3,tr.461].
Với Một đám cưới, người cha đã nói với Dần một cách thiểu não, bi đát trước cảnh
đang quá túng khổ của gia đình: “Thì chỉ đến chết là cùng, chứ gì? Còn hơn ngồi
nhà mà chết đói. Thế mày bảo: không liều thân đi thế, thì còn xoay xấp gì để kiếm
ra tiền nữa, nào?”[3,tr.126].
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Ấy mà trong những hoàn cảnh khắc nghiệt con người nào có quyền lựa chọn
thứ gì, họ phải từ bỏ mọi thứ để xoay theo cái vòng luẩn quẩn của số kiếp, để rồi
quên đi những cách đối đãi tốt đẹp giữa con người với nhau. Từ những lời đối thoại
của các nhân vật trong những sáng tác của Nam Cao, ta thấy được hoàn cảnh sống
lúc này vô cùng ngột ngạt. Họ chỉ dùng những lời mắn chửi, xỉa xói nhau, hoặc
những lời than thở, kêu van và nếu có tử tế, ngọt ngào thì đó là những lời giả dối,
lừa lọc nhằm vào mục đích nào đó. Và cũng từ đây, Nam Cao cho ta thấy các mối
quan hệ trong làng quê bây giờ ít có sự chân tình, sự yêu thương lẫn nhau, mà vì cái
đói con người dần tha hóa đi tính cách con người, mất đi phần nào của cái đẹp của
làng quê thân thiết, an làng.
2.3.3. Thông qua ngôn ngữ độc thoại.
Không chỉ khắc họa tính cách qua ngôn ngữ đối thoại mà vói nhà văn Nam
Cao, sự độc thoại nội tâm cũng rất quan trọng trong việc thể hiện tính cách của nhân
vật. Trong thế giới nội tâm của nhân vật luôn tồn tại nhiều suy nghĩ, cảm xúc, trạng
thái hình thành nên tính cách độc đáo ở mỗi nhân vật.
Trong tác phẩm Chí phèo, lời độc thoại nội tâm của Bá Kiến làm ta hiểu hơn
bản chất của bọn thống trị: “đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ đi
là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng đã trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính
ương ngạnh học được từ phương xa” hay “một người khôn chỉ bóp đến nửa chừng.
Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó biết
ơn”[15,tr.28]. Rồi lại ngấm ngầm mong muốn lọi dụng Chí Phèo để trả thù phe đối
đầu là Đồ Tảo: “Nếu nó trị được Đồ Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị Đồ Tảo trị thì cũng
38
chẳng thiệt gì, đằng nào thì cũng có lợi cho cụ cả”[15,tr.32].
Dù rất ngang tàng nhưng đối đầu với Bá Kiến, Chí Phèo cũng có chút ngại
ngùng và nhút nhát: “Hắn làm cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ
hàng thân thích; anh em không có; đến bố mẹ cũng không…”[15,tr.22], và cũng có
chút tự đắc về hành động của mình: “Ờ, thế mà hắn dám độc lực chọi nhau với lí
trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên tri làng Vũ Đại; chánh hội đồng kì hào, huyện hào,
Bắc kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện”[15,tr.23].Rồi với sự
mời mọc của Bá Kiến, Chí Phèo lại suy nghĩ mà lo sợ: “Biết đâu cái lão cáo già này
nó chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ờ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi
mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng
lên, rồi cột cổ hắn vào, cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cắp thì
sao?”[15,tr.32].
Nhu trong Ở hiền thì chỉ biết than thở một mình, buồn tủi chỉ biết khóc cho
mình nghe chứ không dám thổ lộ một lời. Suốt cuộc đời Nhu chỉ dành cho gia đình,
chỉ biết nhường nhịn và nhường nhịn người trong gia đình mà thôi, với những con
người hiền lành hiếm hoi trong xã hội thì đức tính đó lại khiến họ phải khổ suốt đời:
“Tại sao trên đời này lại có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao những kẻ hay nhịn,
hay nhường thì thường thường lại chẳng được ai nhịn, nhường mình; còn những kẻ
thành công thì hầu hết lại là người rất tham lam, chẳng biết nhường nhịn ai, nhiều
khi lại xảo trá lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn…”[3,tr359].
Còn bà lão tám mươi tuổi trong Nửa đêm, lại bất lực trước đứa cháu của mình,
lời nói của bà giờ đây vô dụng, bà chỉ còn biết kiềm nén nỗi buồn tủi riêng mình, để
trong lòng đau khổ mà không thể tâm sự với ai, với bà lão lời nói lúc này hình như
vô nghĩa: “Bà tủi thân lắm, nhưng đành phải chịu, biết nói sao! Bà cố dấu nước
mắt cứ chực rơm rớm ra mi nữa. Từ đấy, bà mặc hắn với nỗi buồn của hắn. Bà chỉ
biết cúi gò cái lưng tám mươi tuổi của bà trên mảnh vườn để tìm cái sống cho hai
người”[3,tr.486].
Qua những nhân vật mà Nam Cao đã miêu tả càng chứng mình ngòi bút sắc
sảo, tinh tế của nhà văn khi phác họa về hình tượng người nông dân Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám 1945. Nhà văn đã tạo ra những nhân vật hết sức tiêu biểu,
sinh động từ tính cách, hoạt động bên ngoài, đến chiều sâu tâm lý của từng nhân
39
vật.
CHƯƠNG 3
NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945.
3.1. THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT.
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nên văn học hiện thực phê phán
giai đoạn 1930-1945. Nam Cao đã cho ra đời nhiều tác phẩm thành công không chỉ
ở đề tài, mà còn ở nghệ thuật điêu luyện mà nhà văn đã sữ dụng trong mỗi tác
phẩm. Với đề tài về người nông dân, Nam Cao đã vận dụng một cách chính xác,
uyển chuyển những thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm, để góp phần làm tăng thêm
giá trị của từng tác phẩm cụ thể. Nam Cao đã đi sâu vào không gian chốn làng quê
với những nơi “bùn lầy nước đọng”, với những mái nhà tranh rách nát của những
người nông dân nghèo. Ngoài ra, Nam Cao còn chú ý đến những biến đổi của thời
gian xoay quanh cuộc sống thường nhật, gần gũi, quen thuộc hàng ngày. Đi sâu vào
đời sống của con người làng quê, Nam Cao đã rất thành công trong việc khắc họa
tâm ký nhân vật với những diễm biến tâm lý phức tạp khác nhau. Cùng với những
yếu tố trên thì chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm của Nam Cao cũng là nét độc đáo,
tái hiện một cách cụ thể diễn biến của mỗi tác phẩm cũng như phác họa một cách
đầy đủ cuộc sống của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến vô
cùng gói gen.
3.1.1. Thời gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật: “Là thời gian nội tại của nghệ thuật. Cũng như không
gian nghệ thuật, miêu tả, trần thuật trong truyện bao giờ cũng xuất phát từ điểm
nhìn nhất định trong thời gian. Khác với thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật
có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt đến tương lai xa xôi, có thể dồn
nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái thời gian chốc
lát đến vô tận. Nó được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn
của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa
khác,…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm”.[9,tr.82].
Trong sáng tác của Nam Cao, các nhân vật của ông sống như thường lệ, trong
hoàn cảnh cụ thể cùng với thời gian của hiện thực đời sống. Một trong những nét 40
đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra một kiểu
thời gian hiện thực hàng ngày. Trong cái thời gian hàng ngày của cuộc sống hiện
tại, cuộc sống dưới ách thống trị của phong kiến, nhân vật của Nam Cao như bị
giam hãm, tù túng, luẩn quẩn trong những lo âu thường nhật từ miếng cơm, manh
áo đến đồng tiền, bát gạo…Các nhân vật đau buồn của Nam Cao bị hành hạ, bị giày
vò, bị ám ảnh bởi cái đói, “lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào
cho không chết đói”. Cả thế giới nhân vật của Nam Cao luôn “bị cơm áo ghì sát
đất”, bị xuôi theo cái vòng luẩn quẩn của thời gian hàng ngày mòn mỏi. Thời gian
trong tác phẩm luôn gắn liền với đời sống của nhân vật. Thời gian của Nam Cao là
thứ thời gian mệt mỏi, nhẫn nại của nhân vật trước những nhu cầu của cuộc sống
con người. Họ sống trong thời gian mù tịt bị cái đói nghèo vây bủa, phải cố gắn để
duy trì cuộc sống để tồn tại một cách thảm thương. Thời gian hàng ngày của Nam
Cao được thể hiện qua từng hoạt động trong từng buổi của nhân vật như sáng, trưa,
chiều, tối…Trong tác phẩm Một bữa no bà Cái Đĩ đã có những buổi sáng thật đáng
thương, buổi sáng hàng ngày để bà hạ mình đi tìm miếng ăn “Mỗi sáng, bà ra chợ
xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho
như vậy? Lòng thương người cũng có hạng” [15,tr.162]. Hay chị Cu trong Con
mèo, đã chửi xối xả khi chồng chị làm hư hại những vật dụng trong nhà “Từ sáng
đến giờ, tao ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một hào, mà mày phá
tao một lúc một cái niêu, bốn năm cái bát…”[15,tr.119]. Đến Một đám cưới, Dần đi
ở mướn nơi nhà địa chủ thì bữa là khoảng thời gian được chia ra rõ rệt để tính công,
tính tiền “sáng, mỗi người một lùm lùm; trưa, ba lượt thật đầy; tối, củ khoai, củ ráy,
bụng trẻ con như vậy thì có lẽ cũng không phải đói”[15,tr.112]. Còn với Chí Phèo
buổi trong ngày với hắn chẳng có gì là chật vật mà ngược lại, rất nhàn, rất khoải
mái, một cảnh tượng khá hiếm hoi trong cảnh tượng đời sống bây giờ “Hắn về hôm
trước, hôm sau đã thấy hắn uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến
chiều”[15,tr.19]. Còn với người vợ của Bịch thì ngày gày đi làm thuê, phải buôn
bán vất vả để lo cho gia đình: “Vợ đi làm có thuê, mỗi ngày được hai hào; mỗi
tháng cũng làm được mươi ngày. Những ngày không có ai thuê, chị mua buôn đọt
lá, mấy cái hoa chuối, hoặc bó mía cẳng gà đem mãi sang chợ phương-Yên
bán…cũng có ngày lỗ tiền đò”(Mua danh)[15,tr.334]. Và cả những người đàn ông
41
như bố Dần cũng tính toán cho mỗi ngày của gai đình: “Trước kia, mỗi người làm
một ngày một hào rưởi thì đã đủ cho cả nhà ăn; bây giờ mỗi ngày được ba hào, tiền
gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng một góc ngày xưa, thành thử một
người ăn cũng hết”(Một đám cưới)[15,tr.125]. Còn với ông lão tội nghiệp như Lão
Hạc, lo cho bản thân đã khó, thế mà gánh vát thêm phần ăn của con chó: “một lão
một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo dắt”[16,tr.58]. Ở
làng quê, cảnh tượng thiên tai, mưa bão là thường xuyên xảy ra và nó buộc người
nông dân phải xót xa khi nhìn những của cải của mình chăm chút từng ngày, từng
tháng mất đi:“Mấy buồng chuối tiêu kia tháng sau bán thật vừa”(Làm
tổ)[16,tr.182]. Trong cảnh nghèo khổ đó, anh Cu Lộ đã dửng dưng trước cách kiếm
ăn bằng nghề mõ của mình: “tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày không
được bát cơm dãi nhỏ ra hết còn làm bộ”(Tư cách mõ)[16,tr.351]. Bố của Dần thì
lo cho cuộc sống những đứa con trong thời gian tới: “ Bây giờ mà còn thế, đến
tháng hai, tháng ba này còn khổ đến đâu? Bố con mình có thân thì phải liệu
đi”.(Một đám cưới)[16,tr.125].
Cái ăn, cái mặc với người nông dân nghèo theo thời gian trong tác phẩm của
Nam Cao dường như đã phải trải qua nó rất cực nhọc. Thời gian ấy kéo dài từ qua
khứ đến hiện tại và có thể đến tương lai. Bà mẹ của Ngạn đã tính toán về cái đói:
“Bà thì ngày xưa cơm ngô cũng chẳng có mà ăn đâu”(Nhìn người ta sung
sướng)[16,tr410]. Và họ phải lo lắng cho tương lai: “Qua giêng, con chắc mười
ngày nghĩ, chưa chắc có một ngày có việc”(Một đám cưới)[16,tr.126].
Thời gian trong tác phẩm của Nam Cao như đang đông đặc lại. Nó tù đọng,
đóng kín, xoay theo cái vĩ đạo tưởng chừng như không thay đổi. Nam Cao đã sáng
tạo trong từng tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày luẩn quẩn
với những lo âu về sinh kế, mòi mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên cuộc sống “sống
mòi” đang đi đến bế tắc, ngột ngạt điểm hình trong xã hội lúc bấy giờ.
Bên cạnh thời gian của thực tiễn hàng ngày, thì trong nhiều tác phẩm của Nam
Cao còn sử dụng phạm trù hồi tưởng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như
đã biết, hồi tưởng xuất hiện trong tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc nguyên
tắc liên tưởng. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ,
không có ý ngở như vô tình, thâm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới
hồi tưởng của nhân vật. Nó không tồn tại một cách độc lập mà trong mối quan hệ
42
thường xuyên, chặt chẽ với hệ thống thời gian nghệ thuật. Hồi tưởng không đơn
giản đẩy lùi ra những phạm vi thời gian của sự trần thuật, trái lại nó tạo ra khả năng
đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có thể nhìn thấy được viễn cảnh của tương lai.
Với những sáng tác của Nam Cao, những kỉ niệm cũ hiện lên thông qua sự hồi
tưởng của nhân vật, nó có thể trong sáng, ấm áp nhưng bao giờ cũng gợi lên nỗi u
buồn. Đó là nỗi buồn của đứa cháu: “Một buổi chiều có sương bay” khi Dì Hảo đi
lấy chồng (Dì hảo). Đó là nỗi niềm mơ ước đã bị vùi dập trong quá khứ của Chí
Phèo: “Hình như đã có một thời gian hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ,
chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng,
khá giả thì mua dăm ba xào ruộng làm”(Chí phèo) [15,tr.43]. Với nhân vật Điền
thì quá khứ thật đẹp trong sự hồi tưởng mong lung của hiện tại: “Đã có một thời,
Điền chăm chỉ đọc sách, viết văn. Điền náo nức muốn trở thành một văn nghệ sĩ.
Điền nghiện sẽ cam chịu tất cả những thiếu thốn, đọa đày mà văn nhân nước mình
phải chịu”(Trăng sáng)[15,tr.86]. Còn Hộ trong Đời thừa đã luôn hồi tưởng về ước
mơ thành nhà văn chân chính: “Cả đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng
quyển ấy sẽ ăn giải nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên toàn cầu”[16,tr.101].
Đối với họ, những cảnh vật của ngày hôm nay như khơi gợi những kỉ niệm của
ngày hôm qua và những kỉ niệm củ hiện về chỉ làm tăng nỗi buồn chán, khổ đau
trước mắt. Thời gian như là người bạn đường đau khổ của kiếp con người. Với tư
cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc tính không đảo ngược của thời
gian, nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp khác nhau của ông đều nhìn thấy thời
gian trôi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian một cách xúc động, với
niềm nối tiếc, với tình cảm cay đắng của sự mất mát không gì bù đắp nỗi.
Tiếp theo thời gian hồi tưởng trong sáng tác của Nam Cao, thời gian tâm trạng
cũng được thể hiện trong những sáng tác của ông. Đối với cô bé Ninh, thời gian ba
năm là quá nặng nề, là dài dằn vặc vì nó mang theo một nỗi mất mát không gì bù
đắp được: “Bu chết đã ngót ba năm, Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ.
Ninh cứ tưởng bu đã chết từ lâu lắm”(Từ ngày mẹ mất)[19,tr.172]. Sự đối chiếu so
sánh giữa những cảm giác của cô gái trong quá khứ và hiện tại làm tăng thêm nỗi
đau thương, mất mát của con người, với Ninh thì càng cay đắng nghiệt ngã hơn.
Trong tác phẩm Tư cách mõ mọi người nhớ đến bản tính tốt đẹp trong quá khứ đã
43
mất đi: “Anh cu Lộ hiền như đất, cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm
chăm, chúi chúi để làm nuôi vợ, nuôi con”[19,tr.346] và hiện tại thì “Bây giờ thì
hắn đã mõ hơn những thằng mõ chính tông” [19,tr.354].
Ở mỗi tác phẩm Nam Cao dường như kéo căng hoặc rút ngắn thời gian hành
động miêu tả. Bữa thịt chó của người cha (có khác gì một con vật) trong Trẻ con
không được ăn thịt chó càng dềnh dàng bao nhiêu thì sự chờ đợi, cơn đói cồn cào
của lũ trẻ tội nghiệp càng bị kéo căng ra bấy nhiêu. Thời gian ở đây bị kéo dài ra
nhấn mạnh thêm cái dư vị cay đắng của tình huống. “Chúng thở dài. Chúng thừ mặt
ra. Chúng nằm ẹp xuống đât và lật áo lên để kheo cái bụng. Bụng đứa nào cũng
gần dính lưng”[19,tr148]. Còn trong Một bữa no là thời điểm ăn chực của bà lão
tám mươi, tại nhà bà phó Thụ. Qua tình cảnh của bà lão, ta lại cảm thấy sự tủi nhục
và trớ triu của bà lão khốn khổ, với bà lão bữa ăn chực sao thời gian nhanh thế, thời
gian như dồn dập, ráo riết rược đuổi: “Cái Đĩ lụt cụt chạy xuống nhà dưới. Một lát
sau, tiếng đĩa đã bắt đầu lạch cạch”. Rồi thì “tiếng khung cữi đã ngưng. Mấy cô dệt
cửi đều là con gái hoặc con gái nuôi bà phó Thụ, đang tới tấp, cô xới cơm, cô bỏ
rau, cô sẻ mắm, chung quanh cái mâm gỗ đặt ngay trên mặt đất” [18,tr.167]. Còn
thời gian bà Cái Đĩ ăn cơm trong mắt bà phó Thụ thì chậm chạp làm sau: “Bà lão
lại rên tiếng nữa để mở đầu câu nói” rồi khi bà phó Thụ trông bà lão so đũa: “trông
bà so đũa mà ngứa mắt! Bà phó muốn giật xoét lấy, làm cho thật nhanh cho đỡ bực.
Nhưng bà nhịn được. Bà chỉ chép miệng và lừ lừ đôi mắt, tỏ ý khó chịu” bà phó gắt
gỗng “ừ, bà cứ ăn nốt vậy”(Một bữa no)[18,tr.169].
Trong tác phẩm của Nam Cao còn tồn tại thời gian hủy diệt, được thể hiện ở
nhân vật Chí Phèo. Với thời gian, Chí Phèo từ một người hiền lành, chất phát trở
thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại sau những năm tháng tù tội. Chí Phèo bị thời
gian hủy hoại cả nhân tính lẫn về ngoại hình: “Bây giờ thì hắn đã thành người
không tuổi rồi. Ba mươi tám tuổi hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn
mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn là mặt người; nó là
mặt con vật lạ, nhìn mặt con vật có bao giờ biết tuổi?”(Chí phèo)[15,tr.33].
Chí Phèo đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp thị Nở, tình cảm tự
nhiên và tội nghiệp của người đàn bà xấu xí đã góp phần đánh thức ý thức về nhân
phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn
già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! có lí nào như thế được? hắn đã già rồi
44
hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu”(Chí phèo)[15,tr.43].
Ngoài ra, trong một số tác phẩm nhà văn còn miêu tả viễn cảnh của tương lai.
Với Dì Hảo là tương lai mù mịt nghèo đói và bệnh tật. Tương lai của Nhu trong Ở
hiền là cả đời phải chịu đựng và cam chịu: “Hỡi ôi! Nhu đã vâng theo cái bản tính
của Nhu rất hiền lành. Nhu trở về nhà với người chồng với người vợ hai và sống
như một con vú trong nhà chúng, trong cái cơ nghiệp chính tay Nhu đã dung tiền
của mẹ mình để tạo ra…”[15,tr.369]. Hay tương lai của Chí Phèo, một tương lai
quá đỗi u ám: “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và đau
ốm, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”(Chí phèo)[15,tr.44-45].
Bên cạnh đó, Nam Cao còn sử dụng thời gian đồng hiện. Trong cái vòng đồng
hiện đó, Nam Cao đã cho quá khứ hội tụ trong hiện tại và hiện tại như gợi lại những
hình ảnh của quá khứ. Hiện tại và quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên sự cộng
hưởng về cảm xúc và ấn tương cho người đọc. Ở đoạn kết của tác phẩm Chí phèo,
khi nghe Chí Phèo chết thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra
cái lò gạch cũ bỏ hoang, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở đây, hiện tại và tương
lai như hòa nhập làm một.
Là một nhà văn của làng cảnh Việt Nam, sáng tác của Nam Cao luôn gắn liền
với những hình ảnh của làng quê cùng tồn tại với thời gian, năm tháng.
Thời gian mà Nam Cao nói đến là thời gian trong những buổi chiều mùa đông
lạnh lẽo, mưa bão hay thiên tai trong cuộc sống. Nam Cao luôn chú ý đến thời gian
hiện tại, một thời gian hiện tại không bị chìm đi trong quá khứ, cũng không bị mờ đi
vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì nó mang
theo cả chiều dài cùng chiều sâu thăm thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai. Biết
dừng ở thời điểm hiện tại của sự kiện, khám phá tính chất phong phú, đa dạng của
nó, đều gắn liền với sở trường, bút pháp của Nam Cao đã khám phá thế giới bên
trong tâm hồn của nhân vật và lối kết truyện theo quan điểm của nhân vật.
3.1.2. Không gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật: “Là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng
xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định(…).
Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ không gian nên mang tính chủ quan.
Ngoài không gian vật thể có không gian tâm tưởng. Do vậy, nó có tính độc lập
45
tương đối, không quy định vào không gian địa lí”.[9,tr.93].
Nam Cao là nhà văn đã rất thành công trong việc phối hợp giữa thời gian và
không gian để phác họa nên một bức tranh làng quê Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Ông đã khai thác hai yếu tố không gian và thời gian trong quá trình khám phá
những tính cách, những tình huống trong cuộc đời nhân vật. Không gian nghệ thuật
trong sáng tác của Nam Cao được thể hiện trước hết ở vùng quê nông thôn, những
căn nhà nơi thôn xóm, những con đường làng…Trong những mối liên hệ của thời
gian và không gian của làng quê, ngôi nhà, con đường hóa ra là cơ bản và quan
trọng nhất. Tất cả những mối quan hệ còn lại là thứ yếu trong thế giới nghệ thuật
của Nam Cao.
Hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của Nam Cao là làng Vũ Đại
và cũng chính là làng Đại Hoàng, quê hương của nhà văn, cái làng quê xơ xác với
“Những mái nhà xác xơ trong tiều tụy như những cái nón rách trên gáy những
người ăn mày ngồi sang sát với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh”[1,tr.235]. Không giống
với làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô
Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao có vẻ hoang vắng, u ám của làng
quê nghèo đói: “Một cái làng quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt
của mùa hè, xao xác vào những ngày cuối thu, tả tơi vào những màu mưa bão,
quạnh vắng vào những đêm trăng”[1,tr.235]. Không gian ở đây rất yên tỉnh, đến
nỗi người ta có thể nghe thấy “Tiếng thở ra u ám” của những “giậu tre rậm như
rừng”[1,tr.235]. Thậm chí có thể nghe thấy “Tiếng kêu rầm rĩ của những thở gỗ
trong cái kèo cái cột” hình như “Chúng tê mỏi và vươn mình hay sốt ruột mà rên
lên”(Nữa đêm)[1,tr235]. cái không gian vắng lặng ấy đôi khi cũng bị khuấy lên bởi
những tiếng thở, tiếng khóc, tiếng chửi trời, chửi đất, sau đó cả làng quê lại chìm đi
trong cái đói khát, ốm đau và tủi nhục.
Không gian ở làng Vũ Đại, chính là không gian u tối của xã hội dưới sự cai trị
của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Trong cái làng với đầy dẫy bọn quan lại cấu kết,
phe phái như “đàn cá tranh mồi”. Không chỉ tàn bạo với người dân mà giữa chúng
cũng tồn tại mối quan hệ đối kháng, triệt tiêu lẫn nhau. Trong xã hội lúc này, giữa
người với người ít có mới quan hệ yêu thương nhau mà chỉ là những thủ đoạn và
mưu mô.
Phong Lê đã nhận xét về xã hội nông thôn trong những sáng tác của Nam Cao:
46
“đang có sự rạng vỡ để đi đến sự bất thường của quá trình băng hoại”[13,tr.291].
Không gian chủ yếu cảu Nam Cao sử dụng trong tác phẩm là không gian riêng
tư, cá nhân, không gian sinh tồn của làng quê cổ hử. Trong cái không gian tù hảm bị
vây bọc bởi những lũy tre xanh, biết bao nhân vật của Nam Cao bị cầm tù, bị đầy ải,
nếu không cam phận sống thiệt thòi, tủi nhục như kẻ tôi đòi như Nhu trong Ở Hiền,
thì sống âm thầm như người phụ nữ trong tác phẩm Dì hảo, nếu không bị chết vì
bệnh tật như Phúc trong Điếu văn, chết khốn khổ vật vã như Lão Hạc, Chí phèo…
Với tác phẩm của Nam Cao, không gian cá nhân luôn bị dồn nén đến mức ngột
ngạt, buồn tủi của nhân vật rồi dẫn đến nhiều suy tưởng trong không gian ấy. Dưới
cảnh sống nghèo nàn trong mái nhà tranh, nhân vật miên man trong những lo toan,
suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm chua chát. Bà cái Đĩ “nằm ẹp thành
nước mắt” (Một bữa no). Nhân vật Phúc trong Điếu văn thì “như một cái xác trong
mả lạnh, chua chát nghĩ rằng: “mình không ăn nhầm gì với cảnh đùa vui của
người”, hay cái không gian nơi Chí Phèo đang sống: “có tiếng cười nói của những
con người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy
hôm nào cũng có. Nhưng hôn nay hắn mới nghe thấy… chao ôi là buồn!”(Chí
phèo)[15, tr.43]. Để từ không gian bên ngoài đó Nam Cao đi vào không gian tâm lý
con người: “tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời
hắn”(Chí phèo) [15,tr.43]. Từ không gian đang sống hiện tại mà Nam Cao đã dẫn
ta đi đến không gian trong tâm lý con người, tạo cho con người những suy nghĩ, độc
thọai, độc thoại nội tâm ở các nhân vật.
Qua những yếu tố không gian và thời gian trong những sáng tác của Nam Cao,
ta thấy rằng nhà văn đã sử dụng một cách điêu luyện và phối hợp tinh tế để đưa vào
tác phẩm, để tạo được bước tranh đầy đủ, sinh động và rõ nét vê làng quê Việt Nam
trước cách mạng tháng tám 1945. Ở sáng tác của Nam Cao, hai yếu tố này luôn bổ
sung, tác động lẫn nhau để tăng thêm sự phong phú, phức tạp của đời sống nhân vật.
Như trong tác phẩm Chí phèo, cái không gian luẫn quẫn, vây bủa cuộc đời con
người ngay từ đầu truyện và đến kết truyện. mở đầu cuộc đời của Chí Phèo là không
gian của cái lò gạch củ: “một anh đi thả ống lươn đã thấy hắn trần truồng và xám
ngắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch bỏ không, anh ta nhặt hắn và
đêm cho một người đàn bà góa mù”(Chí phèo)[15, tr.18]. Rồi đến cuối tác phẩm đó
47
lại hiện lên qua suy tưởng trong đầu của thị Nở: “thị nhìn nhanh xuống bụng trong
đầu thoáng hiện ra một cái lò gạch củ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua
lại…”(Chí phèo)[15, tr.52].
Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố nghệ thuật
không gian và thời gian để mở ra nhiều hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân
vật. Nhân vật cảu Nam Cao có thể từ hiện tại quay về quá khứ hoặc đi đến tương
lai, thậm chí có thể xáo trộn cả không gian và thời gian. Điều đó làm cho tác phẩm
của Nam Cao mới thoạt nhìn bề ngoài tưởng như rất phóng túng, tùy tiện nhưng thật
ra lại rất chặt chẽ, hợp lý bởi sự kết hợp rất nhịp nhàng và chuẩn xác của nhà văn
3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT.
Nam Cao.
3.2.1. Về ngoại hình.
Ngoại hình nhân vật thể hiện bi kịch của họ ở hầu hết trong sáng tác của Nam
Cao, nhưng tiêu biểu vẫn là những nhân vật như Chí Phèo, Lang Rận, Mụ Lợn, Thị
Nở…Ngoại hình cũng như tính cách của họ đều không bình thường, có phần quái
dị, ghốm riết nhưng lại rất sống động, chân thật. Đó là những con người thật trong
xã hội lúc bấy giờ, mà ít nhà văn đưa họ vào trong sáng tác của mình. Nam Cao đã
cho ta thấy cuộc sống nghèo khổ, đói khát, bất công và sự tù đày đã làm họ biến
dạng, xấu xa và tha hóa đến như vậy.
Chẳng hạn, một Chí Phèo được xây dựng theo cách đặc biệt biểu thi tính cách
lưu manh hóa “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Cái
đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen lại rất cơng cơng, hai mắt
gờm gờm trông ghốm chết! hắn mặc cái quần nai đen và cái áo tây vàng. Cái ngực
phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai
cánh tay cũng thế. Hắn về hôm trước , hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt
chó suốt từ trưa đến chiều.[17,tr.33]. Hay một đoạn khác “Bây giờ thì hắn đã thành
người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn
mươi? Cái mặt hắn trông không trẻ cũng không già: nó không còn là mặt người; nó
là mặt của con vật lạ, nhìn mặt một con vật thì có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn
vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió dằn dọc vằn ngang, không theo thứ tự, biết
bao nhiêu là sẹo. Vết mảnh chai của nhiều lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần hắn
nhớ làm sao nổi? Những việc ấy chính là cuộc đời hắn”.[17,tr.46]. Với bộ dạng
48
này, lúc đầu không ai nhận ra Chí Phèo ngay cả những người sống cùng làng với
hắn. Cùng với sự thay đổi hình dạng là sự thay đổi nhân tính. Từ một anh canh điền
hiền lành, khẻo mạnh, chăm chỉ thành một tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Chính cái chế độ nhà tù thực dân đã hủy hoại cả hình dạng lẫn nhân cách con người.
Nam Cao miêu tả ngoại hình của mỗi nhân vật không lặp lại mà mỗi dáng vẻ
đó đều bộc lộ một tính cách rất riêng. Chẳng hạn nhân vật Lang Rận: “Anh chàng
có cái mặt trông dư dằng thật. Mặt gì mà nặng trình trịch như mặt người phù, da
mặt như da con rắn bùng, lại lắm tắm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn,
lại gò lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề. Môi rất mỏng cong lên, bịp gần kín
hai cái lỗ mũi con con, khiến anh ta thở khò khè. Mà cũng chưa tệ bằng lúc anh ta
cười. Bởi lúc anh ta cười thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại kín thêm, hai mí
gần như dín tịt lại với nhau, môi càng lớn lên thêm, mà tiếng cười toàn bằng hơi
thở, thoát ra khìn khịt”. những chi tiết thể hiện hình tượng của nhân vật có vẻ
cường điệu, phóng đại, gây cười. Họ lại được miêu tả, đánh giá qua bình luận của
tác giả và những nhân vật xung quanh. Nên ngôn ngữ không có tính chủ quan hay
giả tạo. Đặc biệt nhân vật có ngoại hình như chạm, như khắc. Qua cái ngoại hình
đó, người đọc không chỉ hình dung, nhìn thấy, nghe thấy mà còn ngửi thấy, tưởng
tượng ra những người có hình dạng không giống ai, sống bẩn thỉu như xúc vật, từ
cái ăn, cái mặc đến đời sống dị dạng như trâu bò có nhiều kí sinh trùng ở trên
người. Tác giả không để nhân vật chết trong sự xa lánh, khinh bỉ của mọi người mà
luôn cảm thông, chia sẻ trước thái độ biết tự trọng và đau đớn của nhân vật. “Y
thẹn, Y buồn, Y giận đời, Y giận trời, Y giận thân, giận tím ruột, tím gan, Y nghĩ đến
cái nhục sáng hôm sau”[17,tr.28].
Với Lão Hạc, khuôn mặt ổng hiện lên tất cả nỗi khốn khổ của người cha già,
cô độc , bệnh tật và nhớ con. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như
miếu và đôi mắt ầng ậc nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão và òa lên khóc. Bây giờ
thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho Lão
Hạc… Mặt lão đột nhiên co dúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước
mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng mổm mẻm của lão như con
nít. Lão hu hu khóc. [17,tr.252]. Nam Cao miêu tả Lão Hạc với những nét chấm
phá rất xúc động, vẻ tiều tụy của người già, bệnh tật, đói khổ, nhớ con và ân hận về
việc lừa con chó. Vẽ bề ngoài ấy không phải là sinh ra đã có mà chính cái cuộc sống
49
nghèo đói của xã hội cũ tạo nên. Lão Hạc đang rơi vào bi kịch, bi kịch của nghèo
đói, ông không giám ăn, không giám xài, để dành tiền cho con trai cưới vợ. Việc
miêu tả ngoại hình Lão Hạc như vậy Nam Cao để cho người đọc hình dung được
cái nỗi khổ của lão như thế nào để thấy được cái bi kịch đau lòng ấy.
Nam Cao đã xây dựng hàng loạt nhân vật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc. Các nhân vật rất phong phú, sinh động. Đặc biệt, tác giả cho xuất
hiện các nhân vật xấu xí, bẩn thỉu, dị dạng, tha hóa…Có chăng, ông muốn nói đến
tính chất khốc liệt, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn đen
tối nhất. Sự nghèo đói, bệnh tật, bất công đã dồn ép, xô đẩy con người đến ngõ cụt
của cuộc đời. nó làm biến dạng đi cả thể xác lẫn tâm hồn của những con người hiền
lành, lương thiện. biết họ thành con vật đội lốt người, đần độn, ngớ ngẩn, tàn bạo,
điên loạn. Nếu họ không có những phút giây tỉnh tâm thì họ sẽ chết vùi trong thảm
cảnh của cuộc đời mình. Nhưng tiếc rằng khi họ nhận ra thảm cảnh của cuộc đời
mình cũng là lúc bi kịch kết thúc.
3.2.2. Về nội tâm.
Khi miêu tả nhân vật, Nam Cao không chỉ chú trọng về ngoại hình mà còn rất
chú trọng miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của nhân vật. Với thủ pháp độc thoại
nội tâm, nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ và tâm trạng của mình. Dù là những người
nông dân nghèo như: Chí Phèo, thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành…Hay người
trí thức nghèo như: Thứ, Điền, Hộ, hay bọn cường hào ác bá như Bá Kiến đều có
thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, nhiều mâu thuẫn, đấu tranh tư tưởng mà lại
thống nhất.
Với Chí Phèo sau khi đi tù về, cả ngày hắn chỉ biết say khướt, chửi bới, dọa
nạt, rạch mặt ăn vạ… “Những cơn say của hắn tràn cơn say này sang cơn say khác,
thành một cơn dài, mênh mông, hắn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn
còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say
để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẻ hắn chưa bao giờ tỉnh
táo để nhớ rằng có hắn ở trên đời”[17,tr.46]. Một Chí Phèo tha hóa như thế, không
ai nghĩ rằng hắn có tâm trạng, vì ngay cả sự tồn tại của hắn, hắn còn không nhận ra.
Thế mà, khi được thị Nở chăm sóc, lo lắng yêu thương, hắn bắt đầu động lòng, nghĩ
ngợi và nhận thức về nỗi cô độc của mình. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn
cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài
50
bốn mươi tuổi đầu. Dẫu sao, đó không phải tuổi mà con người ta bắt đầu sửa soạn.
Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời…Muốn cá phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn
mạnh nửa. Mà có lúc hắn ngẫm nghĩ mà lo, xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật,
dọa nạt thì sao? Đã đành hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có
một lúc mà người ta không còn liều được nữa. Bấy giờ thì mới nguy! Trời ơi! Hắn
thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”[17,tr.55]. Sau khi
tỉnh rượu, Chí Phèo tỉnh ngộ và hi vọng. Chí ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay
ấm nóng đầy tình thương của thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thật sự thức tỉnh tâm
hồn. Hắn “rất ngạc nhiên”, “mắt hắn hình như ươn ước”, bởi vì “đây là lần đầu
tiên hắn được người ta cho cái gì”. Hắn nhận ra “Trời ơi, cháo mới thơm làm sao”.
Hương vị của bát cháo hành hay hương vị của tình yêu trân thật và cảm động, hạnh
phúc giản dị và thấm thía, lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng đã đánh thức nhân tính
bị vùi dập bấy lâu.
“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng
của những con người lương thiện. Chúng sẽ làm thành một cặp xứng đôi. Chúng
nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời của thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí:
“Được quay lại xã hội con người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống một con
quỷ dữ”.
Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô không
cho thị Nở “Đâm đầu đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo
nghĩ ngợi một lát rồi “ngẩn người”. Hắn “sửng sốt”. Hắn lôi rượu ra uống. “Nhưng
càng uống càng thấy tỉnh ra! Chao ôi! Buồn”. Hắn cứ thoảng thấy hơi cháo hành,
hơi của tình yêu, hạnh phúc sắp tuộc khởi bàn tay níu kéo của hắn và “ôm mặt khóc
rưng rức”. Đây chính là đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong Chí Phèo.
Quằn quạy trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo lại xách dao đi. Nhưng hắn
không rẻ vào nhà thị Nở như đã dự định ban đầu (đến đâm chết con đĩ Nở và con
mụ già kia) mà thẳng đến nhà Bá Kiến. Trong cơn say rượu, nhưng đầu óc lại vô
cùng tỉnh táo, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi hình người và hồn
người của hắn. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Cái chết là
lối thoát duy nhất của con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy. Chí
Phèo chết, nhưng dường như hiện tượng chí Phèo, hiện tượng hàng vạn người nông
51
dân lương thiện bị xã hội đẩy còn con đường tha hóa và khi ý thức nhân phẩm trở
về thì bị xã hội lạnh lung cự tuyệt vẫn chưa chấm dứt. Chi tiết thị Nở nhìn nhanh
xuống bụng, đầu thoáng hiện ra cái lo gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa ít người qua lại
đã nói với ta điều đó.
Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo rất logic. Con người ta chỉ mạnh vì liều và
khi con người không còn dám liều mà nghĩ đến sự tồn tại những ngày còn lại của
cuộc đời. Ở đời cũng vậy, khi người ta không còn đủ sức làm ác thì họ mới nghĩ đến
điều thiện và cái hậu của cuộc sống. Đời sống nội tâm của nhân vật trong sáng tác
của Nam Cao luôn có giá trị tư tưởng sống nhất định. Họ chỉ nhận thức ý nghĩa
cuộc sống khi có sự tác động của ngoại cảnh. Chẳng hạn như một sự cố, một tai
nạn, một cơn bệnh nặng…Làm họ giác ngộ, suy ngẫm về bản thân cùng những việc
đã làm. Cái nội tâm tha hóa có dịp được nhìn lại nhưng không phải tất cả mà chỉ ở
những nhân vật có khả năng tái sinh, còn lại thì họ chết trong sự tha hóa mà không
có dịp nhận ra.
Lão Hạc quý con vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỷ vật. Vợ lão mất đi, tất
cả những yêu thương lão dồn cả cho con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ
tiền cưới vợ, con lão bỏ đi. Con vàng lúc này có khác gì cậu con trai qúy tử của lão.
Lão chăm chút nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu vàng lớn nhanh
và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm dai dẳng khiến lão tiêu
hết cả chỗ tiền giành dụm. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như người
ta bán đi một con vật nào đó trong nhà. Nhưng với Lão Hạc, chuyện bán đi con chó
mà lão hết lòng yêu quý là một điều rất to tát.
Hôm bán chó xong lão sang nhà ông giáo báo tin. Lão “cố làm ra vẻ nhưng
trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Lão đau xót thật. nỗi đau
của lão khiến ông giáo còn cảm thấy “không xót xa năm quyển sách trước kia nữa”.
Ông giáo chẳng biết nói sao, hỏi cho có câu chuyện “thế nó cho bắt à?” Không ngờ
nó gợi đúng nỗi đau đang chờ trực dâng lên và cứ thế là “mặt lão đột nhiên co rúm
lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra…Lão mếu như con nít.
Lão hu hu khóc”. Bộ dạng Lão Hạc trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt
khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy
mình có lỗi với chú chó vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dổi vì bị ai đó dọa nạt
và quát mắng. Ông giáo bùi ngùi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất
52
là để xỉ vả mình. Lão nói “Khốn nạn…Ông giáo ạ!...Nó có biết gì đâu, nghe tôi gọi
thì nó chạy ngay về”. Một câu chửi thề, một câu tự trách, con chó được lão coi như
một đứa con mà chẳng khác gì một lão già chuyên lừa lọc. lão tưởng tượng trong
ánh mắt của con vàng lúc đó, bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề
“A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Lời tự
vấn chứng tỏ Lão Hạc dằn vặt lắm.
Thế rồi Lão Hạc cũng nguôi dần nhờ sự động viên của ông giáo. Thôi thì đằng
nào việc cũng thế rồi. Lão chua chát bảo “Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp
cho nó làm kiếp người, mai ra sung sướng hơn một chút…Kiếp người như kiếp tôi
chẳng hạn”.
Câu nói của Lão Hạc chua chát biết bao. Chẳng gì cái kiếp người của lão đá
sung sướng hơn kiếp chó. Cuộc đời lão cũng nhục nhã đủ điều. Con vàng đã yên
phận nó. Còn lão, lão vẫn phải sống “kiếp người” mà nào có ra gì. Và rồi nay, cái
chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của con vàng.
Tình thương của Lão Hạc đối với cậu vàng không đơn giản là thứ tình thương
giành cho con vật. Cậu vàng là kỷ niệm, cũng là nơi duy nhất để Lão Hạc hang ngày
tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với nó, lão có cảm giác như đang được gần rui với
cậu con trai yêu quý của lão. Chính điều này khiến người ta dễ hiểu được tại sao
Lão Hạc lại dằn vặt và đau đớn khi bán đi cậu vàng. Đoạn truyện tuy ngắn nhưng đã
gợi ra những phẩm chất vô cùng tốt đẹp của người nông dân, một con người luôn
sống vị tha và yêu thương hết mực.
Còn trong tác phẩm Một bữa no, bà Cái Đĩ từng than thở “Chao ôi! Nếu người
ta không phải ăn thì đời đơn giản biết bao? Thức ăn không bao giờ chạy vào mồm.
Có làm thì mới có ăn”. Cũng vì cái đói, miếng ăn để tiếp tục tồn tại mà bà đã đến
nhà bà phó Thụ để xin ăn. Khi mọi người đã buông đũa ngừng ăn thì bà đoán rằng
“bà đoán rằng họ khoánh ăn”. No dồn, đói gấp, người đói ăn mãi vớ được một bữa,
tất cả bằng nào cũng chưa thấm tháp. Những người no mãi, người ta có cần ăn nhiều
lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no, đã ăn rình thì cũng là ăn”. Đó là trong suy
nghĩ của một bà lão đói khát, đánh mất lòng tự trọng của một con người, nhân cách
của một bà lão lớn tuổi. Để có được miếng ăn họ có thể đánh đổi tất cả. khiến cho
con người rơi vào bi kịch không lối thoát. Hay chính xã hội ấy đã đẩy con người
53
vào bước đường cùng.
Việc miêu tả nội tâm nhân vật trong những sáng tác của Nam Cao hầu hết
được thể hiện trên cơ sở độc thoại nội tâm. Nhân vật tự đối thoại với chính mình
trong những lúc cô đơn, trống vắng, đau khổ, thất vọng cùng những cuộc đấu tranh
tư tưởng gay gắt để nghiền ngẫm về lẻ sống, nhìn lại bản thân, trở về với chính
mình và nhận ra rằng mình đang rơi vào bi kịch ấy, để cho họ nhận thức rằng chỉ có
cái chết mới thoát khỏi tấm bi kịch ấy. Thông qua thế giới nội tâm, nhân vật bộc lộ
đầy đủ nhất cả diện mạo và tính cách. Đặc biệt là bản chất tha hóa của nhân vật
được biểu thị qua tâm trạng của nhân vật. từ đó, có thể nhận định rằng: “Nam Cao
3.3. GIỌNG ĐIỆU.
là bậc thầy miêu tả nội tâm nhân vật dù dung lượng truyện có giới hạn”.
3.3.1. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ.
Khi nhắc đến giọng điệu trong sáng tác của Nam Cao thì người đọc thường
nhắc đến giọng lạnh lung của ông. Tuy nhiên, nếu trong tác phẩm của ông chỉ có
giọng điệu ấy thôi thì liệu Nam Cao có được vị trí trên văn đàn và trong lòng đọc
giả như ngày nay không. Có thể nói bên ngoài cái vẻ lạnh lung là một trái tim ấm
nóng của một nhà văn yêu thương con người đến tột độ. Điều này đã được thể hiện
qua một loạt tác phẩm như: Chí phèo, Lão hạc, Dì hảo, Nửa đêm, Một bữa no, Điếu
văn (đề tài về người nông dân). Hoặc những tác phẩm viết về người trí thức tiểu tư
sản như: Giăng sáng, Nước mắt, Đời thừa, Đôi mắt,…
Mở đầu tác phẩm Chí phèo là hình ảnh hắn vừa đi vừa chửi “Hắn vừa đi vừa
chửi. bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì?
Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đòi. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả
nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, ai cũng chửi:
“Chắt nó trừ mình ra!”. (…) Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời
mới biết! Hắn không biết và cả làng Vũ Đại cũng không biết,…”[18,tr.21].
Nếu không có cái nhìn thấu đáo thì làm sao tác giả cảm thông được sự cô đơn
trơ trọi của Chí Phèo sau 7-8 năm ở tù về. Có thể nói khi viết những dòng văn ấy,
nhà văn đã nhỏ những giọt nước mắt đau đớn cho khát vọng muốn giao tiếp với mọi
người của Chí Phèo. Nhưng cả làng Vũ Đại đã quay lưng lại với Chí. Chính sự quay
lưng ấy đã khiến cho cuộc đời của Chí đi vào con đường tăm tối và bế tắc. Nhưng
rồi một nguồn sống đến với Chí Phèo, đấy là thị Nở một người phụ nữ cũng bất
54
hạnh không kém gì Chí Phèo.
Chí Phèo và thị Nở đến với nhau một cách rất tự nhiên và yêu thương nhau
như một cặp vợ chồng thật sự. họ đã có năm ngày sống hạnh phúc bên nhau. Chính
tình thương và sự chăm sóc của thị Nở đã sưởi ấm tâm hồn cô đơn của Chí, đánh
thức ước mơ, khát vọng một thời của Chí bằng một giọng điệu rất cảm thông và
chia sẻ “Hình như có một thời hắn đã ước mơ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. khá hơn thì
mua dăm ba sào ruộng làm”[18,tr.44]. Đó là ước mơ rất đổi bình dị và đáng trân
trọng của một anh thanh niên hiền lành và chất phát như Chí.
Tác giả đã để cho nhân vật thị Nở nói lên thái độ cũng như suy nghĩ về Chí
Phèo với một giọng điệu cảm thông, chân thành “Ôi sao hắn hiền, ai dám bảo đó là
cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt và đâm chém. Người?” (…)Bây giờ
nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác
không thể được”[18,tr.46]. Đoạn văn trên có sự cảm thông của nhân vật thị Nở và
của chính tác giả khi nói lên ước mơ của Chí là muốn làm người lương thiện.
Cũng như nhân vật Chí Phèo, nhân vật Đức trong truyện Nửa đêm cũng bị
hoàn cảnh xã hội tác động trở nên biến chất và tha hóa. Cái xã hội dường như hất
hủi và xa lánh Đức, chỉ vì Đức là con của thằng Thiên Lôi. Đúng với câu dân gian
thường nói “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Đức sinh ra và lớn lên chưa làm
hại một ai bao giờ, nhưng lúc nào cũng nhận được sự rẻ lạnh của những người xung
quanh. Cuộc sống khốn khổ của Chí Phèo thì có thị Nở để sưởi ấm còn cuộc sống
của Đức cũng còn mai có được Nhi đồng cảm và chia sẻ “Anh Đức này! Sao anh
hiền quá nhỉ?[19,tr.413] hay “Anh Đức ạ! Tôi mà lấy anh cũng vì mếm cái tính anh
hiền; chứ người khác mà như bố mẹ anh thì các vàng tôi cũng chịu”[20,tr.419].
Nhân vật Nhi đã nhìn thật sâu, thật kỹ vào tâm tính của Đức, nói lên tất cả tình cảm
trân thành của lòng mình gành cho Đức. Để từ đó Nhi đồng cảm với số phận của
Đức bằng ý định muốn lấy Đức làm chồng, nhưng chính xã hội thực dân nửa phong
kiến đã giết chết những dự định tốt đẹp ấy. Chính vì thế, từ một người hiền lành như
Đức, đã biến thành một tên lưu manh theo cơ chế bóc lột của bộ máy cai trị của bọn
thực dân.
Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao khi viết về hình tượng
55
người nông dân cố lấy cái chết của mình để chiến thắng hoàn cảnh. Cái chết của
Lão Hạc không phải là cái chết cùng đường của người nông dân mà là cái chết của
tình thương con.
Truyện ngắn Lão Hạc, tác giả đã nhập vai vào nhân vật xưng tôi là một ông
giáo trí thức nghèo kể về cuộc đời khốn khổ của Lão Hạc. Tác giả đã kể lại câu
truyện của Lão Hạc bằng một giọng văn cảm thông và chia sẻ, những đoạn văn dạt
dào ngôn ngữ trữ tình ngoại đề “Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao lão
không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ
lão chết rồi. Con lão đi biền biệt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một
mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ
buồn một chút.”[15,tr.111]. Câu văn trên đã thể hiện tất cả niềm thương tiếc, có
chút ân hận của ông giáo mà đầy ấp tình thương, thái độ trân trọng trước nỗi lòng
của Lão Hạc. Tại sao ông giáo lại ân hận? Bởi vì trước đó ông giáo đã hiểu sai về
một con người có nhân cách đáng quay như Lão Hạc. Lão tha chết chứ không ăn
lẹm vào tiền mảnh vườn của thằng con đang đi làm ở phương xa. Câu chuyện tâm
sự với ông giáo cũng là tất cả sự cảm thông mà tác giả dành cho nhân vật của mình.
Bởi nếu không có sự cảm thông và chia sẽ thì làm sao ông giáo hiểu được lý do Lão
Hạc giữ lại cậu vàng. Vì từ khi con của lão đi làm biền biệt phương xa thì cậu vàng
đã trở thành một thành viên trong gia đình của lão chia sẽ buồn vui. Bán cậu vàng là
một việc làm vô cùng đau khổ và quẫn bách nhất cuộc đời lão.
Cái chết của Lão Hạc là cái chết của nhân vật tính toán trước cơn bạo đói
nghèo của đời mình. Trước khi chết Lão Hạc đã đem gởi mảnh vườn và số tiền
dành dụm còn lại cho ông giáo bằng sự tin cẩn, một chút niềm tin vào cuộc đời. Câu
nói của Lão Hạc đáp lại lời của ông giáo bằng một khẳng khái mà đau buốt “Được
ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy…Thế nào rồi cũng xong”. “Thế nào rồi cũng xong” của
Lão Hạc là quyết định ăn bả chó để chết, nhường lại những gì tốt đẹp nhất cho
thằng con của lão. Thế nhưng trước cái chết tội nghiệp của Lão Hạc, ông giáo đã
hiểu nhằm lão theo gót Binh Tư mà buồn thương cho một nhân cách đáng quý như
lão Hạc “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu ta không cố hiểu họ, thì
ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc và bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…”[15,tr116]. Câu nói của
ông giáo là sự tiếc thương của tác giả về nỗi lòng của nhân vật của mình. Nếu sống
56
mà thiếu đi tình yêu thương, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau thì đời sẽ mất đi ý nghĩa
tốt đẹp của nó. Mọi người quanh ta không ai là xấu cả mà ta phải biết nhìn kỹ vào
nỗi lòng của họ thì ta mới cảm nhận được những tình cảm đáng quý của họ.
Ở các truyện ngắn viết về đề tài người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao, lúc
nào ông cũng dành những tình cảm trân thành nhất để sẻ chia những nổi khốn khổ
của họ trong cuộc sống. Người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao là những nhân vật
đáng kính về ước mơ, hoài bảo tốt đẹp cho tương lai. Đứng trước thực tại nghiệt ngã
và khó khăn của cuộc sống, người trí thức của Nam Cao luôn có một thái độ cảm
thong và sẻ chia với những người có số phận như mình.
Mỗi trang truyện của Nam Cao, nhà văn luôn dành những dòng văn hay nhất
để cùng chia sẻ, cảm thông với nổi đau của những người suốt đời bị áp bức bóc lột.
Chính những dòng văn cảm thông và chia sẻ của tác giả đã giúp người đọc có cái
nhìn đồng cảm, nhân hậu và vị tha hơn về người nông dân.
3.3.2. Giọng điệu trân trọng, trìu mến.
Tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, phải qua cả một quá trình nhận
thức, tìm tòi và sáng tạo thì đứa con tinh thần của tác giả mới có một hình hài và ý
nghĩa nguyên vẹn. Là cha đẻ ra những nhân vật trong những sáng tác của mình.
Chắc hẳn rằng, nhà văn đã dành cho nhân vật của mình tình cảm nhiều đến nhường
nào để viết nên thành công những truyện ngắn xuất sắc đến thế. Tình cảm yêu mếm
của nhà văn nhiều lúc được bộc lộ một cách trực tiếp, như một tiếng hát trữ tình dạt
dào tình cảm.
Nam Cao là nhà văn không khóc cho chính bản thân mình nhưng ông dễ dàng
khóc thương cho số phận đau khổ của những nhân vật của mình. Trong truyện ngắn
Nghèo, nhà văn đã diễn tả hết sức chân thực về cảnh sống nghèo khổ của gia đình
anh Đĩ Chuột. Anh Đĩ Chuột đã không cần lòng được khi nhìn vợ con phải khổ sở
lo lắng thuốc than cho mình nên anh đã quyết định treo cổ tự tử nhường những gì
tốt đẹp lại cho những đứa con thơ dại của mình “Anh Đĩ Chuột rít hai hàm răng lại.
Hai chân giận dữ đạp phất cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái
bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng
cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng”. Người nông dân khi rơi vào bị kịch không
lối thoát thì thường tìm đến cái chết để giải quyết bị kịch. Với giọng kể trân trọng
xưng là anh Đĩ Chuột đã phần nào nói lên tình cảm trân trọng nhân vật của Nam
57
Cao. Cái chết của anh Đĩ Chuột là cái chết đáng được ngợi ca. Tuy bề ngoài tác giả
diễn tả cái chết đó có phần lạnh lung nhưng bên trong tất có một tình cảm trân thành
và quý trọng thiết tha đến tận cùng thì nhà văn mới có một cách diễn tả tinh tế và rõ
nét đến như vậy. Như một thước phim quay chậm về cái ý định treo cổ tự vẫn của
anh và thước phim ấy như đứng lại ở những dòng văn Nam Cao diễn tả cái chết thật
thê lương “Như một con gà bị bẫy” của anh bằng một giọng văn ngẹn ngào.
Trong truyện ngắn Điếu văn, nhân vật kể truyện xưng tôi “có ý đóng khung
xúc sắc tình cảm tôi”, nhưng đến một lúc nào đó, tình cảm tràn đầy trên ngọn bút
thì nhà văn không thể nào kềm nén hoặc che đậy tình cảm của mình đối với bạn
mình bằng những lời văn ngọt ngào, đầm thấm “Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy nghĩ
cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của chúng tôi. Chúng tôi, những
kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã thất vọng và vẫn hy vọng mãi và phải hy
vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa
hơn. Một rạng đông đã bảo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên trên nắm mồ anh và
bên trên đầu hai đứa con coi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay
chúng cùng đi với một cuộc đời đẹp hơn”.
3.3.3. Giọng điệu xót xa, đau đớn.
Người nông dân và người tiểu tư sản trí thức là hai chế độ bị thực dân phong
kiến bóc lột nặng nề. Người nông dân nghèo khổ bị bóc lột về ruộng đất và sức lao
động rẻ mạc cho bọn cường hào. Còn trí thức tiểu tư sản thì bị bóc lột xu cao thế
nặng và nạn thất nghiệp đè nặng lên đôi vai của những người nghèo khổ. Các nhân
vật trong truyện ngắn của Nam Cao nhận thức rỏ được cách sống nghèo khổ của
mình bằng giọng văn xót xa và đau đớn.
Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, là hình ảnh trung thực về đức
tính hiền hậu sống vị tha và biết lo nghĩ cho người khác một cách chu đáo. Nhận
thức được cảnh nghèo túng của mình, lão luôn tìm cách đấu tranh lại cái đói của
mình, bằng cách ăn củ khoai, bắp đấp đổi qua ngày để mong chờ thằng con đi làm ở
phương xa trở về. cái đói thật sự đã de dọa đến mạng sống, không còn cách nào
khác lão quyết định bán cậu Vàng, nhưng khi lão bán cậu Vàng xong lão đau đớn
xót xa kể lại cho ông Giáo nghe nhầm tìm sự đồng cảm và giải bày tâm trạng của
mình.
Cậu Vàng đi rồi ông giáo ạ.
58
Cụ bán rồi (…)
Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép nước mắt
chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng mốm mém của lão mếu như
con nít. Lão hu hu khóc…
“Khốn nạn…Ông giáo ạ! Nó có biết gì đâu! Nó nghe tôi gọi vội chạy ngay về,
vẫy đuôi mừng (…). Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó
nó không ngờ tôi nỡ tâm bán nó” [15,tr. 113,114].
Khi lúc đầu nói chuyện với ông giáo về việc bán chó, Lão Hạc tỏ thái độ dững
dưng “cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ” nhưng càng về sau tâm trạng của lão càng
đau khổ với một giọng điệu xót xa, đau đớn trước cái chết của cậu vàng mà tác giả
miêu tả rất thần ở một nét mặt đau khổ của lão: mặt co rúm, đầu nghẹo về một bên,
miêng mốm mém lão khóc hu hu như một đáu con nít. Cũng vì cái nghèo đói gạo
cao, thóc kém mà Lão Hạc mới quyết định bán cậu vàng.
Lão Hạc luôn trách mình lợi dụng lòng tin cẩn của cậu vàng mà trót lừa để bán
nó. Nhưng biết phải làm sau, ai rơi vào hoàn cảnh quẩn bách như lão cũng hành
động như thế thôi. Lão Hạc đã có cách so sánh đầy tủi nhục về kiếp sống của con
người bằng giọng văn xót xa và đau đớn đã diễn tả nổi khổ trăm đắng nghìn cay của
người nông dân trong xã hội thực dân “ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ
thì ta hóa kiếp cho nó để làm kiếp người may ra nó sung sướng hơn một chút…
Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...” [15, tr.113,114].
Hoàn cảnh sống nghèo khổ của người nông dân nghèo được tác giả nói rõ qua
tác phẩm Từ ngày mẹ chết là truyện ngắn viết về cuộc sống nghèo khổ của gia đình
bé Ninh. Từ ngày mẹ Ninh chết thì hai chị em phải sống khổ cực, Thiếu hơi ấm của
tình thương. Câu nói của mẹ Ninh lúc sắp chết đã phần nào diễn tả nỗi thiếu thốn,
đau đớn khi đàn con thiếu sự chăm sóc từ bàn tay của người mẹ “Mẹ mà chết thì
các con ăn mày mất. Đàn ông chả mấy người biết thương con cái. Cha chết thì ăn
cơm với cá, mẹ chết thì lót lá dọc dường. Mẹ mà chết đi thì… Con ơi” [16,tr. 225].
Đúng thật trên thế giới này không có kỳ quan nào vĩ đại bằng tình yêu thương của
người mẹ dành cho những đứa con của mình. Mẹ mất, hai chị em Ninh phải sống
những ngày khổ sở nhất. Trong tâm khảm của Ninh lúc nào cũng nhớ về hình bóng
của mẹ mình. Nhìn hoàn cảnh sống hiện tại mà Ninh nhớ đến khoảng thời gian gia
59
đình mình sum vầy hạnh phúc bên nhau với nỗi xót xa đau đớn đến quặn lòng.
Sống trong cảnh nghèo túng nhân vật tôi trong tác phẩm Mua nhà đã cảm nhận
được tất cả sự khổ của con người lao động nghèo lúc này “Ở cảnh nghèo chúng ta
lúc này, hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu
phải tôi muốn thế? Nhưng biết làm sau được? Ai đời bảo cứ khắc khe vậy? Giá
người ta có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!”...[16,tr.176]. Từ cái
nghèo của gia đình mình và mọi người xung quanh, tác giả đã có cái nhìn khái quát
và toàn diện về hạnh phúc của người nông dân nghèo lúc này “Chỉ là một tấm chăn
qúa hẹp” người này ấm thì người kia lạnh bằng một giọng điệu xót xa và đau đớn.
Xót xa và đau đớn khi cuộc sống đau khổ ngày một càng đè nặng lên đôi vai
vốn đã nặng trĩu nỗi lo toan bộn bề cuộc sống của những nhân vật của Nam Cao.
Bằng ý chí bằng nghị lực phi thường luôn khát khao vươn lên sống có ích, đó là kim
chỉ nam dẫn đường cho các nhân vật của Nam Cao tìm đến một bến bờ tốt đẹp.
3.3.4. Giọng điệu lạnh lùng, chua chát.
Giọng điệu trong văn Nam Cao là sự phức điệu đa thanh tiếng nói của tác giả,
của các nhân vật đối thoại nội tâm. Ngôn ngữ của tác giả và ngôn ngữ nhân vật hòa
quyện và nhau nhiều lúc ta khó phân biệt đâu là lời của tác giả đâu là lời của nhân
vật. Nam Cao không chỉ có chất giọng cảm thông, trìu mến, xót xa mà còn có một
giọng điệu lạnh lung, chua chát để làm rõ bi kịch khốn khổ của người lao động
nghèo lúc bấy giờ.
Truyện ngắn Chí phèo được xem là truyện ngắn xuất sắc của dòng văn học
hiện thực phê phán. Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh người nông dân bần
cùng bị tha hóa, không chỉ qua bề nỗi của sự việc bên ngoài mà ông còn đi sâu vào
khám phá thế giới tình cảm bên trong của nhân vật này.
Mở đầu tác phẩm Nam Cao gọi ngay tên nhân vật bằng đại từ xưng hô ngôi
thứ ba số ít là “hắn” bằng một giọng điệu lạnh lùng và chua chát “Hắn vừa đi vừa
chửi. bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì?
Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả
nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, ai cũng chửi:
“Chắt nó trừ mình ra!”. (…) Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời
mới biết! Hắn không biết và cả làng Vũ Đại cũng không biết,…”[18,tr.21]. Trong
đoạn văn trên không chỉ một lần tác giả gọi tên nhân vật của mình là “hắn” mà cách
60
gọi này được lập đi lặp lại một cách liên tục. Chính cái gọi lạnh lùng như thế và
cách kể về lai lịch của Chí Phèo cũng thể hiện rõ một thái độ lạnh lung “đứa nào đã
đẻ ra Chí Phèo”. Nhưng cả làng Vũ Đại không ai biết đứa nào đẻ ra Chí.
Khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo và thị Nở, Nam Cao đã có cách miêu tả khá
lạnh lùng và chua chát nhằm để khắc họa hai hình tượng nhân vật thật xứng đôi về
vẻ bề ngoài. Ngoại hình của Chí Phèo qua cách miêu tả của Nam Cao hiện lên cái
vẻ hung tợn và xấu xí “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là
ai. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen lại rất cơn cơn, hai
mắt gờm gờm trông gốm chết! hắn mặc cái quần nai đen và cái áo tây vàng. Cái
ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả
hai cánh tay cũng thế” [17,tr.33]. Ngoại hình của thị Nở cũng được nhà văn nói
đến bằng một giọng điệu kể lạnh lùng, thêm một chút mỉa mai trong đó “Cái mặt
của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể
tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má hóp lại mới thật là tai hại, nếu hai
má phình ra thì mặt thị hao hao con lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng,
trên cổ người (…) Đã thế còn ăn trầu, hai môi dày lại bồi thêm một lần nữa, cũng
mai quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách” [17.tr.39]. Từ đó
61
cho ta thấy được vẻ bề ngoài của họ nói lên được bi kịch của cuộc đời họ.
KẾT LUẬN
Nam Cao không chỉ là một nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê
phán việt Nam giai đoạn (1930-1945), mà còn là một trong những nhà văn tiêu biểu
nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Chỉ hơn một thập kỷ gắn bó với sự nghiệp
văn chương (Từ 1936 đến 1951), Nam Cao đã để lại một khối lượng sáng tác có
phần hạn chế về số lượng, nhưng giá trị của những tác phẩm ấy là vô cùng to lớn về
mặt nghệ thuật. Độ dài thời gian càng xa, sự nghiệp văn học Nam Cao càng được
khẳng định. Tác phẩm của ông qua sự tiếp nhận của nhiều thế hệ đọc giả được phát
hiện thêm nhiều tiềm tàng năng lượng, ẩn chứa lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo nên niềm
say mê đồng cảm của hàng triệu trái tim. Văn nghiệp Nam Cao đã làm phong phú
thêm những giá trị tinh thần trong đời sống con người, đánh dấu và khẳng định
bước tiến của văn học dân tộc trên hành trình hiện đại hóa.
Nam Cao là một trong nhiều nhà văn có ý thức về nghiệp văn chương, về sứ
mệnh thiêng liêng của người cầm bút. Chính điều đó đã giúp ông có một cái nhìn
sắc sảo đối với những vấn đề của xã hội và tấm lòng thương cảm đối với người lao
động. Nam Cao đã để lại cho nền văn học Việt Nam một di sản quý giá, các tác
phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: “Người trí thức tiểu tư sản và người
nông dân”. Dù viết về đề tài nào thì mối quan tâm lớn nhất của Nam Cao vẫn là
nhân phẩm và đời sống tinh thần của con người.
Ở đề tài người nông dân, Nam Cao bày tỏ sự cảm thông và chia sẽ trước cuộc
sống tối tăm, thê thảm, nhất là tầng lớp người nông dân Việt Nam tước cách mạng
tháng Tám 1945, qua những truyện ngắn tiêu biểu như: Chí Phèo, Tư cách mõ, Trẻ
con không được ăn thịt chó, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm,
Một bữa no, Mua nhà, Chuyện người hàng xóm, Từ ngày mẹ chết...
Viết về cuộc sống khổ cực của người nông dân, Nam Cao đã cho ta thấy thực
trạng cuộc sống của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là
những số phận cố cùng, khổ cực, hẩm hiu. Họ là những người luôn bị áp bức, ức
hiếp nhiều nhất bởi xu cao thế nặng. Họ càng hiền lành thì càng bị chà đạp phủ
phàng. Nam Cao đứng về phía người nông dân để bênh vực họ, bênh vực quyền
sống và nhân phẩm của nững con người bất hạnh bị xã hội đẩy vào tình cảnh đường
cùng nhục nhã. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đớn cùng cực về tình trang con người
62
bị xói mòn về nhân cách, bị hủy hoại về tính người và lên tiếng kêu gọi xã hội hãy
giải thoát họ ra khỏi môi trường phi nhân tính. Và bằng cái nhìn nhân hậu cảm
thông đối với người nông dân, Nam Cao thấy rõ dù cho họ bị đầy đọa chà đạp đến
đâu, nhưng họ vẫn giữ được nhân cách, phẩm chất của mình. Đây chính là điểm
sáng tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao.
Nam Cao luôn đứng về phía con người bị áp bức để viết lên những trang văn
thể hiện sự bênh vực và thương yêu đối với con người. Từ một góc độ khác, những
sáng tác hiện thực của Nam Cao đã đạt đến trình độ thứ hiện thực tâm lý. Nam Cao
có giọng văn lạnh lùng, nhưng tỉnh táo. Với thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
điêu luyện và tinh xảo. Có thể gọi ông là bậc thầy về ngôn ngữ với những trang viết
vừa mềm mại, uyển chuyển, lại vừa giản dị, dân giả Nam Cao là nhà văn có biệt tài
trong việc khám phá và thể hiện tâm lý nhân vật.
Một tác phẩm nghệ thuật ra đời người ta chờ đợi nó nói lên điều gì mới mẻ?
Một lối sống, một cách nhìn, một lối cảm xúc, một hướng vươn tới. Truyện ngắn
Nam Cao đã đáp ứng đầy đủ những ý nghĩ đó và nó đã dành được sự ưu ái của đọc
giả. Vì thế những sáng tác của Nam Cao luôn mới mẻ và ở nó luôn có một sức sống
tiềm tàn mà mãnh liệt để nó tồn tại bền vững lâu dài.
Toàn bộ những tác phẩm của Nam Cao là bức tranh xã hội ngột ngạt trước
cách mạng tháng Tám 1945, với những con người khác nhau. Đọc tác phẩm Nam
Cao, ta cảm nhận rằng dường như có một nỗi đau “đứt ruột” của một nghệ sỹ có
tấm lòng nhân văn cao cả. Và nỗi đau đó như đậm đặc trong từng câu, từng chữ trên
những trang viết của Nam Cao. Bằng những thủ pháp nghệ thuật, Nam Cao đã gieo
vào lòng người đọc những nỗi niềm quặn thắt trước tình trạng cuộc sống của con
người lao động lương thiện “Chăm bẩm cần cù” bị vùi dập đến tận đáy bùn nhơ của
xã hội. Đằng sau bức tranh đen bạc đến khó thở ấy, Nam Cao vẫn phát hiện “Những
mảnh vỡ của tâm hồn” trong con người họ. Hay nói cách khác, nhà văn vẫn tạo nên
cho người đọc sự vững tin ở nhân tính và lương tâm con người. Đó là cội nguồn sâu
xa của sức sống trong những tác phẩm của Nam Cao “Một tác phẩm thực sự có giá
trị khi nó ca tụng lòng thương người, tình bác ái, sự công bằng, nó làm cho con
người gần nhau hơn”. Những tác phẩm của ông rất có giá trị về tình yêu thương,
đầy tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời cũng như đối với con người. Nam Cao
63
xứng đáng với lòng ngưỡng mộ, yêu quý của nhiều thế hệ đọc giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1998), Nam Cao con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
2. Vũ Khắc Chương (2000), Truyện ngắn Nam Cao, Nxb, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (1997), Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao một đời người một đời văn, Nxb Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh.
8. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nam Cao – Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí
Minh.
9. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp trong tác phẩm của Ngô Tất Tố - Vũ Trọng
Phụng – Nam Cao, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
10. Đỗ Đức Hiếu (Chủ biên) (2004), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu
Tri – Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
11. Trần Văn Hiếu, Ba phong cách trào phúng văn học Việt Nam thời kì 1900 –
1945, Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng Phụng – Nam Cao, Nxb Đại học Quốc gia.
12. Trần Ngọc Hưởng(2000), Luận đề về Nam Cao, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí
Minh.
13. Phong Lê (2003), Nam Cao người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
14. Vũ Nguyên (2007), Tác giả trong nhà trường – Nam Cao, Nxb Văn học, Hà
Nội.
15. Trần Đăng Suyền – Nguyễn Anh Vũ (2008), Nam Cao và những truyện ngắn
chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Trần Đăng Suyền, Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ
nghĩa lớn, tập chí văn học số 6, năm 1998.
17. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Bích Thu (sưu tầm và tuyển chọn), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, năm 1998.
64
19. Nguyễn Anh Vũ (2007), Truyện ngắn Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN.
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
…………………..………………………………………………………
……………………………………………………………………………
65
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
66